Hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm tăng cường hiệu quả phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ em giai đoạn 2005 - 2008

Từ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đến nay, đất nước bước vào quá trình đổi mới và phát triển. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội đất nước có nhiều chuyển biến tích cức. Nền kinh tế phát triển, chính trị ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân, trong đó có phụ nữ và trẻ em được cải thiện. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt mạnh, mặt tích cực, thì cơ chế thị trường và điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi cũng đã bộc lộ những tồn tại và làm nảy sinh một số tệ nạn xã hội – trong đó có tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Ở Việt Nam hiện nay tình hình tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em đang ở mức báo động, với diển biến phức tạp và thủ đoạn ngày càng tinh vi. Theo số liệu ước tính sơ bộ của Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ lao động thương binh xã hội, tính từ năm 2005 đến tháng 6 năm 2008, cả nước có khoảng 1100 vụ buôn bán phụ nữ và trẻ em, trong đó có hơn 2800 nạn nhân bị mua bán. Mua bán phụ nữ và trẻ em là một tệ nạn xã hội phức tạp, liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội, làm xói mòn về đạo đức, chà đạp lên nhân phẩm và quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, phá vỡ hạnh phúc gia đình, gắn liền sau đó là sự gia tăng của căn bện HIV/AISD, nạn rửa tiền, tham nhũng, di cư bất hợp pháp Từ thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành nhiều biện pháp đấu tranh kiên quyết từng bước tiến tới đẩy lùi tệ nạn này khỏi đời sống xã hội. Nhưng trên thực tế, kết quả thu được vẫn còn hạn chế. PHẦN MỞ ĐẦU 2 PHẦN NỘI DUNG 5 Chương 1: TỘI MUA BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 5 1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan) của tôi mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em: 5 2. Tình hình điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2005-2008 19 3. Kết luận. 21 Chương 2: NHỮNG HẠN CHẾ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ TRONG VIỆC CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 24 1. Một số khó khăn vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán phụ nữ, trẻ em 24 2. Một số bất cập của các cấu thành tội phạm quy định tại các Điều 119 và Điều 120 BLHS 25 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NHẲM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 29 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta nhằm đấu tranh phòng, chống tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em. 29 2. Các kinh nghiệm trên thế giới để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội buôn bán phụ nữ, trẻ em hiệu quả. 32 3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. 33 KẾT LUẬN 54 PHỤ LỤC 56 Danh mục tài liệu tham khảo .59

doc58 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm tăng cường hiệu quả phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ em giai đoạn 2005 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình thức phục vụ khác mang mục tiêu lợi nhuận”. Trong định nghĩa này hành vi “cưỡng ép, ép buộc hoặc dùng các hình thức, , thủ đoạn khác” bao gồm cả việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, mua chuộc, dụ dỗ, lừa gạt, thỏa thuận, bắt cóc…đối với nạn nhân để đưa hộ đi nơi khác thực hiện mục tiêu, mục đích của kẻ mua bán. Thứ hai: Qua nghiên cứu tội phạm mua bán phụ nữ (Điều 119) và tội phạm mua bán trẻ em (Điều 120) được quy định trong BLHS tôi thấy rằng hiện nay tình hình mua bán phụ nữ và trẻ em xảy ra tuy không chiếm tỷ lệ lớn nhưng rất nghiêm trọng, nhất là tình trạng đưa nhiều phụ nữ ra nước ngoài để bán, nhận trẻ em làm con nuôi trá hình…Có trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như sau khi bị bán nhiều nạn nhân rơi vào cuộc sống cơ cực nơi xứ người, bị mua đi bán lại qua nhiều lân, bị đẩy vào nhà chứa, ăn xin, thực hiện tội phạm, có người do tuyệt vọng không chịu nổi sự khổ nhục đã tự sát. Bọn mua bán phụ nữ và trẻ em tổ chức thành đường dây móc nối với người nước ngoài và đưa rất nhiều phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài nhằm thu lợi bất chính, dư luận xã hội đòi hỏi phải nghiêm trị những tên cầm đầu, chỉ huy. Nhưng mức hình phạt tối đa của tội mua bán phụ nữ và trẻ em cao nhất cũng chỉ có 20 năm tù. Mặt khác, việc bỏ tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng trong tội này là không thỏa đáng, vì đây là một tội nguy hiểm và dư luận đang quan tâm, người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm cần phải bị xử phạt nặng hơn. Ngoài ra tôi còn thấy những trường hợp mua bán phụ nữ và trẻ em gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng cũng phải coi là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt như trường hợp 17 cô gái mại dâm bị đưa về từ Trung Quốc (ngày 27/6/2000) hiện đang chữa bệnh tại Trung tâm phòng chống tệ nạn tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh đó, khoảng cách mức hình phạt trong một khung hình phạt quá dài, việc quy định hai khung hình phạt ở các Điều 119 và Điều 120 là bất hợp lý. Vì vậy, theo tôi thì tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em được quy định tại Điều 119 và Điều 120 BLHS phải được cơ cấu lại cho hợp lý. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NHẲM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta nhằm đấu tranh phòng, chống tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em. Tội mua bán phụ nữ và trẻ em trên thế giới cũng như ở Việt Nam là một hiện tượng xã hội phức tạp và nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm của nó được thể hiện ở chỗ: kẻ phạm tội đã coi con người nói chung, phụ nữ và trẻ em nói riêng là một thứ hàng hóa có thể mua bán được và đang thực hiện với những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt nhằm mục đích kiếm lợi. Hơn nữa các hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em đã trực tiếp xâm phạm đến nhân phẩm, đạo đức thuần phong mỹ tục của dân tộc ta, xâm phạm đến những quyền cơ bản của con người, gây rối nền an ninh trật tự của đất nước. Chính vì vậy, từ khi giành lại chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta cùng với việc lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã luôn quan tâm đến công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ, chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Đặc biệt, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống các loại tội hạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người nói chung, của phụ nữ, trẻ em nói riêng. Riêng tội mua bán phụ nữ, trẻ em đã được xác định là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 31/7/1998. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là phải huy động sức mạnh tổng hợp của lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp để chủ động phòng ngừa, chủ động tấn công ngăn chặn mọi hàng động phạm tội. Mỗi cơ quan Nhà nước, mỗi tổ chức xã hội và mọi công dân theo chức năng nhiệm vụ, nghĩa cụ của mình đều có trách nhiệm tham gia vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán phụ nữ nói riêng. Trong cuộc đấu tranh này, lực lượng Công an nhân dân xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được giao phải luôn giữ vai trò là những người xung kích, nòng cốt. Điều đó được đặt ra xuất phát từ đặc điểm hoạt động của bọn tội phạm rất tinh vi xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn để đối phó che dấu hành vi phạm tội của chúng, đòi hỏi phải có lực lượng mạnh, chuyên sâu để đối phó với chúng. Hơn nữa, lực lượng Công an nhân dân đã có hệ thống tổ chức vững chắc, qua quá trình đấu tranh đã nắm vững tình hình tội phạm và có kinh nghiệm, biện pháp đấu tranh hữu hiệu, có thể phòng chống, ngăn chặn và điều tra khám phá các hành vi phạm tội xảy ra. Vì vậy, trong chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, Chính phủ đã giao cho Bộ công an thực hiện đề ấn về đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự trong đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng là yêu cầu khách quan, là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác này. Chỉ thị 33/CT-TW cảu Ban bí thư Trung ương Đảng “về chỉ đạo phòng chống tệ nạ xã hội” đã khẳng định: “Phòng chống khắc phục có hiệu quả các tệ nạn xã hội…là nhiệm vụ cấp bách hiện nay mà Đảng và Nhà nước phải kiên quyết lãnh đạo thực hiện…”. Để thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng cần phải quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo dưởi đây của Đảng: Việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải gắn liền với việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, và tội phạm hình sự trong đó có tôi mua bán phụ nữ và trẻ em. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và cảu toàn xã hội dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Nhà nước, nâng cao trách nhiệm, vai trò chủ động của các ngành, các cấp và tầng lớp nhân dân trong công tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Kết hợp công tác phòng ngừa với đấu tranh trấn áp, xử lý các loại tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội trong đó lấy phòng ngừa là chính. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, không ngừng tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, bài trừ ảnh hưởng xấu của văn hóa phẩm độc hại. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, trong đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Xây dựng và thực hiện đồng bộ có hiệu quả các biện pháp phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, từng bước ngăn chặn, tiến tới là giảm dần loại tội phạm trong đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh đó để phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em như: Bộ luật hình sự năm 1999 được xây dựng trên cơ sở BLHS năm 1985, trong đó các điều luật được quy định theo hướng bổ sung một số tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với những người phạm tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2005, thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, trong đó quy định các điều khoản về bảo vệ tính mạng, sức khảo, danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Quyết định số 23/2001/TTg, ngày 26 tháng 02 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Ngoài ra, ngày 23/3/2005, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm trật tự xã hội đã tổ chức hội nghị về “Triển khai chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn 2004-2010”. 2. Các kinh nghiệm trên thế giới để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội buôn bán phụ nữ, trẻ em hiệu quả Hiện nay, vấn đề tình hình buôn bán phụ nữ và trẻ em không chỉ xảy ra ở nước ta mà còn xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu, áp dụng những kinh nghiệm hay trong việc phát hiện, điều tra truy tố, xét xử của các nước là một vấn đề cần thiết. Ở một số nước đã ban hành mới các đạo luật trong đó có quy định các hinhd phạt nghiêm khắc với những kẻ buôn bán phụ nữ và trẻ em như: Tại Campuchia, cuối năm 2007, Quốc hội nước này đã thống nhất thông qua dự luật mới về chống buôn bán người và hoạt động kinh doanh tình dục -  thay thế cho bộ luật cũ được ban hành năm 1996. Dự luật mới được đánh giá là có nội dung phù hợp và đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới trong việc trấn áp các hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em và hoạt động kinh doanh tình dục khá phổ biến ở Campuchia. Dự luật không chỉ giúp bảo vệ phụ nữ và trẻ em mà còn đề cao vị thế, bình đẳng giới cho phụ nữ Campuchia. Hiện nay, nước ta đã hợp tác với Dự án Phòng ngừa Buôn bán Phụ nữ và Trẻ em tại Tiểu vùng Mê Kông của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) kể từ năm 2001 (Giai đoạn I). Năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã ký 2 Văn bản Thỏa thuận cho phép mở rộng Dự án Phòng ngừa buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn II ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Hoạt động tại các khu vực dự án mới này (bao gồm cả Tp Hồ Chí Minh) tập trung vào lĩnh vực phòng ngừa, thông qua nâng cao nhận thức cho các nhóm mục tiêu, đồng thời xác định các yếu tố nguy cơ đối với người di cư lao động ở tại cộng đồng nơi đi và cộng đồng nơi đến thông qua mối quan hệ đối tác với Bộ LĐTBXH, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các đối tác ở các cấp khác. Dự án Phòng ngừa buôn bán phụ nữ và trẻ em của ILO cũng hợp tác với Quĩ Cứu trợ Nhi đồng Anh, Dự án Liên minh các Tổ chức LiênHợp Quốc (UNIAP), Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM) và các tổ chức quốc tế khác vận động cho sự tham gia tư vấn của trẻ em đối với các quyết định chính sách về phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. 