Luận án dài 176 trang gồm 3 chương, 16 mục: Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế nhiều thành phần được quản lý theo cơ chế thị trường, các nhà kinh doanh có nhiều mối quan hệ kinh tế, thương mại với nhau. Khi thực hiện các mối quan hệ đó, các nhà kinh doanh thường hợp tác chặt chẽ, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Tuy vậy, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, giữa các nhà kinh doanh cũng có khi phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi và tranh chấp về kinh tế, thương mại. Nhà nước, xã hội, nhất là các doanh nghiệp luôn luôn có một đòi hỏi bức xúc là những tranh chấp kinh tế này phải được giải quyết một cách nhanh gọn, có hiệu quả và ít tốn kém.
Xuất phát từ thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, như: thương lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục trọng tài, giải quyết theo thủ tục tư pháp. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp theo phương thức hòa giải (hòa giải ngoài tố tụng cũng như hòa giải trong tố tụng) có nhiều ưu điểm và được áp dụng phổ biến trên thế giới.
Ở Việt Nam, chế định hòa giải đã được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Chế định hòa giải trong tố tụng kinh tế ra đời có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử hình thành và tồn tại của chế định hòa giải trong tố tụng tư pháp nói chung.
Chế định hòa giải có ý nghĩa nhiều mặt, vì nó không những góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đang có tranh chấp kinh tế, của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp, mà còn bảo đảm cả lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
Hòa giải thành có tác dụng làm cho các bên tranh chấp tự nguyện, tự giác thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ, tránh việc phải sử dụng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước trong quá trình thi hành án. Đồng thời, vụ việc tranh chấp cũng không phải xử đi xử lại nhiều lần, giảm bớt tốn kém về nhiều mặt của các bên.
Kết quả của việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế cho thấy hầu hết các Tòa Kinh tế, từ khi được thành lập đến nay, đã đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Tòa án ở các địa phương đã vận dụng rộng rãi phương thức hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế, giảm đáng kể số vụ tranh chấp phải đưa ra xét xử.
Tuy nhiên, trong quá trình hòa giải tranh chấp kinh tế, Tòa án ở một số địa phương còn mắc phải những sai sót đáng tiếc về nội dung và hình thức hòa giải. Do đó, một số quyết định công nhận hòa giải thành của một số Tòa án đã bị Tòa án hoặc Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị và bị sửa đổi hoặc bị hủy. Điều đó ảnh hưởng xấu đến việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện về mặt lý luận cũng như thực tiễn chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại không những mang tính thời sự đối với ngành Tòa án mà còn đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng của Tòa án ở Việt Nam.
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền cũng đang soạn thảo Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) dùng chung cho cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hôn nhân và gia đình.
Tuy có nhiều quy định cụ thể và đầy đủ hơn những quy định hiện hành về tố tụng dân sự, kinh tế và lao động . nhưng các quy định của Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng vẫn còn có những quy định chồng chéo, chưa đầy đủ và chưa cụ thể, cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thêm trước khi trình Quốc hội thông qua.
Tác giả luận án đã nghiên cứu kỹ các quy định của Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự và trong luận án đã mạnh dạn nêu ra một số đánh giá, nhận xét về bản Dự thảo và đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện bản Dự thảo Bộ luật tố tụng Dân sự này.
Trên cơ sở những điều vừa trình bày ở trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam" để làm đề tài luận án Tiến sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy hòa giải là một chế định quan trọng trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế tại Tòa án, nhưng từ trước đến nay, khoa học pháp lý ở Việt Nam còn có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án là: Giáo trình Luật Kinh tế (2000) của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam (2001) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài "Các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam" thuộc Dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp; Luận văn thạc sĩ của Đào Văn Hội (1996) về đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án"; Luận văn thạc sĩ của Trương Kim Oanh nghiên cứu về hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam. Bản thân tác giả luận án cũng đã hoàn thành luận văn cao học luật của mình với đề tài "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế" năm 1997.
Tuy vậy, tất cả những công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án từ góc độ luật thực định nên chưa nghiên cứu chế định này một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống. Các công trình đó cũng chưa có những đề xuất, kiến nghị một cách tổng thể, đầy đủ và cụ thể về việc hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng kinh tế ở Việt Nam.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu chế định hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc hòa giải, tránh để xảy ra những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án và làm phong phú thêm lý luận về giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống các quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này tại Tòa án, làm rõ bản chất của thủ tục hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước ta.
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế.
- Nhận xét, đánh giá và nêu phương hướng cũng như một số biện pháp cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế và việc áp dụng các quy định này tại Tòa án nước ta.
Luận án có đề cập việc hòa giải có hòa giải viên (tức là hòa giải ngoài tố tụng) và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục trọng tài, nhưng không đi sâu vào vấn đề này.
Luận án cũng có đề cập việc hòa giải theo thủ tục trọng tài và theo thủ tục tư pháp ở một số nước trên thế giới, nhưng chỉ là để đối chiếu, so sánh khi cần thiết, chứ không đi sâu vào lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả luận án sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu. Chẳng hạn, phương pháp lịch sử đã được tác giả sử dụng để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong pháp luật nước ta; phương pháp mô hình hóa cũng được tác giả luận án sử dụng để trình bày cơ chế giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng thủ tục hòa giải.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Có thể nói, luận án này là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ tiến sĩ đầu tiên ở nước ta nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế định hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án là:
- Luận giải những vấn đề lý luận về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án ở Việt Nam.
- Làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục hòa giải và hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại Tòa án.
- Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nước ta về hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Luận án này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp kinh tế tại Tòa án cũng như trong việc giảng dạy, nghiên cứu về chế định hòa giải các tranh chấp kinh tế theo thủ tục tư pháp ở Việt Nam.
183 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6126 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lĩnh vực hòa giải các tranh chấp kinh tế, có thể thấy: về cơ bản, hoạt động hòa giải của Tòa án các cấp trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước ta trong những năm vừa qua đã tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu của việc quản lý, điều hành nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động hòa giải của Tòa án các cấp trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, tranh chấp thương mại đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, của các nhà kinh doanh, góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật, giữ gìn được sự ổn định và phát triển của các quan hệ kinh tế, phát huy được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, tranh chấp thương mại.
Hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh tế của Tòa án trong những năm vừa qua cũng đã đáp ứng được yêu cầu của việc nâng cao tính dân chủ trong hoạt động tố tụng, bảo đảm được việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án kinh tế khi các đương sự yêu cầu Tòa án can thiệp giải quyết.
Hoạt động hòa giải của Tòa án còn có tác dụng góp phần vào sự nâng cao hiểu biết pháp luật cho các nhà doanh nghiệp, ngăn ngừa, hạn chế sự vi phạm pháp luật, giảm bớt và tiết kiệm được một khoản không nhỏ kinh phí và thời gian, công sức của các đương sự và của Tòa án.
