Một số thách thức đặt ra cho ngành hàng
vải Thanh Hà đó là chưa có sự gắn kết chặt
chẽ giữa các tác nhân. Tác nhân chế biến vải
đóng hộp tạo ra giá trị gia tăng lớn song tỷ
trọng vải tươi được đưa vào chế biến còn rất
thấp (3-5% tổng sản lượng). Vải khô xuất
khẩu chủ yếu theo con đường tiểu ngạch nên
dễ bị tư thương xuất khẩu ép giá. Ứng dụng
các tiên bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
bảo quản sản phẩm sau thu hoạch cũng như
chếbiến còn hạn chế.
15 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2530 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động của các tác nhân trong ngành hàng vải thiều Thanh Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo khoa học
Hoạt động của các tác nhân trong ngành hàng vải
thiều thanh hà
T¹p chÝ Khoa häc vµ Ph¸t triÓn 2008: TËp VI, Sè 1: 96-104 §¹i häc N«ng nghiÖp I
ho¹t ®éng cña c¸c t¸c nh©n trong ngμnh hμng v¶i thiÒu thanh hμ
Activities of agents in the litchi commodity chain in Thanh Ha district
Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Thu Huyền
Summary
This study’s aim is to identify agents and their activities in litchi commodity chain in
Thanh Ha district. Five main agents participating in litchi commodity chain include producers,
producers and dryers, collectors, collectors and driers and litchi processing enterprises. This
study determines the value-added distribution for each agent in the litchi commodity chain.
For fresh litchi channel, there are three agents: producers, collectors and litchis processing
enterprises. There are not important changes from this year to others on the value-added
distribution between agents. The producer’s value-added represents 39%, 2% for collectors
and 59% for enterprises. In the case of dried litchi channel, there are only two principle
agents: producers & dryers and collectors. There is a big difference on the value-added
distribution between agents from this year to others. In the good harvest year, the producers
& dryers’ valued-added represents 57% and 43% for collectors, but in the bad harvest year, it
is 44% for producers and dryers and 56% for collectors.
The study also shows some challenges which are need solving in order to run better the
Litchi commodity chain in the future.
Key words: Litchi commodity chain, fresh litchi, dried litchi, VA (Value - added)
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, các nghiên cứu về sản phẩm
nông nghiệp đều có xu hướng xem xét vấn đề
từ khâu sản xuất đầu tiên đến khâu tiêu dùng
cuối cùng hay còn gọi là phương pháp ngành
hàng (Davis & Goldbert, 1957 và P. Fabre,
1991). Phương pháp này giúp cho các nhóm
người có liên quan đến vấn đề nghiên cứu có
thể thấy được những thuận lợi, vấn đề nảy
sinh và các khâu cần tác động nhằm giúp
chuỗi tiêu thụ sản phẩm vận hành tốt hơn
(Schaffer, 1973). Ở nước ta, nghiên cứu
ngành hàng mới chỉ tiến hành đối với một số
sản phẩm chủ yếu và là thế mạnh của nông
nghiệp Việt Nam như các ngành hàng lợn, cà
phê, lúa gạo, chè (Phạm Vân Đình, 1999).
Bên cạnh các sản phẩm chủ yếu trên, rau quả
của chúng ta cũng đang dần khẳng định vị trí
của mình đối với người sản xuất cũng như
người tiêu dùng, nhưng việc áp dụng phương
pháp ngành hàng để nghiên cứu các sản phẩm
rau quả vẫn chưa được chú ý.
Vải thiều là một trong những trái cây
đặc sản nổi tiếng của vùng Thanh Hà (Hải
Dương). Quả vải không chỉ tiêu thụ dưới
dạng tươi mà còn được chế biến thành một
số sản phẩm khác như vải khô, đóng hộp,
nước giải khát, rượu vang... Tuy vậy, hoạt
động của những người sản xuất cũng như
tiêu thụ vải Thanh Hà hiện nay gặp rất nhiều
khó khăn và chưa có hướng giải quyết thực
sự hiệu quả. Bài viết này nhằm giới thiệu
kết quả nghiên cứu về hoạt động của ngành
hàng vải thiều Thanh Hà trong những năm
gần đây.
