Hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phù hợp với nguyên tắc ở đâu có hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì ở đó có thanh tra. Thanh tra luôn gắn liền với hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nên sự xuất hiện của hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực đã tất yếu dẫn đến sự ra đời của một loại hình thanh tra đó là thanh tra chuyên ngành. Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho thanh tra chuyên ngành, Nhà nước cần ban hành những quy định về tổ chức cũng như hoạt động của thanh tra chuyên ngành. Hiện nay, văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành ở nước ta là Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, những quy định pháp luật về thanh tra chuyên ngành đã bộc lộ những bất cập, không phù hợp với thực tiễn làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành. Làm cho thanh tra chuyên ngành không phát huy được vai trò tích cực của mình trong quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành. Chính vì lý do trên mà chúng tôi chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. MỤC LỤC [IMG]file:///C:/DOCUME~1/Admin/LOCALS~1/Temp/msohtml1/03/clip_image001.gif[/IMG] Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG: 4 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 4 1.1 Khái niệm chung về thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước. 4 1.2 Thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. 8 1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước 8 1.2.2 Vai trò thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. 13 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 18 2.1 Các cơ quan thanh tra được thành lập theo ngành, lĩnh vực. 18 2.1.1 Thanh tra bộ: 18 2.1.2 Thanh tra sở: 20 2.2 Những nội dung cơ bản của hoạt động thanh tra chuyên ngành. 22 2.2.1 Chuẩn bị tiến hành thanh tra: 22 2.2.2 Tiến hành hoạt động thanh tra. 24 2.2.3 Báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra và quyết định xử lý vụ việc thanh tra. 25 2.3 Đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành. 27 2.3.1 Về tổ chức cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực: 27 2.3.2 Về hoạt động thanh tra chuyên ngành. 33 CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 40 3.1 `Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. 40 3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. 41 KẾT BÀI 50

doc53 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5045 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý hoặc yêu cầu, kiến nghị phải ghi rõ nội dung, thời hạn, đối tượng thực hiện. Cơ quan ra quyết định xử lý về thanh tra chuyên ngành phải công khai với đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức hữu quan về nội dung các biện pháp xử lý, các yêu cầu, kiến nghị nêu trên. Đồng thời, cơ quan này có trách nhiệm giám sát, kiểm tra việc thực hiện quyết định xử lý, các yêu cầu, kiến nghị có liên quan đến nội dung vụ việc thanh tra. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra phải thực hiện nghiêm chỉnh triệt để theo đúng các quy định của pháp luật; nếu không thực hiện thì người đã yêu cầu, kiến nghị hoặc quyết định đó phải áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải thực hiện; nếu đã áp dụng các biện pháp này mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan vẫn không thực hiện thì thủ trưởng cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền buộc họ phải thực hiện; trong trường hợp thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố ý không thực hiện thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. 2.3 Đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành 2.3.1 Về tổ chức cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực: Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần trong việc tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của các cơ quan thanh tra được thành lập theo ngành, lĩnh vực thực hiện hoạt động thanh tra Nhà nước trong đó thực hiện cả hoạt động thanh tra chuyên ngành như một tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý hành chính nhà nước đặc biệt là hoạt động quản lý theo ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức của các cơ quan này đã dần bộc lộ những bất cập. Sau đây là một số nhận xét của chúng tôi về vấn đề này: Về tổ chức cơ quan thanh tra chuyên ngành: - Về mô hình tổ chức cơ quan thanh tra theo pháp luật hiện hành: Một trong những đặc điểm của hoạt động thanh tra Nhà nước là hoạt động Thanh tra phải mang tính độc lập tương đối đối với quản lý hành chính nhà nước. Đặc điểm nêu trên của thanh tra chi phối đến mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra cũng như thẩm quyền của cơ quan này. Tuy nhiên theo quy định của Luật Thanh tra cơ quan thanh tra không được độc lập trong việc ra quyết định thanh tra cũng như ra kết luận thanh tra, mà chỉ có quyền xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra để trình người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt; cơ quan thanh tra không có quyền tự mình ra quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật (trừ Tổng thanh tra Chính phủ) mà thẩm quyền này do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước quyết định; trong trường hợp xét thấy cần thiết, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp ra quyết định thanh tra và kết luận thanh tra; hoạt động thanh tra chuyển từ chỗ chỉ tuân theo pháp luật sang phải tuân theo pháp luật; về mặt tổ chức, người đứng đầu cơ quan thanh tra do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức... Tổ chức cơ quan thanh tra như vậy là quá chú trọng bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra mà không chú ý tới tính độc lập tương đối của hoạt động này. Thực tiễn thi hành Luật Thanh tra trong thời gian qua cho thấy, chính vì sự lệ thuộc thái quá vào người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước đã làm mất đi tính khách quan, độc lập tương đối của hoạt động thanh tra, làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này. Nói cách khác là làm cho công cụ thanh tra kém đi độ sắc bén trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước [16, tr27]. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải giải quyết về mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra như thế nào để bảo đảm cho thanh tra trong đó có thanh tra chuyên ngành vừa là công cụ của quản lý nhà nước, vừa bảo đảm được tính độc lập tương đối của nó? Tổ chức cơ quan thanh tra thực hiên hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện nay: Như đã trình bày ở mục 2.1, hiện nay theo quy định của pháp luật thì thanh tra chuyên ngành được tổ chức ở các bộ, các cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ) và ở các sở thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước (thanh tra sở) . Tuy nhiên trên thực tế thì thanh tra chuyên ngành được tổ chức rất đa dạng, thậm chí là ngoài qui định của Luật Thanh tra. Chẳng hạn Quyết định số 89/2007/QĐ-TTg ngày 18/6/2007 thí điểm thành lập thanh tra xây dựng quận, huyện và thanh tra xây dựng xã, phường, thị trấn tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn không căn cứ vào các văn bàn pháp luật về công tác thanh tra, trong khi lực lượng này thực chất là đảm nhiệm hoạt động thanh tra chuyên ngành xây dựng. Điều này được giải thích bởi đối tượng thanh tra của thanh tra chuyên ngành so với thanh tra hành chính là lớn hơn rất nhiều, trong khi đó về tổ chức nhân sự thì lại không có sự tương xứng, chính vì vậy nếu chỉ có thanh tra viên của các cơ quan thanh tra nhà nước (ở bộ và cấp sở) có thể thực hiện thanh tra chuyên ngành thì chắc chắn là không thể kham nổi. Ví dụ: Một đợt thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội mà chỉ có các thanh tra viên Sở Y tế thực hiện thì khó có thể nói là bảo đảm [2]. Đây chính là lý do lý giải vì sao thanh tra chuyên ngành được tổ chức rất đa dạng, ngoài qui định của Luật Thanh tra. Mặt khác, theo điểm a khoản 1 Điều 23 của Luật Thanh tra năm 2004 thì những cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực cũng thành lập cơ quan thanh tra để thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành tuy nhiên thực tế hiện nay không còn tồn tại cơ quan thuộc Chính phủ nào có chức năng quản lý nhà nước. Như vậy, quy định này đã không còn phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề Thanh tra Cục, Thanh tra Tổng cục: Cụ thể theo quy định của Luật Thanh tra hiện hành thì về nguyên tắc mỗi bộ, cơ quan ngang bộ chỉ có một tổ chức thanh tra, Thanh tra Bộ là đầu mối giúp Bộ trưởng phụ trách toàn bộ công tác thanh tra, kể cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo về tổ chức thanh tra ở các bộ, cơ quan ngang bộ theo quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 (theo Pháp lệnh này thì ở các bộ, ngoài Thanh tra Bộ còn có Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục). Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Thanh tra thì nguyên tắc này không được thực hiện triệt để. Ở một số bộ, vẫn duy trì cơ quan Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục bên cạnh Thanh tra Bộ, thậm chí có nơi còn thành lập mới cơ quan Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục. Dẫn đến thực trạng hiện nay ở một số bộ, thì có Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục (ví dụ như Thanh tra Cục đường bộ, Cục đường sắt, Cục đường thủ nội địa, Cục hàng hải, Cục hàng không thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; thanh tra Tổng cục hải quan, Tổng cục thuế thuộc Bộ Tài chính...); một số bộ, thì mặc dù có Tổng cục, Cục nhưng lại không thành lập cơ quan thanh tra mà hoạt động thanh tra tại các Tổng cục, Cục này do Thanh tra Bộ đảm nhiệm (ví dụ như Thanh tra Cục đăng kiểm thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; Tổng cục môi trường, Tổng cục quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục...). Vậy lý do ở đây là gì? Xem xét tổ chức các Tổng cục, Cục ở các bộ, cơ quan ngang bộ cho thấy, nhiều Tổng cục, Cục được phân cấp thực hiện quản lý hành chính nhà nước, các đối tượng quản lý hành chính nhà nước do các Tổng cục, Cục này phụ trách không chỉ giới hạn ở đội ngũ cán bộ, công chức của mình mà còn bao gồm cả các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoạt động trong lĩnh vực do mình phụ trách (như Cục đường bộ, Cục đường thuỷ nội địa thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; Cục vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc Bộ Y tế...). Về bản chất, các Tổng cục, Cục này thực sự là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước về lĩnh vực do mình phụ trách. Xuất phát từ nguyên tắc ở đâu có hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì ở đó có thanh tra, cho thấy nhu cầu quản lý hành chính nhà nước ở những Tổng cục, Cục này đòi hỏi phải có thanh tra, bao gồm cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành: thanh tra hành chính thực hiện thanh tra đối với cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức trực thuộc; còn thanh tra chuyên ngành chủ yếu thực hiện đối với cơ quan, tổ chức đơn vị, cá nhân bên ngoài bộ máy của cơ quan quản lý nhà nước và thuộc phạm vi lĩnh vực do cơ quan này phụ trách. Vấn đề đặt ra là cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra ở những Tổng cục, Cục này đặt ở đâu? ở Tổng cục, Cục hay ở Bộ? ở những Tổng cục, Cục này nếu giao nhiệm vụ thanh tra cho Thanh tra Bộ đảm nhiệm thì về nguyên tắc Thanh tra Bộ là “công cụ” của Bộ trưởng trong quản lý nhà nước nên Thanh tra Bộ không phải là cơ quan tham mưu cho Tổng cục, Cục (về địa vị pháp lý cơ quan này ngang với Tổng cục, Cục). Vì vậy, việc quy định Thanh tra Bộ có trách nhiệm thanh tra việc chấp hành pháp luật của các đối tượng thuộc phạm vi do Tổng cục, Cục như quy định của Luật hiện hành là chưa phù hợp với thực tế yêu cầu quản lý nhà nước của các Tổng cục, Cục. Điều này lý giải tại sao mặc dù Luật Thanh tra không quy định việc thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục nhưng trong thực tế Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục vẫn tiếp tục được duy trì và củng cố nhằm tham mưu cho Tổng cục, Cục trong quản lý nhà nước. Tính đến nay đã có hàng chục Tổng cục, Cục đã tổ chức cơ quan thanh tra riêng của mình để tiến hành hoạt động [16, tr31]. Như vậy, có thể thấy rõ ràng việc tổ chức thanh tra chuyên ngành ở Thanh tra bộ là chưa có sự thống nhất. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực: Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực chưa được quy định rõ ràng, thống nhất, chưa tạo ra được tính chủ động khi thực hiện hoạt động thanh tra. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lặp và bỏ trống trong hoạt động thanh tra. Các biểu hiện cụ thể là: cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành và lĩnh vực thực hiện hai hoạt động thanh tra là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành nhưng chủ yếu tập trung cho thanh tra chuyên ngành, những quy định của pháp luật cho cơ quan thanh tra này khi thực hiện hoạt động thanh tra (thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành) chưa có sự tách bạch, sự trùng lặp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực còn khá phổ biến; thiếu cơ chế phối hợp, nhất là trong việc sử dụng kết quả giữa thanh tra theo cấp hành chính và thanh tra theo ngành, lĩnh vực… Cán bộ thanh tra chuyên ngành: Đội ngũ lực lượng thanh tra viên: là một vấn đề bất cập cần phải đề cập tới do đặc thù của hoạt động thanh chuyên ngành nên đội ngũ thanh tra viên phải có năng lực, ngoài yêu cầu phải có năng lực chuyên môn, phải thường xuyên cập nhật và nắm bắt vững những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ra còn phải nắm bắt rõ những quy định, quy tắc, quy phạm của ngành, lĩnh vực của mình nhưng trên thực tế đòi hỏi này chưa được đáp ứng nhiều cơ quan thanh tra thiếu thanh tra viên trầm trọng việc này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả của công tác thanh tra chuyên ngành nói riêng và công tác thanh tra Nhà nước nói chung. Có thể tìm hiểu vấn đề này qua ví dụ sau: Đối với thanh tra về vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ Y tế , theo Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, Bộ Y tế cho biết, từ năm 2004- 2008, chưa thành lập được tổ chức thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm. Chức năng thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm do thanh tra y tế, thanh tra thú y, thanh tra bảo vệ thực vật và lực lượng quản lý thị trường kiêm nhiệm. Trung bình, mỗi tỉnh chỉ có 0,5 cán bộ được biên chế làm công tác thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm từ Sở Y tế. Từ khi có Nghị định 79 của Chính phủ quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm, tháng 8.2008, lực lượng thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm được thành lập ở trung ương với số nhân lực khá “hẻo”: Bộ Y tế có 9 người, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 3 người. Ở địa phương tình hình còn bi đát hơn do chưa có quy định hướng dẫn về việc thành lập thanh tra tại các Chi Cục quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm , chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm. Hơn nữa, Luật Thanh tra hiện hành không quy định rõ về tổ chức thanh tra chuyên ngành tại Cục, chi cục thuộc sở. Trong khi đó, Bộ Y tế cũng dẫn số liệu so sánh: ở Nhật Bản có khoảng 13.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm từ trung ương đến địa phương; ở Thái Lan, riêng Thủ đô Băng Cốc có 5.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm; ở Trung Quốc có trên 50.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm; ở Mỹ, riêng Tổ chức FDA có khoảng 3.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm. Bộ Y tế cũng đưa ra rằng, hạn chế về nhân lực đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm [27,tr1], [27,tr2]. Về năng lực, trình độ của thanh tra viên chuyên ngành: Thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý chuyên ngành, trong phạm vi nhất định còn chưa kịp phát hiện và báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước về những sai phạm của các đối tượng quản lý. Có những lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, đáp ứng chuyên môn sâu của lĩnh vực nghề nghiệp nhưng thanh tra viên chuyên ngành hoặc là do chưa được đào tạo một cách bài bản, hoặc là do được chuyển từ những ngành, lĩnh vực khác sang, không đáp ứng được yêu cầu là phải có bằng tốt nghiệp về chuyên ngành đó theo quy định về tiêu chuẩn thanh tra viên quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 31 Luật Thanh tra, do vậy quá trình thực thi nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn. Như vậy, vấn đề nhân sự đang đặt ra một thách thức không nhỏ cho các cơ quan thanh tra chuyên ngành. Bên cạnh đó theo quy định tại Điều 32 Luật thanh tra năm 2004 thì trong hoạt động thanh tra, cơ quan thanh tra có quyền trưng tập cộng tác viên vào Đoàn thanh tra. Cộng tác viên là những cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thanh tra nhưng nhìn chung họ không được đào tạo về nghiệp vụ thanh tra và cũng không phải là lực lượng chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Như vậy, những cộng tác viên làm nhiệm vụ thanh tra không thể tiến hành thanh tra độc lập mà phải đi kèm ít nhất một thanh tra viên để khi phát hiện vi phạm thì thanh tra viên này chịu trách nhiệm xử phạt hoặc ra quyết định đình chỉ hoạt động đối với đối tượng bị thanh tra. Điều này là không phù hợp, bởi trong khi lượng thanh tra chuyên ngành đang thiếu trầm trọng thì đối với một số vụ việc thanh tra có sự tham gia của cộng tác viên, thanh tra viên chuyên ngành đi kèm chỉ để ra quyết định xử phạt hoặc ra quyết định đình chỉ hoạt động. 2.3.2 Về hoạt động thanh tra chuyên ngành. Những quy định Luật Thanh tra đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường hoạt động và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, qua hơn 5 năm thực hiện trên thực tiễn cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền trong đó có sự thay đổi đáng kể về nhận thức và vai trò của nhà nước, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với công dân và doanh nghiệp, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những quy định của Luật Thanh tra đối với việc hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng đã dần dần bộc lộ những quy định không còn phù hợp. Quy định chung của Luật thanh tra về Thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành là không hợp lý: Lần đầu tiên khái niệm thanh tra nhà nước đã được định nghĩa một cách cụ thể, và hoạt động thanh tra nhà nước cũng đã được phân thành hai hoạt động là: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Sự phân chia này là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hoạt động thanh tra, đáp ứng công tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, dù Luật Thanh tra đã có sự phân chia hoạt động thanh tra nhà nước thành 2 mảng như trên, nhưng nhìn chung những quy định của pháp luật về khi thực hiện hai hoạt động này về cơ bản là giống nhau điều này dẫn đến trên thực tế khi áp dụng đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành đã bộc lộ những bất cập và gặp phải những khó khăn nhất định như: Về thời hạn công bố quyết định và thời hạn báo cáo kết quả thanh tra: Về thời hạn công bố quyết định thanh tra theo khoản 1 Điều 25 Nghị định số 41/2005/NĐ-CP, quy định “chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra và việc công bố quyết định thanh tra phải được lập thành biên bản”. Có nghĩa là quyết định thanh tra phải được công bố trực tiếp. Quy định này hoàn toàn không phù hợp với các đoàn thanh tra chuyên ngành khi thực hiện thanh tra. Về thời hạn báo cáo kết quả thanh tra theo