Để có kế hoạch lâu dài và chủ động trong khâu giải quyết việc làm cho 
người lao động thông qua các chương trỡnh hướng nghiệp và dạy nghề, tạo 
điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững của Thành phố, cần có chủ 
trương nghiên cứu Thành phố lập quỹ giải quyết việc làm để hỗ trợ cho nông 
dân bị thu hồi đất sản xuất học nghề, hướng nghiệp, nguồn thu từ các dự án 
đầu tư có mục đích kinh doanh, tiền thuê đất theo quy định chung.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 75 trang
75 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3136 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, cỏc chớnh sỏch của Nhà nước về bồi thường, 
GPMB, tái định cư đó được quan tâm và ngày càng được hoàn thiện để đáp 
ứng các mục tiêu đặt ra trong công tác GPMB, triển khai các dự án trong giai 
đoạn phát triển đất nước. Đối tượng được bồi thường thiệt hại do bị thu hồi đất 
ngày càng được xác định đầy đủ, chính xác và phù hợp hơn với tỡnh hỡnh thực 
tế. Mức bồi thường thiệt hại ngày càng cao hơn, tạo điều kiện để người bị thu 
hồi đất có thể sớm khôi phục được các tài sản bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ 
đó được bổ sung nhằm giúp cho các hộ bị di chuyển có nơi ở mới và ổn định 
được cuộc sống và sane xuất. 
Tuy nhiờn cỏc chớnh sỏch cũng vẫn cũn những hạn chế và bất cập sau : 
a/- Về đối tượng được bồi thường thiệt hại. 
Do trỡnh độ quản lý cũn kộm, tinh thần thực hiện phỏp luật của người dân 
chưa cao, chưa nghiêm minh, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc xác định 
chính xác công bằng các đối tượng được bồi thường thiệt hại. 
Nếu như coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy tờ hợp pháp nhất 
để được bồi thường thiệt hại thỡ phần lớn người bị thu hồi đất lại chưa có, vỡ 
việc cấp giấy chứng nhận QSD đất cũng gặp những khó khăn về nguồn gốc đất 
đai, và cả số tiền phải bỏ ra để có được cái giấy mang về để trong tủ kính, tâm 
lý của người dân luôn nghĩ rằng có giấy hay không thỡ họ vẫn đang sống trên 
đất này, mặc nhiên không ai xâm phạm. Đối với đất nông nghiệp, người sử 
dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất song khi thu hồi lại có bồi thường 
thiệt hại. Việc bồi thường thiệt hại đối với đất này thường gặp khó khăn đối 
với địa phương không cũn quỹ đất nông nghiệp. 
b/-Về mức bồi thường thiệt hại. 
Nghị định số 22/1998 đó quy định mức bồi thường thiệt hại cao hơn so 
với quy định tại Nghị định số 90/CP nhưng vẫn không đáp ứng được mức giá 
của mọi người dân mong mỏi, trong phần lớn các trường hợp là phải tăng thêm 
các khoản trợ cấp để nâng mức giá lên cao hơn cho phù hợp với thực tế hơn.. 
Đối với đất nông nghiệp, ở những nơi việc chuyển nhượng quyền sử dụng 
đất đó diễn ra phổ biến mà giỏ chuyển nhượng lại cao hơn khả năng sinh lời 
của đất, trong trường hợp người bị thu hồi đất muốn có mảnh đất như cũ thỡ số 
tiền bồi thường thiệt hại thường không đủ để mua. Những quy định về việc 
miễn giảm tiền sử dụng đất, các loại lệ phí, quy định về cách tính tỷ lệ % đối 
với công trỡnh bị ảnh hưởng hay việc xác định chi phí thực tế đó đầu tư vào 
đất nông nghiệp... chưa được quy định tại Nghị định này. Theo Nghị định 
22/CP và Quyết định 20/QĐ-UB thỡ việc bồi thường cây trồng, vật nuôi căn 
cứ vào giá trị sản lượng thu hoạch trong 1 năm theo năng suất bỡnh quõn 3 
năm trước đó. Nhưng sự biến động của doanh thu do chuyển đổi cơ cấu cây 
trồng vật nuôi cũng khiến cho mức hỗ trợ đào tạo chuyển nghề cho lao động 
nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất bị lạc hậu, Điều 12 Quyết định 20/QĐ-
UB quy định mức hỗ trợ tính trên cơ sở sản lượng vào thời điểm năm 1998 là 
10 tấn thóc/ ha với giá thóc là 2.200 đồng/kg doanh thu 22 triệu đồng / ha, cho 
đến nay theo báo cáo hàng năm của các quận, huyện doanh thu bỡnh quõn đó 
đạt từ 45-60 triệu/ha gấp 2-3 lần so với thời điểm ban hành. Chưa có quy định 
thưởng tiến độ đối với đất nông nghiệp. 
Theo công thức xác định hệ số K theo khă năng sinh lời để tính tiền bồi 
thường thiệt hại về đất nông nghiệp (Thông tư 145/BTC) 
Thu nhập 
Giá đất theo khả năng 
sinh lời 
= Lói suất tiền gửi ngõn hàng Nhà nước 
(% năm) không kỳ hạn 
Như vậy, tại cùng 1 thời điểm và cùng một mức thu nhập, nếu tính theo 
lói suất của ngõn hàng nào trả thấp thỡ số tiền bồi thường thiệt hại lại cao hơn 
so vơí ngân hàng có lói suất lớn hơn.Điều đó là phi thực tế vỡ ai cú tiền cũng 
muốn gửi ngõn hàng cú mức lói suất cao. 
Đối với đất ở 
Do nhà nước chưa có quy định việc định giá đất theo giá thị trường và thị 
trường nhà đất này Nhà nước cũng chưa cập nhật được những biến động và 
việc điều tiết cũn hạn chế, tức là những căn cứ để xác định giá đất thiếu cả tính 
khoa học và thực tế, dẫn đến thiệt hại đối với Nhà nước hoặc đối với nhân dân. 
Về giá chuyển nhượng thực tế tại thời điểm bồi thường là mức giá rất đặc 
biệt, vỡ khụng ai lại đi mua đất để rồi sẽ bị giải toả và các cấp chính quyền 
cũng không xác nhận việc mua bán này. Mức giá chuyển nhượng phụ thuộc 
vào diện tích hỡnh thể, của thửa đất và bản thân các đối tượng tham gia giao 
dịch, cho nên việc tính toán làm sao để áp dụng mức giá thống nhất cho tất cả 
các thửa đất nằm trong phạm vi GPMB là điều không đơn giản. Như vậy ảnh 
hưởng đến tiến độ thực hiện GPMB, quá trỡnh lập phương án bồi thường 
không thể xong ngay trong chốc lát do vậy việc sử dụng mức giá đất được xác 
định tại thời điểm lập phương án bồi thường (nếu nhanh cũng phải từ 1-2 tháng 
sau) cũng gây khó khăn cho công tác bồi thường,GPMB. 
Theo các quy định về cấp giấy chứng nhận QSD đất thỡ chủ sử dụng đất 
ổn định, không có tranh chấp trước ngày 18/12/1980 được cấp giấy chứng 
nhận và không phải nộp tiền sử dụng đất. 
Từ ngày 18/12/1980 đến ngày 15/10/1993 thỡ phải nộp 20% tiền sử dụng đất. 
Sau ngày 15/10/1993 nộp 100% tiền sử dụng đất. 
Như vậy, nếu đất sử dụng trước ngày 18/12/1980, khi Nhà nước thu hồi 
thỡ được bồi thường 100% tiền sử dụng đất (theo diện tích đất được quy định 
khi cấp GCNQSD đất và QSH nhà ở). Nếu đất sử dụng từ ngày 18/12/1980 
đến ngày 15/10/1993 khi bị thu hồi được bồi thường thiệt hại 80% tiền sử dụng 
đất. 
Điều 7, Nghị định 61/CP ngày 05/7/1994 của Chớnh phủ về mua bỏn kinh 
doanh nhà ở: 
“Giá bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước bao gồm giá nhà và giá đất. 
Đối với nhà ở 1 tầng, nhà nhiều tầng 1 hộ ở phải nộp 40% tiền sử dụng đất. 
Đối với nhà nhiều tầng, nhiều hộ ở phải nộp 10% tiền sử dụng đất và 
phân bổ theo từng tầng.”. 
