Còn đến khi nghe nhà tiên tri Tirêxiat cảnh báo rằng: “Thành bang đang đau khổ vì việc ngài làm” và khuyên là: “Hãy nhượng bộ người đã chết, đừng khăng khăng giữ lấy sai lầm”. Dù cho trước đây Crêông chưa bao giờ làm sai sự chỉ bảo của cụ thì bây giờ hắn cũng cho thầy bói là cái thứ “bẻm mép vô sỉ”, là “cái giống thích tiền biết bao”. Và mặc cho Tirêxiat ra sức khuyên ngăn: “Ai cũng có thể lầm lẫn, và không phải vì thế mà người điên rồ hay khốn khổ, miễn là không khăng khăng giữ lấy sai lầm. Nhưng ngang bướng là tự đày đọa thành vụng dại. Thôi, hãy nhượng bộ người chết, đừng hành hạ một tử thi. Một người chết không cần phải chết hai lần. Tôi nói vì điều tốt cho ngài. Nên nghe theo sự sáng suốt của một người bạn khi nó phục vụ lợi ích của mình”. Thế nhưng, Crêông vẫn một mực giữ lấy ý kiến của mình: “Dù thế nào ông cũng không khiến tôi thay đổi quyết định được đâu, không bao giờ, dù cho chim phượng hoàng của thần Zơx có thích thú đem những mảnh thịt kia lên tận ngai vàng của chủ cũng không bao giờ ta run sợ đến để ta cho chôn cất cái thịt nhơ bẩn ấy”. Nhà tiên tri là người đã đự báo trước cho Crêông những tai họa để Crêông có thể sữa chữa, khắc phục. Thế mà giờ đây, ngay cả lời khuyên của ông ta cũng không có ý nghĩa gì đối với Crêông nữa. Crêông cho rằng: “Tất cả mọi người như những cung thủ, đều lấy ta làm đích để bắn”. Thử hỏi với suy nghĩ như vậy kết hợp với bản chất chuyên chế, độc đoán của giai cấp thống trị thì làm sao Crêông có thể thay đổi quyết định của mình? Với Crêông, sự rộng lượng khoan hồng, mà đặc biệt là rộng lượng khoan hồng với người mà mình cho là kẻ thù là một nỗi đau khổ: “Nhượng bộ đối với ta là một điều rất khổ tâm”. Đối với Crêông thì phải tỏ rõ quyền lực cá nhân, phải thực hiện bằng được mọi ý chí của cá nhân vô luận với hoàn cảnh nào hay bất kì đối tượng nào: “Điều hay hơn hết ta rất sợ, là đừng có thay đổi gì vào những luật lệ đã thiết lập”.
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3201 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hình tượng nhân vật creong, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Bi kịch Hy Lạp là “một vẻ đẹp của Hy Lạp cổ đại” (Arixtốt), là một thành tựu quan trọng bậc nhất của nền văn học Hy Lạp trong thời kỳ cổ điển của nó. Thể loại bi bịch là “một bước phát triển cao của nghệ thuật thơ ca” (Hêghen), nó ra đời trên nhu cầu phản ánh hiên thực tất yếu của nghệ thuật, trên một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Nó là mảnh đất màu mỡ đã sản sinh ra những nhà bi kịch lớn mà tên tuổi mà tác phẩm của họ xứng đáng là một “mùi hương lạ” góp vào vườn hoa bi kịch thế giới.
Những cái tên như Esin, Xôphôclơ, Ơripit mãi là niềm tự hào của bi kịch thế giới nói chung và bi kịch Hy Lạp nói riêng. Nếu như Esin được mệnh danh là “ông tổ của bi kịch”, là người đã đặt những “viên gạch vàng” đầu tiên làm nền móng cho toà nhà lớn bi kịch của nhân loại thì Xôphôclơ là người đã có công không nhỏ trong việc phát triển bi kịch, được mệnh danh là “Hôme của nghệ thuật kịch”. So với bậc tiền bối của mình thì Xôphôclơ không chỉ cải tiến về kỷ thuật kịch mà còn cải tiến về nội dung và nghệ thuật của bi kịch nữa.
Tác phẩm Ăngtigôn là một trong những vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ. Thành công của vở bi kịch có được một phần là do nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của ông. Trong vở bi kịch này, Xôphôclơ đã dựng nên hai hình tượng trung tâm đối lập với nhau về lý tưởng sống cũng như về tình cảm. Bên cạnh hình tượng Ăngtigôn với những vẻ đẹp của tình cảm nhân đạo và tình thương người bao la là hình tượng Crêông với đầy đủ những đặc điểm của giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Nghiên cứu hình tượng sẽ giúp chúng ta thấy được hết giá trị của tác phẩm bởi “hình tượng là nơi thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mỹ của nghệ thuật”, đặc biệt trong những nhân vật phản diện thì điều này lại càng rõ hơn hết. Chính điều này đã thôi thúc chúng tôi tìm đến với đề tài: Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn của Xôphôclơ. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn mang lại cái nhìn khách quan, toàn diện, đúng đắn, đầy đủ về những giá trị mà hình tượng Crêông mang lại trong vở bi kịch cũng như tài năng của Xôphôclơ trong việc khắc hoạ tính cách và miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật.
2. Lịch sử ghiên cứu vấn đề:
Xôphôclơ – là đại diện tiêu biểu của bi kịch Hi Lạp trong thời kì toàn thịnh của nhà nước dân chủ, chủ nô Aten và là người tiếp nối Esin “cha đẻ của bi kịch Hi Lạp”. Là một trong ba đại diện vĩ đại của bi kịch Hi Lạp nên cuộc đời và sự nghiệp của ông được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước nghiên cứu. Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số công trình nghiên cứu sau:
Công trình thứ nhất là của Lê Nguyên Cẩn trong cuốn Hợp tuyển văn học Châu Âu, tập 1, phần văn học cổ đại Hi Lạp- La Mã. Trong cuốn này, nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng quát về cuộc đời và sự nghiệp của ba nhà bi kịch Etsin, Xôphôclơ và Ơripit. Đặc biệt, đối với Xôphôclơ thì ông cho Xôphôclơ là “người cách tân nghệ thuật bi kịch, nâng bi kịch lên một bước hoàn thiện mới”.
Công trình thứ hai là của Lương Duy Trung (chủ biên) trong cuốn Văn học phương Tây. Trong cuốn này, các nhà nghiên cứu đã trình bày một cách chi tiết cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Xôphôclơ và giới thiệu về vở bi kịch Ăngtigôn. Đối với Xôphôclơ thì ông cho đây là “nhà thơ của thời kì nền dân chủ phồn vinh”, “là nhà thơ hoàn hảo”, “nhà thơ am hiểu nghệ thuật kịch hơn ai hết”, là người sáng tác ra những vở bi kịch “thực sự là những hình ảnh của cuộc sống mà bi kịch cũ chỉ là những nét phác họa”(Croazê).
