Luật dân sự là một ngành luật vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phản ánh trực tiếp đến đời sống của người dân. Một trong những quan hệ xã hội đó chính là quan hệ về thừa kế. Đã từ rất lâu, trong đời sống xã hội nước ta, thừa kế đã xuất hiện rất rộng rãi và phổ biến, ví dụ như phương thức “cha truyền con nối”. Tuy nhiên, vấn đề thừa kế ngày đó vẫn chưa được pháp luật bảo vệ một cách toàn diện, dẫn đến nhiều trường hợp di sản mà người chết để lại không được định đoạt đúng như mong muốn nguyện vọng của họ. Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời đã tạo nên một hàng rào pháp lý giúp cho các quan hệ về thừa kế được bảo vệ, giảm thiểu được tình trạng nêu trên.
Di chúc do cá nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người còn sống khác. Hay nói cách khác di chúc là sự bày tỏ, thể hiện ý chí, nguyện vọng của một con người cụ thể sẽ định đoạt tài sản của mình ra làm sao sau khi họ chết. Do đó, người lập di chúc có tính độc lập, tự định đoạt khi lập di chúc và cũng chính vì vậy mà di chúc được coi là một hành vi pháp lý đơn phương, phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Hình thức của di chúc cũng cần phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật bởi hình thức của di chúc là nguồn chứng cứ được sử dụng để chứng minh ý chí đích thực của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản. Vì thế, ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu về hình thức của di chúc nhằm hiểu rõ từng hình thức để nhờ đó biết được đầy đủ quyền sở hữu, định đoạt đối với tài sản của người đã chết.
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
1. Di chúc. 2
2. Điều kiện hợp pháp của di chúc. 2
II. HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 5
1. Di chúc miệng. 5
2. Di chúc bằng văn bản. 9
III.THỰC TIỄN ÁP DỤNG 16
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 17
KẾT THÚC VẤN ĐỀ 19
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6318 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hình thức của di chúc trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật dân sự là một ngành luật vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phản ánh trực tiếp đến đời sống của người dân. Một trong những quan hệ xã hội đó chính là quan hệ về thừa kế. Đã từ rất lâu, trong đời sống xã hội nước ta, thừa kế đã xuất hiện rất rộng rãi và phổ biến, ví dụ như phương thức “cha truyền con nối”. Tuy nhiên, vấn đề thừa kế ngày đó vẫn chưa được pháp luật bảo vệ một cách toàn diện, dẫn đến nhiều trường hợp di sản mà người chết để lại không được định đoạt đúng như mong muốn nguyện vọng của họ. Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời đã tạo nên một hàng rào pháp lý giúp cho các quan hệ về thừa kế được bảo vệ, giảm thiểu được tình trạng nêu trên.
Di chúc do cá nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người còn sống khác. Hay nói cách khác di chúc là sự bày tỏ, thể hiện ý chí, nguyện vọng của một con người cụ thể sẽ định đoạt tài sản của mình ra làm sao sau khi họ chết. Do đó, người lập di chúc có tính độc lập, tự định đoạt khi lập di chúc và cũng chính vì vậy mà di chúc được coi là một hành vi pháp lý đơn phương, phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Hình thức của di chúc cũng cần phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật bởi hình thức của di chúc là nguồn chứng cứ được sử dụng để chứng minh ý chí đích thực của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản. Vì thế, ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu về hình thức của di chúc nhằm hiểu rõ từng hình thức để nhờ đó biết được đầy đủ quyền sở hữu, định đoạt đối với tài sản của người đã chết.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Di chúc
Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Nội dung di chúc đã thể hiện ý chí của duy nhất một bên là người để lại di sản thừa kế và chỉ được thực hiện sau khi người đó chết. Vì thế mà người để lại di sản thừa kế không bị ràng buộc bởi di chúc do chính mình lập ra, có thể sửa đổi di chúc hoặc huỷ bỏ bằng một bản di chúc khác sau này. Giữa người lập di chúc và người được chỉ định thừa kế theo di chúc hoặc của bất kỳ người nào khác trong thời gian người lập di chúc còn sống sẽ không có sự ràng buộc. Sau khi người lập di chúc chết thì chỉ có người được chỉ định thừa kế theo di chúc mới được bày tỏ ý chí của mình là nhận hay không nhận tài sản của người lập di chúc để lại.
2. Điều kiện hợp pháp của di chúc.