Như thế, nếu người đang ở nhà của Nhà nước cho thuê, nếu phải di 
chuyển do bị thu hồi đất sẽ được hưởng 60% tiền sử dụng đất theo diện tích đất 
có nhà được cho thuê, sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với diện tích đất được bồi 
thường thiệt hại theo trường hợp trên là 100% hay 80%.tiền sử dụng đất. 
Chính nội dung này đó tạo ra bất cập về chớnh sỏch xó hội, nếu như một 
công dân được Nhà nước cho thuê nhà từ năm 1960, có sử dụng thêm phần 
diện tích đất trong khuôn viên (nhất là đối với các biệt thự cũ)khi bị thu hồi chỉ 
được bồi thường thiệt hại 60% tiền sử dụng đất đối với phần đất sử dụng thêm đó, 
trong khi một công dân khác lấn chiếm đất, nhảy dù hoặc sử dụng không có hồ sơ 
rừ ràng, nhưng lại được UBND phường, xó, thị trấn xác nhận sử dụng ổn định, 
không tranh chấp trước 18/12/1980 lại được bồi thường thiệt hại 100% tiền sử 
dụng đất. 
Đối với đất chuyên dùng; Mặc dù Nhà nước có quy định tại Nghị định 
22/CP là chủ đầu tư khi sử dụng đất loại này phải nộp tiền sử dụng đất vào ngân 
sách Nhà nước. Nhưng thực tế cho đến nay chưa có một văn bản nào quy định chi 
tiết hoặc hướng dẫn việc thực hiện thu tiền loại đất này. Do vậy nhiều nhiều dự án 
chủ đầu tư đó khụng phải nộp khoản tiền này. 
c/- Về chớnh sỏch hỗ trợ và khụi phục cuộc sống. 
Một trong những hạn chế quan trọng của chính sách tái định cư ở Việt 
Nam là chủ yếu tập trung vào việc bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất và 
đất, mà không quan tâm đến chính sách hỗ trợ khôi phục cuộc sống và tái định 
cư. làm cho cuộc sống của những người bị thu hồi đất ngày càng bị sa xút và 
khó khăn gấp bội sau khi tái định cư. 
Điều này có thể nhận thấy ở các hộ dân khu lũng Hồ Hoà Bỡnh phải di 
chuyển để xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bỡnh. Mặc dự di chuyển để xây 
dựng nhà máy điện, nhưng chính họ- những người phải di chuyển để xây dựng 
nhà máy này lại không hề biết điện là gỡ sau gần 20 năm. 
Tương tự đối với các hộ dân ven đường Kim Mó- Ngọc Khỏnh Hà Nội 
phải di chuyển tới cỏc nhà trung cư cao tầng, trong khi thu nhập chính của gia 
đỡnh lại trụng cậy vào việc kinh doanh ở tầng 1 có mặt đường của họ ở nhà 
cũ... thỡ việc di chuyển đến ở nhà chung cư coi như là “gặp hạn” 
Điều cơ bản là những hỗ trợ về chuyển đổi nghề nghiệp (bằng các hoạt 
động đào tạo ), hỗ trợ phát triển ngành nghề (mở chợ, lập khu sản xuất...) chưa 
được quy định cụ thể nên không được quan tâm thực hiện trong thực tế. Phần 
lớn các hỗ trợ hiện nay đều thực hiện bằng tiền, trong khi người dân nhiều khi 
không sử dụng đúng mục đích. 
d/- Về tổ chức bồi thường thiệt hại , tái định cư. 
Nghị định 22/1998 quy định cấp quận, huyện chịu trách nhiệm chính 
trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư, chủ đầu tư là 
một trong các thành viên của Hội đồng GPMB. Điều này chưa phù họp đối với 
các dự án sử dụng đất trên nhiều địa bàn ccác tỉnh khác nhau cũng như dự án 
do cơ quan Trung ương quản lý vỡ : 
Thứ nhất : Chính sách bồi thường Giải phóng mặt bằng, tái định cư do các 
tỉnh ban hành không đồng nhất với nhau; giá đất cũng không trùng nhau, đối 
với khu đất giáp ranh( ở tỉnh này có thể là khu dân cư nông thôn, ở tỉnh lân cận 
lại là đất ven đường giao thông ). 
Thứ hai : các chủ dự án- Ban QLDA không thể trực tiếp tác động tới Hội 
đồng Giải phóng mặt bằng quận, huyện mà lại phải báo cáo bộ chủ quản, rồi 
Bộ chủ lại trao đổi văn thư hành chính với UBND cấp tỉnh , sau đó cấp tỉnh lại 
giao nhiệm vụ chỉ đạo xuống các cấp, các ngành trực thuộc. Như vậy một vấn 
đề vướng mắc nhỏ khi cần giải quyết phải đi một vũng khỏ dài, làm chậm tiến 
độ triển khai dự án. 
Một vấn đề vô cung cấp bách và quan trọng là các văn bản chính sách 
chưa có quy định rừ ràng về thời gian trả tiền và tiến hành giải toả. Nhiều dự 
ỏn đầu tư chưa có quy định rừ ràng nội dung về thẩm định, kế hoạch tái định 
cư và tổ chức xây dựng khu tái định cư; các dự án này khi tiến hành khảo sát, 
nghiên cứu để lập báo cáo khả thi đều không kiểm đếm chính xác các tài sản bị 
thiệt hại, không thực hiện tái định trước khi thi công và đều bị động trong công 
tác tái định cư, dẫn đến chậm tiến độ thực hiện dự án. 
e/- Về công tác tái định cư. 
Các văn bản chính sách đều chưa quy định cụ thể về quy trỡnh lập và 
thẩm định khu tái định cư, do đó công tác bồi thường thiệt hại và tái định cư 
của các dự án đều không được chuẩn bị cẩn thận và đúng trỡnh tự, thiếu sự 
phối kết hợp giữa cỏc bờn liờn quan và sự tư vấn, gúp ý của cỏ nhõn, tập thể 
người bị thu hồi đất cũng như tại nơi có đất để chuẩn bị làm khu tái định cư đó. 
Điều 29 của Nghị định số 22/1998 chỉ quy định điều kiện, tiêu chuẩn của các 
khu tái định cư nhưng lại không quy định các dự án đầu tư có di dân phải bắt 
buộc có hạng mục xây dựng khu tái định cư dẫn đền nhiều dự án chậm thực hiện. 
Thực tiễn đũi hỏi cỏc dự ỏn cú di dõn bắt buộc phải cú phương án xây 
dựng khu tái định cư khả và phương án sử dụng lao động tại nơi thu hồi đất. 
5. Nguyờn nhõn của những tồn tại trờn 
+ Chưa có nhận thức đúng của tất cả mọi người, mọi ngành, mọi cấp về 
vấn đề bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất cả trong chính sách và tổ 
chức thực hiện, dẫn đến việc vận dụng Nghị định 22/CP khác nhau. 
+Sự thiếu đồng bộ trong chính sách của Nhà nước. 
Vấn đề bồi thường thiệt hại và tái định cư là vấn đề kinh tế - xó hội tổng 
hợp, liờn quan đến nhiều mặt của đời sống xó hội, bị chi phối và phụ thuộc vào 
nhiều quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành như luật đất đai, Bộ luật 
dân sự, luật ngân sách. Luật lao động, Luật khiếu nại tố cáo....trong khi các 
quy định tại các luật và văn bản của Chính phủ lại chưa đồng bộ, đầy đủ, cụ 
thể, một số quy định giữa các luật và văn bản của Chính phủ cũn cú sự khỏc 
biệt mõu thuẫn như Nghị đinh 52/CP, Nghị định 89/CP trước đây và Nghị định 
38/2000/NĐ-CP hiện nay...chưa thống nhất với Nghị định 22/CP về thời điểm 
thế nào gọi là sử dụng đất ổn định, chưa thống nhất về trách nhiệm tổ chức 
thực hiện bồi thường thiệt hại, trách nhiệm chi trả tiền bồi thường, trách nhiệm 
xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư. 
+Hồ sơ ban đầu về đất đai, tài sản để xác định quyền sử dụng đất đối với 
từng loại đất cụ thể và tính hợp pháp của tài sản cũn quỏ thiếu. Việc chậm tiến 
hành lập sổ địa chính và cấp giấy chứng nhậnQSD đất ở đó dẫn đến thiếu cơ sở 
khi tiến hành xem xét bồi thường cho từng đối tượng sử dụng đât cụ thể. 
+ Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác bồi thường,Giải phóng mặt bằng ở 
hầu hết tất cả các địa phương là kiêm nhiệm, cán bộ làm công tác này của dự 
án đều yếu và thiếu, trong khi công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cũn 
chậm và khụng thường xuyên cũng đó hạn chế để tổ chức thực hiện công tác 
bồi thường thiệt hại,Giải phóng mặt bằng . 
Vấn đề bồi thường thiệt hại, Giải phóng mặt bằng là một vấn đề mang 
tính thời sự, có tác động trực tiếp tới lợi ích của người bị thu hồi đất, chủ đầu 
tư và Nhà nước nên những tồn tại, thiếu sót được xuất phát từ rất nhiều nguyên 
nhân, trên đây mới chỉ là một số nguyên nhân chủ yếu cần được sửa chữa và 
bổ sung ngay. 
chương III 
phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại, khi nhà 
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố hà nội. 
Trước yêu cầu xây dựng Thủ đô trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá, khối lượng các dự án xây dựng đô thị, công nghiệp, dịch vụ ngày càng lớn 
và đặc biệt là yêu cầu tiến độ xây dựng các công trỡnh phục vụ Sea Games rất 
cấp bỏch đặt ra cho công tác GPMB của Thành phố nhiệm vụ hết sức nặng nề, 
khó khăn và phức tạp. Khối lượng GPMB để triển khai các dự án trong năm 
2003 là rất lớn, ước khoảng 350-400 dự án, trong đó tiếp tục có nhiều dự án có 
quy mô chiếm dụng đất lớn, với diện tích GPMB khoảng 1.200 ha;với số hộ 
cần bố trí tái định cư khoảng 7000 hộ, trong đó chủ yếu là các dự án trọng 
điểm. Theo quy hoạch, kế hoach sử dụng đất của thành phố Hà Nội đến năm 
2010 đó được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1447/QĐ-TTg 
ngày 09/11/2001 thỡ diện tớch đất nông nghiệp năm 2010 sẽ giảm so với năm 
2000 là 10.200ha. Theo kế hoạch sử dụng đất của UBND Thành thỡ năm 2003 
là 1.090ha. Chúng ta có thuận lợi cơ bản là có Nghị quyết của Thành uỷ và Hội 
đồng nhân dân Thành phố, đó cú kinh nghiệm qua 2 năm thực hiện Nghị quyết, 
được cả hệ thống chính trị vào cuộc, nhân dân đồng tỡnh ủng hộ, Chớnh phủ 
và cỏc Bộ, Ngành tạo điều kiện giúp đỡ. Nhưng cũng có rất nhiều khó khăn do 
dự án nhiều, yêu cầu tiến độ gấp của Sea Games và chống ùn tắc giao thông, 
trong khi đó chính sách cũn bất cập và đặc biệt là điều kiện phục vụ cho 
GPMB chưa tương xứng. 
I. phương hướng thực hiện giải phóng mặt bằng trong thời gian tới. 
Trước hết, ngay từ đầu năm cần tập trung đẩy nhanh các dự án năm 2002 
đang thực hiện dở dang do chưa đủ điêù kiện, tập trung các dự án trọng điểm 
và dự án đó cú chớnh sỏch bồi thường đó phờ duyệt như dự án ; Đường vành 
đai I, Vành đai III phần đất thổ cư, Khu Liên hợp thể thao quốc Gia đường Đội 
Cấn- Hồ Tây, đường 2,5 nút Ngó Tư Sở, nút Bưởi, đường láng hạ kéo dài, 
đường Ngô Gia Tự, các khu đô thị mới, các dự án tái định cư, các cụm, khu 
công nghiệp vừa và nhỏ... 
Mục tiêu năm 2003 phải đạt được là đối với các dự án đủ điều kiện thỡ 
phải bàn giao mặt bằng đúng tiến độ, đảm bảo tiến độ GPMB và thi công các 
dự án phục vụ Sea Games 2003 trong mọi tỡnh huống. Thực hiện dõn chủ, 
cụng khai, cụng bằng, đảm bảo ba đúng: đúng chính sách, đúng trỡnh tự thủ 
tục, đúng tiến độ; Ba giảm : Giảm đến mức tối thiểu sai sót, khiếu nại và việc 
áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính để GPMB. 
Rà soát và điểu chỉnh bổ sung các chính sách có liên quan đến bồi 
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, điều chỉnh quy trỡnh tổ chức 
thực biện cụng tỏc GPMB theo tinh thần cải cấch hành chớnh của Chớnh phủ; 
Tập trung quyết liệt cụng tỏc chuẩn bị quỹ nhà đất tái định cư để đến năm 
2005 phải cơ bản đủ quỹ nhà, đất phục vụ nhu cầu tái định cư cho các dự án và 
có khoảng từ 1000- 2000 căn hộ dự trữ và luân chuyển. 
Củng cố, kiện toàn bộ máy làm công tác GPMB từ Thành phố đến xó, 
phường đủ phẩm chất, trỡnh độ về chuyên môn cần thiết đáp ứng yêu cầu 
chuyên môn hoá đội ngũ làm công tác GPMB. 
Kiờn quyết chống tiờu cực trong GPMB, biểu dương kịp thời những đơn 
vị, cá nhân thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. 
Ii. Tư tưởng chỉ đạo của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND Thành phố 
hà Nội về công tác GPMB trong năm 2003. 
Tiếp tục quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết số 20/NQ-TU, Nghị 
quyết số 09/NQ-HĐND, ý kiến chỉ đạo của thường trực Thành uỷ tại thông 
báo số 192-TB/TU ngày 8/11/2002; Năm 2003 vẫn tiếp tục là năm giải phóng 
mặt bằng, giao thông, kỷ cương và văn minh đô thị. Thành phố cần đẩy nhanh, 
mạnh thêm một bước công tác GPMB trên tinh thần tích cực, chủ động, bài 
bản, bảo đảm kiên quyết hơn, tập trung vào các nội dung chính sau : 
1. Đẩy mạnh công tác quy hoạch phục vụ phát triển kinh tế xó hội và giải 
phúng mặt bằng. Tiến hành rà soỏt, kiểm tra việc xõy dựng theo quy hoạch, 
không tuỳ tiện thay đổi quy hoạch, tập trung triển khai nhanh các dự án đó giải 
phúng mặt bằng. 
2. Chủ động nghiên cứu, điều chỉnh chính sách bồi thường giải phóng mặt 
bằng, theo mặt bằng chính sách chung, đảm bảo đúng chính sách giải phóng 
mặt bằng và phù hợp thực tế, đồng thời kiến nghị với Chính phủ xem xét sửa 
đổi các chính sách vượt quá thẩm quyền của Thành phố. 
3. Công tác chuẩn bị quỹ nhà, đất phục vụ cho việc tái định cư phải đi 
trước một bước.UBND Thành phố cần phân công cơ quan và cá nhân phụ 
trách, tổ chức phối hợp nghiờn cứu xõy dựng kế hoạch, lộ trỡnh cụ thể theo 
tinh thần bảo đảm đủ quỹ nhà đất phục vụ giải phóng mặt bằng và tổ chức lại 
dân cư hợp lý. 
4. Kiện toàn và củng cố bộ phận giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ 
quan chức năng các cấp, nhằm giải quyết tốt đơn thư khiếu tố về giẩi phóng 
mặt bằng. 
5. Trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện giải phóng mặt bằng cần tập trung, 
tránh dàn trải. Cần rà soát, phân loại, chọn lọc những dự án đủ điều kiện, khả 
thi để phê duyệt, công bố và triển khai ngay. Quỏ trỡnh thực hiện, cần phối 
hợp chặt chẽ giữa Thành phố và cơ quan chức năng Trung ương, xác định rừ 
và nõng cao trỏch nhiệm của cỏc chủ đầu tư, thường xuyên kiểm tra đôn đốc 
tiến độ triển khai, sơ kết, tổng kết việc thực hiện, khen thưởng động viên kịp 
thời tập thể và cỏ nhõn làm tốt, xử lý nghiờm minh cỏc vi phạm. 