3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước với công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội nói chung và tội phạm mau bán phụ nữ và trẻ em nói riêng, căn cứ vào những quy định của pháp luật Việt Nam và trên những cơ sở nghiên cứu về tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em có hiệu quả, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: Về mặt kinh tế - xã hội Có thể nói, trong các giải pháp phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em, giải pháp về kinh tế xã hội được coi là quan trọng nhất. Nó không những làm cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp khác mà còn xóa bỏ tận gốc nguyên nhân và điều kiện cơ bản của tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nguyên tắc của biện pháp này là dùng sức mạnh của kinh tế thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện làm cho tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em phát sinh, tồn tại, bởi vì một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm này là do kinh tế, do nghèo khổ, do không có việc làm… Do vậy, Nhà nước cần có chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp, đặc biệt cần có những chính sách riêng quan tâm đến những nạn nhân của tội phạm này. Cụ thể: Phát triển hơn nữa chương trình dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, chú ý ưu tiên vùng sâu vùng xa, các tỉnh biên giới và các tỉnh đang có loại tội phạm này phát triển mạnh. Xúc tiến nhanh công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông thôn, giuyps chị em phụ nữ ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất. Phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí, vận động các gia đình cho con em đến trường, xóa mù chữ và ngăn chặn tái mù chữ cho nhân dân, đặc biệt cho phụ nữ trong độ tuổi từ 15-35. Từng bước cải thiện sinh hoạt văn hóa tinh thần trong nhân dân, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Cần ban hành ngày các chính sách, các quy định, các quy chế về tuyển dụng lao động và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị Nhà nước, công ty liên quan, tư nhân… trong việc quản lý và sử dụng lao động, đặc biệt là lao động nữ trong mội ngành nghề, dịch vụ như nhân viên khách sạn nhà hang, tiếp viên, vũ nữ. Vì chính những kẽ hở trong vấn đề này mà trong thời gian vừa qua, là một nguyên nhân không nhỏ làm gia tăng tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Các tổ chức xã hội, các ngành, các cơ quan chức năng tạp điều kiện cho các nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng, giúp họ đoạn tuyệt với quá khứ, xóa bỏ mặc cảm giữa họ và gia đình, xã hội, tránh bị lừa bán trở lại, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho họ như: trợ giúp vốn ban đầu, công cụ, phương tiện lao động, cây trồng, vật nuôi, giúp kỹ thuật công nghệ, giúp tiêu thụ sản phẩm… để họ tạo dựng lại cuộc sống bình thường. Việc tạo điều kiện cho các nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng chính là góp phần làm tăng cái đẹp, giảm bớt cái xấu để xây dựng cuộc sống ngày càng tươi đẹp. Song song với các biện pháp kinh tế ở cấp độ xã hội, thì giải pháp kinh tế ở cấp độ gia đình cũng hết sức quan trọng và cần thiết. Nó tác động trực tiếp vào việc hạn chế nguy cơ trở thành nạn nhân của hoạt động mua bán phụ nữ và trẻ em, và hạn chế sự gia tăng đối tượng phạm tội của tệ nạn này. Vì thế, một giải pháp cơ bản để đẩy lùi tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em là cần vận hành tốt chức năng kinh tế của gia đình, nhưng đồng thời không được chạy theo nó một cách cực đoan, chỉ biết làm giàu, lấy làm giàu là mục tiêu cao nhất. Bởi vì, nếu coi trọng như vậy, họ sẽ tập trung tất cả thời gian cho việc kiếm tiền và rồi sao nhãng các chức năng khác như: chức năng giáo dục, chăm sóc con cái… và rất có thể chính con cái họ sẽ trở thành nạn nhân của nạn mua bán trẻ em. Và càng nguy hiểm hơn nữa khi các thành viên trong gia dình cũng bị định hướng theo giá trị làm giầu bằng mọi cách, mọi thủ đoạn kể cả bất hợp pháp. Họ sẽ không quan tâm đến đời sống văn hóa, làm cho con cái họ không có điều kiện học hành. Chính vì vậy, không được coi trọng kinh tế gia đình một cách quá mức mà phải có sự kết hợp hài hòa cũng với các chức năng khác của gia đình. Các biện pháp kinh tế là quan trọng, nhưng chú ý đến vấn đề này thôi thì chưa đủ. Vì kinh tế không phải là nguyên nhân duy nhất của tội phạm và càng không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết loại tội phạm này. Điều này được lý giải tại sao có rất nhiều gia đình giàu có mà không hạnh phúc, có nhiều nước kinh tế phát triển nhưng tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em vẫn chưa được xóa bỏ từ đó cho thấy, các giải pháp xã hội, trong đó có xây dựng môi trường xã hội lành mạnh cũng không kém phần quan trọng, thiết yếu như các giải pháp kinh tế. Vấn đề này, chúng ta sẽ thấy rõ ở các phần sau. Về mặt tuyên truyền, văn hóa- giáo dục Đây là một giải pháp rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong phạm vi đề tài, chúng tôi nhấn mạnh đến các nội dung sau: - Thứ nhất, đối với công tác tuyên truyền: Công tác tuyên truyền giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Nó tạo ra sự chuyển biến về mặt nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân phòng ngừa và tham gia phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Cho nên, thực hiện tốt công tác này, nó sẽ là giải pháp cơ bản để phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trả em. Muốn vậy, chúng ta phải làm tốt một số vấn đề sau: Cần phải tăng cường công tác truyền thong, giáo dục rộng rãi nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em và hậu quả tác hại của nó, với nội dung phong phú, thống nhất phù hợp với từng lứa tuổi, trình độ, từng vùng đặc biệt tập trung vào những vùng có nhiều khả năng bọn buôn người hoạt động. Đồng thời, phát huy tổng lực các phương tiện tuyên truyền như: đài truyền hình, đài tiếng nói, báo chí… vào việc tuyên truyền này. Không ngừng đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục trong các tầng lớp dân cư về hoạt động mua bán phụ nữ và trẻ em, về các thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ lừa gạt dưới mọi hình thức và hậu quả của việc mua bán phụ nữ và trẻ em gây ra. Qua đó nêu cao ý thức cảnh giác, đề phòng và tích cực phát hiện, kịp thời tố giác các trường hợp mua bán phụ nữ và trẻ em. Nhưng cũng phải có các biện pháp bảo vệ an toàn cho người phát hiện, tố giác. Có như vậy, chúng ta mới phát huy được vai trò chủ động, tích cực của nhân dân trong công tác này. Hơn nữa, cần phải sử dụng nhiều cách tuyên truyền, giáo dục khác nhau, để khơi dậy sự lên án mạnh mẽ của dư luận xã hội và của đạo đức xã hội về hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em. Tức là phải làm thế nào để việc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em trở thành công việc chung của toàn xã hội. Phải biến nỗi lo lắng về thực trạng mua bán phụ nữ và trẻ em đã và đang diễn ra không chỉ là nỗi lo lắng riêng của những nạn nhân, của Chính phủ, của các cơ quan pháp luật mà còn là nỗi lo chung của mọi người trong xã hội.Cần thấy rằng trừng trị những tên “buôn người” bất kể lý do gì, không chỉ bằng hình phạt mà bằng cả sức mạnh của đạo đức xã hội và của dư luận xã hội. Muốn vậy, phải thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, trong đó cần tuyên truyền, giáo dục đạo đức làm người và tôn trọng con người, biết chia sẻ những nỗi đau của những người làm cha, làm mẹ bị mất con; thấu hiểu nỗi khốn cùng của phụ nữ, trẻ em khi trở thành nạn nhân của việc mua bán phi nhân tính. Ngoài ra, chúng ta cần phải lưu tâm đến việc tiếp tục đấu tranh loại bỏ những tàn dư của tư tưởng phong kiến “trọng nam, khinh nữ”… Chỉ có sức mạnh của lương tri con người, của đông đảo các tầng lớp dân cư sau khi đã được trang bị, nâng cao ý thức mới trở thành cơ sở vững chắc nhất của việc phòng ngừa, cảnh giác, phát hiện và đấu tranh kiên quyết chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Mặt khác, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền con người, về quyền công dân, phổ biến các quy định của pháp luật Quốc gia về quyền con người và quyền công dân, các công ước quốc tế, các tuyền bố của Liên hợp quốc về quyền con người, về phụ nữ và trẻ em, các quy định của tư pháp Quốc tế giữa các quốc gia… Sự hiểu biết pháp luật trong quần chúng nhân dân sẽ nâng cao được ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quyền chính đáng của con người, nâng cao tinh thần cảnh giác, phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Cùng với tuyên truyền giáo dục các quy định pháp luật, việc phát hiện kịp thời xử lý nghiêm khắc các tên tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em, và các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp tay cho bọn “buôn người”. Kết quả xét xử các vụ án mau bán phụ nữ và trẻ em cần được tuyên truyền và phổ biến rộng rãi để trừng trị kẻ phạm tội, “răn đe” những người có ý định phạm tội và là một hình thức rất tốt nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. - Thứ hai,đối với công tác văn hóa- giáo dục: Có thể nói, văn hóa và giáo dục là hai lĩnh vực tác động trực tiếp và thường xuyên vào các chuẩn mực đạo đức, những giá trị tốt đẹp của nhân loại, là yếu tố xây dựng nên môi trường xã hội lành mạnh để ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Vì vậy cần phải làm tốt một số công tác sau: + Đầu tư thích đáng vào công tác giáo dục, cụ thể: cần có chính sách bao cấp về giáo dục để tất cả các em học sinh, sinh viên nghèo đều có điều kiện đi học; các giáo viên đều được hưởng chế độ đãi ngộ xứng đáng có như vậy họ mới yên tâm giáo dục các em thông qua việc nâng cao chất lượng bài giảng, đồng thời, các đối tượng chịu nhiều thiệt thòi về giáo dục như trẻ em lang thang, mồ côi, trẻ em phạm pháp, trẻ em ở vùng sâu vùng xa… + Nhanh chóng chuẩn mực hóa tài liệu giảng dạy ở tất cả các cấp học. Việc giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức về tệ nạn xã hội (trong đó có tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em) cần được đưa vào thành chương trình giảng dạy, học tập chính thức trong nhà trường. + Bên cạnh việc dạy chữ, nhà trường cần chú trọng đến việc giáo dục nhân cách. Bởi vì, đây là một thực trạng của nền giáo dục cơ chế thị trường, như một bài viết đăng trên báo Nhân dân của Giáo sư, tiến sĩ Phạm Minh Hạc đã khẳng định “Nhà trường trong thời gian qua mới làm được việc dạy chữ, còn việc dạy người thì làm được bao nhiêu”. Gần đây, hiện tượng học sinh, sinh viên phạm tội ngày càng tăng, với mức độ, loại hình phạm pháp khác nhau, những hành vi lệch chuẩn mực xã hội như: nghiện rượu ma túy, cướp của… đã không còn là chuyện lạ. Bởi vậy, giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên đã, đang và sẽ còn là một công việc cần thiết phải làm và cần làm thật tốt. Có như thế, mới làm cho sinh viên, học sinh không những có kiến thức chuyên môn mà còn có đạo đức, nhân cách. Việc giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên không chỉ là ở bài giảng đạo đức, luân lý, những bài học đạo lý trong kinh nghiệm của ông cha, ở cách ứng xử nhân văn… mà một điều quan trọng là chính nhà trường với những việc làm cụ thể của mình phải là một tấm gương về nhân cách đạo đức cho học sinh, sinh viên noi theo. Muốn thế, mỗi giáo viên là một tấm gương tốt về nhân cách để các em học tập, không nên có những ứng xử trái với chuẩn mực xã hội. Để làm tốt vấn đề này, không những nhà trường mà cả giá đình và xã hội việc giáo dục phải có trách nhiệm giáo dục nhân cách cho lớp trẻ. Trong gia đình, ngoài xã hội việc giáo dục đạo đức, luân lý và những quan niệm về giá trị phù hợp với xã hội, cần tập trung giáo dục chữ “hiếu” cho con cái. Bởi vì, nó là sức mạnh của gia đình, sơ sở tạo nên sự bền vững, ổn định của gia đình và đồng thời nó còn là giá trị đạo đức và còn được đánh giá cáo nhất trong định hướng giáo dục con cái. Để việc giáo dục nhân cách có hiệu quả, ngoài việc xác định nội dung giáo dục phù hợp, cần phải có phương hướng giáo dục đứng đắn, khoa học. Việc giáo dục con cái ngày nay cần chú ý đến sở thích, ý kiến của con cái. Hình thức giáo dục trên cơ sở giải thích, thuyết phục và làm gương là chủ yếu. Tránh sử dụng phương pháp giáo dục bằng kỷ luật nghiêm ngặt, và cũng không nên quá áp đặt, quá lý thuyết mà việc giáo dục phải chú ý đến tính chủ động cá nhân và tôn trọng cá tính của lớp trẻ. Mặt khác, cần cung cấp thông tin về tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em dưới hình thức: sách báo, tạp chí, phim ảnh… để các em có những nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tệ nạn này, các thủ đoạn mà bọn mua bán người thường sử dụng nguy cơ trở thành nạn nhân và hậu quả do mua bán phụ nữ và trẻ em gây ra. Từ đó, họ có thể phòng ngừa, tự bảo vệ bản thân cao hơn và tham gia tích cực vào việc phát hiện, tố giác, đấu tranh với bọn buôn người. + Bên cạnh việc giáo dục nhân cách trong nhà trường, việc nâng cao dân trí, tăng cường giáo dục đạo đức lối sống, ý thức pháp luật trong các cơ quan, tổ chức đoàn thể nói riêng cũng như toàn xã hội nói chung để xây dựng, tạo dư luận rộng rãi lên án mạnh mẽ tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em cũng là biện pháp quan trọng. + Đối với các nạn nhân được tập trung giáo dục, chúng ta cũng cần phải có những chương trình giáo dục sâu sắc về tác hại của tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em, tổ chức giáo dục đạo đức, luân lý cho họ (vì trong số các đối tượng phạm tội thì có 8% đối tượng trước đó đã là nạn nhân) và dạy văn hóa cho các nạn nhân mù chữ. Thực tế, phần đông nạn nhân có trình độ văn hóa thấp, sự hiểu biết hạn chế, vì thế, họ dễ bị lừa gạt. Và có nhiều cô gái trẻ thích sống xa hoa nhưng lại lười lao động đã chấp nhận bán than để có tiền tiêu xài, hoặc mong có cuộc sống giàu sang, chính vì thế công tác giáo dục càng trở nên cần thiết và quan trọng. Văn hóa và giáo dục là hai vấn đề quan hệ chặt chẽ với nhau, là hai yếu tố trong một chủ thể để tạo nên một xã hội lành mạnh. Chính vì vậy, ngoài những giải pháp về giáo dục như trên đã trìnhh bày, thì trong lĩnh vực văn hóa cần chú ý một vấn đề sau: + Cần có một chính sách nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, như có các hình thức sinh hoạt văn hóa, thể thao phù hợp để thu hút họ trong thời gian