Luật Thanh tra và Nghị định số 41/2005/NĐ-CP thì: “Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra…”. Quy định này cũng rất khó thực hiện, thậm chí sẽ làm ảnh hưởng tới thời gian và hiệu quả của một cuộc thanh tra chuyên ngành. Ví dụ: Đối với thanh tra chuyên ngành lao động đối tượng là các doanh nghiệp thì mỗi đợt thanh tra, các đoàn thanh tra thường tiến hành khoảng 10 đến 15 doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp ít nhất 1 ngày, nếu chấp hành quy định này thì sẽ không thể tiến hành thanh tra tại nhiều doanh nghiệp trong một đợt công tác, còn nếu muốn đảm bảo thực hiện chức năng quản lý và làm giảm chi phí đi lại thì không thể thực hiện theo quy định vì sẽ có những doanh nghiệp được công bố quyết định thanh tra sau 15 ngày, kể từ ngày ký quyết định thanh tra. Đối với thời hạn báo cáo, vì mỗi doanh nghiệp được coi là một đối tượng thanh tra, nếu thực hiện việc kiểm soát tất cả các nội dung của Bộ luật lao động thì cũng chỉ mất một đến hai ngày. Nhưng như vậy sẽ không đảm bảo đúng quy định của Luật Thanh tra, vì dù đoàn công tác có đi bất cứ địa phương nào cũng phải trở về trụ sở để báo cáo kết quả thanh tra với người ra Quyết định thanh tra trong vòng 15 ngày. Như vậy là sau khi kết thúc thanh tra tại doanh nghiệp đầu tiên, đoàn thanh tra chỉ có thể tiến hành thanh tra được khoảng 5 doanh nghiệp nữa là phải trở về trụ sở để báo cáo, nếu muốn tiếp tục thanh tra tại địa phương đó thì…trở lại lần thứ hai [20, tr9]. Về thủ tục kết luận một cuộc thanh tra chuyên ngành Theo quy định tại Điều 41 Luật Thanh tra “chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra”. Căn cứ văn bản báo cáo kết quả thanh tra, nếu chưa đủ cơ sở để ra kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có thể yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra báo cáo, yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra. Quy định như trên chỉ phù hợp với một cuộc thanh tra hành chính vì thời gian của mỗi cuộc thanh tra hành chính ít nhất là 15 ngày, có những cuộc thanh tra lên tới 90 ngày. Do đó, việc xử lý kết quả thanh tra và ra kết luận thanh tra được giao cho người ra quyết định thanh tra là hợp lý và đảm bảo tính chính xác do được chỉ đạo, giám sát kỹ lưỡng và kịp thời. Nhưng quy định này lại rất khó thực hiện đối với một cuộc thanh tra chuyên ngành. Cũng lấy ví dụ đối với một cuộc Thanh tra lao động tại một doanh nghiệp thời gian để tiến hành thường là từ một đến hai ngày, và người trực tiếp thanh tra (Trưởng đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên hoạt động độc lập) thì lại không ký kết luận thanh tra và vì thế không chịu trách nhiệm về nội dung kết luận thanh tra, còn người không trực tiếp tiến hành thanh tra thì lại phải ký kết luận thanh tra và chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung kết luận thanh tra do mình ký.   Căn cứ Điều 187 Bộ Luật lao động quy định thanh tra viên lao động có thẩm quyền thanh tra, điều tra những nơi thuộc đối tượng, phạm vi thanh tra được giao bất cứ lúc nào mà không cần báo trước; quyết định tạm đình chỉ việc sử dụng máy, thiết bị, nơi làm việc có nguy cơ gây tai nạn lao động, gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường lao động và Điều 190 quy định quyết định của thanh tra viên lao động có hiệu lực bắt buộc thi hành [20, tr10]. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là thanh tra chuyên ngành có thể độc lập thanh tra như một đoàn thanh tra, có quyền kết luận thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật được không hoặc có thể phân công thanh tra viên phụ trách vùng không? Như vậy, qua phân tích và lấy ví dụ có thể thấy những quy định về thủ tục tiến hành thanh tra theo Luật Thanh tra cho hai hoạt động: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về cơ bản là giống nhau đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành. Quy định về thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành: Hiện nay, thủ tục để tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung đã được Luật Thanh tra quy định một cách cụ thể. Tuy nhiên trên thực tế chính những quy định này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành. Bởi thanh tra chuyên ngành của mỗi ngành, lĩnh vực được thực hiện đối với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý của mỗi ngành, lĩnh vực. Giữa các ngành, lĩnh vực này tuy chúng có mối quan hệ với nhau nhưng do mỗi ngành, lĩnh vực có tính chất, đặc điểm riêng biệt vì vậy áp dụng một thủ tục chung cho tất cả các ngành, lĩnh vực theo quy định của Luật Thanh tra như hiện nay làm cho hoạt động thanh tra của mỗi ngành, lĩnh vực mất đi tính chủ động, dẫn đến hiệu quả không cao. Quy định về phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra với cơ quan, tổ chức hữu quan: Như chúng ta đã biết xuất phát từ tính chất về lĩnh vực, ngành thuộc phạm vi hoạt động cũng như đối tượng của thanh tra chuyên ngành mà có thể thấy sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra chuyên ngành với các cơ quan, tổ chức hữu quan là cần thiết và nó xảy ra thường xuyên hơn so với hoạt động thanh tra hành chính. Hiện nay, những vi phạm liên quan đến các ngành, lĩnh vực là rất phổ biến. Tuy nhiên, thanh tra chuyên ngành chỉ có thẩm quyền xử lý đối với vi phạm hành chính mà thôi. Vì vậy, đối với những vi phạm pháp luật đã vượt quá vi phạm hành chính, đã đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì theo quy định của Luật Thanh tra, các cơ quan thanh tra có trách nhiệm phải chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm đó sang cho cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền giải quyết, nếu xét thấy có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, do chưa có quy định về tính ràng buộc giữa các cơ quan này với nhau nên thực tế đã xảy ra trường hợp nhiều hồ sơ vi phạm pháp luật do thanh tra chuyên ngành chuyển đến chỉ được coi là tin báo tội phạm, mặt khác kết quả điều tra thường ít được thông báo lại cho cơ quan thanh tra chuyên ngành đó. Hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra chuyên ngành còn chưa thường xuyên, thường chỉ khi sự vi phạm đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, chịu sự phản ứng mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, của các tổ chức, cơ quan thì cơ quan thanh tra chuyên ngành mới vào cuộc, gây ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của nhân dân. Điển hình trong thời gian qua là vụ việc Công ty VEDAN gây ô nhiễm dòng sông Thị Vải – Đồng Nai được dư luận hết sức quan tâm; hoặc các cuộc thanh tra được chủ yếu tập trung vào tháng hành