Về người để lại di chúc.
Thứ nhất, người lập di chúc phải có năng lực chủ thể trong việc lập di chúc. Năng lực chủ thể trong việc lập di chúc được xác định như sau:
Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền trong việc lập di chúc. Theo quy định của pháp luật thì người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là những người đủ 18 tuổi trở lên, không bị Toà án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự (Điều 18, 19 Bộ luật dân sự năm 2005).
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được lập di chúc nhưng di chúc đó phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Đây là quy định phù hợp, đúng tinh thần như Bộ luật lao động về độ tuổi tối thiểu có thể tham gia lao động là 15 tuổi trở lên.
Người bị hạn chế về thể chất (khiếm thị, cụt tay không viết được…) hoặc người không biết chữ cũng có quyền lập di chúc nhưng di chúc đó phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Thứ hai, người để lại di sản khi lập di chúc chỉ được phép định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, quyền sử dụng hợp pháp (là quyền sử dụng đất..), một phần trong khối tài sản chung với đồng chủ sở hữu khác.
Thứ ba, điểm a khoản 1 Điều 652 BLDS năm 2005 quy định: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”. Người để lại di sản lập di chúc phải ở trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt bởi lập di chúc là hành vi của chủ sở hữu (chủ sử dụng tài sản) định đoạt tài sản của mình nên họ phải nhận thức được hành vi đó khi thực hiện quyền định đoạt tài sản. Bên cạnh đó, người để lại di chúc phải hoàn toàn tự nguyện, không bị chi phối về mặt tinh thần , tâm lý hoặc thể chất, không bị ép buộc phải lập di chúc theo ý chí của người khác. Đây là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá giá trị pháp lý của di chúc, đảm bảo tính chính xác theo ý chí của chủ thể - người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của mình. Di chúc được lập trong hoàn cảnh bị lừa dối, bị đe dọa hoặc bị cưỡng ép bị coi là bất hợp pháp.
Về nội dung của di chúc
Theo điểm b khoản 1 Điều 652 BLDS năm 2005 thì: “Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội…”. Đây là điều kiện rất quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp của di chúc. Di chúc được lập ra thể hiện sự tự do về ý chí của người lập di chúc, tuy nhiên không phải mọi nguyện vọng, mong muốn đều được pháp luật chấp nhận và đảm bảo. Bởi di chúc đó nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật, do đó không được trái với pháp luật. Và di chúc cũng không được trái với đạo đức xã hội để tránh làm mất thuần phong mĩ tục, những chuẩn mực đạo đức của dân tộc ta.
Về người làm chứng
Điều 654, Bộ luật dân sự 2005 quy định về điều kiện của người làm chứng như sau: “Mọi người đều có thể là chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung của di chúc;
Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Đây là một quy định nhằm đảm bảo sự công bằng, khách quan, tính chính xác và nội dung đầy đủ của di chúc.
Về hình thức của di chúc
Hình thức của di chúc không được trái với quy định của pháp luật (theo điểm b, khoản 1, Điều 652, BLDS 2005). Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản ra bên ngoài cho người khác biết, để sau này có căn cứ vào đó mà thực hiện ý chí của người để lại di sản sau khi người đó chết. Tuy nhiên, nếu pháp luật quy định về hình thức của di chúc phải được thể hiện dưới những hình thức nhất định hoặc phải thoả mãn những điều kiện cụ thể thì người lập di chúc phải thỏa mãn những điều kiện, hình thức đó, nếu không, di chúc sẽ vô hiệu. Theo quy định tại Điều 649, BLDS 2005 thì:
“Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình”.
Như vậy, hình thức bắt buộc của di chúc là phải bằng văn bản, việc lập di chúc miệng phải tuân theo các điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Di chúc bằng văn bản được chia ra làm nhiều loại:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, trị trấn.
Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. Đây là một quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào các dân tộc thiểu số còn hạn chế về trình độ nhận thức được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi để lại di chúc.
Như vậy, theo quy định của pháp luật về thừa kế thì việc lập di chúc chỉ có thể tiến hành theo một trong hai hình thức: di chúc có hình thức bằng văn bản – di chúc bằng văn bản (hay còn gọi là chúc thư) và di chúc có hình thức bằng miệng – di chúc miệng (hay còn gọi là chúc ngôn). Đây cũng chính là hai hình thức của di chúc mà ta cần tìm hiểu và phân tích.
HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Di chúc miệng
Di chúc miệng hay còn gọi là chúc ngôn là sự bày tỏ bằng lời nói của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người khác sau khi mình chết.
Điều 651 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về di chúc miệng như sau:
“1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”.
Thông thường thì nên và cần lập di chúc bằng văn bản. Chỉ lập di chúc bằng miệng trong trường hợp bất khả kháng không thể lập di chúc bằng văn bản. Trong trường hợp người có tài sản không thể lập, không có điều kiện để lập di chúc viết vì tính mạng của họ bị đe doạ bởi cái chết do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác thì có thể lập di chúc miệng. Tính mạng một người bị đe doạ bởi cái chết ở đây có thể hiểu là một người bị thương nặng do ốm đau, tai nạn, gần đến lúc hấp hối… Những nguyên khác có thể là do người lập di chúc cụt tay, không biết chữ, bị mù hai mắt… Do đó di chúc miệng có thể được coi là lời trăng trối cuối cùng của người chết về việc để lại di sản, phân chia cho những người còn sống thừa kế. Có thể thấy di chúc miệng được công nhận và có hiệu lực trong những trường hợp đặc biệt phù hợp với phong tục tập quán nước ta.
Theo khoản 5 điều 652 Bộ luật Dân sự, di chúc miệng hợp pháp nếu di chúc đó do chính người có tài sản thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng ( người làm chứng phải thoả mãn quy định tại điều 654 Bộ luật Dân sự ) và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại một cách trung thực sự thể hiện ý chí của người lập di chúc miệng, sau đó đọc cho người lập di chúc nghe và cùng kí tên hoặc điểm chỉ vào biên bản làm chứng việc di chúc miệng. Người lập di chúc phải thể hiện được bằng lời nói, mà người làm chứng và mọi người đều có thể nghe được, hiểu được ý chí của người di chúc miệng. Di chúc miệng sẽ không hợp pháp nếu người lập di chúc miệng bằng cử trỉ, động tác, mấp máy môi hoặc những động tác không có ý nghĩa thể hiện là không còn minh mẫn, sáng suốt. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì biên bản di chúc miệng phải được công chứng hoặc chứng thực theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực. Trên thực tế, có nhiều trường hợp người sắp chết chỉ nói lên ý chí của mình về việc phân chia tài sản trước nhiều người như những lời dặn dò, căn dặn nhưng không ai ghi chép lại. Những lời căn dặn đó về mặt pháp lý hoàn toàn không được coi là di chúc miệng.
Việc lập di chúc miệng này là do hoàn cảnh hãn hữu mà không thể lập được di chúc bằng văn bản nên di chúc miệng có giá trị trong thời gian ngắn. Hiệu lực di chúc miệng chỉ được thi hành trong thời hạn ba tháng kể từ thời điểm lập di chúc. Trong thời hạn ba tháng này, nếu người lập di chúc chết thì di chúc miệng sẽ được thi hành để chia di sản. Nhưng nếu sau ba tháng người di chúc miệng vẫn sống và minh mẫn, sáng suốt thì lúc này di chúc miệng sẽ không còn giá trị pháp lý. Nếu người lập di chúc vẫn giữ ý kiến và muốn lập di chúc như di chúc miệng thì phải lập một di chúc khác bằng văn bản để thay thế, lúc này di chúc miệng coi như bị huỷ bỏ.
Cần phải xác định rõ như thế nào là trường hợp người lập di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt, vì đó là cơ sở pháp lý nhằm xác định di chúc miệng có hiệu lực thi hành hay không còn hiệu lực trong trường hợp đã quá ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc miệng còn sống nhưng không còn minh mẫn, sáng suốt nữa. Minh mẫn được hiểu là làm chủ được hành vi của mình, hiểu được mình muốn làm gì và không muốn làm gì một cách tự chủ, độc lập, không có bất kì sự can thiệp nào của người khác. Cá nhân còn sáng suốt được thể hiện trong việc độc lập suy nghĩ, nhận xét đánh giá sự vật, sự việc diễn ra quanh mình và không có sự nhầm lẫn, bất thường giữa vật này với vật kia, cá nhân này với cá nhân khác, mình với người khác, hiện tượng này với hiện tượng khác… Hay nói cách khác, người còn minh mẫn sáng suốt là người nhận biết rõ ràng những sự vật, sự việc diễn ra quanh mình và hiểu được các hành vi của chính mình trong các quan hệ xã hội và có các cảm giác tương tự như những người bình thường khác đối với cùng hiện tượng, sự vật, sự việc.