6. Khẩn chương hoàn thiện chính sách hậu GPMB khi Nhà nước thu hồi 
đất, quan tâm đến đời sống của người bị thu hồi đất sau khi đó lấy được mặt 
bằng để thi công, có chính sách đào tạo nghề cho những lao động bị mất hết tư 
liệu lao động sản xuất là đất nông nghiệp. Thực hiện tốt công tác giải quyết 
việc làm cho người lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất. 
III. một số giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại, trên địa 
bàn thành phố hà nội 
Công tác GPMB thời gian qua đó được Thảnh uỷ, HĐND, UBND Thành 
phố Hà Nội tập chung chỉ đạo và đó đạt được những kết quả đáng ghi nhận 
trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá 
hiện đại hoá, thay đổi bộ mặt đô thị và xó hội, cải thiện nõng cao chất lượng 
cuộc sống của nhân dân. Tuy nhiên công tác GPMB vẫn chưa đấp ứng được 
yêu cầu phát triển của Thủ đô. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên 
nhân thuộc về chính sách giá bồi thường đất, nhà cửa, công trỡnh kiến trúc, 
cây cối hoa màu, chính sách hỗ trợ đào tạo chuyển nghề, giải quyết việc làm 
cho lao động nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng cho địa phương bị thu hồi 
đất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất bất cập và chậm được sửa đổi, bổ 
sung dẫn đến tiến độ GPMB một số dự ỏn cũn chậm , chưa hiệu quả, cũn phỏt 
sinh khiếu kiện của người bị thu hồi đất để các cấp, các ngành từ quận, huyện 
đến Thành phố phải dành nhiều công sức và thời gian để giải quyết. 
Trong khi chờ Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định số 22/1998/NĐ-CP 
ngày 24/4/1998; Để ổn định đời sống cho lao động nông nghiệp cũng như 
những đối tượng sử dụng đất khác khi Nhà nước thu hồi đất và tạo chuyển biến 
tích cực trong công tác GPMB trên địa bàn Thành phố, căn cứ tỡnh thần phỏp 
lệnh Thủ đô, căn cứ quá trỡnh nghiờn cứu thực tế và phõn tớch trờn; Bản thõn 
em mạnh dạn nờu ra một số giải phỏp như sau : 
1. Về hoàn thiện, sửa đổi chính sách bồi thường thiệt hại. 
Về nguyên tắc, việc hoàn thiện, sửa đổi chính sách bồi thường thiệt hại 
phải đáp ứng quyền lợi chính đáng của người bị thu hồi đất, quyền lợi của Nhà 
nước và của nhà đầu tư, đồng thời thể hiện tính kiên quyết của Nhà nước trong 
việc thực hiện quyền của mỡnh đối với việc thu hồi đất để xây dựng, phát triển 
đất nước và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn. Các chính sách này cũng phải được 
phân cấp mạnh cho chính quyền cấp Quận, Huyện, phường, xó trong việc chịu 
trỏch nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của phương án và việc quyết 
định phê duyệt phương án đó. 
Yếu tố quyết định của việc bồi thường thiệt hại, đó là chính sách về giá 
bồi thường thiệt hại về đất, chính sách tái định cư và tính cương quyết của Nhà 
nước trong việc thực thi phương án bồi thường thiệt hại đó được phê duyệt. 
1.1. Về thay thế khung giá các loại đất. 
Cho tới nay, khung giá các loại đất trên địa bàn đó cú nhiều bất cập, 
khụng cũn phự hợp với thực tế và cần thiết phải cú sự điều chỉnh, bổ sung. 
Về giá các loại đất, phương pháp xác định hiện nay cũn mang nặng tớnh 
hành chớnh, chủ quan, chưa phản ánh đúng thực chất giá trị quyền sử dụng đất, 
vỡ vậy ảnh hưởng nhiều đến việc thu hồi đất, cản trở quá trỡnh thực hiện cỏc 
dự ỏn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, làm tăng giá trị sử dụng đất, đầu tư phát 
triển mà trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần tháo gỡ nhằm thu hút được vốn 
đầu tư, đẩy nhanh quá trỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 
Giá đất không được xác định chính xác cũn làm thiệt hại cho Nhà nước 
khi khai thác các nguồn tài chính về đất đai (các khoản thuế), vỡ cỏc khoản thu 
này khụng thể cao hơn giá trị quyền sử dụng đất. 
Trong trường hợp định giá đất thấp, người bị thu hồi sẽ phản ứng (có thể 
quyết liệt ), cũn người được giao đất lại chấp thuận (nếu như phải nộp tiền sử 
dụng đất) nhưng dễ phát sinh tiêu cực và sử dụng lóng phớ, như vậy nhỡn tổng 
quan thỡ Nhà nước bị thiệt. 
Do đó, cần có nghiên cứu, khảo sát một cách toàn diện để có phương 
pháp xác định giá đất theo pháp lệnh về giá của Nhà nước, xác định giá đất 
một cách công khai, căn cứ theo từng loại đất, hạng đất, từng vùng và mức độ 
hoàn thiện cơ sở hạ tầng đô thị hay việc phải đầu tư để có được cơ sở hạ tầng 
hoàn chỉnh.... để làm cơ sở tính chính xác các loại đất. 
Chính phủ cần sớm có văn bản sửa đổi khung giá quy định tại Nghị định 
87/1994/NĐ-CP ngày 17/8/1994 vỡ theo thực tế bõy giờ, khung giỏ đó quỏ xa 
rời thực tế, khụng đáp ứng được mức giá của thị trường thực tế chuyển 
nhượng. Theo đó từng cấp, ngành khác nhau sẽ có căn cứ để sửa đổi bổ sung 
lại mức giá trên địa bàn của mỡnh đang áp dụng. 
Theo ý kiến chủ quan của em, thỡ Nhà nước cần phải lập cơ quan định giá 
bất động sản và cơ quan này có trách nhiệm định giá đất thường xuyên theo 
từng thời điểm, từng vị trí, đặc biệt phải phù hợp với giá chuyển nhượng thực 
tế tại địa phương (tức giá thị trường) để áp dụng khi bồi thường. Thông 
thường, giá đất bồi thường thiệt hại là giá chuyển nhượng trước khi có dự án 
được thực hiện chứ không thể là giá đũi hỏi, bắt bớ đối với dự án khi Nhà nước 
quyết định xây dựng công trỡnh. 
Nghiên cứu phương pháp định giá đất phù hợp với thực tế nhưng vẫn bảo 
đảm tính khoa học. Cần khẳng định rằng định giá đất là một bộ mụn khoa học 
vừa mang tớnh kinh tế vừa mang tớnh xó hội. Do đó công tác tiến hành định 
giá bất động sản trong nền kinh tế thị trường phải được xác định là một nghề, 
mà đó là một nghề cần phải xõy dựng nguyờn tắc, tiờu chuẩn, chuẩn mực và 
phương pháp xác định thống nhất. Để xác định và đưa ra được giá đất phù hợp 
với thực tế, cần xem xét, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá đất, nghiên 
cứu từng nhân tố tác động trực tiếp đến sự biến động của giá đất. đó là : 
+ Nhân tố ảnh hưởng về khả năng đầu tư cơ sở hạ tầng; 
+ Nhân tố về khả năng hỡnh thành cỏc cụng trỡnh dịch vụ; 
+ Nhân tố về khả năng sử dụng đất theo mục đích và yêu cầu khác nhau; 
+ Nhân tố về khả năng phân loại đô thị theo quy mô và vị trí địa lý; 
+ Nhân tố về khả năng phát triển ngành nghề truyền thống; 
Hiện nay trên thế giới xác định giá bất động sản thường sử dụng 5 
phương pháp: Phương pháp so sánh, phương pháp chi phí, phương pháp thặng 
dư, phương pháp thu nhập, phương pháp lợi nhuận. Đối với nước ta việc xác 
định giá bất động sản trong bồi thường GPMB không những cần công khai, 
minh bạch, công bằng mà cũn phải dựa trờn những phương pháp xác định khoa 
học. Do vậy, phải tuỳ theo mục đích và loại bất động sản mà lựa chọn một 
trong những phương pháp thích hợp đó nờu trờn để xác định giá bất động sản 
trong việc bồi thường GPMB. Chỉ có trên cơ sở xác định giá bất động sản một 
cách khoa học, thay thế cho cách định giá như hiện nay thỡ cỏc vụ tranh chấp 
khiếu kiện về bồi thường , giải toả mới được giải quyết nhanh chóng. 
