Hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt
A có ý định giết B (đang có thai) để trả thù. Biết B đi chơi chưa về nên khoảng 8 giờ tối A đến nấp ở bụi cây gần cổng nhà B, đợi B về để giết. Thấy A có dấu hiệu khả nghi, đội tuần tra đã yêu cầu xuất trình giấy tờ. A bỏ chạy và sau đó đã bị bắt. Hành vi của A được xác định là phạm tội giết người theo khoản 1 điều 93 BLHS.
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao?A bị truy tố theo khoản nào của Điều 93 BLHS? Giải thích rõ tại sao?Mức hình phạt cao nhất mà tòa có thể áp dụng đối với A là bao nhiêu? Giải thích rõ tại sao?Giả sử A là người nước ngoài và hành vi nơi trên của A xảy ra ở Việt Nam thì A có bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao?
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4258 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC
Đề bài số 01:
A có ý định giết B (đang có thai) để trả thù. Biết B đi chơi chưa về nên khoảng 8 giờ tối A đến nấp ở bụi cây gần cổng nhà B, đợi B về để giết. Thấy A có dấu hiệu khả nghi, đội tuần tra đã yêu cầu xuất trình giấy tờ. A bỏ chạy và sau đó đã bị bắt. Hành vi của A được xác định là phạm tội giết người theo khoản 1 điều 93 BLHS.
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao?
A bị truy tố theo khoản nào của Điều 93 BLHS? Giải thích rõ tại sao?
Mức hình phạt cao nhất mà tòa có thể áp dụng đối với A là bao nhiêu? Giải thích rõ tại sao?
Giả sử A là người nước ngoài và hành vi nơi trên của A xảy ra ở Việt Nam thì A có bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao?
MỤC LỤC
Phụ lục
Mục lục
Lời mở đầu
1. Cơ sở pháp lý
1.1 Các giai đoạn phạm tội - Phạm tội chưa đạt
1.2 Tội giết người - Điều 93
1.3 . Hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt (Khoản 3 điều 52)
1.4 Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Điều 5
2. Giải quyết vấn đề
2.1 Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt
A bị truy tố theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
Mức hình phạt cao nhất tòa có thể áp dụng đối với A là tù chung thân hoặc tử hình
2.4. Nếu là người nước ngoài, hành vi phạm tội của A sẽ bị xử lí theo Bộ luật hình sự Việt Nam
Kết luận
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÁO
Lời mở đầu
Tội giết người ngày càng trở nên phổ biến và tính chất dã man của các vụ án cũng ngày càng tăng cao. Và đôi khi vì một lí do khách quan mà tội phạm không thể thực hiện được mục đích của mình, người bị hại không chết nhưng hậu quả mà tội phạm để lại là rất lớn. Pháp luật đã có những biện pháp nghiêm minh để trừng trị những kẻ này. Và đây là một tình huống như thế:
“A có ý định giết B (đang có thai) để trả thù. Biết B đi chơi chưa về nên khoảng 8 giờ tối A đến nấp ở bụi cây gần cổng nhà B, đợi B về để giết. Thấy A có dấu hiệu khả nghi, đội tuần tra đã yêu cầu xuất trình giấy tờ. A bỏ chạy và sau đó đã bị bắt. Hành vi của A được xác định là phạm tội giết người theo khoản 1 điều 93 BLHS”.
Để nghiên cứu thêm về tình huống này chúng ta cũng đi giải quyết một số vấn đề sau:
1. Cơ sở pháp lý
1.1 Các giai đoạn phạm tội - Phạm tội chưa đạt
Các giai đoạn phạm tội là mức độ thực hiện tội phạm cố ý bao gồm: Chuẩn bị phạm tội: giai đoạn người phạm tội tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng vẫn chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Phạm tội chưa đạt: cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. (Điều 18 Bộ luật hình sự). Tội phạm hoàn thành: hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Điều 18. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
1.2 Tội giết người - Điều 93
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
1.3 . Hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt (Khoản 3 điều 52)
Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
1.4 Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Điều 5
1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
2. Giải quyết vấn đề
2.1 Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt
Tình huống trên không phải là phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Vì những lý do sau:
Điều 18 BLHS quy định: "phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội".
Căn cứ vào quy định trên thì phạm tội chưa đạt là trường hợp chủ thể đã thực hiện tội phạm nhưng vì nguyên nhân khách quan nên hành vi đã thực hiện chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm. Như vậy phạm tội chưa đạt có 3 dấu hiệu:
Người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội.
Người phạm tội phải dừng lại khi hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm.
Việc người phạm tội phải dừng lại là do nguyên nhân khách quan.