Theo quy định ở khoản 2 điều 651 Bộ luật Dân sự thì sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn sáng suốt thì di chúc miệng bị hủy bỏ. Nhưng bên cạnh đó lại có trường hợp người di chúc miệng chỉ còn sống nhưng không còn minh mẫn sáng suốt và pháp luật chưa có quy định vể trường hợp này di chúc miệng có còn hiệu lực hay không. Trong các nguyên tắc của pháp luật dân sự, chủ thể có quyền định đoạt tài sản của mình theo di chúc hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt. Nhưng khi điều kiện thể hiện ý chí không còn tồn tại do cá nhân đã không còn minh mẫn, sáng suốt nữa thì pháp luật vẫn phải bảo hộ ý chí của người đó khi còn minh mẫn. Trường hợp người lập di chúc miệng không còn minh mẫn, sáng suốt nữa là sự kiện khách quan bất khả kháng đối với người này, vì vậy thời hạn ba tháng phải thoả mãn điều kiện minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc miệng đó. Do đó khi hết thời hạn ba tháng mà người di chúc miệng vẫn còn sống nhưng không còn minh mẫn sáng suốt thì di chúc miệng đã lập vẫn có hiệu lực. Điều này nhằm bảo vệ và tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể lập di chúc.
Do sự phát triển của khoa học công nghệ, các phương tiện kĩ thuật về ghi băng, ghi hình, máy chữ cũng được áp dụng vào việc ghi chép khá phổ biến. Do vậy, trên thực tế không loại trừ khả năng một cá nhân sử dụng máy chữ, máy vi tính, băng hình, băng thanh để làm phương tiện thể hiện ý chí của mình đối với di sản trên đó, tức là lập di chúc trên các phương tiện đó. Những di chúc được thể hiện trên các phương tiện trên nếu thiếu người làm chứng, chứng thực, công chứng sẽ bị coi là vô hiệu vì những di chúc lập theo dạng này được coi tương tự như di chúc miệng. Nên hạn chế lập di chúc trên những phương tiện kĩ thuật nói trên vì tính khách quan của nó không xác định được chuẩn xác, sự thêm bớt, thay đổi câu chữ, nội dung và ngay cả làm giả trên các phương tiện đó không phải là vấn đề phức tạp. Tuy nhiên nếu di chúc được thể hiện trên các phương tiện kĩ thuật nói trên mà có người làm chứng, chứng thực đầy đủ theo nguyên tắc, thủ tục, trình tự bắt buộc như đối với di chúc miệng thì vẫn có giá trị pháp lý.
Di chúc bằng văn bản
Di chúc có hình thức bằng văn bản là sự thể hiện ý chí của cá nhân dưới hình thức văn bản. Văn bản này có thể là văn bản viết tay, văn bản đánh máy tùy từng trường hợp cụ thể là pháp luật quy định. Di chúc bằng văn bản là hình thức di chúc được coi là chính thống, được khuyến khích và được sử dụng nhiều hơn khi lập di chúc, còn hình thức miệng chỉ là hình thức được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt và không thể lập được di chúc bằng văn bản. Với di chúc bằng văn bản, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể giải quyết những tranh chấp về thừa kế một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, di chúc bằng văn bản cũng giúp xác định được ý chí đích thực của người để lại di sản một cách dễ dàng, chính xác hơn và tránh những tranh chấp phức tạp có thể xảy ra trong đời sống hàng ngày.
Điều 650 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định di chúc bằng văn bản bao gồm:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
Di chúc bằng văn bản có công chứng.
Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Mỗi loại di chúc khi được lập ra đều có giá trị pháp lý như nhau và đều phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật. Quy định về nội dung di chúc bằng văn bản được thể hiện ở điều 653 Bộ luật Dân sự như sau:
“1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.
Tất cả các di chúc được thể hiện bằng hình thức văn bản phải đáp ứng được các yêu cầu chung về nội dung đồng thời mỗi một thể thức cụ thể của di chúc viết phải tuân theo một trình tự tương ứng. Tuy nhiên, mỗi loại di chúc bằng văn bản lại có những đặc thù riêng. Tùy theo ý muốn và tùy theo hoàn cảnh cụ thể mà người lập di chúc bằng văn bản có quyền chọn một trong những hình thức bằng văn bản nói trên khi lập di chúc bằng văn bản.