Công trình thứ ba là cuốn Kịch Xôphôclơ, do Hoàng Trinh giới thiệu, Nguyễn Giang dịch. Cũng như hai công trình nghiên cứu trên thì công trình này cũng trình bày khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xôphôclơ. Đặc biệt trong cuốn này đã giới thiệu về vở bi kịch Ăngtigôn như sau: “Đối với vở bi kịch này, nó giúp chúng ta hiểu thêm xã hội Hi Lạp cổ đại, những vấn đề xã hội đặt ra với con người thời ấy…nhưng điều đáng chú ý hơn là về mặt nghệ thuật đây là lần đầu tiên kịch tính cách, kịch tâm lý xuất hiện…”.
Những công trình nghiên cứu trên đã giúp ích chúng tôi rất nhiều trong việc học tập và nghiên cứu. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn với mong muốn đóng góp phần nào cái nhìn đầy đủ hơn những đóng góp của Xôphôclơ về nghệ thuật kịch.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn của Xôphôclơ.
Phạm vi nghiên cứu: Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đi làm rõ hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn với những nét tính cách, đặc điểm điển hình cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Chúng tôi sẽ làm việc với văn bản tác phẩm Ăngtigôn trong cuốn Kịch Xôphôclơ của Hoàng Trinh giới thiệu, Nguyễn Giang dịch, năm 1985. Bản này dịch theo bản dịch tiếng Pháp THÉÁTRE DE SOPHOCLE của Robert Pignarre, NXB Garnierpreres, Paris, 1958, có tham khảo nguyên văn Hy Lạp với sự cộng tác của Nguyễn Mạnh Tường và Phan Ngọc.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai đề tài này, ngoài việc thu thập, đọc, xử lý tài liệu chúng tôi còn sử dụng các phương pháp mang tính chất khoa học khác như:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, chứng minh
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp tổng hợp, đánh giá
5. Giới thuyết thuật ngữ
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đi làm rõ những thuật ngữ sau: khái niệm hình tượng nghệ thuật, khái niệm thể loại bi kịch, khái niệm nhân vật văn học.
6. Cấu trúc đề tài
Bài tiểu luận của chúng tôi ngoài phần mở đầu và kết luận thì phần nội dung gồm hai chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
B/ NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Bi kịch Hi Lạp - niềm tự hào của văn minh Hy Lạp
Bi kịch Hi Lạp cổ đại là niềm tự hào của văn minh Hi Lạp. Đó là những tác phẩm không chỉ vang bóng một thời mà còn được liệt vào hàng kiệt tác nên những đặc trưng thể loại của nó vẫn được coi là mẫu mực cho thể loại của mọi thời đại. Trong đó, thể loại bi kịch là “một bước phát triển cao của nghệ thuật thơ ca” (Hêghen), nó ra đời trên một cơ sở xã hội nhất định. Đó là thời kì từ thế kỉ VI đến thế kỉ IV TCN, thời kì tan rã của chế độ công xã thị tộc và bước đầu xác lập chế độ quốc gia thành bang (Etat – Cite) của xã hội chiếm hữu nô lệ. Thành bang Aten, nơi khai sinh ra những khúc đitirambơ, nguồn gốc của bi kịch, là nơi đã chứng kiến một cách đầy đủ và điển hình nhất những diễn biến, những mâu thuẫn trong sinh hoạt xã hội, ý thức tư tưởng của quá trình hình thành, phát triển và tàn lụi của chế độ xã hội này. Ở thành bang này từ thế kỉ thứ VIII,VII TCN đã có những cuộc xung đột giữa tầng lớp quý tộc cầm quyền và nhân dân, tầng lớp bị trị. Cho nên, thời đại mà bi kịch ra đời là thời đại mà chế độ dân chủ Aten phát triển đến cao điểm của nó, là chuẩn mực của toàn Hi Lạp với những cải cách nổi tiếng của Xôlông, Pizitxtơrat, Clixten,Periklex …Đó cũng là thời kì diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa giai cấp chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp quý tộc ruộng đất đại diện cho tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, độc tài chuyên chế và tầng lớp chủ nô công thương cùng những người dân tự do, tiêu biểu cho trào lưu tư tưởng tự do dân chủ. Và đó cũng là thời kì nền văn hóa Aten phát triển về mọi mặt: những ngôi đền bằng đá cẩm thạch trắng, những tượng tạc bằng ngà voi và bằng vàng hay đúc bằng đồng đồ sộ, những đồ gốm có những bức họa sinh động về các điển tích thần thoại. Có thể nói, xã hội Aten thế kỉ thứ VI – IV là mảnh đất màu mỡ cho sự ra đời của bi kịch Hi Lạp. Buyse trong Để bảo vệ thơ ca đã nói: “Một nghệ thuật mới đã xuất hiện” đồng thời với sự “xuất hiện con người mới”. Và đó cũng là nguồn gốc xã hội đích thực của sự ra đời của bi kịch.