Bên cạnh những thành công, kết quả đã đạt được trong những năm qua, quá trình áp dụng thủ tục hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế vẫn còn một số vướng mắc, nhược điểm cần nhận thức rõ và khắc phục, để hoàn thiện hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh tế, giảm thiểu đến mức tối đa những thiệt hại, mất mát của các doanh nghiệp, của các nhà kinh doanh cũng như của Nhà nước, nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong những năm vừa qua, số lượng các vụ án kinh tế giảm đáng kể so với các tranh chấp kinh tế được đưa ra giải quyết tại Trọng tài Kinh tế trong thời kỳ hành chính, quan liêu, bao cấp trước đây ở nước ta. Nguyên nhân của tình hình này là do các doanh nghiệp trong cả nước chưa quen với việc kiện tụng nhau tại Tòa án. Các doanh nghiệp sợ bị mất uy tín trên thương trường ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và sợ phải nộp án phí cao. Vì vậy trong những năm vừa qua, xu hướng chung là khi có tranh chấp kinh tế, thương mại, các doanh nghiệp thường tự thương lượng với nhau cho vụ tranh chấp sớm được kết thúc.
Ngoài ra, một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế còn sơ lược, đơn giản, chưa đầy đủ, chưa phù hợp với thực tiễn, nên gây trở ngại cho các doanh nghiệp khi họ muốn yêu cầu Tòa Kinh tế giải quyết các tranh chấp kinh tế của họ. Nhiều quy định còn chưa đồng bộ, thiếu sự hướng dẫn, giải thích cặn kẽ, kịp thời của Tòa án nhân dân tối cao, nên các Tòa án giải quyết các tranh chấp kinh tế theo thủ tục hòa giải còn chưa nhất quán, còn có thiếu sót và sai lầm.
Trong nền kinh tế đang chuyển đổi từ cơ chế hành chính, kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần với cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, sự phát sinh các tranh chấp kinh tế, thương mại là điều khó tránh khỏi. Tính chất của các quan hệ sản xuất mới tất yếu dẫn đến sự phát sinh các quan hệ của nền kinh tế thị trường. Các quan hệ kinh tế, thương mại trở nên sống động, đa dạng và phức tạp. Mục đích của các nhà doanh nghiệp trong việc tìm kiếm lợi nhuận đã trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy các nhà kinh doanh xây dựng và phát triển các quan hệ kinh tế. Điều đó đã làm phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp kinh tế có liên quan đến nhiều chủ thể và sự liên đới về các trái vụ ngày càng diễn ra phức tạp.
Về mặt không gian, các quan hệ kinh tế đó còn vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Do vậy, việc hội nhập và tương thích với các định chế quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại trở thành nhu cầu tất yếu. Đời sống kinh tế sôi động của đất nước đòi hỏi Nhà nước ta phải kịp thời hoàn thiện những quy định về thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế nói chung và các quy định về hòa giải các tranh chấp kinh tế nói riêng, để tạo cơ hội cho các nhà đầu tư lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế một cách hợp lý, thích hợp, bảo đảm nguyên tắc tự do kinh doanh, tự chủ, tự quyết của các nhà kinh doanh.
Sự phân tích, nghiên cứu những kết quả của công tác hòa giải các tranh chấp kinh tế trong những năm vừa qua cho thấy hòa giải là một phương thức quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế. Thực tế đã chứng minh rằng, các nhà doanh nghiệp đã và đang sử dụng phương thức hòa giải ngày càng rộng rãi để giải quyết các tranh chấp kinh tế của mình một cách nhanh gọn, ít tốn kém và có hiệu quả hơn.
Tuy vậy, có nơi, có lúc, với các quy định hiện hành, vẫn còn có Thẩm phán, Thư ký Tòa án hoặc Hội đồng xét xử vẫn chưa thể hiện tốt vai trò trung gian hòa giải các tranh chấp kinh tế của mình.
Thực tiễn cuộc sống kinh tế cũng như những yêu cầu mới to lớn của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi các nhà làm luật, các cơ quan tư pháp cũng như các cơ quan có thẩm quyền khác phải khẩn trương có những biện pháp dứt khoát, cụ thể, thiết thực để hoàn thiện việc tổ chức và hoạt động của Tòa án, nâng cao trình độ, năng lực của các Thẩm phán, Thư ký Tòa án cũng như của Hội đồng xét xử trong việc giải quyết các vụ án kinh tế nói chung và hòa giải các tranh chấp kinh tế nói riêng.
Các nhà làm luật cũng như các cơ quan có thẩm quyền cần kịp thời tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật một cách căn bản, có hệ thống, để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với những quy định liên quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế nói chung và hòa giải các tranh chấp kinh tế nói riêng. Có như vậy thì mới tạo ra hệ thống các văn bản pháp luật đầy đủ, thống nhất về giải quyết các tranh chấp kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các Tòa án tiến hành việc hòa giải các tranh chấp kinh tế, thương mại ngày càng có hiệu quả hơn.
Trên cơ sở những lập luận ở trên, có thể nêu ra phương hướng chung cho việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng thủ tục hòa giải như sau:
3.1.1. Hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và xác định thẩm quyền cụ thể, đầy đủ của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế
Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao tổng kết công tác của ngành Tòa án năm 2001 và phương hướng, nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2002 đã xác định rõ:
Trong công tác giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, tranh chấp lao động, kinh tế và hành chính phải đảm bảo áp dụng đúng pháp luật, chấp hành nghiêm túc, đầy đủ và đúng đắn các thủ tục tố tụng. Đặc biệt, phải quan tâm đẩy mạnh tiến độ giải quyết vụ án đúng thời hạn pháp luật quy định, hạn chế đến mức thấp nhất việc giải quyết chậm trễ, kéo dài các loại vụ án này [47, tr. 50]
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII cũng như Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã khẳng định việc tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, trong đó chú trọng việc cải cách thủ tục tố tụng. Các nghị quyết này cũng đã chỉ rõ rằng: Tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn Tòa án nhân dân địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật [13, tr. 57].
Theo sự phân định thẩm quyền xét xử như hiện nay, Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ giải quyết các tranh chấp kinh tế có giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng và không có yếu tố nước ngoài. Tòa Kinh tế thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết những tranh chấp kinh tế có giá trị tranh chấp từ 50 triệu đồng trở lên hoặc có yếu tố nước ngoài. Trong khi đó, hầu như tất cả các tranh chấp kinh tế đều có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên. Điều đó làm cho Tòa án cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao đã và đang phải tập trung phần lớn thời gian, công sức vào việc xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế và xét xử phúc thẩm các vụ án khác, không còn thời gian và sức lực làm tốt các công tác quan trọng mà pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án đã quy định.
Theo pháp luật hiện hành, Tòa Kinh tế thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn được giao xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tất cả các vụ tranh chấp kinh tế. Trong khi đó, số lượng Thẩm phán của Tòa Kinh tế rất thiếu, nên Thẩm phán của các Tòa khác phải xét xử cả nhiều vụ án kinh tế.