* Trung tâm NCLN PTNT - Trường đại học Nông nghiệp I
** Khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thuỷ sản, Đại học Nông nghiệp I.
96
Ho¹t ®éng cña c¸c t¸c nh©n trong ngµnh hµng v¶i thiÒu Thanh Hµ
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thanh Hà là nơi xuất xứ đầu tiên của cây
vải Thiều ở Việt Nam. Hiện nay, cây vải có
mặt trên tất cả các xã trên địa bàn huyện. Đặc
biệt, ở một số xã như Thanh Thuỷ, Thanh
Sơn... vải là cây trồng chủ lực cho thu nhập
chính của các hộ nông dân.
Các số liệu mô tả tình hình sản xuất
chung dựa theo Niên giám Thống kê hàng
năm của UBND huyện Thanh Hà.
Số liệu điều tra hộ được tiến hành phỏng
vấn trực tiếp 160 hộ trồng, chế biến, thu gom,
tiêu thụ vải ở huyện Thanh Hà (Hải Dương)
và 2 cơ sở chế biến vải đóng hộp ở Hưng Yên.
Phương pháp phỏng vấn dựa trên bảng câu hỏi
bán cấu trúc có sẵn (hệ thống câu hỏi không
cố định). Các thông tin đã thu thập được tổng
hợp, tính toán và phân tích bằng phần mềm
EXCEL. Phương pháp nghiên cứu ngành hàng
(Ph. Lebailly và cộng sự, 2002) được sử dụng
nhằm đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động
của các tác nhân tham gia ngành hàng vải
Thanh Hà trong những năm gần đây.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Các kênh phân phối sản phẩm của
ngành hàng vải
Khảo sát thực trạng hoạt động của ngành
hàng vải Thanh Hà trong những năm gần đây
nhận thấy, các tác nhân chính tham gia vào
quá trình chu chuyển quả vải tươi là: Tác
nhân sản xuất (các hộ sản xuất); Tác nhân
kiêm 1 (các hộ vừa trồng vừa sấy vải tươi
của gia đình làm ra); Tác nhân thu gom (các
hộ thu gom vải tươi và vải khô); Tác nhân
kiêm 2 (hộ thu gom kiêm sấy); Tác nhân chủ
hàng ngoài huyện (các hộ thu gom lớn nằm
ngoài địa bàn huyện); Tác nhân chế biến (các
cơ sở chế biến vải quả đóng hộp); Chợ hoặc
siêu thị; Xuất khẩu và người tiêu dùng cuối
cùng. Giới hạn vấn đề nghiên cứu này là 5
tác nhân: tác nhân sản xuất, tác nhân kiêm 1,
tác nhân thu gom, tác nhân kiêm 2 và tác
nhân chế biến.
Mối quan hệ giữa các tác nhân trong
ngành hàng vải được thể hiện theo hình 1.
Hộ sản xuất
Hộ kiêm
Hộ thu gom
Chủ hàng
ngoài huyện
Cơ sở chế biến
Chợ, siêu thị Người TD
cuối cùng
Xuất khẩu
Hình 1. Các kênh phân phối sản phẩm của ngành hàng vải
Kênh phân phối vải tươi
Kênh phân phối vải khô
Mặc dù số lượng tác nhân tham gia ngành
hàng vải khá đa dạng, nhưng sản phẩm chính
của hệ thống các kênh phân phối vẫn là vải
tươi và vải khô. Vải tươi chế biến đóng hộp
chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng sản lượng
thu hoạch. Sản lượng vải thu hoạch của Thanh
Hà năm được mùa trên 20 nghìn tấn, năm mất
mùa trên 10 nghìn tấn (Niên giám Thống kê
huyện Thanh Hà, 2006). Trong khi đó, với
trên 20 doanh nghiệp chế biến vải Thiều đóng
hộp ở Hải Dương và Hưng Yên, doanh nghiệp
chế biến nhiều nhất chỉ khoảng 70 tấn vải
tươi/vụ, doanh nghiệp chế biến ít nhất chỉ
khoảng 20 tấn vải tươi/vụ.