Tuy nhiên, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, bi kịch còn có nguồn gốc dân gian của nó. Bi kịch ra đời trên cơ sở phát triển những câu chuyện nói về nỗi gian truân, vất vả của cuộc đời hoặc ca ngợi công đức lớn lao của ai đó. Nó đã vay mượn hình thức biểu diễn của đội đồng ca đitirambơ của lễ tế thần Điônizôx – thần rượu nho, thần say, thần hoan lạc…Nhân dân Hi Lạp sở dĩ chọn thần rượu nho Điônizôx để thờ cúng tế lễ vì vị thần này gắn với bộ phận sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất của họ: nghề trồng nho và làm rượu nho. Thứ hai là do thần Điônizôx khác đa số các thần khác ở chỗ đây là một vị thần bình dân, cuộc đời vô vàn gian nan, khổ ải nên nhân dân lao động trồng nho đã tìm thấy sự “đồng điệu” trong những ca khúc hát về vị thần này. Loại hình bi kịch sở dĩ vay mượn hình thức biểu diễn của đội đồng ca thờ thần Điônizôx là vì trong hàng loạt đội đồng ca ca ngợi các vị thần khác nhau, chỉ có loại đitirambơ chứa đựng nhiều yếu tố gần gũi với những yêu cầu của sự biểu hiện bi kịch. Vì là một nền sân khấu hình thành từ những bài hát đitirambơ và những nghi lễ thờ phụng “tửu thần” cho nên bi kịch Hi Lạp mang những đặc điểm rõ rệt phản ánh nguồn gốc của nó. Nó không chia thành hồi, lớp như kịch hiện đại mà diễn một mạch từ đầu đến cuối. Sau mỗi bước tiến triển của hành động kịch tương đương một hồi thì đội đồng ca lại hát một bài tương đối dài để gói ghém lại và chuyển tiếp bước sau. Đặc điểm thứ hai là các kịch bản đều bằng thơ. Phần đồng ca là thơ hát, phần đối thoại là thơ ngâm nói. Đồng ca trong bi kịch giữ một vai trò quan trọng. Nó là dấu vết nguồn gốc đitirambơ. Có khi nó là lời phát ngôn của tác giả, có khi là lời bàn, lời phê phán, lời bình luận của công chúng, nhân dân, của lẽ phải, của lương tri, nó mang tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Đặc điểm thứ ba là các nhân vật trên sân khấu đều mang mặt nạ và đi hài cao cổ. Đặc điểm thứ tư là sân khấu có nhiều dụng cụ biểu diễn y như thật. Đặc điểm tiếp theo là đề tài những tác phẩm bi kịch còn lại hầu hết đều rút ra từ thần thoại và truyền thuyết, nhất là những truyền thuyết quen thuộc như truyền thuyết Agamennông, truyền thuyết thành Técbơ, truyền thuyết về Hêraklex, truyền thuyết thành Tơroa…Và đặc điểm cuối cùng là kết cấu từ chỗ còn hết sức đơn giản mang tính thuần túy tự sự và trữ tình đã đạt đến đỉnh cao về sự chặt chẽ lôgic.
Về nội dung, bi kịch Hi Lạp cổ đại có giá trị to lớn, viết về những con người lương thiện, dũng cảm, những anh hùng đấu tranh vì những mục đích tốt đẹp, những lí tưởng cao quý nhưng điều kiện khách quan không ủng hộ nên khiến họ thất bại. Nội dung của bi kịch đề cập qua những khó khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua nhưng có một điều là phẩm chất của họ luôn nổi bật và phẩm chất đó được gợi lên gợi cảm và hấp dẫn người đọc bằng không khí bi tráng. Các vở bi kịch là cuộc đấu tranh chống lại số mệnh, nhân vật bi kịch thất bại, lí tưởng mà họ đấu tranh không thực hiện được nhưng tinh thần của họ gợi lên sự kính phục và tin tưởng trong lòng người xem.
Các tác giả tiêu biểu của bi kịch Hi Lạp là Textic, Prinixcô, Esin, Xôphôclơ, Ơripit… nhưng trong đó nổi lên ba tác giả lớn, mà tên tuổi sống mãi cùng sự trường tồn của bi kịch Hi Lạp, đó là Esin, Xôphôclơ, Ơripit. Ba nhà thơ, ba tính cách, ba cuộc đời khác nhau nhưng sự nghiệp sáng tác của họ thể hiện sự phát triển, lớn mạnh và nhất là giá trị to lớn của bi kịch Hi Lạp.
1.2. Xôphôclơ - Hôme của nghệ thuật kịch
1.2.1. Cuộc đời
Xôphôclơ được mệnh danh là nhà thơ của thời kì nền dân chủ phồn vinh. Ông sinh ra ở Côlônơ gần Aten trong một gia đình quý tộc vừa giàu vừa có quyền, ông bố là của xưởng sản xuất vũ khí nên từ nhỏ ông đã được hấp thụ một nền giáo dục toàn diện và sớm có năng khiếu thơ ca. Tương truyền rằng, năm ông 16 tuổi, ông đã chơi đàn Lia trong dàn nhạc chào mừng những người chiến thắng Xalamin trở về. Ông được mệnh danh là “người con cưng của hạnh phúc” vì có ngoại hình đẹp, lại có đầy đủ mọi tài năng về vũ, nhạc, thơ, diễn xuất…Ông đạt được các giải cao trong các cuộc thi về thơ ca, thể thao…Cuộc đời Xôphôclơ gắn liền với hai thời kì của xã hội Aten: Đó là thời kì Aten cực thịnh với triều đại Pêriklex hoàng kim và thời kì suy thoái, khủng hoảng của một Aten ôm mộng bá chủ đã dại đột đọ sức với một kẻ địch thiện chiến, quả cảm và kiên trì là Xpáctơ. Thời kì cực thịnh của nền dân chủ diễn ra sau cuộc chiến tranh Hi – La khi Aten trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất của Hi Lạp, làm bá chủ trên mặt biển và cầm đầu một đồng minh có đến 150 thành bang khác, mà thường có những cống nạp để làm giàu cho thành bang Aten. Đó cũng là thời kì Aten tiến hành xây dựng những công trình kiến trúc đồ sộ, nguy nga nhưng thanh thoát và trong sáng, những pho tượng tuyệt vời của Phiđiat, Praxiten ca ngợi vẻ đẹp của hình thể con người… Những thành tựu về kiến trúc và điêu khắc không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Hi Lạp mà còn là niềm tự hào của nhân loại, sau này trở thành những kì quan của thế giới. Đây cũng là thời kì diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, của khoa học chống tôn giáo… Đó là giai đoạn có một không hai của lịch sử Hi Lạp diễn ra dưới triều đại của Pêriklex – một chính khách sáng suốt, khéo léo đầy tài năng, xuất thân từ tầng lớp quý tộc công thương tiến bộ, giàu tinh thần dân chủ, tự do.
Cũng dưới triều đại của Pêriklex, Aten được coi như trung tâm của sự phát triển văn hóa, giáo dục. Nhiều trường học và trường phái triết học, khoa học đã mở ra, nhiều sáng tác văn học có giá trị lớn xuất hiện. Pêriklex trong bài diễn văn Ca ngợi Aten đã thể hiện khuynh hướng nghệ thuật của thời đại qua câu nói tiêu biểu “chúng ta yêu cái đẹp trong sự giản dị”.