Do các Thẩm phán không chuyên về xét xử kinh tế, hoặc do có quá ít thời gian để nghiên cứu hồ sơ, nên khi tiến hành hòa giải, có Thẩm phán không nắm vững các tình tiết của vụ tranh chấp, không đủ lý lẽ và lập luận, không thuyết phục được các bên đi đến thỏa thuận...
3.1.2. Nâng cao trình độ, kiến thức của Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội thẩm nhân dân
Trong hoạt động của Tòa án nói chung, của Tòa Kinh tế nói riêng, người Thẩm phán giữ một vai trò quyết định đến hiệu quả của công tác hòa giải các tranh chấp kinh tế. Trong khi đó, việc giải quyết các tranh chấp kinh tế vẫn luôn là một nhiệm vụ mới, to lớn và đầy khó khăn đối với ngành Tòa án.
Do đó, ngoài việc phải nắm vững nội dung pháp luật kinh tế, các Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội thẩm nhân dân được phân công giải quyết các vụ án kinh tế phải được nâng cao trình độ và trang bị những kiến thức về các lĩnh vực kinh tế, xây dựng, thương mại, bảo hiểm, hàng hải, ngân hàng, khoa học kỹ thuật...
Các Thẩm phán giải quyết các tranh chấp kinh tế phải được tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn hoặc dài hạn về các lĩnh vực kinh tế, xây dựng, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hàng hải... Họ cũng cần thường xuyên duy trì các mối quan hệ mật thiết với các cơ quan chức năng để tìm hiểu, trao đổi nghiệp vụ, nắm bắt những thông tin mới cần thiết cho quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Có như vậy thì việc giải quyết các tranh chấp kinh tế của các Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội thẩm nhân dân mới không khỏi bỡ ngỡ, lúng túng, mới hòa giải các tranh chấp kinh tế một cách "thấu tình, đạt lý".
Để nâng cao chất lượng giải quyết các tranh chấp kinh tế nói chung và công tác hòa giải nói riêng, còn cần phải bảo đảm có đủ số lượng Thẩm phán cần thiết để đào tạo các Thẩm phán theo hướng chuyên môn hóa trong từng lĩnh vực, thí dụ như Thẩm phán hình sự, Thẩm phán kinh tế, Thẩm phán dân sự, Thẩm phán hành chính... Có như vậy thì Tòa án mới có các Thẩm phán giỏi trong từng lĩnh vực. Có như vậy mới khắc phục được thực trạng hiện nay là ở một số Tòa án địa phương, do thiếu Thẩm phán và các vụ án kinh tế có ít, nên nhiều khi Thẩm phán Tòa Hình sự lại xét xử vụ án kinh tế, hoặc Thẩm phán Tòa Kinh tế lại thường xuyên xét xử các vụ án dân sự, hình sự... Việc kiêm nhiệm như vậy làm cho chất lượng giải quyết các vụ án không cao, các Thẩm phán cũng không nâng cao được trình độ nghiệp vụ chuyên môn của mình.
Từ trước tới nay, một số người vẫn có quan điểm cho rằng việc Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình tố tụng và góp phần nâng cao hiệu quả của công tác hòa giải.
Tại phiên tòa sơ thẩm, có thể có trường hợp Hội đồng xét xử quyết định cho các bên tiến hành hòa giải. Lúc này, Hội thẩm nhân dân sẽ phát huy vai trò của mình, nếu họ hiểu được tâm tư, nguyện vọng của các đương sự, có kinh nghiệm nghề nghiệp giống như các đương sự, thì họ sẽ có khả năng cùng với Thẩm phán thuyết phục, hướng dẫn các đương sự đi đến thỏa thuận một cách nhanh hơn, có hiệu quả hơn.
Tuy vậy, hiện nay, trình độ, kiến thức về các lĩnh vực của hội Thẩm nhân dân còn nhiều hạn chế và bất cập. Do đó, để góp phần đổi mới hoạt động tư pháp nói chung và đổi mới hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh tế nói riêng, trước mắt, Hội thẩm nhân dân cũng cần được đào tạo và hoàn thiện về trình độ pháp luật, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn xét xử các tranh chấp kinh tế.
Nếu Hội thẩm nhân dân tham gia vào việc xét xử các tranh chấp kinh tế, ngoài việc bảo đảm các tiêu chuẩn chung do pháp luật quy định, còn là các nhà kinh doanh, làm kinh tế, thương mại... thì họ còn cần hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của các đương sự tham gia các vụ tranh chấp kinh tế. Nếu họ có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động quản lý kinh tế hoặc tham gia điều hành sản xuất kinh doanh, thì khi hòa giải các tranh chấp kinh tế, họ sẽ dễ dàng đưa ra được các lý lẽ có sức thuyết phục, phù hợp với suy nghĩ của các đương sự hơn, làm cho buổi hòa giải sớm đạt được kết quả mong muốn.
Điều 17 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân. Có thể thấy rằng, quy định này đã thể hiện một sự cải tiến theo chiều hướng nâng cao chất lượng xét xử, nếu so sánh với thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, lao động và hình sự; bởi vì thành phần của Hội động xét xử ở các phiên tòa sơ thẩm dân sự, lao động và hình sự (tội nhẹ) chỉ có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân.
Trong khi các Thẩm phán được đào tạo có hệ thống về kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử thì Hội thẩm nhân dân lại thường chỉ là những công dân hoạt động trong các ngành nghề khác, ít người được đào tạo về pháp luật và nghiệp vụ xét xử. Tuy vậy, pháp luật hiện hành lại quy định rằng: Trong khi xét xử, Hội thẩm nhân dân lại ngang quyền với thẩm phán. Mặt khác, khi nghị án, Hội đồng xét xử lại quyết định theo đa số.
Vì vậy, có thể dễ dàng thấy rằng, nếu các Hội thẩm nhân dân không được đào tạo về kiến thức pháp luật, quản lý kinh tế, khoa học - kỹ thuật và nghiệp vụ xét xử thì có thể dẫn đến việc Hội đồng xét xử ra các phán quyết không chính xác, không đúng pháp luật. Khi Hội đồng xét xử gồm Hai thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân, thì khả năng xét xử sai pháp luật, không chính xác sẽ được giảm đi một cách đáng kể.
Tác giả luận án cho rằng, về lâu về dài thành phần Hội đồng xét xử không nên có Hội thẩm nhân dân mà chỉ nên gồm toàn các Thẩm phán được đào tạo một cách có hệ thống, có trình độ kiến thức pháp luật và nghiệp vụ chuyên môn cao, có kinh nghiệm xét xử... để bảo đảm chất lượng xét xử các tranh chấp kinh tế ngày càng được nâng cao.