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt mà trong đó, người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi khách quan được cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm nhưng hậu quả đó không xảy ra vì nguyên nhân khách quan.
Với tình huống đưa ra có thể thấy:
A chưa thực hiện hết hành vi khách quan của tội phạm, nghĩa là A đến nấp ở bụi cây gần cổng nhà B, đợi B về để giết, hành vi này chưa được coi là những hành vi khách quan, chưa phải là hành vi tước đoạt tính mạng B nhưng nó là được coi là những hành vi đi liền trước và sau nó tất yếu là một hành vi khách quan (giết B). Hành vi của A là hành vi đi liền trước tuy thể hiện là sự chuẩn bị nhưng lại gần với hành vi khách quan, không tách được nên rõ rang nó phải được coi là dấu hiệu thực hiện phạm tội.
Dấu hiệu thứ hai, hành vi của A là cần thiết để gây ra hậu quả chết người. Chủ thể chưa thực hiện hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện hành vi liền trước đó là nấp ở bụi cây đợi giết B mặc dù đã bị bắt dữ, nhưng dấu hiệu này là “cần thiết” để gây ra hậu quả B chết.
Dấu hiệu thứ ba, A không thực hiện được tội phạm (giết B) đến cùng hậu quả không xảy ra vì nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của A. Nguyên nhân khách quan trong phạm tội chưa đạt phải là nguyên nhân trực tiếp tác động đến quá trình thực hiện hành vi của người phạm tội, dẫn đến việc người phạm tội đã thực hiện tội phạm nhưng hậu quả không xảy ra và nó nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ. A có ý thức giết B nhưng A đã bị đội tuần tra bắt giữ, nếu không vì lí do có sự can thiệp của đội tuần tra thì đương nhiên A rất có thể thực hiện được ý định giết B của mình.
Như vậy, hành vi của A tuy chưa giết được B vì bị đội tuần tra bắt như tình huống trên ta có cơ sở để khẳng định Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt.
2.2 A bị truy tố theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
Về mặt chủ quan, như tình huống đã nêu, A hoàn toàn nhận thức việc có ý định giết B để trả thù. Bởi vì khi đã thực hiện được đến giai đoạn phạm tội chưa đạt như đã chứng minh ở trên đây thì đương nhiên là A ý thức được hành vi của mình và ý định cướp đi tính mạng của B. Do vậy, chắc chắn ở trường hợp này A sẽ bị truy tố với tội danh giết người (Điều 93).
Tuy nhiên, để xem tội truy tố của A rơi vào khoản nào của điều này ta cần dựa vào trường hợp cụ thể giết người của A có phạm vào quy định của khoản 1 không và nếu không thì sẽ rơi vào khoản 2 điều này.
Nếu A không biết, không thể ý thức B có thai thì A có thể chỉ là phạm tội giết người theo khoản 2 điều 93 vì dữ kiện đưa ra không đủ để cho thấy A giết người với tính chất đặc biệt nguy hiểm.
Tình huống đưa ra nêu rõ A có ý định giết B (đang có thai) để trả thù. Ta hiểu rằng A biết B có thai, A hoàn toàn nhận thức được B là người phụ nữ đang mang thai. Yếu tố “phụ nữ có thai” là quyết định chính để xác định tội danh của A. Từ đó dễ thấy tội của A sẽ bị truy tố theo khoản 1 Điều 93:
Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn.
Như vậy, A phạm tội giết người chưa đạt với phụ nữ mà biết có thai và trường hợp này vi phạm điểm b khoản 1 Điều 93.
2.3 Mức hình phạt cao nhất tòa có thể áp dụng đối với A là tù chung thân hoặc tử hình
Như đã xác định ở trên, A đến nấp ở bụi cây gần cổng nhà B, đợi B về để giết nhưng không thực hiện được ý định vì bị đội tuần tra bắt nên A thực hiện đến giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hơn nữa, lỗi của A cố ý trực tiếp do vậy A phải chịu trách nhiệm hình sự với tội giết người Điều 93 và phạm tội chưa đạt theo Điều 18 bộ luật hình sự: “Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.”
A đã phạm tội vào khoản 1 điều 93, điều này quy định mức hình phạt: phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, với việc bị truy tố tội giết người theo điểm b khoản 1 điều 93 thì phạm tội (giết phụ nữ đang có thai) chưa đạt của A là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt với tội này là tù 20 năm, chung thân hoặc tử hình chính là dấu hiệu tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Theo khoản 3 điều 8: tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình).
Khoản 3 điều 52 quy định: “3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
Do vậy để áp dụng với A ta phải xem xét về tội của A: A phạm tội giết người chưa đạt. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là A bị truy tố tội giết người theo khoản 1 điều 93 tức là trường hợp của A là đặc biệt nghiêm trọng nên mức tối đa A có thể nhận mức hình phạt cao nhất theo khoản 3 điều 52 đó là chung thân hoặc tử hình.