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
Để đảm bảo di chúc thật sự là phương tiện phản ánh ý nguyện cuối cùng của người chết một cách trung thực, di chúc lập theo thể thức này phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật đã quy định chung đối với mọi di chúc được lập theo hình thức văn bản tại Điều 653 BLDS.
Do không có người làm chứng nên việc giả mạo và thay đổi nội dung của bản di chúc khá dễ dàng. Vì vậy, Bộ luật Dân sự đã quy định ở Điều 655 rằng di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải được chính người lập di chúc viết bằng tay và kí. Bản di chúc cũng không được đánh máy, không được do người khác viết hộ, dù di chúc do chính người lập di chúc tự tay đánh máy cũng không có giá trị pháp lý. Viết tay là cách để chứng minh bản di chúc đó do chính người có di sản để lại lập ra mà không phải người khác bởi việc giám định nét chữ của người lập di chúc là rất dễ dàng và thuận lợi. Bên cạnh đó viết tay còn thể hiện ý chí tự nguyện của người để lại di sản mà không có sự cưỡng ép, lừa dối, chứng minh sự minh mẫn sáng suốt trong khi lập di chúc của người để lại di sản. Trong di chúc văn bản không có người làm chứng này không chấp nhận việc người viết di chúc điểm chỉ thay cho chữ kí và không tồn tại một chữ kí khác của người làm chứng. Chữ kí trong bản di chúc là vô cùng quan trọng, vì nếu không có chữ kí của người lập di chúc thì di chúc đó coi như không có hiệu lực pháp luật. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng có thể bị giả mạo và thay đổi nội dung nhưng về mặt bảo mật nó lại có giá trị cao vì có thể nội dung của bản di chúc được giấu kín, chỉ người lập di chúc biết cho đến khi mở di chúc. Do đó nếu di chúc bằng văn bản không có người làm chứng mà lại là một bản đánh máy thì bản di chúc đó sẽ không được thừa nhận dù rằng có chữ ký của người lập di chúc. Tương tự, nếu bản di chúc đó không có chữ ký của người lập di chúc cũng sẽ không được thừa nhận dù di chúc đó do chính tay họ viết ra.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Pháp luật quy định loại di chúc này nhằm đảm bảo quyền lập di chúc cho mọi cá nhân. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng được quy định tại Điều 656 như sau:
“ Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này.”
Với loại di chúc này, các cá nhân dù không thể tự mình viết được vẫn có thể lập di chúc bằng văn bản để định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi mình chết. Tuy nhiên khi lập loại di chúc này, phải có ít nhất là hai người làm chứng và người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng đồng thời trong bản di chúc đó phải có chữ ký của những người làm chứng và sự xác nhận của họ về chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc. Thiếu một trong những yếu tố này di chúc sẽ không có hiệu lực pháp luật. Hành vi lập di chúc của người có di sản nhờ người khác viết hộ và người làm chứng phải tiến hành cùng một lúc. Người làm chứng có vai trò rất quan trọng là chứng kiến việc người viết hộ di chúc viết ra bản di chúc và đảm bảo nội dung trong bản di chúc đó là đúng với ý chí của người lập ra di chúc. Sau khi lập xong di chúc, người làm chứng phải đọc lại di chúc trước mặt mọi người, được người lập di chúc thừa nhận là di chúc viết hộ đã ghi đúng và đủ những lời đọc của người lập di chúc. Người lập di chúc và người viết hộ phải kí tên hoặc điểm chỉ vào di chúc trước mặt người làm chứng. Người làm chứng là sau đó sẽ kí tên xác nhận người lập di chúc và người viết hộ đã kí tên vào di chúc trước mặt mình, việc người làm chứng xác nhận chữ kí hoặc điểm chỉ trong bản di chúc đúng là của người lập di chúc rất quan trọng. Họ tên, tuổi, nơi cư trú của người viết hộ di chúc và người làm chứng cũng cần phải được ghi rõ trong di chúc.
Di chúc có công chứng hoặc chứng thực
Điều 657 BLDS quy định: “Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc”.