1.2. Chính sách bồi thường thiệt hại về đất. 
Theo quy định hiện hành, đất ở (nhất là khu dân cư nông thôn) chưa được 
quy định cụ thể, thế nào là đất ở và đất vườn mà hai loại này lại có trong một 
thửa đất, sẽ thật khó xác định nếu chủ sử dụng bị thu hồi một phần thửa đất thỡ 
sẽ lấy căn cứ nào để xác định đâu là đất ở, đâu là đất vườn? Vấn đề này cũn 
phải chờ quy định mới của Chính phủ. 
Việc bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp, lâm nghiệp cần xem xét và 
phân hạng cụ thể tại thời điểm thu hồi,không nên dựa vào hạng đất khi họ được 
giao đất vỡ thực tế trong quỏ trỡnh sử dụng đất, chủ hộ đó đầu tư, thâm canh, 
nâng cao giá trị đất so với trước khi được giao đất. 
Ngoài các yếu tố nêu trên, giá bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp 
xem xét theo từng vành đai quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Hà Nội. Có 
như vậy, thành phố sẽ có mặt bằng chính sách giá đất nông nghiệp theo một 
phạm vi tương đối đồng đều. 
Hệ số K giá đất xác định bồi thường đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp 
được xác định chung cho địa bàn từng huyện, có xét đến yếu tố hỡnh thành 
đường vành đai theo quy hoạch của Thành phố cụ thể như sau: 
+ Đất nông nghiệp, lâm nghiệp các xó nằm trong đường vành đai III 
thuộc các huyện Thanh Trỡ- Từ Liờm : ỏp dụng hệ số K từ 2,5- 2,7 
+ Đất nông nghiệp, lâm nghiệp các xó cũn lại thuộc cỏc huyện Thanh trỡ, 
Từ Liờm và cỏc xó nằm trong đường vành đai III thuộc các huyện Gia Lâm, 
Đông Anh : áp dụng hệ số K từ 2,3 - 2,5. 
+ Đất nông nghiệp, lâm nghiệp các xó cũn lại thuộc cỏc huyện Gia Lõm, 
Đông Anh : áp dụng hệ số K từ 2,0 -2,3 . 
+ Đất lâm nghiệp, nông nghiệp thuộc huyện Sóc Sơn áp dụng hệ số K từ 
1,8-2,0. 
Đối với dự án sử dụng đất giáp ranh, căn cứ thực tế, UBND huyện xem 
xét để trỡnh UBND Thành phố phờ duyệt. 
Đất nông nghiệp trong đô thị và đất nông nghiệp nhỏ lẻ, xen kẽ trong khu 
dân cư nông thôn đề nghị được xác định bằng giá bồi thường đất nông nghiệp 
hạng I cộng thêm một khoản tối đa không quá 30% chênh lệch giữa giá đất ở 
liền kề và đất nông nghiệp hạng I. 
Đối với đất nông nghiệp mà UBND xó cho thuờ, đấu thầu, các cơ quan 
Nhà nước cần có hướng dẫn cụ thể việc xác định chi phí đầu tư vào đất, để từ 
đó xác định số tiền bồi thường thiệt hại cho chủ sử dụng đất. 
Việc bồi thường thệt hại về đất ở bằng cách giao đất tại khu tái định cư 
nên xem xét theo quy hoạch và định mức giao đất ở của Thành phố, như vậy 
mới đảm bảo đồng bộ về quy hoạch- kiến trúc, đồng thời khi lập dự án cũng 
như xác định nhu cầu tái định cư dễ dàng hơn. 
Việc xem xét nguồn gốc đất để tính mức bồi thường thiệt hại, phải có 
quan điểm lịch sử để giải quyết. Nên áp dụng hỡnh thức của tổ chức ngân hàng 
thế giới, cứ thu hồi là phải bồi thường, chỉ cần xác định thời điểm thu 
hồi(không có tranh chấp,không phải đất lấn chiếm), mọi trường hợp nhảy dù 
sau thời điểm lập danh sách là không được bồi thường, như thế sẽ tránh được 
rất nhiều rắc rối trong việc xác định nguồn gốc đất, hơn nữa đảm bảo được 
công bằng trong xó hội. Tại vỡ thường khi bị GPMB thỡ đối với người bị thu 
hồi đất đó là một tai hoạ, mọi đối tượng sử dụng đất đều có quyền bỡnh đẳng 
như nhau, không nên phân biệt có thâm niên từ bao giờ, cái quan trọng là các 
cấp cơ sở phải quản lý quỹ đất thật chặt chẽ, kiên quyết đối với các trường hợp 
lấn chiếm, nhảy dù, chuyển đổi sai mục đích sử dụng quy định của Nhà nước 
ngay từ đầu. Có như vậy thỡ cụng tỏc bồi thường sẽ rất nhanh và không mất 
nhiều thời gian trong việc tỡm hiểu nguồn gốc đất, tránh được khiếu kiện. 
1.3 Về bồi thường thiệt hại tài sản trên đất. 
Về cơ bản, chính sách bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất như hiện nay 
đó được phần lớn người bị thu hồi đất chấp nhận. Tuy nhiên, trong chính sách 
tới đây, việc xác định tính hợp pháp của nhà ở và tài sản khác có trên đất để 
bồi thường thiệt hại cần được quy định rừ ràng hơn, đặc biệt đối với đất trong 
hành lang xây dựng các công trỡnh như đê điều, đường giao thông lớn... 
Đối với cỏc cụng trỡnh trờn đất nên bồi thường theo giá xây dựng mới và 
cộng thêm khoản tiền công phải bỏ ra sửa chữa phần cũn lại của cụng trỡnh, 
hoặc đối với công trỡnh phải làm mới toàn bộ thỡ ngoài tiền bồi thường theo 
giá nguyên vật liệu cũn phải cộng thờm phần chi phí cho công lao xây dựng 
mới. Bồi thường 100% với tất cả các loại nhà ở xây dựng không vi phạm hành 
lang an toàn các công trỡnh và trước ngày công bố quy hoạch theo đơn giá xây 
dựng mới đó được quy định; chỉ trừ phần giá trị vật liệu có khả năng thu hồi và 
tháo dỡ được và phần sử lý phạt hành chớnh khi xõy dựng trỏi phộp và khụng 
phộp. 
Đối với nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước nên được bồi thường theo mức quy 
định như các trường hợp nhà bỡnh thường (100%), để đảm bảo công bằng 
không lên áp dụng mức bồi thường như hiện nay là 60%, như thế rất thiệt. 
Đối với mồ mả, Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ công di chuyển cao 
hơn nữa, sát với giá thực tế của các Ban quản lý nghĩa trang quy định, và có 
chính sách thưởng cho hộ nào di chuyển đúng tiến độ. 
Đối với cây cối, hoa màu: nờn bói bỏ phương thức bồi thường dựa vào số 
liệu kiểm đếm chủng loại, số lượng đối với cây hoa màu hàng năm, vật nuôi 
trên đất có mặt nước khi Nhà nước thu hồi. Giá trị bồi thường cây cối hoa màu 
được xác định căn cứ vào giá trị sản lượng bỡnh quân trên địa bàn Thành phố 
thu hoạch trong một năm bằng tiền trên 01 ha do Cục thống kê công bố. Đối 
với các loại cây mà phải tính giá trị bằng số lượng cây thỡ bồi thường theo quy 
chuẩn số lượng cây/m2 phân loại các cây đặc chủng theo vùng để bồi thường. 
Đặc biệt đối với cây cảnh nên có sự khảo giá thực tế để lập phương án bồi 
thường, hạn chế thiệt hại cho dân. 
2. Về chính sách tái định cư. 
Như đó phõn tớch ở trờn, Thủ đô Hà Nội với nhu cầu sử dụng đất ngày 
càng tăng, diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, cho nên cần phải hạn chế 
đến mức thấp nhất việc giao đất tái định cư đô thị, mà chỉ được bồi thường 
thiệt hại bằng tiền, bán nhà chung cư tại các khu đô thị mới hoặc tại các khu 
nhà ở được xây dựng để phục vụ công tác di dân, giải phóng mặt bằng. 
Việc các hộ dân được mua nhà ở đâu, các thông số kỹ thuật cơ bản của 
ngôi nhà như thế nào, chủ đầu tư và Hội đồng giải phóng mặt bằng quận, 
huyện phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết ngay từ khi tổ chức điều tra, 
lập phương án bồi thường thiệt hại. 