3.1.3. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải các tranh chấp kinh tế
Như đã đề cập đến trong chương 1 và 2, các quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành về hòa giải các tranh chấp kinh tế tại Tòa án còn rất ít và không đầy đủ. Một hoạt động, một thủ tục tư pháp có thể đem lại rất nhiều lợi ích cho các bên đang có tranh chấp cũng như cho Nhà nước và xã hội là hòa giải các tranh chấp kinh tế nhưng chưa được các nhà lập pháp coi trọng, nên mới chỉ quy định hết sức sơ lược và không đầy đủ trong các văn bản pháp luật hiện hành. Trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế chỉ có hai điều quy định về hòa giải. Cụ thể là:
Điều 5: "Trách nhiệm hòa giải của Tòa án".
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án".
Điều 36: "Hòa giải.
1. Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
2. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt khi hòa giải.
3. Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp các đương sự không thể thỏa thuận với nhau được, thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử".
Những quy định như trên là quá sơ sài và đơn giản. Còn rất nhiều vấn đề chưa được đề cập và quy định đầy đủ để tạo một cơ sở pháp lý thống nhất cho các Tòa án thực hiện quá trình hòa giải các vụ tranh chấp kinh tế. Tác giả luận án chia sẻ quan niệm cho rằng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế "còn nhiều sơ sài, bố cục còn lỏng lẻo. Về mặt nội dung còn thiếu nhiều quy định quan trọng. Các quy định còn nhiều sơ hở làm cho việc vận dụng trong thực tế gặp nhiều khó khăn... vẫn chưa giải quyết được dứt điểm các vấn đề then chốt như thời hiệu khởi kiện, thủ tục hòa giải và hiệu lực của các quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, về thủ tục thụ lý vụ án" [34, tr. 148].
Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, một số Tòa án đã lúng túng trong việc thực hiện thủ tục hòa giải một số vụ án kinh tế. Một số Tòa án khác thực hiện quá trình hòa giải có nhiều sai sót, khiếm khuyết, nên không phát huy được những ưu việt của thủ tục hòa giải các tranh chấp kinh tế.
Tác giả luận án cho rằng, các nhà làm luật cần quán triệt sâu sắc hơn tính chất, vị trí, vai trò của thủ tục hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, để có kế hoạch sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành cũng như trong việc xây dựng các đạo luật mới về tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế làm cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế theo thủ tục hòa giải.
Dự thảo BLTTDS đã có nhiều điều khoản và dành hẳn một chương (Chương XII, từ Điều 213 đến Điều 225) quy định về hòa giải các tranh chấp dân sự, kinh tế... Đó là một sự tiến bộ và hoàn thiện vượt bậc so với các quy định về hòa giải các tranh chấp kinh tế trong các văn bản pháp luật hiện hành. Tuy vậy, tác giả luận án cho rằng các quy định đó của Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự vẫn còn chứa đựng một số quy định chưa hợp lý, chưa đầy đủ, chưa cụ thể, chưa đáp ứng được yêu cầu của việc Tòa án hòa giải các tranh chấp kinh tế một cách có hiệu quả nhất. Tác giả luận án xin nêu một số quan điểm của mình về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải các tranh chấp kinh tế như sau:
3.1.3.1. Pháp luật cần quy định cụ thể hơn các vấn đề về hòa giải và liên quan đến hòa giải các tranh chấp kinh tế tại Tòa án
Một điểm mà ai cũng có thể nhận thấy rõ ràng khi đề cập các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải các tranh chấp kinh tế là các quy định hiện hành còn quá chung chung, không cụ thể, không rõ ràng, làm cho các Thẩm phán, Thư ký Tòa án hoặc Hội đồng xét xử rất khó hiểu rõ, khó nắm vững và khó áp dụng đúng các quy định về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Có thể nêu ra một loạt các điều bất cập, chung chung và không cụ thể như sau:
Điều 5 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: "Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án".
Nhưng cần phải hiểu điều này như thế nào cho đúng và đầy đủ? "Trong quá trình giải quyết vụ án" là những giai đoạn nào? có giai đoạn trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử không hay là chỉ từ khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử? Tòa án chỉ tiến hành hòa giải vụ tranh chấp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hay cả trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm ?
Pháp luật muốn đi vào cuộc sống, muốn được các tổ chức và công dân thi hành một cách thống nhất, không có sai sót, không có khiếm khuyết, thì cần phải được các nhà làm luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng, không đa nghĩa và ai cũng có thể hiểu được và thi hành được.
3.1.3.2. Cần xây dựng thêm một số quy định về hòa giải trong nội dung Bộ luật tố tụng dân sự (dùng cho cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hôn nhân và gia đình)
Từ góc độ nghiên cứu, đã có một luận án tiến sĩ luật học đề cập và nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành Bộ luật Tố tụng về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình [34, tr. 45-50]. Tác giả luận án hoàn toàn chia sẻ quan điểm của nhiều tác giả và chủ trương của Nhà nước ta về việc cần xây dựng một Bộ luật tố tụng áp dụng chung cho cả tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động và tố tụng hôn nhân và gia đình như vậy.
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền (chịu trách nhiệm chính là Tòa án nhân dân tối cao) đang soạn thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự dùng chung cho cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao động và tố tụng hôn nhân và gia đình. Bản dự thảo mới nhất của Bộ luật này là bản dự thảo lần thứ tám. Nội dung của Chương XII "HÒA GIẢI" trong dự thảo Bộ luật này đã thể hiện sự cải tiến thủ tục và hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự [48, tr. 69-72].
Qua sự nghiên cứu và phân tích một số quy định của bản dự thảo này đã được trình bày ở những phần trên, tác giả luận án đề nghị cần xây dựng thêm một số chế định về hòa giải trong tố tụng kinh tế trong nội dung của Bộ luật tố tụng dân sự nói trên. Tác giả luận án cho rằng, việc xây dựng được một chế định hòa giải trong tố tụng tại tòa án hoàn chỉnh trong một văn bản có giá trị pháp lý cao là Bộ luật Tố tụng Dân sự sẽ góp phần phát huy vai trò, tác dụng và nâng cao hiệu quả của phương thức hòa giải các tranh chấp kinh tế, thương mại.
3.2. NHỮNG KIẾN NGHỊ CỤ THỂ VỀ VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI TÒA ÁN
Về việc hoàn thiện các quy định về hòa giải các tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án, tôi xin đề xuất một số kiến nghị cụ thể như sau.
3.2.1. Về cách thức trình bày các quy định về hòa giải trong Bộ luật Tố tụng Dân sự
Theo chúng tôi, các quy định về hòa giải nên được trình bày trong 2 chương của Bộ luật Tố tụng Dân sự, trong chương Những nguyên tắc chung về hòa giải và trong một chương riêng về Hòa giải trong tố tụng dân sự - kinh tế - lao động. Trong chương Những nguyên tắc chung cần xác định những vấn đề có tính nguyên tắc về hòa giải:
- Trong quá trình giải quyết vụ kiện dân sự tại Tòa án các đương sự có quyền tự hòa giải với nhau về việc giải quyết tranh chấp.
- Hòa giải được tiến hành trong mọi giai đoạn tố tụng dân sự.
- Trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự. Cụ thể là, trong quá trình giải quyết vụ kiện dân sự, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Trường hợp không triệu tập được đương sự thì Tòa án không tiến hành hòa giải. Đối với trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải thì Tòa án không được tiến hành hòa giải.
Cần có một chương dành riêng quy định về hòa giải trong Bộ luật Tố tụng dân sự vì việc hòa giải được tiến hành trong mọi giai đoạn tố tụng nên không thể đưa những quy định này vào một chương đề cập một giai đoạn tố tụng nào đó (chẳng hạn, giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm...). Để khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong các quy định hiện hành về hòa giải cần có những quy định cụ thể, rõ ràng về chế định pháp luật quan trọng này. Các quy định về hòa giải nên được xếp vào một số mục. Chẳng hạn, mục 1 đưa ra những quy định chung về hòa giải trong tố tụng dân sự; mục 2 xác định nguyên tắc cần tuân thủ khi tiến hành hòa giải và quy định cụ thể về thủ tục tiến hành hòa giải; mục 3 đề cập hình thức văn bản công nhận thỏa thuận giữa các đương sự.
Tại mục 1 cần xác định rõ những vụ việc dân sự không được hòa giải như yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu trong trường hợp bị pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội. Bên cạnh việc xác định những vụ việc dân sự không được hòa giải cần xác định những vụ việc dân sự không bắt buộc hòa giải.
Những vụ việc không bắt buộc phải hòa giải có nghĩa là những vụ việc Tòa án không có trách nhiệm bắt buộc phải hòa giải. Đối với những vụ việc này nếu Tòa án không tiến hành hòa giải thì không bị coi là vi phạm pháp luật tố tụng. Tòa án không bắt buộc phải tiến hành hòa giải nhưng lại có quyền có thể tiến hành hòa giải nếu các đương sự thể hiện mong muốn được tự thương lượng, hòa giải với nhau.
Để nguyên tắc tự định đoạt của đương sự được thể hiện một cách nhất quán, triệt để, theo tôi, chúng ta có thể đưa vào Bộ luật Tố tụng Dân sự cả quy định ngoại lệ. Chẳng hạn, trong trường hợp các đương sự hoàn toàn tự nguyện, Tòa án có thể tiến hành hòa giải giữa họ về việc thực hiện nghĩa vụ cụ thể phát sinh từ vụ việc không được hòa giải (thí dụ, các đương sự tự nguyện thương lượng về phương thức hoàn trả tài sản cho nhau trong trường hợp giao dịch bị tuyên bố vô hiệu).
Trong thực tiễn xảy ra cả những trường hợp bị đơn đã được triệu tập đến dự phiên họp hòa giải nhưng cố tình vắng mặt hoặc đương sự (có thể là nguyên đơn, có thể là bị đơn) không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng (ốm nặng, bị tai nạn hoặc gặp những trở ngại không thể vượt qua...). Trong những trường hợp đó pháp luật cần ghi nhận quyền của thẩm phán lập biên bản xác định vụ việc không thể tiến hành hòa giải được để làm cơ sở ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
3.2.2 Cần có các điều khoản quy định về việc thụ lý đơn khởi kiện tranh chấp kinh tế trong Bộ luật Tố tụng Dân sự
Pháp luật hiện hành không có các quy định cụ thể và đầy đủ về thủ tục thụ lý đơn kiện tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp kinh tế nói riêng. Điều đó đã gây ra không ít những trục trặc, lúng túng và lầm lẫn khi thụ lý các đơn đề nghị giải quyết tranh chấp kinh tế. Chúng tôi cho rằng, pháp luật về tố tụng dân sự, kinh tế cần có những quy định về việc Thẩm phán, Thư ký Tòa án thụ lý đơn của đương sự phải kiểm tra đơn và các dữ kiện cần thiết, bảo đảm rằng việc khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đúng pháp luật, đưa đơn đúng Tòa án có thẩm quyền và những yêu sách của nguyên đơn là chính đáng.
Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự đã có một số điều khoản đề cập đến thủ tục thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn trong các vụ án dân sự nói riêng và trong các vụ án kinh tế nói riêng. Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự quy định:
Thư ký Tòa án có thể được phân công làm các nhiệm vụ sau đây:
a) Tiếp nhận đơn kiện, đơn yêu cầu, khiếu nại dân sự;
b) Làm thủ tục thụ lý vụ kiện.
Những quy định của Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự đã đề cập một cách khá đầy đủ và chi tiết thủ tục nhận đơn khởi kiện và thủ tục thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn; cụ thể là:
1. Trong trường hợp người khởi kiện trực tiếp nộp đơn tại Tòa án, Tòa án phải nhận đơn để xem xét. Nếu vụ kiện thuộc đúng thẩm quyền, thì Tòa án làm thủ tục thụ lý đơn kiện. Nếu vụ kiện không đúng thẩm quyền, thì phải giải thích để người khởi kiện gửi, nộp đơn tới cơ quan hay Tòa án có thẩm quyền.
2. Trong trường hợp đơn khởi kiện... được gửi qua đường bưu điện, Tòa án phải kiểm tra đơn... và phải thực hiện một trong những việc sau đây:
a) Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền thì làm thủ tục thụ lý;
b) Nếu vụ kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án khác, thì chuyển đơn khởi kiện...cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện... biết;
c) Nếu vụ kiện không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì trả lại đơn kiện cho người khởi kiện...
Về việc Tòa án trả lại đơn kiện;
Về Thủ tục thụ lý đơn khởi kiện.
Chúng tôi thấy rằng, những quy định như trên của Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự đã thể hiện một sự hoàn thiện đáng kể các quy định về thụ lý đơn kiện tranh chấp kinh tế, tạo những tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, nhất là cho việc hòa giải các tranh chấp này.
Tuy vậy, tác giả luận án cho rằng, những điều khoản trên vẫn chưa quy định đầy đủ những công việc mà Thẩm phán, Thư ký Tòa án cần làm khi thụ lý đơn kiện của nguyên đơn. Chúng tôi thấy rằng, Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn cần kiểm tra căn cứ pháp lý của đơn kiện, phải kiểm tra xem yêu cầu của nguyên đơn có trái pháp luật không.
3.2.3. Cần có các điều khoản trong Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định về các giai đoạn Tòa án tiến hành hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế
Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự đã có hẳn một chương quy định về hòa giải các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động... Tuy có nhiều điều khoản quy định những vấn đề quan trọng nhất về thủ tục hòa giải, nhưng có một số vấn đề cũng khá quan trọng lại chưa được dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định; thí dụ như quy định về những giai đoạn mà thẩm phán, cán bộ Tòa án hoặc Hội đồng xét xử có thể tiến hành hòa giải tranh chấp kinh tế.
Tác giả luận án thấy rằng, có thể quy định một cách khái quát như sau: "Thẩm phán, Thư ký Tòa án hoặc Hội đồng xét xử có thể tiến hành việc hòa giải tranh chấp giữa các đương sự vào bất cứ lúc nào nếu thấy có khả năng hòa giải trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp kinh tế".