Người lập di chúc có thể lập di chúc ngay tại Công chứng nhà nước, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc có thể tự lập di chúc, sau đó mang đến những cơ quan này yêu cầu công chứng, chứng thực. Người lập di chúc phải tự mang bản di chúc đến công chứng nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn yêu cầu công chứng, chứng thực. Pháp luật không cho phép người lập di chúc uỷ quyền người khác mang di chúc của mình đến công chứng, chứng thực. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực có nghĩa vụ phải công chứng, chứng thực bản di chúc theo yêu cầu của người lập di chúc. Tuy nhiên, công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cũng có thể từ chối yêu cầu này trong trường hợp có sự nghi ngờ người lập di chúc đã không làm chủ được hành vi lập di chúc do có dấu hiệu của bệnh tâm thần, có dấu hiệu của những bệnh không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc nếu di chúc được lập ra nghi ngờ là do bị người khác lừa dối, doạ nạt, áp đặt ý chí đối với người lập di chúc. Trong những trường hợp này, công chứng viên hoặc người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn được quyền yêu cầu người lập di chúc chứng minh những nghi ngờ trên bởi văn bản của các cơ quan giám định, xác minh.
Việc lập di chúc theo thể thức này phải tuân thủ trình tự và thủ tục mà Điều 658 BLDS quy định sau đây:
“ 1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.”
Pháp luật cũng có những quy định đối với người công chứng, chứng thực di chúc. Điều 659 Bộ luật Dân sự quy định về những người không được công chứng, chứng thực di chúc:
“Công chứng viên, người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;
3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc”.
Quy định như vậy của pháp luật là cần thiết vì một người không thể tự chứng thực cho quyền lợi của bản thân mình, quyền lợi của những người thân thuộc gần của mình. Những hạn chế trong quy định trên có tác dụng ngăn chặn việc lạm dụng chức vụ quyền hạn để làm lợi cho bản thân hoặc thân thuộc của mình. Bên cạnh đó, quy định trên còn bảo đảm việc chứng thực, chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền chứng thực, chứng nhận di chúc đáng tin cậy, khách quan.
Ngoài ra, pháp luật về thừa kế còn công nhận hình thức di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc có công chứng, chứng thực tại Điều 660 BLDS. Đó là các di chúc được lập trong những trường hợp sau:
1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực;
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó;
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị;
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó;
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó”.
Quy định tại Điều 660 BLDS thể hiện rõ tính phù hợp và năng động, linh hoạt của pháp luật Thừa kế Việt Nam, thể hiện rõ sự tôn trọng hiện thực khách quan trong từng hoàn cảnh về không gian cụ thể của người lập di chúc; theo đó hiệu quả điều chỉnh của Điều luật có tính thực tế cao và phù hợp với những đòi hỏi hiện thực của các quan hệ xã hội phong phú ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Thực tiễn cho thấy không phải lúc nào di chúc lập ra cũng được coi là hợp pháp vì rất nhiều trường hợp người lập di chúc đã vi phạm các nguyên tắc về hình thức hay nội dung của di chúc. Ví dụ như người lập di chúc không theo đúng trình tự tự lập di chúc mà pháp luật đã quy định đó là họ viết sẵn di chúc nhưng lại nhờ người khác mang tới Ủy ban nhân dân xin chứng thực, khi đó mặc dù bản di chúc có chứng thực của Ủy ban nhân dân nhưng vẫn bị xác định là vô hiệu. Hay trên thực tế, nhiều người bị ép buộc phải lập di chúc. Trong trường hợp này rất khó để xác định được tính khách quan của bản di chúc khi mà về mặt hình thức có vẻ rất đúng pháp luật. Bên cạnh đó, về vấn đề người làm chứng cũng còn nhiều sai phạm thường xuyên xảy ra. Rất nhiều trường hợp người để lại di sản thừa kế không thể tìm hai người làm chứng mà không thuộc Điều 654 BLDS hay số lượng người làm chứng trong trường hợp lập di chúc miệng tại Điều 651 BLDS cũng không được đảm bảo. Như vây, vẫn tồn tại rất nhiều sai phạm trong thực tiễn áp dụng luật về thừa kế dẫn đến tình trạng xảy ra rất nhiều vụ tranh chấp về thừa kế.
Nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp do hình thức thể hiện của di chúc không đúng với quy định của pháp luật : pháp luật nước ta quy định di chúc chỉ bao gồm hai hình thức là di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Trong đó, hình thức bằng văn bản của di chúc có thể được thể hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau, thông qua nhiều vật mang tin khác nhaun như có thể viết tay, đánh máy và in thành văn bản hoặc copy vào đĩa mềm. Tuy nhiên, nếu di chúc bằng văn bản được lập theo trình tự di chúc tự lập thì phương tiện thể hiện và vật mang tin phải theo đúng quy định cua pháp luật là: viết tay vào giấy. Vì vậy, nếu di chúc mà người chết tự lập để lại là một văn bản đánh máy dù trong đó đã có chữ ký của chính họ thì người có quyền lợi liên quan vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu xác định sự vô hiệu của di chúc.