Đối với các khu dân cư nông thôn, việc tổ chức tái định cư có thể thông 
qua việc giao đất cho các hộ tự xây dựng nhà ở tại các khu tái định cư đó 
chuẩn bị đầy đủ cơ sở hạ tầng. Mức giao đất tái định cư nên công bằng với 
mức giao đất dón dõn và coi mức giao đất dón dõn làm chuẩn để nghiên cứu, 
thiết kế, lập dự án sử dụng đất và xây dựng khu tái định cư. 
Việc lập phương án tái định cư cần được xem xét ngay trong quá trỡnh 
nghiờn cứu, lập dự ỏn đầu tư và là điều kiện quan trọng giúp giảm thiểu tối đa 
các tác động tiêu cực của dự án đối với người bị thu hồi đất và những đối 
tượng bị ảnh hưởng khác bởi dự án. 
Về quỹ nhà tái định cư, thực tế cho thấy dự án nào chuẩn bị tốt công tác 
tái định cư, dự án đó gặp nhiều thuận lợi trong việc bồi thường, GPMB. Quỹ 
nhà tái định cư phải được chuẩn bị trước, song song với việc nghiên cứu lập dự 
án khả thi. Cũng có thể Thành phố ứng vốn trước để mua nhà, hoặc tạo các 
khu tái định cư có đầy đủ cơ sở hạ tầng, khi các dự án triển khai mà sử dụng 
quỹ nhà đất này thỡ chủ dự ỏn phải thanh toán lại các chi phí mà Thành phố đó 
ứng trước. 
Nhà nước cần tạo ra một số quỹ đất ở nhất định để đáp ứng nhu cầu ở của 
người bị thu hồi đất, bằng một số biện pháp sau : 
+ Kiểm kê và tăng cường quản lý số đất chưa sử dụng, căn cứ vào quy 
hoạch đô thị đó được duyệt để xem xét có thể sử dụng một phần phục vụ cho 
việc xây dựng nhà tái định cư để bồi thường cho người bị GPMB. 
+ Rà soát lại những diện tích đất đó cấp cho cỏc doanh nghiệp để xây 
dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ trong thành phố, nhưng nhiều 
năm chưa tiến hành xây dựng thỡ kiờn quyết thu hồi lại theo Điều 26 Luật đất 
đai, để làm quỹ đất ở. Nếu các doanh nghiệp sau này cần đất thỡ chuyển cho 
thuờ đất trong các khu công nghiệp mà hiện nay nhiều khu cũn rất nhiều đất 
đai bỏ không. 
+ Rà soát lại đất đó cho xớ nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp mà đến 
nay sử dụng chưa hết, cũn để lóng phớ, nếu quy hoạch cho phộp để làm đất ở. 
Với 3 loại đất nêu trên, trên các phương tiện thông tin đại chúng đó đề 
cập, Thành phố Hà Nội vẫn cũn khỏ nhiều nếu quản lý tốt đất này và kiên 
quyết thu hồi để sử dụng cho có hiệu quả hơn chắc chắn sẽ tạo ra đựơc quỹ đất 
ở khá lớn. 
+ Cần phải chuyển một bộ phận đất sản xuất nông nghiệp sang quỹ đất ở, 
giao cho các công ty kinh doanh xây dựng nhà ở quản lý theo cỏc dự án như 
đang tiến hành. Có nhiều các dự án xây dựng các khu nhà ở được hoàn chỉnh 
về cơ sở hạ tầng, môi trường sống tốt hơn, điều kiện sinh hoạt được cải thiện, 
điều kiện kinh doanh có sẽ thu hút được mọi đối tượng bị thu hồi đất vào khu 
nhà ở này. 
+ Giao cho công ty kinh doanh phát triển nhà ở nghiên cứu dự án chuyển 
một số xí nghiệp sản xuất nằm trong Thành phố gây ô nhiễm môi trường ra các 
khu công nghiệp bằng hỡnh thức bồi thường, thu hồi đất để xây dựng các dự 
án nhà ở cao tầng hoặc phân lô theo kiểu nhà mặt phố. 
Các dự án phải được tính toán kỹ giá trị bồi thường di chuyển xí nghiệp 
sản xuất phải thấp hơn hoặc bằng giá trị của đất trong thành phố nơi xí nghiệp 
sản xuất hiện ở, đảm bảo cho đơn vị kinh doanh phát triển nhà ở không lỗ, lại 
vừa giải quyết được nạn ô nhiễm môi trường. Nếu có lỗ chút ít Nhà nước nên 
hỗ trợ vỡ lói ở cỏc mặt khỏc về mụi trường và sức khoẻ cộng đồng. Với dự án 
này cần phải có nhiều ngành và có các chính sách đồng bộ hỗ trợ mới đem lại 
hiệu quả. 
Về giá nhà, đất tái định cư, đây là vấn đề phức tạp.Trước đây, các ngành 
của thành phố đều giải quyết theo hướng tăng giá bồi thường thiệt hại tại nơi đi 
(để nhân dân nhận được nhiều tiền bồi thường thiệt hại ) và giảm giá tại nơi 
đến (để dân đở thiệt thũi), như vậy vừa tạo ra sự bất công bằng, vừa thất thu 
ngân sách lại tạo ra cung cách làm tuỳ tiện, đồng thời khiếu kiện, tố cáo của 
dân lại không giảm. Nay với phương thức bồi thường thiệt hại căn cứ vào giá 
bồi thường thiệt hại thực tế của thị trường thỡ giỏ đất tại khu tái định cư cũng 
xem xét đến yếu tố thị trường. 
Về giá nhà tại các khu tái định cư đô thị, hiện nay cũn nhiều tranh luận 
nờn ỏp dụng mức giỏ nào ? giỏ xõy dựng (đơn thuần các chi phí xây dựng) 
hay đảm bảo kinh doanh (có yếu tố hạ tầng và chi phí quản lý dự ỏn) hay giỏ 
kinh doanh? Theo nghiên cứu của đề tài thỡ là giỏ xõy dựng cụng trỡnh đó, 
cũn chi phớ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xó hội là trỏch nhiệm của Nhà đầu tư, 
hoặc của Nhà nước phải bỏ chi phí này ra. Điều này thực chất là công bằng xó 
hội, nếu cụng dõn được giao đất để xây dựng nhà ở tại các khu tái định cư, họ 
phải nộp tiền sử dụng đất có xem xét yếu tố thị trường và được khấu trừ các 
chi phí để đầu tư xây dựng các công trỡnh hạ tầng ký thuật của khu vực đó. 
Không chỉ dừng lại ở việc bố trí nơi ở mới- tái định cư, việc khôi phục 
cuộc sống cũng như tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất có nguồn thu nhập 
mới cũng là vấn đề cần quan tâm, điều này không những được coi là trách 
nhiệm của chủ đầu tư mà cũn là trỏch nhiệm cả của chớnh quyền địa phương, 
Hội đồng giải phúng mặt bằng. 
Về ổn định cuộc sống cho người phải di chuyển đến khu tái định cư, 
người Việt Nam có câu: “ An cư mới lạc nghiệp ” hay “ Một năm làm nhà, ba 
năm trả nợ ”. Người dân có nhà ở nằm trong phạm vi giải toả , đặc biệt từ khi 
bắt đầu tổ chức thực hiện cụng tỏc giải phúng mặt bằng thỡ họ bắt đầu phấp 
phỏng chờ đợi , lo âu, mọi hoạt động sản xuất và đầu tư bị suy giảm , đỡnh 
đốn. Tiếp đó là quá trỡnh chuyển cư đầy gian nan vất vả. 
Trong thời kỳ này, mọi hoạt động sản xuất hầu như bị gián đoạn . Tại các 
khu tái định cư, người dân bắt đầu tạo lập lại cuộc sống từ đầu. Trong suốt cả 
thời gian dài và đầy biến động như vậy, thu nhập của người dân chuyển cư bị 
giảm sút, trong khi mọi chi phí tăng lên. Nếu việc bồi thường từ phía chủ dự án 
đầu tư không làm tốt, nếu thiếu sự trợ giúp từ phía Nhà nước và toàn xó hội, 
đời sống của người dân phải di chuyển sẽ gặp nhiều khó khăn. 