Cũng có thể có những điều khoản trong Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định một cách cụ thể hơn, rằng: Khi giải quyết tranh chấp kinh tế, Tòa án có thể hòa giải các đương sự ở những giai đoạn như sau:
- Sau khi thụ lý đơn của nguyên đơn;
- Trước khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử;
- Trong giai đoạn thẩm vấn và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm;
- Trong giai đoạn từ khi có bản án sơ thẩm đến khi Tòa phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử;
- Trong giai đoạn thẩm vấn và tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm;
- Trong giai đoạn thẩm vấn và tranh luận tại phiên tòa tái thẩm.
3.2.4. Cần quy định về các nguyên tắc trong việc Tòa án hòa giải tranh chấp kinh tế trong Bộ luật Tố tụng Dân sự một cách đầy đủ hơn
Việc các Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử hiểu rõ, nắm vững, và áp dụng chính xác các nguyên tắc hòa giải giữ vai trò quyết định sự thành công của hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án. Các văn bản pháp luật hiện hành không có quy định nào về nguyên tắc Tòa án hòa giải tranh chấp kinh tế giữa các đương sự. Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định việc hòa giải tranh chấp giữa các đương sự chỉ cần tuân theo hai nguyên tắc:
1. Tôn trọng sự tự nguyện của các đương sự, không bắt buộc, áp đặt các đương sự.
2. Nội dung của sự thỏa thuận giữa các đương sự không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Tác giả luận án cho rằng, các nhà làm luật cần quy định về các nguyên tắc của việc Tòa án giải quyết tranh chấp kinh tế bằng thủ tục hòa giải một cách đầy đủ hơn.
Những nguyên tắc đó có thể là:
1- Tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp.
2- Việc hòa giải các tranh chấp kinh tế tại Tòa án phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, hợp lý, không trái pháp luật và không trái các tập quán thương mại quốc tế.
3- Bảo vệ uy tín của các bên tranh chấp trên thương trường, bảo toàn các yếu tố bí mật, bí quyết kinh doanh trong quá trình hòa giải.
4- Quyết định của Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành giữa các bên có giá trị chung thẩm, các bên có nghĩa vụ thi hành.
Các Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử phải nắm vững và quán triệt các nguyên tắc này, không được vi phạm các nguyên tắc này. Có như vậy thì thủ tục hòa giải các tranh chấp kinh tế mới được thực hiện một cách thống nhất, đúng pháp luật và có hiệu quả, góp phần đáng kể vào việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại trong nền kinh tế thị trường Việt Nam.
3.2.5. Cần có quy định về thủ tục tiến hành hòa giải
Như chúng tôi đã phân tích ở chương 2, trong pháp luật hiện hành chưa có điều khoản nào quy định về thủ tục cụ thể khi tiến hành hòa giải mà mới chỉ có những quy định chung về sự có mặt của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; về việc Tòa án lập biên bản hòa giải thành khi các đương sự thỏa thuận được với nhau; về việc đưa vụ án ra xét xử trong trường hợp hòa giải không thành... còn những trình tự tố tụng bắt buộc khi thẩm phán hòa giải lại chưa được quy định. Khiếm khuyết trên của pháp luật hiện hành đã làm cho các Tòa án gặp lúng túng trong việc tiến hành hòa giải và hiệu quả của hoạt động hòa giải không cao. Để khắc phục thiếu sót này, trong Bộ luật Tố tụng Dân sự tương lai cần quy định rõ về thủ tục tiến hành hòa giải với những điểm chủ yếu sau đây:
- Khi tiến hành hòa giải, thẩm phán, Hội đồng xét xử phải giới thiệu thành phần tham gia hòa giải.
- Việc hòa giải phải lập thành biên bản. Biên bản hòa giải phải thể hiện đầy đủ các ý kiến và quan điểm của các đương sự. Nếu việc hòa giải thành thì phải lập biên bản hòa giải thành, trong đó ghi rõ những thỏa thuận của các đương sự. Nếu hòa giải không thành thì lập biên bản hòa giải không thành.
- Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ (đối với người không biết chữ) của các đương sự có mặt trong buổi hòa giải và chữ ký của người lập biên bản. Thẩm phán hoặc các thành viên của Hội đồng xét xử phải ký tên và đóng dấu Tòa án vào biên bản hòa giải.
3.2.6. Cần có các điều khoản quy định về các hình thức Tòa án tiến hành hòa giải tranh chấp kinh tế trong Bộ luật Tố tụng Dân sự
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Tòa án trong việc áp dụng một cách thống nhất các hình thức hòa giải tranh chấp kinh tế, các nhà làm luật cần quy định các hình thức hòa giải tranh chấp kinh tế trong các điều khoản của Bộ luật tố tụng dân sự. Các hình thức này có thể là: Hòa giải gián tiếp, hòa giải trực tiếp, hòa giải trước khi xét xử, hòa giải trong phiên tòa, hòa giải sau khi kết thúc phiên tòa.
Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự cần có các điều khoản quy định về các hình thức hòa giải tranh chấp kinh tế nói trên để các đương sự có điều kiện tự do, tự chủ lựa chọn một hình thức thích hợp theo quan điểm và nguyện vọng của họ, nhằm đạt được mục đích giải quyết tranh chấp kinh tế một cách nhanh gọn nhất, ít tốn kém nhất và có hiệu quả nhất.
3.2.7. Cần có các điều khoản trong Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định về các điều kiện cho Tòa án hòa giải tranh chấp kinh tế
Như đã trình bày ở những chương trước, pháp luật hiện hành ở nước ta chưa có các điều khoản quy định cụ thể các điều kiện cần thiết cho Tòa án tiến hành hòa giải các vụ tranh chấp kinh tế. Trong một vài điều khoản của Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự có đề cập một vài điều kiện để Tòa án tiến hành hòa giải các tranh chấp kinh tế; thí dụ, Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định: "Việc hòa giải phải được tiến hành với sự có mặt của các bên đương sự hoặc đại diện của đương sự".
Tuy vậy, tác giả luận án cho rằng Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định như vậy là chưa sát hợp, chưa đầy đủ, chưa có hệ thống các điều kiện cần thiết để Tòa án có thể tiến hành hòa giải các tranh chấp kinh tế.
Để tránh khả năng các Tòa án tiến hành hòa giải các tranh chấp kinh tế khi chưa đủ những điều kiện cần thiết, nhiều khi dẫn đến việc lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có sai lầm, thiếu sót, làm cho các đương sự phải làm đơn khiếu nại lên Tòa án cấp trên hoặc bị Tòa án, Viện kiểm sát cấp trên ra kháng nghị, tác giả luận án cho rằng, các nhà làm luật cần phải quy định các điều kiện cần thiết cho việc Tòa án tiến hành hòa giải trong một số điều khoản của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong tương lai.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả luận án cho rằng, các điều kiện cho việc Tòa án tiến hành hòa giải các tranh chấp kinh tế cần phải là những điểm sau:
1- Phải có đơn kiện của nguyên đơn; nguyên đơn phải nộp tạm ứng án phí.