97
Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Thu Huyền
3.2 Đặc điểm và hoạt động của các tác nhân
3.2.1 Tác nhân sản xuất (hộ sản xuất)
Các hộ sản xuất đã tạo nên sản phẩm vải
quả tươi. Công việc của hộ diễn ra quanh năm
thông qua các hoạt động: trồng, chăm sóc, thu
hoạch... Hoạt động của tác nhân này bận rộn
nhất vào vụ thu hoạch quả, vì thời gian chín
của quả vải rất ngắn, yêu cầu phải thu hoạch
nhanh và tiêu thụ sớm. Phương thức tiêu thụ
vải quả thường ở hai dạng chính: bán quả tươi
hoặc để sấy khô. Thông thường các hộ bán
cho tư thương vào mua với khối lượng lớn
được đặt trước. Nếu vải chín rộ mà tư thương
không mua hết, có thể để sấy khô hoặc tự
mang đến các đầu mối thu mua vải để bán
tươi.
Bình quân diện tích trồng vải đạt 7,57
sào/hộ. Vải Thiều là cây ăn quả chính trong
các hộ trồng vải với diện tích trung bình
chiếm khoảng trên 70%, 30% diện tích còn lại
là các loại vải lai như vải U trứng, U hồng, U
thâm, Tu hú, Tàu lai... Diện tích vải chính vụ
chiếm đa số với 82,28% trong tổng diện tích.
Vải sớm cùi mỏng, độ ngọt kém, nhiều nước,
chỉ thích hợp cho bán tươi, khả năng tiêu thụ
không lớn nên diện tích chỉ chiếm 17,72%.
Do là cây ăn quả lâu năm nên khâu trồng
và chăm sóc vải không gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, năng suất của cây vải phụ thuộc rất
nhiều vào thời tiết. Thông thường, nếu thời
tiết thuận lợi, các hộ nông dân ở Thanh Hà
bón phân 3 lần cho cây vải ở thời kinh doanh.
Thuốc trừ sâu được phun từ 4-5 đợt/năm tuỳ
thuộc vào các loại bệnh của cây. Ngược lại,
nếu thời tiết không thuận lợi, số lần bón phân
và sử dụng thuộc bảo vệ thực vật tăng hơn
nhiều. Điều này làm giảm đáng kể hiệu quả
kinh tế của các hộ sản xuất.
Ngoài thời tiết, năng suất vải còn phụ
thuộc vào tuổi của cây. Thông thường, tuổi
càng tăng thì năng suất càng cao và ổn định.
Nếu chăm sóc tốt ngay sau khi thu hoạch,
năng suất vụ sau có thể tăng 20-30%. Trong
thời kỳ từ 3-5 năm tuổi, để kéo dài năng suất
và tuổi thọ cho cây, các hộ sản xuất thường
không thu hoạch quả. Từ năm thứ sáu, cây vải
bắt đầu vào giai đoạn kinh doanh (Trần Thế
Tục, 2004).
3.2.2 Tác nhân kiêm 1
Mô hình hộ sản xuất kiêm sấy khô khá
phổ biến trong 10 năm trở lại đây ở Thanh Hà.
Các hoạt động chính của loại hộ này là sản
xuất vải tươi và sấy vải khô do hộ làm ra, sau
đó bán vải khô trực tiếp cho các chủ hàng
hoặc các hộ thu gom trong huyện. Sản phẩm
đầu ra của các hộ này có hai loại: vải tươi và
vải khô. Tuy nhiên, hoạt động bán vải tươi
được ưu tiên hơn. Khi nào vải tươi quá rẻ,
hoặc do được mùa, vải tươi không bán hết
mới thực hiện hoạt động sấy khô. Mục đích
chính của hoạt động này là kéo dài tuổi thọ
cho sản phẩm. Giá bán vải khô phụ thuộc rất
lớn vào giá và năng suất vải tươi. Nếu vải tươi
được mùa, giá rẻ thì giá vải khô cũng rất rẻ.