động hay ngày kỷ niệm của ngành, lĩnh vực đó như thanh tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, thanh tra giáo dục, thanh tra giao thông vận tải…điều này làm cho hoạt động thanh tra nhà nước rời rạc, mất đi tính chuyên nghiệp, không đạt được hiệu quả của quản lý hành chính Nhà nước. Bên cạnh đó, sự phối hợp hoạt động giữa các lực lượng thanh tra chuyên ngành không chỉ giữa các cơ quan thanh tra giữa các ngành mà thậm chí là giữa các cơ quan thanh tra trong ngành còn chưa chặt chẽ nên làm cho hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành không cao, dẫn đến xảy ra tình trạng nhiều đoàn thanh tra cùng đến thanh tra một đối tượng gây phiền hà, ảnh hưởng tới hoạt động của đối tượng bị thanh tra và còn gây ra sự lãng phí không cần thiết về thời gian và vật chất. Quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với doanh nghiệp: Trong thời gian qua công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các doanh nghiệp đã có những chuyển biến tích cực, góp phần đưa các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng pháp luật, có hiệu quả; tăng cường pháp chế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hiện nay công tác thanh tra, kiểm tra tại các doanh nghiệp, được tiến hành theo quy định tại Nghị định số 61/1998/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 và để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra theo đúng quy định của pháp luật, chấn chỉnh lại công tác thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp theo đúng quy định Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 22/2001/CT-TTg ngày 11/9/2007 về công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Hai văn bản này giúp các cơ quan thanh tra trong đó bao gồm cơ quan thanh tra chuyên ngành chủ động phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc xác định chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại các doanh nghiệp để tránh trùng lặp, chồng chéo, kéo dài gây khó khăn và ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên như chúng ta đã biết, Nghị định số 61/1998/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 được ban hành trên cơ sở của Pháp lệnh thanh tra năm 1990. Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 là văn bản dưới luật ra đời vào thời điểm nhà nước ta đang xây dựng nền kinh tế với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Vì vậy mà đối tượng của hoạt động thanh tra chủ yếu là các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước. Nên doanh nghiệp là đối tượng thanh tra quy định theo Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 chủ yếu cũng là doanh nghiệp nhà nước. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 cùng với chính sách đổi mới cơ chế quản lý và chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước đã khiến nhiều lĩnh vực hoạt động được xã hội hóa, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động thanh tra đối với doanh nghiệp không còn chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà mở rộng đến các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế, đó không chỉ là doanh nghiệp của Nhà nước mà có thể là doanh nghiệp của tư nhân, tập thể, đơn vị, tổ chức khác. Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn hiện nay khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với các doanh nghiệp nếu áp dụng quy định của Nghị định số 61/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 thì sẽ không còn phù hợp. Sự không phù hợp khi áp dụng Nghị định này còn được thể hiện qua những quy định của nó, ví dụ như quy định đối với thời hạn để thực hiện công tác thanh tra đối với các doanh nghiệp là không quá (30 ngày), thời hạn này quá sẽ là quá ngắn đối với những cuộc thanh tra tại các doanh nghiệp có quy mô lớn, các vụ việc có nội dung phức tạp, diễn biến nhiều năm [6, tr73]. Quy định về quyền của Trưởng Đoàn thanh tra, Thanh tra viên độc lập khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành: Quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này vẫn còn hạn chế chưa thể hiện được tính chủ động trong hoạt động của Đoàn Thanh tra và thanh tra viên độc lập ảnh hưởng đến hiệu quả thanh tra. Ví dụ như đối với thanh tra chuyên ngành ở một số lĩnh vực nhạy cảm như môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm… thường tổ chức thanh tra theo chế độ thanh tra đột xuất nhưng trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập không được xác lập quyền “quyết định trưng cầu giám định” mà quyền này thuộc về người ra quyết định thanh tra, điều này đã làm mất đi tính chủ động, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành. Như vậy, qua đánh giá về thực trạng tổ chức cũng như hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành, có thể nhận thấy một số quy định đã không còn phù hợp với thực tiễn thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành, làm cho thanh tra chuyên ngành không thể hiện và phát huy được vai trò của mình trong nền quản lý hành chính nhà nước hiện nay. Vì vậy, nhu cầy bức thiết đặt ra hiện nay cần có giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành. CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. Qua việc đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước có thể thấy yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành là một nhu cầu bức thiết, là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, khi thực hiện việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành chúng ta cần lưu ý một số điểm sau: - Hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức thanh tra chuyên ngành, góp phần nâng cao hiêu lực quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành phù hợp, đơn giản, gọn nhẹ, không chồng chéo. Bộ máy đó phải trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành phải đáp ứng đầy đủ về số lượng và chất lượng, có đầy đủ các quyền hạn cần thiết, có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn cao, từng bước áp dụng kỹ thuật, phương tiện hiện đại phục vụ cho hoạt động thanh tra. Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác thanh tra chuyên ngành từ khi quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành ra đời cho đến nay, cần đánh giá một cách khách quan về những ưu điểm và những mặt tồn tại của nó để có thể rút ra những kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong thời gian qua để vận dụng vào quá trình hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành phải phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của mỗi ngành. Chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành là giới hạn hoạt động của thanh tra chuyên ngành đó, mỗi ngành chỉ thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của mình, việc phân quyền cho các tổ chức thanh tra chuyên ngành đó phải dựa trên cơ sở quyền hạn mà Nhà nước giao cho Thủ trưởng cơ quan quản lý ngành đó. Những đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của ngành là cơ sở hình thành nên tính đặc thù của thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành cần phải tính đến yếu tố này. - Hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành phải trên cơ sở Hiến pháp và đảm bảo phù hợp với những văn bản pháp luật hiện hành khác có liên quan. Phải được tiến hành đúng thủ tục theo quy định của pháp luật. Phải gắn với quá trình cải cách cơ chế quản lý kinh tế và cải cách nền hành chính hiện nay. Mặt khác, hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành phải có chọn lọc yếu tố hợp lý, khoa học trong tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành các nước trên thế giới trên cơ sở phù hợp với điều kiện Việt Nam. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. Văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành hiện nay là Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Tuy nhiên nhìn chung như chúng tôi đã đánh giá ở Chương II thì những quy định đó hiện nay có nhiều bất hợp lý, gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, để hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành, chúng tôi xin được đóng góp một số ý kiến sau: Cần phải có mô hình tổ chức và hoạt động mới cho cơ quan thanh tra để nhằm phát huy được hiệu quả của thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng: Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra cũng như thẩm quyền của cơ quan này theo quy định của pháp luật hiện nay còn quá chú trọng vào bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra mà không chú ý tới tính độc lập tương đối của hoạt động này. Chính vì sự lệ thuộc thái quá vào người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính nhà nước đã làm mất đi tính khách quan, độc lập tương đối của hoạt động thanh tra, làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra trong đó có hoạt động thanh tra chuyên ngành. Do đó, việc sửa đổi Luật Thanh tra cần phải bám sát vào đặc điểm của hoạt động thanh tra và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa thanh tra với hoạt động quản lý nhà nước. Mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra phải bảo đảm cho thanh tra vừa là công cụ của quản lý hành chính nhà nước, vừa bảo đảm được tính độc lập tương đối của nó. Thể hiện như: Cơ quan thanh tra phải được tổ chức nhằm hỗ trợ cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan thanh tra phải do người đứng đầu cơ quan quản lý bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức nhưng cần được sự đồng ý của Thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp. Hoạt động thanh tra phải được thực hiện theo yêu cầu của nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là hoạt động thanh tra chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở quyết định của người đứng đầu cơ quan quản lý, kể cả trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Trên cơ sở chương trình, kế hoạch thanh tra do người đứng đầu cơ quan quản lý quyết định và thủ tục thanh tra đã được pháp luật quy định chặt chẽ, thủ trưởng cơ quan thanh tra chủ động tổ chức việc thực hiện; người đứng đầu cơ quan quản lý không được can thiệp vào việc thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra trừ trường hợp chương trình, kế hoạch này có sự thay đổi nhằm đưa ra một kết luận thanh tra đúng đắn Kết luận thanh tra phải là của cơ quan thanh tra chứ không phải là của Đoàn thanh tra, Thanh tra viên chuyên ngành cũng như của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước. Kết luận thanh tra phải được cơ quan thanh tra báo cáo với người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước để xử lý. Sau khi có kết luận thanh tra, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước hoàn toàn có thể đồng ý hoặc không đồng ý với kết luận thanh tra nhưng không thể sửa kết luận thanh tra. Trường hợp người đứng đầu cơ quan quản lý không đồng ý với kết luận thanh tra thì cơ quan thanh tra phải tuân thủ quyết định đó nhưng có quyền báo cáo với cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp để cơ quan này xem xét báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Kết luận thanh tra là do người ra quyết định thanh tra ban hành – tuy nhiên trong một số trường hợp người ra quyết định thanh tra có thể không phải là thủ trưởng cơ quan thanh tra ví dụ trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 Luật Thanh tra. Vì vậy, đối với những trường hợp này, thì kết quả thanh tra cần được báo cáo cho người đã ra quyết định thanh tra, đồng thời gửi báo cáo này cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra cùng cấp. Đảm bảo cho cơ quan thanh tra vẫn có thể đóng góp ý kiến của mình cho người đã ra quyết định thanh tra đối với kết luận thanh tra. Việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra bảo đảm cho thanh tra vừa là công cụ của quản lý hành chính nhà nước, vừa bảo đảm được tính độc lập tương đối của nó như trên sẽ giúp phát huy được hiệu quả của hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng. Quy định về thanh tra chuyên ngành trong luật Thanh tra: Những quy định chung của pháp luật hiện nay cho thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành thực tiễn đã chứng mình là không phù hợp bởi giữa hai hoạt động thành tra này có nhiều sự khác biệt. Luật Thanh tra chỉ nên qui định mang tính nguyên tắc về hoạt động thanh tra chuyên ngành. Những quy định về thủ tục thanh tra của ngành, lĩnh vực nào sẽ do pháp luật chuyên ngành đó điều chỉnh. Điều này được giải thích bởi lý do mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có những nét đặc thù cho nên sẽ không thể quy định được một, thủ tục chung cho tất cả các ngành, lĩnh vực (và giống như thủ tục đối với thành tra hành chính hiện nay). Cần thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại một số Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý: Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm tính hiệu quả và khả thi của hoạt động thanh tra trên thực tế việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại một số Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý là hết sức cần thiết (lý do đã giải thích ở trên). Do đó, pháp luật về tổ chức của Thanh tra chuyên ngành nhất thiết phải bổ sung quy định về Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục. Tuy nhiên, cần thống nhất rằng không phải ở bất kỳ Tổng cục, Cục nào cũng thành lập cơ quan thanh tra mà chỉ nên thành lập ở một số Tổng cục, Cục, tránh tình trạng thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục tràn lan, không hiệu quả. Ví dụ đối với một số Tổng cục, Cục trực tiếp là đơn vị tác nghiệp nên chỉ đơn thuần thực hiện việc quản lý mang tính nội bộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức của mình (Cục công nghệ thông tin thuộc Bộ Tư pháp; Cục công nghệ thông tin thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường...). Đối với loại Tổng cục, Cục này thì trong thực tế cũng phát sinh nhu cầu thanh tra, nhưng chỉ có một loại là thanh tra hành chính, tức thanh tra đối với hoạt động của chính đội ngũ cán bộ, công chức của Tổng cục, Cục. Về nguyên tắc thì do các Tổng cục, Cục này là đơn vị độc lập, tuy không quản lý đối với các đối tượng là cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài nhưng vẫn thực hiện quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan mình nên vẫn cần có hoạt động thanh tra để tham mưu giúp mình trong việc quản lý đội ngũ này. Tuy nhiên, do các Tổng cục, Cục này không được phân cấp quản lý hành chính nhà nước nên tính độc lập không cao, chỉ đơn thuần quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức của mình nên phần nào trùng với trách nhiệm quản lý của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Vì thế, đối với các Tổng cục, Cục loại này không nhất thiết phải thành lập cơ quan thanh tra để tham mưu cho mình trong quản lý mà hoàn toàn có thể sử dụng cơ chế “kiểm tra” để quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trực thuộc; còn trong trường hợp cần thiết vượt quá thẩm quyền của Tổng cục, Cục thì Thanh tra Bộ sẽ tiến hành thanh tra để tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc quản lý. Quy định như vậy nhằm đơn giản hoá tổ chức thanh tra tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ như mục tiêu đề ra khi xây dựng Luật Thanh tra năm 2004. Để bảo đảm cho việc Thanh tra Tổng Cục, Thanh tra Cục thành lập là phù hợp và cần thiết thì pháp luật cần đưa ra các tiêu chí cụ thể cho các Tổng cục, Cục được phép thành lập cơ quan thanh tra. Đồng thời, Luật Thanh tra nên sửa đổi theo hướng quy định rõ: Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục chỉ đảm nhận chức năng thanh tra chuyên ngành; còn thanh tra hành chính thì vẫn nên để Thanh tra Bộ đảm nhiệm. Bên cạnh đó, thực tế tổ chức bộ máy Nhà nước ta cho thấy, ngoài các Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý nhà nước còn có một số ủy ban, Ban thuộc Bộ cũng được giao chức năng này, chẳng hạn như ủy ban chứng khoán thuộc Bộ Tài chính, Ban cơ yếu Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ... Đối với các cơ quan này cũng cần được thành lập cơ quan thanh tra để đảm nhiệm chức năng thanh tra chuyên ngành trong phạm vi lĩnh vực phụ trách [16, tr31]. Vấn đề này cũng đã được đề cập đến trong dự thảo sửa đổi Luật Thanh tra mà Chính phủ trình Quốc hội vào tháng 1 năm 2009. Như vậy có thể nói, trong quá trình hoàn thiện pháp luật thanh tra nói chung, pháp luật thanh tra chuyên ngành nói riêng việc bổ sung quy định thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục thuộc Bộ là rất cần thiết, phù hợp với thực tiễn của hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện nay. Mặt khác, hiện nay trên thực tế không còn cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Vì vậy, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Luật Thanh tra về việc thành thành lập cơ quan thanh tra để thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực nên được bãi bỏ cho phù hợp với thực tiễn. Việc thành lập thanh tra chuyên ngành ở một số ngành, lĩnh vực ở cấp huyện và cấp xã như hiện nay là không cần thiết: Hiện nay một số ngành, lĩnh vực đã thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành ngoài quy định của Luật thanh tra. Đây là vấn đề cần được tổng kết, đánh giá kỹ càng. Tuy nhiên theo chúng tôi việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành ở một số ngành, lĩnh vực ở cấp huyện và cấp xã là không thiết thực và hiệu quả, có thể làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong hoạt động thanh tra và không phù hợp với quy định về tổ chức thanh tra chuyên ngành của Luật thanh tra hiện nay. Nguyên nhân chính của việc xuất hiện những cơ quan thanh tra chuyên ngành ngoài quy định của Luật Thanh tra hiện nay là do thiếu lực lượng thanh tra chuyên ngành để đảm nhiệm hoạt động thanh tra. Vì vậy, đối với những ngành, lĩnh vực này giải pháp tối ưu là phải đào tạo, bổ sung thêm lực lượng thanh tra viên chuyên ngành đảm bảo thực hiện tốt công tác thanh tra. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực:   Nhằm tăng cường tính chủ động trong hoạt động thanh tra, cần bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn cho cơ quan thanh tra và người đứng đầu cơ quan thanh tra ví dụ: như sau: Đối với người đứng đầu cơ quan thanh tra, đề nghị bổ sung trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra thuộc phạm vi trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; chủ trì giải quyết chồng chéo về chương trình, kế hoạch, nội dung với cơ quan thanh tra cấp dưới; giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thanh tra trách nhiệm đối với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra; Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực thực hiện hai hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành do đó việc xác định phạm vi thẩm quyền và nhiệm vụ thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành là rất quan trọng đảm bảo cho các cơ quan này thực hiện tốt chức năng của mình. Bên cạnh đó cần tăng cường phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực. Nâng cao việc sử dụng kết quả giữa thanh tra theo cấp hành chính và thanh tra theo ngành, lĩnh vực nhằm tránh hiện tượng chồng chéo trong hoạt động thanh tra… Cần quy định thêm quyền cho Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành: Nhằm tạo ra sự chủ động cho Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành, pháp luật cần có những quy định theo hướng mở rộng thêm quyền cũng như trách nhiệm cho các đối tượng này. Ví dụ như quyền được “quyết định trưng cầu giám định và chịu trách nhiệm đối với quyết định ấy” khi tiến hành hoạt động thanh tra để tăng thêm tính chủ động của các chủ thể đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động thanh tra. Bảo đảm thi hành kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra: Nhằm khắc