2- Nguyện vọng và yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ pháp lý và không được trái pháp luật.
3- Các bên có tranh chấp, nhất là bị đơn, chấp nhận việc hòa giải.
4- Khi Tòa án hòa giải, các bên có tranh chấp hoặc người đại diện được ủy quyền hợp pháp của các bên phải có mặt.
5- Nội dung và quá trình hòa giải tranh chấp kinh tế được lập thành biên bản.
3.2.8. Cần có quy định về hình thức văn bản công nhận hòa giải thành
Hiện nay, hình thức văn bản công nhận hòa giải thành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm đã được xác định khá rõ, đó là quyết định. Còn hình thức văn bản công nhận hòa giải thành tại phiên tòa và trước phiên tòa phúc thẩm chưa được quy định rõ. Do sự thiếu cụ thể này đã dẫn đến tình trạng có một số Tòa án thì công nhận sự thỏa thuận và ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, lại có Tòa án ra bản án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa. Hoặc trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì Tòa án các cấp còn lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý của bản án sơ thẩm.
Để giải quyết những vướng mắc nói trên, theo chúng tôi, cần bổ sung những quy định mới trong chế định hòa giải khi xây dựng Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ở đây chúng tôi xin nêu ra một số quy định chủ yếu:
- Nếu hòa giải thành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
- Nếu tại phiên tòa các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận.
- Nếu việc hòa giải tiến hành trước khi mở phiên tòa phúc thẩm mà các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp thì tòa phúc thẩm thành lập hội đồng gồm ba thẩm phán để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó và tùy từng trường hợp cụ thể mà xử lý như sau:
a) Hủy bản án sơ thẩm, nếu thỏa thuận giữa các đương sự có nội dung khác hoàn toàn so với quyết định trong bản án sơ thẩm;
b) Sửa bản án sơ thẩm, nếu thỏa thuận giữa các đương sự chỉ khác một phần so với quyết định trong bản án sơ thẩm;
c) Giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu thỏa thuận giữa các đương sự không khác so với quyết định trong bản án sơ thẩm.
- Nếu các đương sự chỉ thỏa thuận với nhau về việc giải quyết một phần các yêu cầu trong vụ kiện dân sự thì ghi nhận sự thỏa thuận đó trong bản án khi mở phiên tòa xét xử các tranh chấp còn lại.
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày ban hành.
Cơ sở lý luận của các kiến nghị nói trên xuất phát từ tính chất của các tranh chấp dân sự và từ yêu cầu bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự.
Tác giả luận án cho rằng, những điểm nêu trên là những điều kiện cần thiết để Tòa án có thể tiến hành hòa giải các tranh chấp kinh tế một cách có hiệu quả. Nếu thiếu một trong các điều kiện đã nêu trên, Tòa án khó có thể tiến hành hòa giải các tranh chấp kinh tế một cách đúng pháp luật và có kết quả được.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
1. Hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh tế của Tòa án các cấp trong những năm qua đã thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tòa án các cấp đã góp phần tích cực vào việc giải quyết nhanh gọn, có hiệu quả nhiều vụ án kinh tế, góp phần làm ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp cũng như phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nói chung. Tuy vậy, hoạt động xét xử các vụ án kinh tế nói chung và hòa giải các tranh chấp kinh tế nói riêng vẫn còn có những điều bất cập, không phù hợp với thực tiễn, cần được nhận thức rõ và khẩn trương khắc phục.
2. Phương hướng hoàn thiện các quy định về hòa giải tranh chấp kinh tế ở Việt Nam bao gồm việc hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức và xác định cụ thể, đầy đủ các thẩm quyền của các Tòa Kinh tế; Nâng cao trình độ của Thẩm phán, của Thư ký Tòa án và của Hội thẩm nhân dân về kiến thức pháp luật, quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật, tài chính, kế toán... và nghiệp vụ chuyên môn.
3. Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về tố tụng kinh tế còn nhiều thiếu sót và bất cập. Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự (dùng chung cho cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao động...) tuy đã có nhiều đổi mới và tiến bộ, nhưng cũng chưa thật đầy đủ và cụ thể. Vì vậy những quy định hiện hành về hòa giải cần được sửa đổi, bổ sung một cách căn bản, đầy đủ và kịp thời, để tạo nên một hệ thống những căn cứ pháp lý cần thiết cho việc xét xử các vụ án kinh tế nói chung và giải quyết các tranh chấp kinh tế theo thủ tục hòa giải nói riêng ngày càng có hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, tác giả luận án rút ra những kết luận chủ yếu sau đây:
1. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, các nhà kinh doanh có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ, tự quyết, năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế, thương mại. Đồng thời, các nhà kinh doanh cũng có quyền tự chủ, tự quyết trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại. Trong số các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, hòa giải (ngoài tố tụng cũng như trong tố tụng) là một phương thức có nhiều ưu việt, đem lại nhiều hiệu quả thiết thực, to lớn cho các nhà kinh doanh, cho xã hội và cho Nhà nước. Hòa giải có vị trí quan trọng, có vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc giúp cho các nhà kinh doanh giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại của họ một cách nhanh gọn, đơn giản, ít tốn kém, giữ gìn được quan hệ kinh tế, thương mại lâu dài giữa các nhà kinh doanh, đồng thời, ổn định được hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại của họ.
2. Hòa giải có bản chất và nội dung khác với các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế khác. Các đương sự có tranh chấp kinh tế, thương mại cũng như các Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử cần hiểu rõ, quán triệt bản chất và nội dung của hoạt động hòa giải trong tố tụng kinh tế để hoàn thành tốt chức năng, các quyền và nghĩa vụ của mình, bảo đảm cho hoạt động hòa giải của Tòa án đem lại hiệu quả thiết thực. Để thực hiện có hiệu quả, đúng đắn thủ tục hòa giải và đạt được những mục đích mà việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại bằng phương thức hòa giải đặt ra, các đương sự cũng như các thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử cần nhận rõ, nắm vững và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của việc hòa giải các tranh chấp kinh tế, thương mại.
3. Các nước và các tổ chức quốc tế có rất nhiều kinh nghiệm trong việc hòa giải các tranh chấp kinh tế, thương mại. Những kinh nghiệm đó, các quy định và cơ chế hòa giải có tính chuẩn mực đó cần được nghiên cứu học tập và áp dụng có chọn lọc, có hiệu quả vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định pháp lý về giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục hòa giải ở Việt Nam.
4. Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp kinh tế đã có những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, trong đó có thẩm quyền hòa giải các tranh chấp kinh tế. Các quy định này bước đầu đáp ứng được các đòi hỏi bức thiết đối với việc hòa giải các tranh chấp kinh tế. Tuy vậy, trong pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều điều bất hợp lý và bất cập, xa thực tế... gây ảnh hưởng không tốt đến việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục hòa giải các tranh chấp kinh tế.