Ngược lại, khi mất mùa vải tươi, giá vải khô
tăng rất cao. Năm 2004 được mùa, giá vải tươi
trung bình 2.100 đ/kg, giá vải khô cũng chỉ
đạt 7.300 đ/kg. Năm 2006 mất mùa, giá vải
tươi trung bình 6.500 đ/kg, giá vải khô tại thời
điểm sau thu hoạch đạt 27.000 đ/kg (cuối năm
2006, giá trung bình 37.000 - 40.000 đ/kg).
Ưu điểm của loại tác nhân này là có thể
tận dụng được lao động gia đình, giảm chi phí
vận chuyển, giảm tỷ lệ hao hụt khi vận
chuyển, từ đó giảm chi phí chế biến vải khô.
Nhưng do thị trường vải khô chưa ổn định,
chất lượng vải sấy không đều, phương tiện và
kỹ thuật chế biến thủ công, quy mô nhỏ lẻ, các
hộ lại không chủ động được giá bán, nên hoạt
động của họ chưa thực sự hiệu quả.
Bình quân diện tích trồng vải trên hộ đạt
10,35 sào. Ở cả năm mất mùa và năm được
mùa, cơ cấu tiêu thụ vải tươi của hộ không có
sự thay đổi lớn: 60% vải được tiêu thụ dưới
dạng tươi; 40% được đưa vào sấy khô.
3.2.3 Tác nhân thu gom
Thu gom là công việc thường xuyên của
tác nhân này và cũng là nguồn thu nhập chính
của họ. Hoat động thu gom diễn ra quanh năm
98
Ho¹t ®éng cña c¸c t¸c nh©n trong ngµnh hµng v¶i thiÒu Thanh Hµ
và bận rộn nhất vào vụ thu hoạch vải tươi.
Đầu vụ các hộ tập trung vào thu gom vải tươi,
từ giữa và cuối vụ vải tươi, vải khô mới bắt
đầu được thu gom từ các hộ chuyên sấy khô
hoặc các hộ kiêm có sản phẩm sấy khô.
Tác nhân thu gom chuyên mua gom vải
tươi ở các hộ sản xuất sau đó bán cho các chủ
hàng để lấy chênh lệch. Các hộ này nhận tiền
đặt trước của các chủ hàng rồi gom vải tươi
cho họ. Thông thường, các hộ thu gom đặt
điểm thu gom tại các vị trí thuận lợi, thường là
nơi tập trung nhiều hộ trồng vải. Các chủ hàng
sẽ lấy vải trực tiếp từ các điểm thu gom này.
Việc này giúp cho cả ba bên đều có lợi: người
bán vải không phải vận chuyển đi xa; hộ thu
gom không mất công và chi phí đi gom vải;
chủ hàng không mất thời gian chờ hàng. Do
không mất vốn và chỉ phải bỏ công sức, nên
việc tiêu thụ vải tươi của nhóm hộ này khá
thuận lợi và cho thu nhập ổn định.
Lượng vải tươi thu gom và lợi nhuận thu
được của các tác nhân này phụ thuộc vào mùa
vụ vải. Năm mất mùa, lượng vải tươi và vải
khô thu gom được ít hơn, chi phí nhiều hơn,
nhưng lợi nhuận thu được trên 1 đơn vị sản
phẩm lại cao hơn so với năm được mùa. Năm
được mùa, lượng vải tươi thu gom bình quân
có thể đạt trên 400 tấn/hộ. Ngược lại, năm mất
mùa, lượng thu gom vải tươi chỉ đạt trên 100
tấn/ hộ. Lượng vải khô thu gom được thường
thấp hơn nhiều so với vải tươi và cũng phụ
thuộc vào năm được hay mất mùa. Năm được
mùa, trung bình 1 hộ thu gom được 150 tấn
vải khô và trên 50 tấn ở năm mất mùa.