nhàn rỗi, đáp ứng nhu cầu của thanh niên. + Tăng cường quản lý các loại văn hóa phẩm, phát hiện, thiêu hủy các loại văn hóa phẩm có nội dung đồi trụy, khiêu dâm, kích động bạo lực. Nghiêm trị những kẻ tàng trữ lưu truyền văn hóa đồi trụy, bạo lực, gây kích động mạnh, trái với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. + Nhà nước cần tăng cường ngân sách cho các hoạt động văn hóa để các nghệ sĩ yên tâm sang tác ra các tác phẩm có giá trị, có tính giáo dục cao, phục vụ nhu cầu lớp trẻ và nhu cầu xã hội. + Cần giáo dục, tuyên truyền để tạo ra dư luận xã hội, ủng hộ các hoạt động văn hóa chân chính và lên án các loại văn hóa độc hại. Chính vì vậy, để thực hiện có hiệu quả những vấn đề trên. Ngày 12/12/1995 Chính phủ đã ra Nghị định số 87/CP về tăng cường các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa và ban hành quy chế, quy định kèm theo Nghị định này. Điều 3, Chương I của quy chế có ghi: “Nghiêm cấm các sản phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy, khiêu dâm, kích động bạo lực và tội ác, phá hoại thuần phong mỹ tục của người Việt Nam”. - Thứ ba, đối với công tác xây dựng gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em: Gia đình là nơi tạo cho trẻ em hình thành những nhân cách đầu tiên. Vì thế, cần có những quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của cha mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục dạy dỗ con cái, cũng như ảnh hưởng xấu của bố mẹ, các thành viên khác đến con cái. Trước hết, cần có những giải pháp chấn chỉnh sự lỏng lẻo trong các thiết chế gia đình, sự xuống cấp, xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống gia đình. Cần có chính sách để hạn chế tình trạng ly hôn, ly thân. Bởi vì, nó sẽ phá vỡ hạnh phúc gia đình, tạo cho các thành viên trong gia đình sự chán nản, buồn khổ không thích làm việc, chỉ muốn hưởng thụ… Nó là nguyên nhân trực tiếp làm cho các thành viên trong gia đình đi lang thang, đi vào con đường phạm pháp, và nguy cơ trở thành nạn nhân của mua bán phụ nữ và trẻ em. Hiện nay, Nhà nước đã có những quy định về ly hôn, ly dị. Ly hôn, ly dị chỉ khi cả vợ, cả chồng đều đồng ý phải có lý do chính đáng. Việc quan hệ “bồ bịch” cần phải lên án mạnh mẽ và phải có biện pháp xử lý thích đáng phù hợp. Chúng ta cần tính đến một yếu tố khác nữa, đó là việc nâng cao vai trò của gia đình trong giáo dục, quan tâm chăm sóc đến con cái. Có thể nói đây là một trong những chức năng cơ bản của gia đình. Việc thực hiện tốt chức năng này có ý nghĩa rất quan trọng đến sự phát triển sức khỏe, thể chất của các thành viên trong gia đình. Nhưng dưới tác động của cơ chế thị trường, sự quan tâm của bố mẹ đến con cái đã giảm đi nhiều, nhiều gia đình bỏ mặc con cái và cho rằng việc giáo dục con cái là công việc của nhà trường, xã hội. Chính vì vậy, đã đến lúc báo động cho các gia đình là phải củng cố và phát huy vai trò của gia đình đối với vấn đề giáo dục và chăm sóc con cái, nếu không muốn con cái mình trở thành những kẻ phạm pháp, thậm chí trở thành nạn nhân của việc mua bán phụ nữ và trẻ em. Song song với những việc làm trên, thì Nhà nước cũng cần có những chính sách hỗ trợ các gia đình khó khăn. Khó khăn ở đây bao gồm cả khó khăn về kinh tế để chăm sóc con cái và cả khó khăn trong việc thiếu thông tin về phương pháp giáo dục trong gia đình. Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các hình thức tư vấn pháp lý, tư vấn giáo dục gia đình. Về xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật Mua bán phụ nữ và trẻ em là một hiện tượng xã hội tiêu cực. Muốn hạn chế và đẩy lùi tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội, thì nhà nước cần phải có hệ thống chính sách, pháp luật đủ mạnh mẽ để trừng trị bọn “buôn người”. Cụ thể là: Thứ nhất, không ngừng sửa đổi, hoàn thiện, ban hành mới các văn bản pháp luật liên quan đến mua bán phụ nữ và trẻ em. Trước hết, cần có một khái niệm pháp lý thống nhất, cụ thể hoàn chỉnh về mua bán phụ nữ và trẻ em. Bởi vì, nếu không có một khái niệm pháp lý thống nhất, cụ thể, hoàn chỉnh về mua bán phụ nữ và trẻ em, thì không hiểu rõ và xác định được thế nào là mua bán phụ nữ và trẻ em, dẫn đến không có cơ sở pháp lý vững chắc để điều tra, xét xử bọn mua bán phụ nữ và trẻ em, và đấu tranh chống tội phạm này có hiệu quả. Vì thế, khái niệm về mua bán phụ nữ và trẻ em là vấn đề cần thiết phải được xem xét đưa ra một cách chính thức, chặt chẽ, rõ rang để làm cơ sở nhận thức trong đấu tranh với tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Trong BLHS Việt Nam năm 1985 có quy định tại Điều 115 và Điều 149 về tội mua bán phụ nữ và tội mua bán, bắt cóc, đánh tráo trẻ em, song các hành vi phạm tội chưa cụ thể hóa, hình phạt cho những tên “buôn người” còn nhẹ, cao nhất là 20 năm tù, khoảng cách khung hình phạt rất rộng. Do đó, bọn buôn người vẫn chưa bị trừng trị thích đáng và đó cũng là nguyên nhân làm cho tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em vẫn còn tồn tại. Hiện nay, BLHS năm 1999 đã có hiệu lực, các tội này được quy định tương ứng tại Điều 119 và Điều 120, đã quy đinh cụ thể hơn về hành vi phạm tội. Mức hình phạt cao nhất của tội được quy định tại Điều 120 đã được đẩy lên là chung thân. Nhưng mức hình phạt cao nhất của tội được quy định tại Điều 119 vẫn là 20 năm tù, phải chăng, đó chính là thể hiện bản chất nhân đạo xã hội chủ nghĩa đối với những tên phạm tội? Mặt khác, khoảng cách khung hình phạt vẫn còn rất rộng (từ 2 đến 7 năm tù; hoặc tù 5 năm đến 20 năm…). Và còn một vài điểm khác chưa rõ rang gây khó khăn cho việc áp dụng, cũng như trừng trị đối với những tên buôn người. Vì vậy để phát huy hiệu lực của BLHS mới trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em, chúng tôi xin đề xuất một số vấn đề sau: - Cần phải có một văn bản hướng dẫn việc áp dụng cụ thể về tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em. Đồng thời cơ cấu lại các điều luật này theo hướng bổ sung thêm một số tình tiết định khung hình phạt tăng nặng như: tái phạm nguy hiểm; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; nâng cao mức hình phạt cao nhất của tội được quy định tại Điều 119 lên chung thân; cũng như phân chia thu hẹp khung hình phạt cho tương xứng với từng hành vi phạm tội. Cụ thể: 1. Tội mua bán phụ nữ: (Điều 119 BLHS) “1. Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ trên 7 năm đến 15 năm: a. Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm; b. Có tổ chức; c. Có tính chất chuyên nghiệp; d. Để đưa ra nước ngoài; đ. Mua bán nhiều người; e. Mua bán nhiều lần.” Bổ sung thêm 3 tình tiết: g. Tái phạm nguy hiểm; h. Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ trên 15 năm đến 29 năm hoặc tù chung thân. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm”. 2. Mua bán trẻ em (Điều 120 BLHS) “ 1. Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân; a. Có tổ chức; b. Có tính chất chuyên nghiệp; c. Vì động cơ đê hèn; d. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em; đ. Để đưa ra nước ngoài; e. Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; g. Để sử dụng vào mục đích mại dâm; h. Tái phạm nguy hiểm; l. Gây hậu quả nghiêm trọng; 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. 4. Ngươi phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm hoặc phạt quản chế từ 1 năm đến 5 năm..” - Cần áp dụng khung hình phạt nặng đối với những kẻ chủ mưu, môi giới, tổ chức việc mua bán phụ nữ và trẻ em. Và phải có những biện pháp xủ lý thích đáng đối với những người móc nối với bọn “buôn người” để chấp nhận thành nạn nhân. - Mặt khác, do pháp luật Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi, nên tội danh “mua bán trẻ em” không bao hàm đối tượng bị mua bán từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi. Trong khi đó trên thực tế, thì một số lượng người trong độ tuổi này bị mua bán trong nước và đưa ra nước ngoài chiếm tỷ lệ cao (khoảng 15%). Do đó, cần phải có quy định mới về độ tuổi của trẻ em. Cụ thể “trẻ em là người dưới 18 tuổi” cho phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (Điều 1, Công ước) mà Việt Nam đã phê chuẩn ngày 20/2/1990. Hơn nữa, nạn nhân của mua bán phụ nữ và trẻ em gặp rất nhiều nỗi khổ khốn cùng, đặc biệt là những nạn nhân lưu lạc nơi đất khách quê người. Vì vậy, Nhà nước cần cải tiến thủ tục hồi hương để giúp các nạn nhân sớm thoát khỏi cảnh bị bóc lột, đối xử vô nhân đạo, sớm được đoàn tụ với gia đình và cộng đồng. Cùng với việc ban hành các chính sách, pháp luật trên thì việc nghiên cứu xây dựng và ký kết hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và một số nước trong khu vực nhất là nước láng giềng về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng là một việc làm rất cần thiết và nên sớm thực hiện. Bởi vì, tình hình mua bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới đáng là hiện tượng báo động (chỉ tính riêng ở Việt Nam, có khoảng 70% phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán ra nước ngoài). Đặc biệt với xu thế hợp tác quốc tế mở rộng, việc đi từ một quốc gia này sang một quốc gia khác ngày càng trở nên dễ dàng, do đó mua bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới có biểu hiện ngày càng tăng. Chính vì vậy, viêc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp trong phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em là cơ sở pháp lý tốt nhất để đấu tranh phòng chống tệ nạn này góp phần làm giảm hiện tượng mua bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam qua biên giới. Thứ hai, cần phải xây dựng một chương trình phổ biến giáo dục pháp luật và các quyền của phụ nữ, trẻ em trong cộng đồng. Đồng thời, xây dựng một mạng lưới lồng ghép các hoạt động bảo vệ phụ nữ và trẻ em ở các vùng là điểm nóng, và trên phạm vi toàn quốc. Thứ ba, cần phải xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ án mua bán phụ nữ và trẻ em. Việc xử lý nghiêm minh, kịp thời có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó không những có ý nghĩa trong việc trừng trị bọn phạm tội mà còn có ý nghĩa giáo dục chung cho toàn xã hội. Đồng thời, thể hiện đúng bản chất pháp luật của Nhà nước Việt Nam, đó là trừng trị kẻ có tội, không làm oan người vô tội, mà cao hơn là nó mang tính giáo dục là chủ yếu. Hơn nữa, để việc áp dụng pháp luật có hiệu quả trong việc hạn chế, đẩy lùi tội phạm mau bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam thì cần phải đào tạo, huấn luyện đội ngũ thực thi pháp luật có phẩm chất chính trị cao, năng lực điều tra, truy tố, xét xử giỏi. Điều này cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ những người không đủ phẩm chất, đạo đức, tư cách, năng lực ra khỏi cơ quan thừa hành pháp luật. Đây là quá trình vừa phát triển, vừa đào thải. Có như vậy, mới tạo nên đội ngũ thi hành pháp luật mạnh và nghiêm minh. Để thiết thực đẩy lùi tệ nạn mua bán phụ nữ và trẻ em ra khỏi đời sống xã hội một cách có hiệu quả, song song với giải pháp xậy dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, Nhà nước cần tăng cường công tác quản lý xã hội. Trong đó chú trọng các biện pháp sau: Thứ nhất: các nhà hàng, khách sạn, quán trọ, quán café thường là nơi tụ tập xuất hiện tệ nạn mại dâm – tác nhân chủ yếu thúc đẩy sự gia tăng của tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Sự quản lý của Nhà nước với dịch vụ này còn lỏng lẻo tạo điều kiện cho tệ nạn xã hội trú ngụ trá hình và phát triển. Như số liệu gần đây cho biết khoảng 35,6% gái mại dâm hoạt động trong nhà hàng, khách sạn; 21% trong các quán trọ, quán café. Điều này có nghĩa là số phụ nữ, trẻ em bị mua bán vì mục đích mại dâm trong các nhà hàng, khách sạn tồn tại và có điều kiện phát triển. Do đó để hạn chế tội mua bán phụ nữ và trẻ em (đặc biệt là trẻ em gái) thì điều kiện thiết yếu quan trọng là cần nhanh chóng đổi mới công tác quản lý nhà hàng, khách sạn; cần phải có những quy chế, quy định chặt chẽ, và nghiêm khắc hơn trong việc đăng ký kinh doanh, các điều kiện hoạt động kinh doanh, các điều kiện đảm bảo an ninh trật tự, tuân thủ pháp luật… Chẳng hạn, những nhà hàng, khách sạn nào vi phạm quy chế ban hành xử phạt kinh tế thật nặng và thu hồi giấy phép kinh doanh, đình chỉ ngay mọi hoạt động của nhà hàng, khách sạn đó. Nếu vi phạm nghiêm trọng, gây hậu quả tác hại lớn thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ nhà hàng, khách sản đó và những người lien quan trước pháp luật. Đồng thời cần phối hợp thường xuyên với các cơ quan chức năng kiểm tra, phân loại, sang lọc các cơ sở kinh doanh dịch vụ có liên quan đến hoạt động mại dâm. Nếu làm tốt được vấn đề này thì xem như chúng ta triệt phá được địa bàn hoạt động, điều kiện tồn tại chủ yếu của tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Thứ hai: để góp phần đẩy lùi tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em cần tăng cường quản lý hành chính về hộ khẩu, nhân khẩu; quản lý chặt chẽ các hoạt động nhập cảnh, xuất cảnh, tăng cường quản lý, giám sát các khu vực biên giới, tuyến biên giới, nhất là tuyến biên giới Việt – Trung và tuyến biên giới Tây Nam. Bên cạnh đó, cần phải có sự tăng cường quản lý và có chính sách thích hợp về du lịch, đề phòng sự ô nhiễm môi trường văn hóa du lịch đem lại. Và đề phòng sự lợi dụng con đường du lịch, hôn nhân, xuất khẩu lao động, người nước ngoài nhận con nuôi… để mua bán phụ nữ và trẻ em. Về công tác tổ chức đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em Việc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi công dân. Chính vì vậy, để ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em ra khỏi xã hội, thì trước hết các cơ quan, tổ chức được phân công trách nhiệm cần nhân chóng tổ chức bộ phận chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ này và không ngừng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan này trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Cụ thể: Bộ Công an xác định những địa bàn trọng điểm, tập trung chỉ đạo lực lượng công an các cấp tăng cường các biện pháp nghiệp vụ phát hiện ngăn chặn, triệt phá các tổ chức mua bán phụ nữ và trẻ em. Quản lý chặt chẽ nhân khẩu,hộ khẩu…Đồng thời, kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ chuyên trách để phát hiện kịp thời, điều tra nhanh chóng xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân, trọng điểm là bọn chủ mưu, cầm đầu mua bán phụ nữ và trẻ em. Bộ Ngoại giao chuẩn bị phương án thích hợp để làm việc với các tổ chức Quốc tế và các nước có liên quan về vấn đề xóa bỏ tình trạng phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị đưa trái phép ra nước ngoài; vận động tranh thủ các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tham gia giải quyết tình hình trên. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính bố trí ngân sách cho công tác phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em và tái hòa nhập các nạn nhân trong cộng đồng dân cư. Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cần có nhiều hoạt động sôi nổi, thu hút thêm nhiều thành viên vào hội; nghiên cứu tìm kiếm giải pháp về phát triển kinh tế, giới thiệu việc làm; tuyên truyền giáo dục sâu rộng về tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em, các thủ đoạn của bon buôn người, nguy cơ trở thành nạn nhân và hậu quả do mua bán phụ nữ và trẻ em gây ra; vận động thành viên tham gia tích cực trong công tác phòng chống tệ nạn này. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức khác tham gia công tác phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em phải nghiêm chỉnh thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao cho. Song song với việc thực hiện trách nhiệm phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em của các cơ quan, tổ chức trên thì điều quan trọng hơn cả đó là sự phối hợp tổ chức hoạt động giữa các cơ quan, tổ chức. Đây là một khâu yếu kém mà âu nay báo chí và dư luận vẫn phản ánh. Do đó, để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em đạt hiệu quả, thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và các Ban ngành có liên quan. Thậm chí cần phải lập một Ủy ban hoặc tiểu ban phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em để chỉ đạo thống nhất các hoạt động nhằm đấu tranh với loại tội phạm này. Về hợp tác quốc tế và khu vực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em Ở Việt Nam, số phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài chiếm 70% số phụ nữ và trẻ em bị mua bán. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh với tội phạm bày vẫn còn nhiều hạn chế, thậm chí còn chưa được thiết lập. Do đó, để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng trên, nhất thiết phải có sự hợp tác quốc tế và khu vực trong đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là với các nước có chung đường biên giới và các nước trong tiểu khu vực song Mê Kông. Đồng thời vận động tranh thủ các tổ chức nước ngoài tham gia giải quyết tình hình trên như: UNICEF, UNDP, IOM, SEAFLD… Việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em, được thể hiện trên các nội dung sau: - Hợp tác trên lĩnh vực phòng ngừa. Trong lĩnh vực này, ta có thể tranh thủ hợp tác để đầu tư cho các hoạt động và dụ án sau: + Điều tra, khảo sát xác định số lượng nạn nhân, tính chất mức độ, phạm vi hoạt động của mua bán phụ nữ và trẻ em, kiến nghị những định hướng, biện pháp xây dựng kế hoạch hành động cho các địa phương với các mục tiêu cụ thể. + Tuyên truyền giáo dục tại cộng đồng về nguy cơ tác hại của các loại tội phạm nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng, gia đình. Trong đó có các hoạt động như biên soạn cẩm nang tuyên truyền cho các tuyên truyền viên; biên soạn các tài liệu tuyên truyền như tờ rơi, áp phích…; tổ chức mạng lưới tuyên truyền viên tại cộng đồng; tập huấn kỹ năng tuyên truyền cho các cộng tác viên; mở các chiến dịch tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về nguy cơ, hậu quả của tội mua bán phụ nữ và trẻ em… + Hỗ trợ cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội như: tạo việc làm, tăng thu nhập, giáo dục văn hóa… Xây dựng và huấn luyện cộng tác viên tại cộng đồng để tư vấn cho giá đình và phát hiện kẻ lạ mặt đến lừa gạt; xây dựng đường dây nóng để báo cho các cơ quan chức năng biết nhưng hiện tượng khả nghi. Hợp tác trong lĩnh vực truy quét, phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Đối với lĩnh vực này cần chú ý các nội dung sau: + Hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật; bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành và ban hành các văn bản mới phù hợp. + Đào tạo, huấn luyện đội ngũ thực thi pháp luật (cảnh sát, thẩm phán, bộ đội biên phòng, kiểm sát viên) về các quy định của luật pháp và các kỹ năng truy quét, điều tra xử lý… + Thiết lập quan hệ giữa các ngàng chức năng của ta với đối tác của các nước có liên quan thông qua các văn bản, hiệp định về những vấn đề như: xét xử tội phạm là người nước ngoài, dẫn độ tội phạm, hồi hương nạn nhân, trao đổi kinh nghiệm, thông tin… phối hợp với các đơn vị biên phòng của hai nước có chung đường biên giới, tăng cường tiến hành các chiến dịch truy quét, kiểm soát hợp tác dọc biên giới. Hợp tác trong lĩnh vực phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng với những nội dung cụ thể sau: + Hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình hồi hương nạn nhân: cung cấp nơi tạm trú, sinh hoạt, khám chữa bệnh, tư vấn về tâm lý, pháp luật cho nạn nhân; đào tạo kiến thức và kỹ nằng tư vấn cho đội ngũ cán bộ làm việc với những đối tượng này, xây dựng biên soạn tài liệu huấn luyện kỹ năng phục hồi. + Dạy nghề, tạo việc làm cho nạn nhân sau khi phục hồi (thông qua các dự án dạy nghề cho phụ nữ và trẻ em); hỗ trợ vốn tái hòa nhập cộng đồng đối với những trường hợp cần thiết. Tăng cường vai trò trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân vào việc phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em Phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em là nhiệm vụ của các ngành, các cấp và của toàn xã hội. Nhưng trước tiên, xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của mình, lực lượng Công an phải là lực lượng nòng cốt xung kích đi đầu trong cuộc đấu tranh phức tạp và nguy hiểm này. Muốn vậy lực lượng Công an cần tăng cường làm tốt các công tác sau: Một là: Cơ quan Công an các cấp phải thường xuyên sử dụng các biện pháp cần thiết để nghiên cứu nắm vững tình hình diễn biến và quy luật hoạt động của bọn tội phạm trong nước và nước ngoài. Nghiên cứu đánh giá việc thực hiện công tác phối hợp đấu tranh