Bản thân ông là nhà hoạt động xã hội được nhân dân tín nhiệm, bầu giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính quân sự dưới thời Pêriklex và Nixiax. Năm 443, ông được nhân dân bầu vào Ban quản lí ngân khố quốc gia. Năm 440, ông được bầu vào Bộ tham mưu chiến lược của Aten. Năm 411, ông được bầu vào đoàn quan tòa của thị trấn Côlôn. Ngay cả khi ông đã 80 tuổi vẫn được cử trong số 10 người đại diện của nhân dân để giải quyết những vấn đề cấp thiết. Ông tích cực tham gia những công việc thờ cúng có tính chất lễ nghi tôn giáo, do đó được nhân dân quý mến, và sau này khi ông mất, thậm chí họ còn xây cất cho ông một ngôi đền nhỏ thờ ông như một vị anh hùng.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Là nhà thơ của bi kịch, ông có một sự nghiệp rất vĩ đại: ông để lại trên 100 vở kịch nhưng hiện nay chỉ còn lại 7 vở: Ajắc, Những người phụ nữ xứ Trasi, Ăngtigôn, Êđip làm vua, Êlêctơrơ, Philôctet, Êđip ở Côlônơ. Vở kịch đầu tiên của ông (nay đã thất lạc), nhan đề là Tritôlem, tương truyền rằng có sức hấp dẫn khán giả mãnh liệt đến nỗi viên accôngta tổ chức việc thi kịch đã không để cho vở kịch được chấm thi theo thủ tục thông thường mà giao nó cho các nhà chỉ huy quân sự do Ximông đứng đầu xem xét. Vở kịch đem lại giải nhất cho Xôphôclơ.
Xôphôclơ đã có công không nhỏ trong việc phát triển bi kịch bởi vì ngoài việc sáng tác, ông còn là người đã tăng thêm người diễn viên thứ ba, là người nâng số lượng đội đồng ca từ 12 lên 15 người tuy rằng đội đồng ca trong bi kịch của ông chỉ còn giữ vai trò thứ yếu. Ông cũng là người phát minh ra bối cảnh sân khấu và bỏ loại hình bộ ba vở kịch liên hoàn. Kịch của ông là chuẩn mực chân xác của chủ nghĩa cổ điển attích.
Đề tài bi kịch của ông hầu hết lấy từ những truyện thần thoại và truyền thuyết quen thuộc, như đề tài về cuộc chiến tranh thành Tơroa (Ajắc, Êlêctơrơ, Philôctet), về truyền thuyết thành Técbơ (Ăngtigôn, Êđip làm vua, Êđip ở Côlônơ), và cả truyền thuyết người anh hùng Hêraklex (Những người phụ nữ xứ Trasi). Những sự kiện lịch sử và chính trị của thời đại ông không in dấu trực tiếp trong tác phẩm của ông như Esin với Quân Ba Tư hay Ơripit với những thực tế của cuộc sống con người thời bấy giờ. Ngoại trừ trường hợp người ta muốn nói đến điều đó một cách gián tiếp như trường hợp trong vở Êđip ở Côlônơ có đề cập đến việc nhà vua Têzê của Aten đã chấp nhận bảo trợ Êđíp khốn khổ của thành Tecbơ khi ông ta bị mọi người xua đuổi. Và Êđíp của Xôphôclơ đã hàm ơn bằng lời hứa là một khi thi thể ông ta được chôn cất ở Attich sẽ bảo trợ cho thành bang này “thoát khỏi mọi sự xâm phạm của những đứa con của mẹ đất” – là những kẻ xuất từ cội nguồn Catmôx.
Kịch của ông đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung và giàu tính triết lý. Xung đột trong kịch là xung đột giữa con người cao quý, trọng danh dự, tình nghĩa, giàu tính nhân bản…với những thế lực thống trị độc đoán, bạo tàn, ích kỷ, nhỏ nhen, hoặc giữa con người với tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất với số mệnh bất công nghiệt ngã, giữa thế thái nhân tình đen bạc, xấu xa với phẩm chất đạo đức của người tình sâu sắc. Kịch của ông cũng đề cập đến thân phận người phụ nữ với vấn đề hạnh phúc, tình yêu. Cho nên, khác với bi kịch của Esin miêu tả thế giới thần thánh với những mâu thuẫn và những ý chí chi phối cuộc sống của con người, bi kịch của Xôphôclơ miêu tả thế giới của con người với những đau khổ, buồn vui do chính bản thân họ gây nên. Xôphôclơ đã “kéo bi kịch từ trên trời xuống hạ giới”.
1.3. Ăngtigôn - vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ
Bi kich Ăngtigôn là một trong những vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ, là vở bi kịch mẫu mực của ông về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Đề tài của tác phẩm được khai thác từ những câu chuyện về thành Técbơ, từ truyền thuyết về “nỗi bất hạnh của gia đình Êđíp” – một đề tài quen thuộc và gợi nhiều cảm hứng cho các nhà viết kịch từ xưa đến nay. Nó được trình diễn năm 412 TCN và đã được giải thưởng quốc gia trong cuộc thi bi kịch hàng năm ở Aten.
Sau khi Ơđíp chết, con trai là Êtêôclơ lên kế vị. Pôlynixơ, em của Êtêôclơ, do không tranh giành được ngôi báu với anh đã bỏ ra nước ngoài và đem quân nước ngoài về đánh lại thành Técbơ. Êtêôclơ kiên quyết bảo vệ đô thành và trong một cuộc đấu tay đôi quyết tử với Pôlynixơ, hai anh em đã tử trận. Thi hài của Êtêôclơ được Crêông, nhà vua mới, an táng trọng thể theo nghi thức dành cho các anh hùng cứu nước. Còn xác của Pôlynixơ thì bị Crêông ra lệnh vứt ra đồng làm mồi cho chim, cho chó. Ăngtigôn, em gái của Êtêôclơ và Pôlynixơ, đã kiên quyết chống lại lệnh của Crêông. Nàng bí mật đắp mộ cho Pôlynixơ. Chính vì vậy, nàng đã bị bắt và bị xử tội chết bằng cách: bị chôn sống trong nhà mồ của dòng họ. Crêông đã bất chấp tất cả để xử tội Ăngtigôn. Ăngtigôn đã tự vẫn trong nhà mồ, kéo theo cái chết của Hêmông - con trai Crêông và Ơriđit - vợ của Crêông. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh Crêông đau đớn như điên, như dại.
Vở bi kịch có thể được chia thành hai phần: Phần đầu là căng thẳng của vở bi kịch, lí tưởng của Ăngtigôn và việc thực hiện lí tưởng đó và phần sau là những tai họa tới tấp giáng xuống số phận Crêông. Từ đó, nó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa thời đại.
Đây là vở bi kịch giàu chất chiến đấu và nhân đạo. Nó lên án quyết liệt chính sách cai trị thâm tàn, độc đoán, muốn củng cố quyền lực bằng chết chóc. Nó cũng thực hiện nguyện vọng của nhân dân muốn có một chính quyền thực sự dân chủ, xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền dân chủ và quyền người, hòa hợp giữa pháp lí và nhân đạo.
1.4. Một số khái niệm
1.4.1. Bi kịch.
Đây là một trong những thể loại của kịch, thường được coi là đối lập với hài kịch.
Bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính. Mối xung đột không thể điều hòa được giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn...diễn ra trong một tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với công chúng. Theo Arixtốt, “Bi kịch là sự bắt chước hành động hệ trọng và trọn vẹn” nhằm “dùng hành động chứ không phải bằng kể chuyện, bằng cách gây nỗi xót thương và nỗi sợ hãi để thực hiện sự thanh lọc những nỗi xúc động tương tự”. Trong bi kịch, qua cái chết của nhân vật chính, người ta tìm thấy cái thiêng liêng vô giá của sự sống chân chính và cái bất tử của cộng đồng.
Bi kịch ra đời rất sớm ở Hi Lạp cổ đại, bắt nguồn từ những nghi lễ thờ cúng thần rượu nho Điônizôx. Từ đó, kịch không ngừng phát triển và ngày càng hoàn thiện. Vào thế kỉ XVI – XVII, ở một số nước châu Âu, bi kịch là thể loại văn học – sân khấu rất thịnh hành với những tác giả lớn như: Sếchxpia, Coócnây...
1.4.2. Hình tượng nghệ thuật.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) có định nghĩa như sau: “Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật”. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Hình tượng có thể tồn tại qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó là ở phương diện tinh thần. Nó vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, vừa có khả năng khái quát, làm bộc lộ được bản chất của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của nghệ sĩ; thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mĩ của nghệ thuật.
Do đó, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống nhất cao độ giữa các mặt đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và lí tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình. Và cũng chính vì thế, hình tượng nghệ thuật còn là một quan hệ xã hội – thẩm mỹ vô cùng phức tạp. Về phương diện này, hình tượng không chỉ tái hiện đời sống mà còn cải biến nó để tạo ra một thế giới mới, chưa từng có trong hiện thực. Chất liệu của nó chính là hình tượng ngôn từ.
1.4.3. Nhân vật văn học.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) có định nghĩa như sau: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Đó là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống”.
Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con người. Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng khái quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. Đồng thời, tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác nhau của đời sống. Nhân vật văn học còn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Từ những góc độ khác nhau, có thể chia nhân vật văn học thành nhiều kiểu loại khác nhau:
Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia làm nhân vật chính và nhân vật phụ
Dựa vào đặc điểm của tính cách, việc truyền đạt lí tưởng của nhà văn, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Dựa vào thể loại văn học, ta có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình và nhân vật kịch.
Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng.
Chương 2: Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
2.1. Crêông - hiện thân của cường quyền, bạo ngược
Nói đến nhân vật Crêông chúng ta có thể hình dung ra diện mạo của một tên bạo chúa mang trên mình sự quyền uy của người đứng đầu đô thị. Crêông xuất hiện trong vở bi kịch từ đoạn thứ nhất với những lí lẽ nhằm thiết lập địa vị cai trị của mình và ra sắc lệnh về hai cái xác của hai người con trai của Ơđíp. Crêông lập luận rằng: “Ngày nay,vì hai anh em ruột đã gục xuống, người này bị người kia đâm chết, người này vì người kia mang tội, nên quyền lực đã thuộc về tôi với tư cách là người thân thích gần nhất”. Sau khi thiết lập được địa vị của mình, hắn bắt đầu nói tới hai cái xác: “Êtêôclơ – người chiến sĩ vô song, chết vì phụng sự tổ quốc, sẽ được chôn cất với mọi vinh dự dành cho tang lễ những người quang vinh nhất. Nhưng về em trai của chàng là Pôlynixơ, kẻ đã bị đuổi ra khỏi thành bang, lại quay trở về để thiêu đốt tổ quốc và các thần linh của nó, để uống máu anh em và đưa chúng ta vào cảnh nô lệ, thì nghiêm cấm các công dân không được chôn cất hắn và khóc thương hắn. Hãy để mặc xác hắn nằm đấy, không được chôn cất, làm mồi cho chó và chim chóc xâu xé biến dạng đi”. Có thể nói, Crêông đã nấp dưới chiêu bài vì lợi ích quốc gia để hành động bạo ngược, bảo vệ quyền uy của mình. Đối với hắn, đất nước là vật sở hữu của người cầm quyền, thống trị “Thành bang không thuộc về người đứng đầu thành bang thì còn thuộc về ai”. Chính vì tư tưởng này nên Crêông càng ngày càng phải tìm mọi cách để tỏ rõ quyền uy của mình, bắt mọi người phải nhất nhất tuân theo những điều y nói. Chính vì vậy, mà đối với cái sắc lệnh mà y vừa ban ra ở trên, y coi đó như là điều đại diện cho pháp luật của nhà nước, không ai có quyền làm ngược lại. Nếu làm ngược lại nghĩa là chống lại y – chống lại người đứng đầu đô thị - chống lại cả thành bang. Và như thế thì những người đó tất yếu sẽ nhận lấy sự trừng phạt đích đáng mà y – người đại diện thành bang đưa ra. Và cũng theo quan niệm của y, quyền lực của người cầm quyền là trên hết, do đó cho “dù việc nhỏ hay việc lớn, công bằng hay không, người ta phải vâng theo người đã được nhân dân lựa chọn”. Với tư tưởng chuyên chế, bảo thủ như thế, Crêông tự coi mình là người đại diện cho cả thành bang, có thể giải quyết bất kì việc gì có liên quan đến số phận của người dân, dù việc đó là “việc lớn hay việc nhỏ”, và cho dù cách giải quyết đó là “công bằng hay không”. Vì thế, Crêông đã vấp phải sự phản kháng của nhân dân thành Técbơ, nhưng điều đó, lại làm cho y ngạc nhiên và cho là phi lí: “Thành bang có quyền ra lệnh cho ta sao”. Y luôn cho rằng: “Người công dân có kỉ luật biết vâng lệnh cũng sẽ là người biết chỉ huy, trong chiến trận người ấy sẽ bảo vệ vị trí của mình như một người trung thành và dũng cảm phục vụ đất nước. Nguy hại nhất là tình trạng vô chính phủ, nó làm cho gia đình bị đảo lộn, quốc gia bị đổ nát, các hàng quân tan rã…”. Vì vậy, càng ngạc nhiên với sự phản kháng của nhân dân bao nhiêu thì y càng quyết tâm thực hiện cho bằng được những gì mình đã nói để bảo vệ quyền thống trị và quyền uy của mình. Với tính cách ấy, khi biết được Ăngtigôn dám trái lệnh mình thì Crêông đã bừng bừng tức giận “vì sao cô lại dám coi thường luật lệ của ta”, quyết tâm trừng trị kẻ phạm tội một cách tàn nhẫn: “Không, không thể như thế được – ta không bao giờ tha tội cho hắn và em gái hắn, chúng đều phải chết một cách thê thảm, nhục nhã”. Đây chính là lúc mà bản chất của giai cấp thống trị bộc lộ rõ nhất. Một khi lợi ích của mình bị xâm phạm thì họ quyết tâm làm mọi thứ để cố giữ lấy phần nào quyền lợi của mình. Trừng phạt Ăngtigôn và Pôlynixơ chính là cách để Crêông giữ lại phần nào chút quyền uy của người đứng đầu đô thị, là cách để y bảo vệ cái thứ “luật lệ” mà y đã đưa ra. Với y, nếu ngay cả việc này mà cũng không làm được thì thật làm sao xứng đáng là người đứng đầu, làm sao để có thể trị vì được các thần dân khác. Không chỉ muốn trừng trị Ăngtigôn không thôi mà Crêông còn muốn trừng trị cả Ixmen – chị của Ăngtigôn vì nghĩ rằng cô này cũng là tòng phạm trong vụ chôn cất kia. Y cho đây là “hai kẻ thù ngai vàng của ta”. Vì vậy mà y đã bất chấp tất cả để trừng trị cho được người đã vi phạm luật lệ của mình. Có thể nói, vua Crêông đã trị vì với quan niệm của kẻ thồng trị bạo ngược. Chính cái quan niệm ấy đã dẫn dắt tên bạo chúa đến tội ác “giữ lại trên cõi sống một người đã chết và đẩy xuống cõi chết một người còn sống”.