3.2.4. Tác nhân kiêm 2
Thời gian hoạt động của tác nhân này
cũng diễn ra quanh năm và bận nhất vào lúc
chính vụ vì bên cạnh hoạt động thu gom, tác
nhân này còn thực hiện hoạt động sấy khô.
Nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra của
tác nhân này giống như tác nhân thu gom, đó
là vải tươi và vải khô. Thông thường, vải tươi
mua vào lúc đầu vụ và cuối vụ sẽ bán ra để
thu chênh lệch, vải tươi thu hoạch chính vụ
giá thấp giữ lại sấy khô để giữ được lâu hơn
và chờ khi được giá sẽ bán ra thu lợi nhuận
cao hơn.
Do phải sấy với khối lượng lớn nên lò sấy
vải của các tác nhân này thường lớn hơn so với
các hộ sản xuất kiêm sấy. Trung bình 1 lò sấy
của 1 hộ thu gom kiêm có từ 4-6 bếp lò để thổi
hơi (sấy giàn treo bằng hơi nóng) và với sự
hoạt động của các lò này thì 8-10 ngày sấy sẽ
cho một mẻ vải khô thành phẩm. Như vậy, với
sự tuyển chọn vải nguyên liệu đầu vào khá tốt
(không sấy quả rụng, quả nhỏ, quả dập vỡ)
cùng sự đầu tư khá tốt ở khâu sấy vải nên sản
phẩm đầu ra của tác nhân này thường được giá
hơn so với các hộ sản xuất kiêm sấy vì thành
phẩm có mẫu mã đẹp, kích cỡ quả đồng đều, tỷ
lệ khô vừa phải, tỷ lệ dập vỡ thấp (1-2%)...
3.2.5. Tác nhân cơ sở chế biến vải đóng hộp
Phần lớn các cơ sở chế biến vải Thiều
đóng hộp tập trung ở hai tỉnh Hải Dương và
Hưng Yên. Tác nhân này có vai trò rất quan
trọng trong ngành hàng vải Thanh Hà vì nó
góp phần thương mại hoá quả vải. Tuy nhiên,
hoạt động của các cơ sở này đến nay vẫn chưa
thực sự hiệu quả. Lý do thứ nhất là: thời gian
chế biến vải ngắn (chỉ kéo dài trong vòng 1,5
tháng) và hầu hết các cơ sở chế biến vẫn chưa
có kho bảo quản nguyên liệu hiện đại mà chủ
yếu là sản xuất theo mùa vụ, hết mùa nguyên
liệu lại chuyển sang chế biến các loại nông
sản khác. Thứ hai: công nghệ chế biến còn thô
sơ không đảm bảo được chất lượng sản phẩm.
Thông thường, sau khi đóng hộp khoảng một
năm, cùi vải bị chuyển sang màu vàng nhạt.
Mặc dù được khẳng định là chất lượng không
thay đổi, nhưng người tiêu dùng vẫn e ngại
khi mua sản phẩm này. Thực tế cho thấy, cùi
vải đóng hộp sau một năm bị mềm hơn, không
giữ được màu trắng, độ giòn, mùi thơm và vị
ngọt như khi mới chế biến. Thứ ba: mẫu mã
sản phẩm còn chưa đẹp, chưa hấp dẫn người
tiêu dùng. Thứ tư: các cơ sở này rất thiếu
thông tin về thị trường và khâu quảng bá sản
phẩm kém. Sản phẩm vải đóng hộp chủ yếu
vẫn tiêu thụ trong nước, lượng xuất khẩu ra
nước ngoài thấp. Nếu có xuất khẩu thì chủ yếu
99
Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Thu Huyền
là gia công cho các công ty lớn khác và phải
mang nhãn mác của họ.