Cũng xuất hiện một số cập như trong trường hợp một người ốm đau, sức khỏe yếu, tuy nhiên vẫn minh mẫn và tự mình lập di chúc viết tay nhưng không có người làm chứng và không chứng thự thì di chúc vô hiệu. Quy định trên mâu thuẫn với Điều 655 BLDS – Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì người lập di chúc phải tự viết tay và ký vào bản di chúc, trường hợp này di chúc không có công chứng, chứng thực vẫn có hiệu lực.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Về di chúc miệng
Điều 654 của BLDS quy định di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.
Việc điều luật quy định người làm chứng có thể điểm chỉ là dự phòng những người làm chứng không biết chữ. Tất nhiên, trong trường hợp này, những người làm chứng phải nhờ người khác viết hộ. Vậy ai có thể viết hộ? thời hạn viết hộ kể từ thời điểm người làm chứng nghe được lời di chúc là bao lâu? Đây là những vấn đề pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể.
Giai pháp đặt ra là phạm vi những người viết hộ này cũng phải giới hạn như phạm vi những người làm chứng và cũng cần quy định là những người làm chứng nếu không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết hộ ngay sau khi nghe di chúc miệng, người viết hộ và người làm chứng phải cùng ký tên, điểm chỉ.
Về người làm chứng cho việc lập di chúc
Điều 654 của BLDS quy định phạm vi những người được quyền làm chứng cho việc lập di chúc, theo đó, một trong số ba trường hợp không được làm chứng là: “người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự”.
Việc quy định như Điều 654 vừa thừa lại vừa thiếu. Theo quy định tại Điều 21 của BLDS, thì người không có năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 6 tuổi. Như vậy, người không có năng lực hành vi dân sự chắc chắn chưa đủ 18 tuổi. Hơn nữa, phạm vi người không được làm chứng theo quy định tại Điều 654 không đề cập đến người mất năng lực hành vi dân sự.
Vì vậy khoản 3, Điều 654 về những người không được làm chứng cho việc lập di chúc cần quy định lại là: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự”.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong thực tiễn áp dụng hiện nay, vẫn còn có nhiều trường hợp chưa nghiêm chỉnh chấp hành luật Thừa kế mà khó có thể phát hiện được. Như việc người lập di chúc bị bắt ép, bị người khác đe dọa về tinh thần phải lập di chúc theo ý muốn của người đó; vấn đề về sự hợp pháp của người làm chứng; nội dung của di chúc chưa đảm bảo đúng với yêu cầu của pháp luật; ... Nguyên nhân là do sự hiểu biết về pháp luật Thừa kế của người dân còn hạn chế, sơ sài ; hơn nữa vấn đề di chúc là vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tài sản của người đã chết vì thế nhiều người ham lợi ích cá nhân mà sẵn sàng vi phạm pháp luật để đạt được tham vọng của mình. Qua đó có thể thấy đây là một vấn đề nhạy cảm và còn cần phải hoàn thiện hơn nữa về mặt pháp luật để các quan hệ xã hội về thừa kế được pháp luật bảo vệ một cách tốt nhất, khó bị xâm hại, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia các quan hệ đó.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Giáo dục Hà Nội, 2009.
Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 2008
Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Thừa kế quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb chính trị quốc gia 2007.
Trường Đại học Luật Hà Nội, TS. Nguyễn Minh Tuấn, Pháp luật thừa kế của Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động – xã hội, 2009
Hiến Pháp 1992 của nước CHXCN Việt Nam
Bộ luật Dân sự (1995 & 2005) của nước CHXHCN Việt Nam.
thongtinphapluatdansu.wordpress
hcmulaw.edu.vn
MỤC LỤC
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
1. Di chúc 2
2. Điều kiện hợp pháp của di chúc. 2
II. HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 5
1. Di chúc miệng 5
2. Di chúc bằng văn bản 9
III.THỰC TIỄN ÁP DỤNG 16
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 17
KẾT THÚC VẤN ĐỀ 19
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ- HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.doc