phục tình trạng các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra chưa được cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh, tránh sự chậm trễ, kéo dài hoặc xử lý thiếu nghiêm minh. Cần quy định cụ thể hơn trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc thực hiện kiến nghị, kết luận thanh tra. Theo đó, thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính nhà nước, trong thời hạn hợp lý có trách nhiệm xem xét kết luận thanh tra và ra quyết định hoặc yêu cầu thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát; xem xét để xử lý hoặc yêu cầu người có thẩm quyền xử lý kỷ luật cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để chấn chỉnh, khắc phục sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý. Cần có quy định tăng thêm tính trách nhiệm trong phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra nói chung, cơ quan thanh tra chuyên ngành nói riêng đối với các cơ quan hữu quan trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Để tăng thêm trách nhiệm giữa các cơ quan này có sự liên kết, ràng buộc với nhau trong việc phòng ngừa và xử lý các vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền lợi ích cá nhân, tổ chức và Nhà nước chúng tôi đồng ý với ý kiến sửa đổi điều 9 Luật Thanh tra năm 2004 theo hướng như dự thảo sửa đổi Luật thanh tra đã nêu ra. Sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan, tổ chức hữu quan là nghĩa vụ, đồng thời cũng cần quy định thêm trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức hữu quan như: cơ quan công an, viện kiểm sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải xem xét kiến nghị khởi tố vụ án hình sự do cơ quan thanh tra chuyển đến và trả lời việc xử lý kiến nghị đó; cơ quan, tổ chức hữu quan khác khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý của cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thanh tra để thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Cần ban hành nghị định mới quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với các doanh nghiệp: Hiện nay công tác thanh tra chuyên ngành đối tượng chủ yếu của nó là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Vì vậy, nhằm đảm bảo cho việc thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với các doanh nghiệp này đạt hiệu quả, vấn đề đặt ra là phải xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế Nghị định số 61/1998/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 đã không còn phù hợp với hoạt động thanh tra hiện nay. Về thanh tra viên: Hiện nay, nhân lực trong thanh tra chuyên ngành hiện nay đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, cần sự giúp đỡ của cộng tác viên những người có chuyên môn nhưng không được đào tạo về nghiệp vụ thanh tra và cũng không phải là lực lượng chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thanh tra.Vì vậy để giải quyết vấn đề này, vấn đề đặt ra là cần phải tăng cường công tác đào tạo cả về số lượng và chất lượng, bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra cũng như kiến thức chuyên môn liên quan đến ngành cho cán bộ, thanh tra viên đảm bảo nhân lực cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Bên cạnh đó, cũng cần có chế độ tiền lương, thưởng và phụ cấp hợp lý để các thanh tra viên yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình. Đảm bảo về kinh phí, cơ sở vật chất và những điều kiện cần thiết phục vụ cho hoạt động thanh tra chuyên ngành: Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành hiện nay là do thiếu kinh phí, cũng như cơ sở vật chất không đáp ứng để có thể hoạt động thanh tra một cách thường xuyên, đúng chương trình, đúng kế hoạch và đạt hiệu quả cao. Quy định của pháp luật về Ngân sách Nhà nước cần phải đảm bảo đủ kinh phí hoạt động cho các cơ quan này hoặc quy định cho phép các cơ quan thanh tra chuyên ngành có thể thực hiện một số hoạt động phù hợp nhằm bổ sung hỗ trợ thêm phần kinh phí. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thanh tra chuyên ngành, tổ chức lấy ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành. Để pháp luật về thanh tra không ngừng được hoàn thiện thì các cơ quan, tổ chức cũng cần phải có biện pháp đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến những quy định về thanh tra chuyên ngành. Để từ cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành đến các đối tượng của thanh tra chuyên ngành đều thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Bên cạnh đó, khi xây dựng, bổ sung pháp luật về thanh tra chuyên ngành không những các cơ quan thẩm quyền chỉ xin ý kiến của các chuyên gia mà cũng cần phải tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, phần lớn họ là đối tượng của thanh tra chuyên ngành. Những ý kiến này sẽ góp phần làm cho quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn hơn. KẾT BÀI Sự ra đời của thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước là một tất yếu khách quan. Thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội. Thanh tra chuyên ngành cùng với hoạt động thanh tra khác góp phần xây dựng một thiết chế hữu hiệu, phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần không nhỏ trong việc tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành. Giúp cho thanh tra chuyên ngành khi thực hiện hoạt động phát huy tích cực được chức năng của mình, góp phần phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nhiều quy định của pháp luật đã không còn phù hợp, nảy sinh những bất cập và hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành. Vì vậy nhu cầu đặt ra hiện nay là cần phải có những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành. Để thanh tra chuyên ngành phát huy được vai trò của nó trong cơ chế mới. Tuy nhiên những giải pháp đưa ra cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc mang tính kim chỉ nam và tính đến những yếu tố liên quan, ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành, để có thể đưa ra những giải pháp hợp lý. Qua phân tích trên phương diện lý luận chúng tôi đã phần nào giúp người đọc hiểu được thế nào là thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước, đặc điểm cũng như vai trò của nó. Đồng thời từ việc đánh giá thực trạng quy định của pháp luật hiện nay về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước chúng tôi đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này. Hi vọng, những giải pháp chúng tôi đưa ra trong khóa luận sẽ phần nào giúp ích cho quá trình hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước đang đặt ra ở Việt Nam hiện nay. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.doc