Hàng năm, đến mùa vải, các cơ sở chế
biến mua vải tươi trực tiếp từ nông hộ hoặc
đặt hàng qua các hộ thu gom. Sau đó đưa vào
chế biến. Các hoạt động chính là loại bỏ các
quả quá nhỏ, quả dập, chất lượng không đạt,
rồi đưa vải vào lột vỏ, bỏ hạt, sơ chế, cho vào
đóng hộp. Sản phẩm sau khi chế biến được
bán buôn cho các siêu thị ngoài huyện hoặc
gửi bán cho các chủ gom hàng lớn trong miền
Nam để xuất khẩu.
3.3. Phân tích tài chính cho các tác nhân
tham gia ngành hàng vải Thanh Hà
Từ những phân tích ở trên có thể thấy,
các tác nhân trong ngành hàng vải Thanh Hà
đều là những mắt xích quan trọng không thể
thiếu trong các chuỗi tiêu thụ sản phẩm vải
tươi và vải khô. Mỗi tác nhân tác nhân khác
nhau đều có những hoạt động và sản phẩm
khác nhau.
Bảng 1 cho thấy sự đầu tư và hình thành
nên sản phẩm của hộ sản xuất, tác nhân đầu
tiên của ngành hàng vải Thanh Hà.
Chi phí trung gian (phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật...) đầu tư cho sản xuất thường
chiếm đa số trong tổng chi phí ở các hộ sản
xuất. Tuy nhiên, tỷ lệ các khoản đầu tư này so
với tổng chi phí cũng thay đổi theo năm được
mùa và mất mùa của cây vải. Năm 2004 được
mùa, chi phí trung gian chiếm 65% và tỷ lệ
này là 81,6% ở năm 2006 mất mùa.
Do không có phần thu phụ từ trồng vải
nên tổng thu của hộ sản xuất phụ thuộc chủ
yếu vào năng suất và giá quả vải. Theo kết
quả tính toán tổng hợp từ số liệu điều tra cho
thấy, năm 2004 tổng thu của hộ sản xuất lớn
nhất, đạt 20.101,1 triệu đồng/ha, thấp nhất là
năm 2006 đạt 10.607,8 triệu đồng/ha.
Bảng 1. Kết quả hoạt động của tác nhân sản xuất
(Tính hình quân cho 1 ha)
ĐVT: 1000đ
Hộ sản xuất
Diễn giải
2004 2005 2006
1. Tổng chi phí 11.415,0 9.056,8 7.876,7
- Chi phí trung gian (IC) 7.416,2 6.781,2 6.427,6
- Chi khác 3.998,8 2.275,6 1.449,1
2. Tổng thu (GO) 21.010,1 19.040,0 10.607,8
- Năng suất (tấn) 9,6 4,1 1,7
- Giá (1000đ/kg) 2,2 4,6 6,4
3. Giá trị gia tăng (VA=GO-IC) 9.595,1 12.258,8 4.180,2
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra,2006.
Giá trị gia tăng biến động mạnh theo mùa
vụ và giá bán sản phẩm. VA đạt cao nhất vào
năm 2005 (12,2 triệu đồng/ha). Mặc dù 2004
được mùa, năng suất gấp hơn 5 lần nhưng giá
1 đơn vị sản phẩm chỉ bằng 1/3 nên giá trị VA
đạt được chỉ gấp 2 lần so với năm 2006.
Các kết quả phân tích tài chính tương tự
cho các tác nhân khác trong ngành hàng vải
Thanh Hà (tác nhân kiêm, tác nhân thu gom,
tác nhân chế biến vải đóng hộp) đã được tổng
hợp (Bảng 2).