2.2. Crêông - hiện thân của chuyên chế, độc đoán
Không chỉ là một người thống trị cường quyền và bạo ngược mà Crêông còn là một nhà vua chuyên chế và độc đoán. Hắn không chịu nghe theo một lời can gián nào cả. Hêmông – con trai của hắn cầu xin hắn tha cho Ăngtigôn, vợ sắp cưới của chàng cũng chính là con dâu tương lai của hắn: “Thưa cha, khi thần linh ban lí trí cho con người, là thần linh đã cấp cho người ta cái tài sản quý báu nhất trên đời. Hẳn là, con không không thể bảo cha đã làm sai và cầu trời cho không bao giờ con có thể nghĩ thế. Duy chỉ có điều là những người khác cũng có thể nghĩ đúng. Chẳng hạn con, con ở vị trí tốt để biết trước cha những ý nghĩ, những âm mưu, những lời nói xì xào. Sự có mặt của cha làm người dân sợ hãi, nếu họ muốn nói những điều có thể chướng tai cha. Còn con, con có thể nghe những điều người ta nói đây đó. Cho nên con đã hiểu thành bang thương xót cho số phận người con gái trẻ tuổi này phần nào…Xin cha đừng nhìn mọi sự theo một chiều, xin cha đừng nghĩ chỉ có mình là người duy nhất nắm được chân lí,… xin cha hãy nguôi lòng, xét lại quyết định của mình”. Khi nghe những lời ấy, Crêông cho rằng: “Ý muốn của một người cha là điều hệ trọng hơn hết cả…người con phải cùng chia sẻ cùng cha những ai là bạn, cùng căm ghét những ai là kẻ thù”. Và tức giận khi thấy rằng con mình cứ cầu xin mãi cho người mà hắn cho là kẻ thù thì Crêông đã đùng đùng nổi dận: “Ta ngần này tuổi dầu mà lại để thằng ranh con dạy khôn sao; bắt tôn trọng quyền lực của ta mà là làm điều bất công à”. Hắn sỉ mắng Hêmông là “đồ khốn nạn”, “đồ hèn mạt”, “đồ nô lệ một con đàn bà” và cuối cùng hắn tuyên bố: “Không đời nào ta để con ấy sống cho mày lấy nó đâu”. Là một người cha nhưng Crêông đã cư xử với con mình như một kẻ thù, mất hết lí trí và tình cảm. Lúc đầu thì hắn còn dùng những lời lịch sự để đáp lại con mình, dù rằng những lời đáp lại đó vẫn khăng khăng với những gì hắn đã nói, nhưng càng lúc thì sự độc đoán và chuyên chế của một ông vua lại càng nổi dậy, bộc lộ rõ ràng và khiến hắn không còn làm chủ được những lời hắn nói nữa. Hắn xúc phạm, sỉ mắng thậm tệ đứa con đẻ của mình. Quyền lực đã làm hắn lu mờ tất cả. Những lời mà Hêmông, con hắn can ngăn là những điều mà nhân dân thành Técbơ mong muốn, chàng đã đại diện cho tiếng nói của nhân dân để đến can ngăn cha, không muốn cha vấp phải những sai lầm nghiêm trọng nhưng Crêông đâu chịu để ý đến những lời đó. Hắn chỉ chăm chăm làm sao bảo vệ được “những gì hắn đã nói” – những gì mà hắn nghĩ, những thứ đó là sức mạnh để hắn sống sót.
Còn đến khi nghe nhà tiên tri Tirêxiat cảnh báo rằng: “Thành bang đang đau khổ vì việc ngài làm” và khuyên là: “Hãy nhượng bộ người đã chết, đừng khăng khăng giữ lấy sai lầm”. Dù cho trước đây Crêông chưa bao giờ làm sai sự chỉ bảo của cụ thì bây giờ hắn cũng cho thầy bói là cái thứ “bẻm mép vô sỉ”, là “cái giống thích tiền biết bao”. Và mặc cho Tirêxiat ra sức khuyên ngăn: “Ai cũng có thể lầm lẫn, và không phải vì thế mà người điên rồ hay khốn khổ, miễn là không khăng khăng giữ lấy sai lầm. Nhưng ngang bướng là tự đày đọa thành vụng dại. Thôi, hãy nhượng bộ người chết, đừng hành hạ một tử thi. Một người chết không cần phải chết hai lần. Tôi nói vì điều tốt cho ngài. Nên nghe theo sự sáng suốt của một người bạn khi nó phục vụ lợi ích của mình”. Thế nhưng, Crêông vẫn một mực giữ lấy ý kiến của mình: “Dù thế nào ông cũng không khiến tôi thay đổi quyết định được đâu,… không bao giờ, dù cho chim phượng hoàng của thần Zơx có thích thú đem những mảnh thịt kia lên tận ngai vàng của chủ cũng không bao giờ ta run sợ đến để ta cho chôn cất cái thịt nhơ bẩn ấy”. Nhà tiên tri là người đã đự báo trước cho Crêông những tai họa để Crêông có thể sữa chữa, khắc phục. Thế mà giờ đây, ngay cả lời khuyên của ông ta cũng không có ý nghĩa gì đối với Crêông nữa. Crêông cho rằng: “Tất cả mọi người như những cung thủ, đều lấy ta làm đích để bắn”. Thử hỏi với suy nghĩ như vậy kết hợp với bản chất chuyên chế, độc đoán của giai cấp thống trị thì làm sao Crêông có thể thay đổi quyết định của mình? Với Crêông, sự rộng lượng khoan hồng, mà đặc biệt là rộng lượng khoan hồng với người mà mình cho là kẻ thù là một nỗi đau khổ: “Nhượng bộ đối với ta là một điều rất khổ tâm”. Đối với Crêông thì phải tỏ rõ quyền lực cá nhân, phải thực hiện bằng được mọi ý chí của cá nhân vô luận với hoàn cảnh nào hay bất kì đối tượng nào: “Điều hay hơn hết ta rất sợ, là đừng có thay đổi gì vào những luật lệ đã thiết lập”.