Trẻ em và phụ nữ có thai là những đối tượng được pháp luật dành cho những chế định bảo vệ đặc biệt. Hành vi xâm phạm trái pháp luật đến các đối tượng này đều phải chịu chế tài nghiêm khắc nhất. Điều 48 BLHS quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) trong đó có tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai…” tại điểm h khoản 1. Ngoài ra, trong các điều luật cụ thể của BLHS đều quy định theo hướng hành vi nào xâm phạm đến các đối tượng này đều thuộc tình tiết định khung tăng nặng và lẽ đương nhiên là phải chịu TNHS cao hơn. Khoản 1 Điều 93 BLHS tại các điểm b, c là một ví dụ tương tự; trong đó người phạm tội “Giết phụ nữ mà biết là có thai” hoặc “Giết trẻ em” sẽ phải chịu mức chế tài có thể lên đến tử hình; trong khi giết người ở các trường hợp khác không thuộc khoản 1 thì chỉ phải chịu mức chế tài tối đa là 15 năm.
2.4. Nếu là người nước ngoài, hành vi phạm tội của A sẽ bị xử lí theo Bộ luật hình sự Việt Nam
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, tại Điều 9 có xác định, người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch; người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, là công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở Việt Nam; công dân nước ngoài là người có quốc tịch nước ngoài; quốc tịch nước ngoài, là quốc tịch của một nước khác không phải là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; người không quốc tịch, là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài.
Các khái niệm này được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật, do vậy, chúng ta cần so chiếu vào đó để viện dẫn, sử dụng cho chính xác, các vấn đề liên quan chủ thể tội phạm là người nước ngoài.
A bị truy tố với tội danh giết người ?
A có ý định giết B (đang có thai) để trả thù A đến nấp ở bụi cây gần cổng nhà B, đợi B về để giết sau đó đã bị bắt. Hành vi của A được xác định là phạm tội giết người theo khoản 1 điều 93 BLHS. A bị truy tố phạm tội giết người theo đúng quy định của pháp luật mặc dù hậu quả B chết chưa xảy ra, mặc dù A chỉ thực hiện đến giai đoạn phạm tội chưa đạt.
A phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam sẽ bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam?
Luật hình sự có hiệu lực với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 1 Điều 5 quy định rõ: “Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Lúc này Luật hình sự Việt Nam sẽ áp dụng ngay vào hành vi phạm tội của A. Trừ khi A thuộc diện ưu tiên ở Khoản 2 Điều 5 luật này: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.” (Điều 10, 12, 28, 29 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam ngày 23/8/1993).
Tuy nhiên nếu nói như thế thì chủ thể quy định tại khoản 2 cũng vẫn xem là đã bị áp dụng pháp luật Việt Nam, quy định như thế đồng nghĩa với việc A luôn bị xử lí theo luật Việt Nam việc giải quyết theo đường ngoại giao cũng chính là biện pháp xử lí theo một cách khác “quốc tế” hơn. A vi phạm pháp luật và vi phạm cả trên lãnh thổ Việt Nam, khi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam đương nhiên A sẽ bị xử lý theo Bộ luật hình sự của Việt Nam.
Kết luận
Xuất phát từ lí chí và ý chí mong muốn giết được B, A đã chuẩn bị tinh thần với công cụ với ý định thực hiện hành vi rất dã man đó là giết người đang có thai. Với việc chưa đạt được mục đích giết B vì đã bị ngăn chặn một cách kịp thời, tội giết người của A đáng phải truy tố và bị trừng trị với án phạt xứng đáng, thậm chí luật hình sự cần thiết đưa các án phạt tội chưa đạt đến mức tội hoàn thành vì thực chất việc chưa đạt là do khách quan tác động đến nạn nhân chứ ý chí chủ quan của chủ thể phạm tội không thay đổi kết quả đó. Bài viết dựa trên những căn cứ pháp lí, dựa trên những yêu cầu cụ thể bài viết đã có những định hướng cụ thể. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và tài liệu nghiên cứu các vấn đề giải quyết chưa thể triệt để. Mong nhận được những ý kiến đóng góp cho bài viết. Tôi Xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÁO
1. GIÁO TRÌNH LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TẬP 1)/ NXB Công An Nhân Dân Hà Nội/ 2007
2. BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009)/ NXB Lao Động – Xã Hội
3. Tạp chí Luật học, Tạp chí dân chủ và pháp luật
4. Trang web: “Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam” ngày 23/8/1993
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình huống A có ý định giết B (đang có thai) để trả thù.doc