100
Ho¹t ®éng cña c¸c t¸c nh©n trong ngµnh hµng v¶i thiÒu Thanh Hµ
Bảng 2. Chi phí và kết quả sản xuất của các tác nhân trong ngành hàng vải Thanh Hà
(Tính bình quân cho 1 tấn vải tươi)
ĐVT: 1000 đồng
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Diễn
giải (1) (2) (3) (4) (1) (2) (3) (4) (1) (2) (3) (4)
IC 770,9 872,7 2135,4 9527,6 1654 950,6 5092,4 11178,5 3848,9 1116,4 8102,7 15273,4
P 2184,0 1878,5 2250,0 12992,6 4644 3850,1 5221,2 14693,0 6352,0 6963,3 8280,21 19252,4
VA 1413,1 1005,8 114,6 3465,0 2990 2899,5 128,8 3514,5 2503,1 5846,9 177,51 3979,0
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra, 2006
Ghi chú: - IC: Chi phí trung gian; P: Giá trị sản phẩm; VA: Giá trị gia tăng.
- (1): Tác nhân sản xuất; (2): Tác nhân sản xuất kiêm sấy khô; (3): Tác nhân thu gom kiêm sấy;
(4): Tác nhân chế biến vải đóng hộp.
Số liệu tổng hợp cho thấy, các chỉ tiêu chi
phí và hiệu quả của các tác nhân tham gia
ngành hàng tăng dần qua các năm. Trong đó,
cơ sở chế biến có chi phí đầu tư cao nhất và
cũng là tác nhân có giá trị giá tăng cao nhất.
Mặc dù giá trị sản phẩm của hộ thu gom chỉ
đứng sau cơ sở chế biến nhưng giá trị gia tăng
luôn đứng vị trí cuối cùng của chuỗi hàng.
Năm 2004 và 2005, hộ sản xuất và cơ sở chế
biến là 2 tác nhân chính tạo nên VA cho
ngành hàng. Năm 2006, giá vải khô tăng cao
đột ngột khiến cho giá trị gia tăng của hộ sản
xuất kiêm sấy tăng cao, nên trong năm này hộ
sản xuất kiêm sấy và cơ sở chế biến là hai tác
nhân chính tạo ra VA cho ngành hàng vải
thiều Thanh Hà.
Sự vận hành của luồng vật chất qua từng
kênh hàng có thể cho biết mức đóng góp để
tạo nên giá trị gia tăng của ngành hàng và sự
phân bổ lợi nhuận giữa các tác nhân trong
từng ngành hàng cụ thể. Như giới hạn ở phần
mô tả hoạt động của các tác nhân trong ngành
hàng, kết quả nghiên cứu này không đề cập
đến chủ hàng ngoài huyện và người tiêu dùng
cuối cùng. Vì vậy, có thể xem xét sự đóng góp
VA của các tác nhân theo hai kênh hàng chính
vải tươi và vải khô của ngành hàng vải Thanh
Hà trong hai năm tiêu biểu là năm được mùa
(2004) và năm mất mùa (2006).
Từ kết quả tính toán có thể thấy, tác nhân
chế biến tạo ra VA lớn nhất cho ngành hàng.
Như vậy, theo lý thuyết các hộ sẽ không
trồng, thu gom hay sấy mà chuyển sang chế
biến vải đóng hộp. Tuy nhiên, điều này không
thể xảy ra trên thực tế. Bởi vì, muốn chế biến
vải đóng hộp cần phải đáp ứng một số yêu cầu
nhất định như chi phí đầu tư máy móc, công
nghệ, thông tin thị trường, nguồn nguyên
liệu... Để loại trừ sự ảnh hưởng của yếu tố quy
mô đến sự đóng góp VA trong ngành hàng
của các tác nhân, kết quả tính toán dưới đây
được tính trung bình cho 1 tấn vải tươi đối với
kênh vải tươi và trung bình cho 1 tấn vải khô
đối với kênh vải khô.