Như vậy, việc ổn định và phát triển sản xuất, đời sống cho người dân phải 
di chuyển là một nhu cầu tất yếu khách quan, một mặt đảm bảo cho người dân 
bị ảnh hưởng do bị thu hồi đất có cuộc sống tốt hơn hoặc ít nhất bằng trước lúc 
chuyển cư, mặt khác như là một biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa những 
hậu quả xấu về kinh tế, xó hội , mụi trường mà quá trỡnh tỏi định cư có thể 
đưa lại. Đây cũn là một cụng việc mang tớnh phỏp lý và đạo lý xó hội. 
ở các khu dân cư nông thôn , tâm lý “dõn ngụ cư” vẫn cũn, do vậy ,việc 
bố trớ khu tỏi định cư hạn chế tới mức thấp nhất việc chuyển dân từ thôn này 
sang thôn khác, từ xó này sang xó khỏc để sinh sống. Nếu di chuyển cả một số 
lượng dân cư lớn cần xem xét cả tới việc xây dựng các công trỡnh cụng cộng, 
tớn ngưỡng, không tạo cho người dân cảm giác bị hẫng hụt. 
Đối với khu dân cư đô thị , nếu việc di chuyển dân đang sinh sống ở mặt 
phố tới các khu tái định cư là chung cư, cần xem xét cho họ được sử dụng các 
công trỡnh dịch vụ tại khu tỏi định cư để sớm tái tạo thu nhập , ổn định cuộc 
sống. 
3. Về cụng tỏc tổ chức thực hiện 
3.1. ở cấp thành phố 
Uỷ ban Nhân dân Thành phố là cấp chỉ đạo cao nhất về bồi thường, giải 
phóng mặt bằng , tái định cư trên địa bàn, chịu trách nhiệm về mặt bằng chính 
sách bồi thường thiệt hại , tái định cư. 
Trong dự thảo của Thành phố trỡnh Chớnh phủ sắp tới, đề nghị việc phê 
duyệt phương án bồi thường thiệt hại , tái định cư được phân cấp cho Chủ tịch 
UBND quận , huyện nơi có đất bị thu hồi. Việc phân cấp như vậy vừa gắn 
trách nhiệm của Chủ tịch UBND quận, huyện đối với phương án bồi thường 
thiệt hại, vừa giảm gánh nặng cho UBND Thành phố, trong khi vừa phê duyệt 
chính sách, lại phải phê duyệt chính phương án bồi thường thiệt hại đó. 
3.2. ở cấp quận , huyện . 
Công việc chính về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư là ở cấp 
quận ,huyện, ở đây vừa quyết định phê duyệt phương án, vừa tổ chức thực hiện 
phương án, cưỡng chế thực hiện phương án bồi thường thiệt hại được duyệt và 
giải quyết khiếu nại lần đầu của công dân đối với phương án đó. Đồng nghĩa 
với việc này là tại cấp quận , huyện phải tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên 
trách làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng . 
3.3. Cấp phường xó 
Là nơi cung cấp tính hợp pháp về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà 
và các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại ; tuyên truyền nhân dân chấp 
hành chính sách và cùng các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện việc cưỡng 
chế thu hồi đất, giải phóng mặt bằng . 
3.4. Trách nhiệm của chủ đầu tư 
Chủ đầu tư phải có tiếng nói trong việc lập phương án bồi thường thiệt hại 
, phải có nhiều kinh nghiệm trong công tác này và tổng hợp đề xuất các chính 
sách hợp tỡnh hợp lý ; chuẩn bị tốt quỹ nhà đất tái định cư và chủ động chi phí 
bồi thường thiệt hại . 
3.5. Về giải quyết khiếu kiện đối với phương án bồi thường, GPMB. 
Khi có đơn thư khiếu kiện Chủ tịch UBND các quận, huyện chỉ đạo xem 
xét và quyết định giải quyết là phù hợp với các quy định của luật khiếu nại , tố 
cáo ( quyết định giải quyết lần đầu ). 
Nhằm giảm bớt công việc của cơ quan hành chính Nhà nước đối với 
khiếu nại lần sau, mặt khác đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đề nghị 
chuyển lên toà án giải quyết. Tại quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của 
UBND quận, huyện cần quy định rừ việc khiếu nại tiếp theo sẽ do cơ quan toà 
án giải quyết . 
3.6. Về chính sách đào tạo nguồn nhân lực 
Để tăng cường năng lực cho các cán bộ liên quan tới công tác bồi thường 
thiệt hại , GPMB , trước hết cần nâng cao nhận thức chính sách pháp luật cho 
những người làm công tác trên và nối công tác này với các mặt quản lý nhà 
nước cũng như sự công bằng xó hội . Vỡ vậy, cựng với việc nghiờn cứu, hoạch 
định chính sách Thành phố Hà Nội cũng cần có chương trỡnh cơ bản đào tạo 
cán bộ thực hiện chính sách, từ việc điều tra, lập phương án bồi thường thiệt 
hại đến kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện phương án đó, tạo đội ngũ 
làm công tác bồi thường , GPMB có năng lực , trỡnh độ và phẩm chất chính 
trị, đạo đức tốt. 
Về nội dung đào tạo chủ yếu là các chính sách bồi thường, GPMB, tái 
định cư, giải quyết khiếu nại của công dân có liên quan ....Tuỳ theo đối tượng 
đào tạo mà nội dung có thể mở rộng hay rút gọn. Đối với cán bộ cấp thành phố 
cần tăng cường đào tạo về mặt chính sách, cũn đối với cán bộ cấp xó thỡ quan 
tõm nhiều tới việc xỏc nhận hồ sơ, tính pháp lý về quyền sử dụng đất, quyền sở 
hữu nhà ở và cỏc cụng trỡnh trờn đất... 
3.7. Thành lập cơ quan nghiên cứu và quản lý thị trường bất động sản 
Đây là vấn đề mà tại kỳ họp Quốc hội vừa rồi cũng được đem ra thảo 
luận. Việc quản lý thị trường này vừa thể hiện chức năng quản lý của nhà nước 
, vừa sử dụng làm công cụ để Nhà nước điều tiết lại chính thị trường đó cho 
các định hướng chiến lược của Nhà nước. 
Riờng trong cụng tỏc quản lý đất đai, bồi thường, GPMB , việc quản lý 
được thị trường Bất động sản có tác dụng cực kỳ to lớn , đó là xác định được 
chính xác giá trị của tài sản đặc biệt là đất đai khi nhà nước thực hiện các 
quyền và nghĩa vụ của mỡnh theo luật đất đai và các quy định của bộ luật dân 
sự ( Thu tiền quy ra đất, tính các loại thuế thu từ đất , bồi thường thiệt hại về 
đất, chống thất thu trong ngân sách và hạn chế các tiêu cực nảy sinh trong quá 
trỡnh quản lý Nhà nước về đất đai ...). 
3.8.Về chính sách hậu GPMB đối với nông dân khi nhà nước thu hồi đất 
nông nghiệp 
Đây là vấn đề rất mới đang được UBND Thành phố bàn bạc và trong giai 
đoạn nghiên cứu, dự thảo lấy ý kiến đóng góp. 
+ Chính sách hỗ trợ đào tạo chuyển nghề cho những lao động nông 
nghiệp bị thu hồi đất : Mức hỗ trợ đào tạo chuyến nghề được xác định trên một 
m2 đất nông nghiệp, đất nông nghiệp thực tế bị thu hồi và áp dụng chung trên 
địa bàn thành phố . Căn cứ số liệu liên giám thống kê về sản xuất nông nghiệp 
ở Hà Nội, giá trị sản lượng sản xuất nông nghiệp bỡnh quõn của thành phố tính 
đến năm 2005 ước đạt khoảng 37,48 triệu đồng/1 ha/năm . Do đó, đề nghị mức 
hỗ trợ đào tạo chuyển nghề là : 37,48 triệu đồng/ha/năm x 30% x 20 năm = 
224,48 triệu đồng/ha/năm ; làm trũn bằng 22500 đồng/m2 .Ngoài cách tính như 
vậy Thành phố cần xem xét nghiên cứu cách tính theo chi phí để đào tạo được 
một công nhân lành nghề ít nhất là trung cấp; tính chi phí từng tháng và nhân 
với số tháng phải học nghề; có lẽ đây mới là khoản hỗ trợ sát thực nhất, chính 
xác nhất, đúng nghĩa nhất. 