của các cấp, các ngành đối với tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Phát hiện những cơ sở, thiếu sót của những cơ quan tổ chức cũng như các chính sách pháp luật hiện hành có liên quan đến đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Từ đó, cơ quan Công an các cấp tham mưu đề xuất các cấp ủy Đảng, chính quyền đề ra các chủ trương chính sách thích hợp, bịt kín những sơ hở thiếu sót có thể bị bọn phạm tội. Hai là: Cơ quan Công an phải quán triệt tư tưởng quần chúng của Đảng và Nhà nước ta. Phải thường xuyên phối hợp với các cơ quan, tổ chức xã hội khác để tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm để nâng cao tinh thần cảnh giác trong nhân dân. Đồng thời vận động nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm này như: tố giác tội phạm, hoặc trực tiếp đấu tranh với bọn tội phạm. Ba là: lực lượng Công an phải không ngừng vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp, công tác nghiệp vụ được Nhà nước cho phép để tiến hành các hoạt động phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Trong đó cần coi trọng những biện pháp như quản lý hành chính về trật tự xã hội, quản lý nhân hộ khẩu, tạm trú tạm vắng…; tiến hành các biện pháp trinh sát (cả công khai và bí mật) để xác định các đường dây chuyên mua bán phụ nữ và trẻ em. Bốn là: cơ quan Công an cần làm tốt công tác giam giữ, cải tạo đối tượng phạm tội. Giúp họ cải tạo tốt, nhanh chóng nhận ra lỗi lầm của mình để đưa họ về với gia đình, tái hòa nhập cộng đồng và trở thành những công dân lương thiện. Năm là: lực lượng Công an Việt Nam cần tăng cường hợp tác với công an các nước trên thế giới và trong khu vực, phát huy vai trò của Văn phòng Interpol Việt Nam trong việc tiến hành các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng và tội phạm hình sự nói chung. Sáu là: phải có đội ngũ Công an chuyên trách chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em và các loại tệ nạn xã hội có liên quan. Đội ngũ này phải thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao về trình độ nhận thức, năng lực, phải có lập trường tư tưởng vững vàng, có tinh thần đấu tranh kiên quyết, nắm chắc các yêu cầu về chính trị, nghiệp vụ và pháp luật, nhanh nhẹn và có đủ bản lĩnh đấu tranh với loại tội phạm này. Khi đấu tranh xử lý phải thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật, tránh tình trạng sau một thời gian bị xử lý các đối tượng phạm tội lại hoạt động trở lại tinh vi hơn, xảo quyệt hơn. Quan trọng là Nhà nước phải tạo điều kiện về kinh phí để lực lượng này hoạt động có hiệu quả. Tóm lại, theo chúng tôi để đâu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam có hiệu quả cần sử dụng đồng bộ các giải pháp. Nhưng trong đó cần chú ý các giải pháp sau: giải pháp trong lĩnh vực kinh tế, giáo dục; giải pháp trong công tác tuyên truyền; giải pháp trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật (lập pháp và hành pháp); giải pháp trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em. KẾT LUẬN Tội mua bán phụ nữ và trẻ em là loại tội phạm rất nghiêm trọng, những hậu quả nó gấy ra đang là vấn đề xã hội hết sức nhức nhối. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, làm xói mòn truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây mất ổn định trật tự an toàn xã hội. Công tác đấu tranh và phòng chống loại tội phạm này là một yêu cầu khách quan mang tính cấp bách, nhưng đồng thời là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Chính vì vậy việc nghiên cứu công tác đấu tranh phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam nhằm tìm ra những nguyên nhân, giải pháp để góp phần phòng ngừa và đẩy lùi loại tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội là hết sức cần thiết trong đó có hoàn thiện pháp luật hình sự. Tuy nhiên “Hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm tăng cường hiệu quả phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em” là một đề tài lớn và phức tạp đòi hỏi sự nghiên cứu công phu… Với thời gian có hạn, khả năng nghiên cứu còn hạn chế, qua việc nghiên cứu đề tài chúng tôi đã cố gắng làm sáng tỏ một số vấn đề về thực trạng, nguyên nhân, và đưa ra một số kiến nghị cơ bản cho công tác đấu tranh phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam… Chắc chắn việc nghiên cứu đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nên tác giả mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu, các đọc giả… để cho lần nghiên cứu sau của tác giả được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!. PHỤ LỤC Bảng 1.1: TỔNG HỢP SỐ LIỆU THỐNG KÊ SỐ VỤ MUA BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM Ở VIỆT NAM ĐÃ BỊ PHÁT HIỆN, XỬ LÝ (2005-2008) Năm Số vụ mua bán phụ nữ và trẻ em Số vụ Tỷ lệ % 2005 165 100 2006 191 15,76 2007 369 123,64 2008 375 127,27 Tổng 1100 Bảng 1.2: TỔNG HỢP SỐ LIỆU THỐNG KÊ SỐ ĐỐI TƯỢNG MUA BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM Ở VIỆT NAM (2005-2008) Năm Số đối tượng mua bán phụ nữ và trẻ em Số đối tượng Tỷ lệ % 2005 365 100 2006 421 10,2 2007 681 86,5 2008 718 96,71 Tổng 2185 Bảng 1.3: TỔNG HỢP SỐ LIỆU THỐNG KÊ SỐ PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM BỊ MUA BÁN Ở VIỆT NAM (2005-2008) Năm Số phụ nữ và trẻ em bị mua bán Số phụ nữ và trẻ em Tỷ lệ % 2005 382 100 2006 499 30,62 2007 938 156,99 2008 981 168,77 Tổng 2800 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản pháp luật Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam 1992, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1998. BLHS của nước CHXHCN Việt Nam năm 1985, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 1997. BLHS của nước CHXHCN Việt Nam năm 1999, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2000. Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1999. Công ước Liên hợp quốc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Giáo trình Giáo trinh Luật hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội- 2006. Giáo trình Luật hình sự, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội- 1998. Giáo trình tội phạm học, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội- 1998. Giáo trình tội phạm học, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội- 1999. Sách tham khảo Vũ Ngọc Bình, Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1999. Lê Thị Quý, Vấn đề ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội- 2000. Vũ Hồng Phương, Những vụ mua bán phụ nữ điển hình”, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội- 2000. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, tập 1, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh- 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện pháp luật hình sự nhằm tăng cường hiệu quả phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ em giai đoạn 2005 - 2008.doc
Luận văn liên quan