Việc không nghe theo những lời can gián, không chịu sữa chữa những sai lầm của mình đã khiến Crêông ngày càng lún sâu hơn vào tội lỗi, sai lầm chồng chất sai lầm, cuối cùng nó đẩy Crêông vào ngõ cụt của cuộc đời, nhận lấy đau khổ, mất mát, mà chính ông cũng có lúc nhận ra điều đó “nếu ta kháng cự lại, ta phải đương đầu với những đòn ghê gớm hơn của số phận”.
2.3. Crêông - hiện thân của chủ nghĩa cá nhân vị kỉ
Đi song song với một Crêông cường quyền, bạo ngược, chuyên chế, độc đoán là một Crêông với nguyên tắc sống vị kỉ, chỉ biết đến mỗi lợi ích của bản thân mình. Vì vị kỉ nên Crêông đã bất chấp sự phản kháng của thành bang, quyết thực hiện cái luật lệ mình đưa ra nhằm củng cố địa vị và quyền lực của mình. Cũng vì vị kỉ mà dù biết cái luật lệ mình đưa ra sẽ là nguyên nhân của những tấn bi kịch của đất nước: “Tai họa đe dọa thành bang Técbơ này là do lệnh cấm của ngài gây ra” và trái với quyền sống chính đáng của con người nhưng Crêông vẫn kiên quyết thực hiện nó cho kì được. Chủ nghĩa cá nhân vị kỉ này của Crêông không chỉ chà đạp lên quyền lợi của người sống mà còn xúc phạm cả người đã chết. Quyền được chôn cất sau khi chết, điều mà truyền thống nhân đạo của nhân dân, của bộ tộc hết sức coi trọng, là “luật lệ đã định sẵn” mà không ai có quyền xâm phạm, dù với tư cách gì nhưng Crêông đã vi phạm nó. Có thể nói, với cái cá nhân vị kỉ ấy là đại diện của giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Những người này đều tự coi mình là trên hết, mình là tất cả, mọi người phải phục tùng mình cũng như lệnh mà mình đưa ra một cách ngoan ngoãn. Và như thế mới là những người dân trung thành và “yêu tổ quốc”. Thử hỏi có “căn bệnh” nào lại nguy hiểm như căn bệnh này. Người cầm quyền nhẽ ra là người đại diện cho nhân dân để giải quyết những chuyện hệ trọng của quốc gia và mang lại quyền lợi cho nhân dân, đưa ra những chính sách nhằm đưa lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Thế mà ở đây, người cầm quyền lại đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, làm cho nhân dân phẫn nộ, phản kháng. Người cầm quyền mang khư khư bên mình tư tưởng vị kỉ cá nhân, hống hách, đè lên nhân dân những nỗi khổ cực khôn cùng, đưa ra những luật lệ trái với đạo lí, nguyện vọng của nhân dân. Với Crêông, việc bảo vệ quyền uy của mình là điều quan trọng hơn cả. Hắn muốn tất cả thần dân phải nhất nhất tuân theo luật pháp mà hắn đưa ra – một thứ luật pháp nhân danh nhà nước để đè nặng lên cuộc sống của con người, tước đoạt tự do của họ. Còn đối với những người dám trái lệnh mình thì hắn nhất quyết không tha dù với bất cứ lí do gì hay là bất cứ ai. Chính cái đặc điểm này của Crêông đã tạo nên một mối xung đột kịch gay gắt trong tác phẩm, đó là xung đột giữa hai nguyên tắc sống: một bên vì bản thân mình (Crêông) và một bên là vì nguyên lí của tình thương (Ăngtigôn), hay nói cách khác là sự xung đột giữa một bên là nhân vật vị kỉ - chính nó đã gây nên những tấn bi kịch của cuộc sống con người với một bên là biểu hiện của tinh thần tự do chống những thế lực muốn nô dịch và thống trị con người. Và trong cuộc xung đột gay gắt đó, Crêông đã thất bại và đến lúc đó, hắn tự nhận thức: “Chao ôi! Ta e rằng có lẽ tốt hơn hết là con người nên nghe theo những pháp luật đã định sẵn cho đến già đời mãn kiếp mà thôi”. Lúc Crêông nhận ra điều này cũng chính là lúc cái chủ nghĩa cá nhân vị kỉ nơi con người hắn bị đánh bại nhưng tiếc rằng đó là sự thất bại đã quá muộn màng.
2.4 Giá trị của hình tượng Crêông trong vở bi kịch
Hình tượng Crêông với những đặc điểm, tính cách ở trên đã đại diện cho đặc điểm, tính cách của giai cấp thống trị lúc bấy giờ, đè nặng lên cuộc sống của con người những luật lệ hà khắc, trái với đạo lí của con người. Và cũng chính ông là người đã gây ra bi kịch trong tác phẩm. Nếu không có một Crêông chuyên quyền, độc đoán, bạo ngược thì sẽ không có một Ăngtigôn đau khổ, tội nghiệp như thế. Hình tượng này cũng gợi nhiều cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà viết kịch ở các thời đại sau. Ở thế kỉ XX của chúng ta trên sân khấu, Jăng Anui và Jăng Côctô đều đã cho trình diễn những Ăngtigôn của mình để đề cập hiện thực của thời đại và “thân phận con người” trong xã hội phương Tây hiện đại – khi mà xã hội vẫn còn có “những Crêông” bạo ngược, chuyên chế, độc đoán, vị kỉ thì vẫn còn có “những Ăngtigôn” yêu cuộc sống mà vẫn phải đi vào cõi chết.
Hình tượng này cũng giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về bản chất của những người lãnh đạo đưới một nền dân chủ tiến bộ của Aten lúc bấy giờ.