+ Chớnh sách giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi 
đất. 
Việc giải quyết việc làm là một giải pháp căn bản mang tính nhân văn 
nhằm giải quyết triệt để nguy cơ thất nghiệp, cũng như các vấn đề xó hội phức 
tạp khỏc đối với lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất (tư liêụ sản xuất 
chính), giúp cho họ và gia đỡnh họ cú một chỗ đứng mới, tạo điều kiện để họ 
có nghề nghiệp, cuộc sống ổn định lâu dài trong nền sản xuất công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá. Trách nhiệm giải quyết việc làm cho lao dộng nông nghiệp bị thu 
hồi đất trước tiên thuộc về các chủ đầu tư dự án sản xuất kinh doanh có sử 
dụng đất nông nghiệp. Trách nhiệm này phải được coi trọng là một chỉ tiêu 
quan trọng đánh giá hiệu quả đầu tư của dự án về mặt tiến bộ xó hội ngay từ 
khõu thẩm định, xét duyệt cho triển khai dự án sản xuất kinh doanh. Căn cứ số 
liệu niên giám thống kê năm 2001; Từ năm 1996 đến năm 2010 Thành phố Hà 
Nội sẽ thu hồi gần 14.000 ha đất nông nghiệp phục vụ cho các dự án đầu tư 
phát triển đô thị, sản xuất kinh doanh... và sẽ có khoảng 125.000 lao động nông 
nghiệp trong độ tuổi không cũn đất để sản xuất nông nghiệp. Như vậy, trừ 
phần diện tích thu hồi sử dụng cho mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển 
đô thị, mỗi một ha đất nông nghiệp sử dụng cho dự án sản xuất kinh doanh, 
chủ dự ỏn phải đào tạo, tuyển dụng ớt nhất : 
125.000/14.000 ha = 9 lao động nông nghiệp trong độ tuổi tại địa phương 
bị thu hồi đất nông nghiệp. 
Để có kế hoạch lâu dài và chủ động trong khâu giải quyết việc làm cho 
người lao động thông qua các chương trỡnh hướng nghiệp và dạy nghề, tạo 
điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững của Thành phố, cần có chủ 
trương nghiên cứu Thành phố lập quỹ giải quyết việc làm để hỗ trợ cho nông 
dân bị thu hồi đất sản xuất học nghề, hướng nghiệp, nguồn thu từ các dự án 
đầu tư có mục đích kinh doanh, tiền thuê đất theo quy định chung. Các dự án 
phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch trên địa bàn phải ưu tiên tuyển dụng 
lao dộng là người địa phương nơi sử dụng đất. 
* Các ưu điểm của giải pháp trên; 
+ Giúp cho công tác bồi thường thiệt hại trên địa bàn Thành phố được 
thực hiện tốt hơn, đảm bảo được sự chính xác trong công tác đền bù, tránh 
được các khiếu kiện đông người. 
+ Đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, công tác di dân tái định cư, 
ổn định cuộc sống cho người bị ảnh hưởng. 
+ Tạo được một tương lai tốt cho người bị mất đất, đặc biệt là mất đất 
nông nghiệp, tránh được một mối hiểm hoạ rất lớn, đó là nạn thất nghiệp và tệ 
nạn xó hội. 
+ Hoàn thiện chính sách, giúp Nhà nước có biện pháp quản lý đất đai tốt 
hơn và Thành phố ngày càng được xây dựng đẹp hơn, hiện đại hơn. 
+ Là tài liệu để các nhà hoạch định chính sách, học hinh, sinh viên và các 
bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực giải phóng mặt bằng tham khảo. 
Kết luận 
Dù bất kỳ ở giai đoạn nào của quá trỡnh phỏt triển đất nước, các chính 
sách pháp luật của Nhà nước ta đều bảo đảm hai mục tiêu: Đáp ứng nhu cầu 
phát triển của đất nước, bảo vệ quyền hợp pháp của công dân. Các chính bồi 
thường giải phóng mặt bằng của nước ta cũng vậy. Đáp ứng được nhu cầu xây 
dựng, đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, đồng thời bảo vệ quyền 
lợi của người sử dụng đất, bảo đảm sự ổn định xó hội. 
Theo Luật đất đai 1993 thỡ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng pháp 
luật đó cho phộp đất đai tham gia chuyển dịch trong giao lưu dân sự. Do vậy 
việc bồi thường, GPMB khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề nhạy cảm, liên 
quan đến đời sống, việc làm của nhiều người và là vấn đề ảnh hưởng không 
nhỏ đến ổn định chính trị- xó hội. So với những chớnh sỏch bồi thường trước 
đây, chính sách bồi thường từ khi có Luật đất đai 1993 ra đời đó thay đổi hẳn 
về bản chất. Pháp luật đó thừa nhận đất đai có giá và tham gia lưu chuyển 
trong lưu thông dân sự. Như vậy khi lập phương án bồi thường , vấn đề quan 
trọng là bồi thường về đất (bồi thường cây cối, hoa màu chỉ chiếm tỷ trọng 
nhỏ) và tái định cư. Trong thời gian vừa qua, cả nước nói chung và Hà Nội nói 
riêng đẫ thực hiện triển khai rất nhiều dự án, nhằm thúc đẩy kinh tế đất nước 
phát triển, mà theo đó chính sách bồi thường , GPMB đóng vai trũ then chốt 
trong việc Nhà nước thu hồi đất để triển khai các dự án đó. 
Tuy nhiên với tốc độ tăng trưởng kinh tế, xó hội như hiện nay; do nhu cầu 
về đất đai của sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và công 
cuộc phát triển Thủ đô nói riêng, các quy định về bồi thường thiệt hại, GPMB 
hiện hành đó dần trở lờn lạc hậu, khụng đáp ứng kịp với sự phát triển chung 
của xó hội; quỏ trỡnh thực hiện gặp khụng ớt những vướng mắc, bất cập và ít 
nhiều là nguyên nhân gây lên những khiếu kiện kéo dài, tốn kém thời gian và 
tiền của, làm ảnh hưởng không ít đến khả năng khai thác tiềm năng tài nguyên 
của đất nước, ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn của các nhà đầu tư. Do vậy 
Thành phố cũng như cả nước cần sớm vào cuộc để có biện pháp khắc phục 
tỡnh trạng trờn. 
Tài liệu tham khảo. 
+ Hiến pháp nước cộng hoà xó hội chủ ngió Việt Nam, 
+ Luật đất đai năm 1988. 
+ Luật đất đai năm 1993. 
+ Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998. 
+ Luật sửa đổi bổ sung một số điều củat Luật đất đai năm 2001 
+ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
+ Văn bản pháp quy về công tác quản lý đất đai ban hành ở Việt Nam. 
+ Các Nghị định quy định của Chính phủ về công tác bồi thường thiệt hại, 
tái định cư, GPMB khi Nhà nước thu hồi đất. 
+ Các văn bản pháp quy của Thành phố Hà Nội ban hành để thực hiện 
công tác quản lý đất đai cúng như thực hiện công tác bồi thường thiệt hại, 
GPMB. 
 + Báo cáo về quỹ nhà đất và kế hoạch xây dựng khu tái định cư từ năm 
2002- 2005. 
 + Báo cáo, đánh giá tỡnh hỡnh thực hiện cụng tỏc GPMB trờn địa bàn 
Thành phố Hà Nội các năm 2001, 2002, 2003. 
 + Giỏo trỡnh Nguyờn lý thị trường bất động sản : chủ biên GS. TSKH 
Lê Đỡnh Thắng. 
+ Cỏc bỏo cỏo của cỏc quận, huyện về tỡnh hỡnh thực hiện cụng tỏc 
bồi thường thiệt hại, GPMB. 
+ Một số tờ trỡnh, Quyết định phê duyệt của UBND Thành phố Hà Nội 
về phương án bồi thường thiệt hại đối với một số dự án trên địa bàn Hà Nội. 
+ Tập hợp các chuyên đề báo cáo hội thảo đề tài giải pháp đẩy nhanh 
công tác GPMB trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 
+ Một số ý kiến tiếp thu từ thực tế và cỏc tài liệu bổ sung khỏc cú liờn 
quan. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Đề tài- Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội.pdf Đề tài- Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội.pdf