Pháp luật hiện hành cũng chưa có đầy đủ các quy định cần thiết về các hình thức và điều kiện để Tòa án tiến hành hòa giải các tranh chấp kinh tế một cách có hiệu quả tại Tòa án. Đây là một khiếm khuyết cũng cần được sớm khắc phục để hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh tế đạt được những kết quả tốt đẹp và to lớn hơn.
5. Thực trạng hòa giải các tranh chấp kinh tế trong những năm vừa qua cho thấy Tòa án đã đạt được nhiều thành công đáng ghi nhận, đã tích lũy được một số kinh nghiệm đáng chú ý trong lĩnh vực này. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại nhiều sai lầm, thiếu sót ở một số Thẩm phán, ở một số Tòa án các cấp làm ảnh hưởng xấu đến thành công của hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh tế của Tòa án. Phát huy các ưu điểm và thành công đã đạt được, khắc phục sớm và kịp thời các thiếu sót và nhược điểm trong hoạt động hòa giải của các Tòa án là phương hướng phấn đấu của Tòa án các cấp trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài.
6. Phương hướng hoàn thiện các quy định về hòa giải tranh chấp kinh tế ở Việt Nam bao gồm việc hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức và xác định cụ thể, đầy đủ các thẩm quyền của các Tòa Kinh tế; nâng cao trình độ của Thẩm phán, của Thư ký Tòa án và của Hội thẩm nhân dân về kiến thức pháp luật, quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật, tài chính, kế toán... và nghiệp vụ chuyên môn.
Yêu cầu của việc cải cách tư pháp, của việc bảo đảm và phát huy dân chủ của các tổ chức và công dân, trong đó có các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh đòi hỏi phải đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án và các Hội đồng xét xử một cách bài bản, có kế hoạch, có hệ thống; đồng thời, phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp lý về thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế nói chung và về chế định hòa giải các tranh chấp kinh tế nói riêng như đã được đề xuất trong chương 3 của luận án này.
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
Đào Thị Xuân Lan (1999), "Hòa giải - Một trình tự tố tụng quan trọng trong việc giải quyết các vụ án kinh tế", Dân chủ và pháp luật (3).
Đào Thị Xuân Lan (2003), "Bản chất của hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án", Nhà nước và pháp luật (1).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản (1992).
Bộ luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1991).
Bộ Tư pháp, Dự án VIE 94/003, Các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam.
Chính phủ (1960), Nghị định số 735/TTg ngày 10-4-1956 ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh.
Chính phủ (1960), Nghị định số 04/TTg ngày 4-1-1960 ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan nhà nước.
Chính phủ (1960), Nghị định số 26/TTg ngày 14-1-1960 về việc thành lập hệ thống Hội đồng Trọng tài
Chính phủ (1960), Nghị định số 29/CP ngày 23-2-1960 của Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời quy định những nguyên tắc xử lý trong việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế.
Chính phủ (1975), Nghị định 54/CP ngày 10-3-1975 của Chính phủ ban hành Điều lệ về Chế độ hợp đồng kinh tế.
Chính phủ (1975), Nghị định số 75/CP ngày 14-4-1975 ban hành bản Điều lệ về Tổ chức và hoạt động của Hội đồng trọng tài Nhà nước.
Chính phủ (1994), Nghị định số 117/CP ngày 7-9-1994 về án phí, lệ phí.
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Sắc lệnh số 13, ngày 24-1-1946 quy định về tổ chức nền tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Bùi Ngọc Cường (2001), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Đình Hảo (2000), "Hòa giải, thương lượng trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế", Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 28.
Đào Văn Hội (1996), Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định số 70-HĐBT ngày 25-3-1991 ban hành Điều lệ về Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế.
Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế.
Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Hội đồng Nhà nước (1990), Pháp lệnh Trọng tài Kinh tế.
Nguyễn Ngọc Hưng (1996), Trình tự, thủ tục pháp lý của việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng con đường tài phán trọng tài ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
Bùi Đức Long (1994), "Vị trí của Tòa án trong tố tụng kinh tế", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 27.
Dương Thanh Mai - Hoàng Đức Thắng (1994), "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế", Dự án VIE- 94/ 003, tr. 4, 7, 8, 15, 18.
Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình.
Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội (1993), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội (1995), Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Quốc hội, Nghị quyết của kỳ họp thứ 4, khóa VIII.
Trương Kim Oanh (1996), Hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn cao học luật.
Nguyễn Như Phát (2001), "Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế", Nhà nước và Pháp luật, (11), tr. 26.
Quy tắc Hòa giải của UNCITRAL
Quy tắc Hòa giải lựa chọn của ICC
Thủ tướng Chính phủ, Thông tư số 25-TTg ngày 22-1-1960 Quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi xử lý và lề lối làm việc của Hội đồng Trọng tài các cấp.
Phan Hữu Thư (2001), Cơ sở lý luận và thực tiễn để ban hành Bộ luật Tố tụng về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí minh (1999), Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 199/ CNTT-KT, ngày 20-9-1999.
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (1999), Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 230/CNTT-KT, ngày 29-10-1999.
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2000), Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 253/ CNTT-KTST, ngày 22-11-2000.
Tòa án nhân dân tối cao (1989), Công văn số 125/NCPL ngày 12-7-1989 hướng dẫn về thủ tục hòa giải.
Tòa án nhân dân tối cao (1990), Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1994), Công văn số 442/KHXX ngày 18-7-1994 về việc áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
Tòa án nhân dân tối cao (1996), Công văn số 11/KHXX ngày 23-1-1996 hướng dẫn áp dụng pháp luật để giải quyết những vấn đề về quá trình thụ lý và giải quyết các vụ án kinh tế.
Tòa án nhân dân tối cao (1996), Nâng cao vai trò hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường và vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1996), Báo cáo tổng kết công tác Tòa án năm 1995; phương hướng, nhiệm vụ công tác Tòa án năm 1996, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1997), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1996 và phương hướng, nhiệm vụ công tác Tòa án năm 1997, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 1999 và phương hướng, nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2000, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2000 và phương hướng, nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2001, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo công tác Tòa án năm 2001 và phương hướng, nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2002, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2002), Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự (lần thứ VIII), Hà Nội.
Trọng tài Kinh tế Nhà nước (1990), Thông tư số 215/TT-PC ngày 31-7-1990 hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Trung tâm Trọng tài Quốc tế (1993), Quy tắc tố tụng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
Viện Khoa học xã hội - Trung tâm Ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội.
Văn Tân (chủ biên) (1977), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Black’s Law Dictionary (Từ điển Luật học Anh - Mỹ) (1991), West Pub. Co.
John J. Wilkinson (1990), Book of ADR practice - Wiley Law Pub.
Q.C. Jacob (1991), Commer. Trans. Butherworths.
William F. Fox - Kluwer (1992), International Commercial Agreement Law & Taxation, chap. 6.
Presses Univ. de France -2 nd Edition (1990), Vocabulare Juridige (Từ điển Luật học của Pháp).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam.doc