2.5 Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của Xôphôclơ
“Hình tượng nghệ thuật là nơi thể hiện rõ nhất tư tưởng của một tác phẩm”. Chính vì vậy mà việc xây dựng nên một hình tượng – dù chính diện hay phản diện là một điều hết sức quan trọng, đặc biệt là trong thể loại kịch thì thể loại này lại càng quan trọng hơn vì đặc điểm của kịch đòi hỏi sự xuất hiện rất nhiều của hình tượng nghệ thuật. Có thể nói, Xôphôclơ đã rất thành công trong lĩnh vực này. Trong kịch của ông, từng hình tượng hiện lên thật sống động, đầy đủ với những đặc điểm tiêu biểu cho giai cấp, cho tầng lớp của mình. Vốn được mệnh danh là “Hôme của nghệ thuật kịch”, “là người am hiểu nghệ thuật kịch hơn ai hết”, Xôphôclơ đã để lại những cách tân lớn trong thể loại bi kịch. Những cách tân này không chỉ được thể hiện ở việc nâng số lượng đội đồng ca, phát minh ra bối cảnh sân khấu và bỏ loại hình bộ ba vở kịch liên hoàn mà nó còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. “Tôi miêu tả những con người cần phải được như vậy”, đó là lời tuyên bố của Xôphôclơ về nhân vật của ông. Chính vì vậy, Xôphôclơ đã vượt hơn vị tiền bối của mình là Esin ở nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật. Ông đi sâu vào nội tâm nhân vật để thể hiện những dằn vặt, trăn trở, đấu tranh, chọn lựa… rồi quyết định là hành động. Ở nhân vật Crêông, một mặt Xôphôclơ đã miêu tả quá trình đấu tranh của ông để cố giữ lấy những gì mình đã nói, một mặt cũng cho thấy những dằn vặt, đau khổ của ông khi chứng kiến hậu quả của những sai lầm do mình gây ra. Dưới ngòi bút của Xôphôclơ, hình tượng Crêông hiện lên với đầy đủ những đặc điểm, tính cách tiêu biểu cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ: chuyên chế, độc đoán, cường quyền, bạo ngược, vị kỉ cá nhân. Và hình tượng này càng được nổi rõ hơn trong mối xung đột giữa cái cao thượng, cái hùng với cái thấp hèn, cái bi kịch. Hình tượng Ăngtigôn đại diện cho những gì tốt đẹp, đẹp đẽ. Nàng là hiện thân của những tình cảm nhân đạo cao đẹp. Những tình cảm cao đẹp này khiến cho hành động của nàng mang tính nhân đạo sâu sắc. Chính vì vậy, trong tác phẩm nàng là hiện thân của cái cao thượng và cái hùng. Còn Crêông, với những gì đã phân tích ở trên thì ta thấy hắn đại diện cho cái thấp hèn, cái bi kịch. Cái bi tăng tiến làm nổi bật cái hùng, cái cao thượng. Ngược lại, cái hùng, cái cao thượng làm tăng tính bi kịch. Và đây cũng là điểm nghệ thuật thành công nhất của Xôphôclơ. Trong các tác phẩm của mình, ông đã xây dựng nên rất nhiều hình tượng tiêu biểu mà những hình tượng này qua bàn tay “lão luyện” của Xôphôclơ đã sống mãi trong lòng người đọc bao thế hệ.
C. PHẦN KẾT THÚC
Sepnưxepxki đã từng nói: “Cái đẹp là cuộc sống”. Đúng vậy, cuộc sống nếu thiếu đi cái đẹp thì sẽ không còn là cuộc sống theo đúng nghĩa của nó. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Cuộc sống không chỉ có cái đẹp mà bên cạnh đó là những mặt trái của nó – đó là những cái xấu. Nếu trong cuộc sống, cái đẹp chi phối, điều hoà, hạn chế được cái xấu thì cuộc sống sẽ phát triển theo đúng tiến trình của nó, còn nếu như cái đẹp và cái xấu mâu thuẫn với nhau thì nó sẽ xảy ra bi kịch. Chiếu rọi vào trong tác phẩm Ăngtigôn của Xôphôclơ, ta thấy bi kịch trong tác phẩm thực chất là mối xung đột giữa hai nguyên tắc sống “xấu và đẹp” và người gây ra bi kịch này không ai khác chính là Crêông. Và cũng trên cơ sở tương phản này của hai mặt tính cách nhân vật mà Ăngđrê Bonna cho rằng Ăngtigôn là tự do, còn Crêông là định mệnh. Cái định mệnh của Crêông là do cái bạo ngược, chuyên chế, độc đoán, vị kỉ nơi con người ông gây ra. Cuối cùng trong cuộc xung đột không sao hoà hoãn được ấy, Crêông đã thất bại. Thất bại của Crêông là thất bại của cái xấu, cái bi trước cái đẹp, cái hùng. Đó chính là giá trị lớn nhất mà hình tượng Crêông mang lại cho người đọc. Có thể nói rằng, hình tượng Crêông là một thành công lớn của Xôphôclơ về lĩnh vực xây dựng hình tượng bi kịch bởi hình tượng đó “ vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát, làm bộc lộ được bản chất của một loại người theo quan niệm của người nghệ sĩ”. Đúng như Arixtốt đã nói trong cuốn thi pháp học: “nhân vật trong bi kịch phải có tính cách nổi nét về bản chất”.
Bi kịch của Xôphôclơ bao hàm một nội dung nhân văn cao cả, mãi mãi toả ánh sáng rực rỡ trong kho tàng văn chương nhân loại vì “tất cả những gì có dín líu tới con người ta không thể nào lại thờ ơ được”. Văn học phải đi vào lòng cuộc đời, nhà văn phải sống với nỗi đau đích thực của con người. Và phải chăng, một nhà văn chân chính muốn cầm vững cây bút trong tay nên trở về bi kịch Hi Lạp, đến với Xôphôclơ để học hỏi những điều đó?...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách:
1. Lê Nguyên Cẩn (tuyển chọn và giới thiệu), Hợp tuyển văn học Châu Âu,
tập 1, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000
2. Lê Bá Hán (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1999
3. Hoàng Ngọc Hiến (chủ biên), Văn học gần và xa, Nxb Giáo dục, 2003
4. Lưu Đức Trung (chủ biên), Giáo trình văn học thế giới, Nxb ĐHSP, 2007
5. Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam (chủ biên), Văn học Phương Tây, Nxb Giáo dục, 2007
6. Hoàng Trinh (giới thiệu), Nguyễn Giang (dịch), Kịch Xôphôclơ, Nxb Văn học, 1985
Tạp chí:
1. Văn học và tuổi trẻ
2. Ngôn ngữ và đời sống
3. Non nước
Internet
1. www. Google.com
2. www. Thivien.net
3. www. Violet.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hình tượng nhân vật creong.doc