* Vải tươi
- Năm 2004
VA1(2.013.100đ) VA2(114.600đ) VA3(3.065.000đ)
Hộ sản xuất
(Tác nhân sản xuất)
Hộ thu gom
(Tác nhân thu gom)
Cơ sở chế biến
(Tác nhân chế biến)
Người tiêu dùng
(Tác nhân tiêu dùng)
Tổng VA = VA1 + VA2 + VA3 = 5.192.700đ
101
Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Thu Huyền
- Năm 2006
VA1(2.503.100đ) VA2(177.510đ) VA3(3.679.000đ)
Hộ sản xuất
(Tác nhân sản xuất)
Hộ thu gom
(Tác nhân thu gom)
Cơ sở chế biến
(Tác nhân chế biến)
Người tiêu dùng
(Tác nhân tiêu dùng)
Tổng VA = VA1 + VA2 + VA3 = 6.359.610đ
So sánh kênh tiêu thụ vải tươi ở hai năm
2004 và năm 2006 có thể thấy, tổng VA tạo ra
ở năm mất mùa lớn hơn so với năm được mùa
(năm 2006 VA tăng 7,56% so với năm 2004).
Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp của VA của các tác
nhân trong kênh phân phối vải tươi này lại
không có sự sai khác nhiều giữa năm mất mùa
và năm được mùa. Kết cấu này được biểu diễn
trên hình 2:
Hình 2. Kết cấu VA của các tác nhân trong kênh phân phối vải tươi
* Vải khô
- Năm 2004
VA1(1.005.800đ) VA2(1.059.000đ)
- Năm 2006
VA1(5.846.900đ) VA2(4.299.600đ)
Năm được mùa (2004)
38,77%
2,21%
59,03%
Sản xuất Thu gom Chế biến
Năm mất mùa (2006)
39,36%
2,79%
57,85%
Sản xuất Thu gom Chế biến
Hộ sản xuất kiêm sấy
(Tác nhân sx kiêm)
Tư thương xuất khẩu
(Tác nhân TG nước ngoài)
Hộ thu gom kiêm sấy
(Tác nhân thu gom)
Tổng VA = VA1 + VA2 = 2.064.800đ
Hộ sản xuất kiêm sấy
(Tác nhân sx kiêm)
Tư thương xuất khẩu
(Tác nhân TG nước ngoài)
Hộ thu gom kiêm sấy
(Tác nhân thu gom)
Tổng VA = VA1 + VA2 = 10.146.500đ
102
Ho¹t ®éng cña c¸c t¸c nh©n trong ngµnh hµng v¶i thiÒu Thanh Hµ
Không giống kênh phân phối vải tươi,
tổng VA tạo ra ở kênh phân phối vải khô ở
năm mất mùa của các tác nhân cao gấp 4,9 lần
so với năm được mùa. Hơn thế, kết cấu VA
của các tác nhân trong kênh hàng này có sự
hoán đổi vị trí đóng góp chính. Cụ thể: năm
được mùa, đóng góp VA cho kênh hàng của
tác nhân thu gom chiếm ưu thế, nhưng năm
mất mùa, ưu thế lại thuộc về hộ sản xuất kiêm
sấy. Có thể thấy rõ sự thay đổi này qua hình 3.
Hình 3. Kết cấu VA của các tác nhân trong
kênh phân phối vải khô
3.4. Thách thức đối với hoạt động của các
tác nhân trong ngành hàng vải Thanh Hà
Mặc dù ngành hàng vải Thanh Hà có
nhiều loại tác nhân tham gia nhưng hoạt động
vẫn chưa thực sự hiệu quả, các hoạt động đều
mang tính tự phát, chưa có sự gắn kết chặt chẽ
với nhau. Vào chính vụ thu hoạch vải, các hộ
sản xuất đều bị thu gom ép giá.
Sản phẩm tiêu thụ dưới dạng vải tươi là
chủ yếu, chưa có biện pháp bảo quản vải tươi
hữu hiệu để có thể kéo dài tuổi thọ của quả vải
tươi trong điều kiện thường trong thời gian dài
(quả vải sau khi hái 1ngày có thể héo và thâm
quả). Tỷ lệ đóng hộp thấp, tuy tỷ lệ sấy khô
chiếm tới 30% tổng sản lượng vải tươi nhưng
vẫn được coi là giải pháp tình thế khi vải tươi
không tiêu thụ được vì người sản xuất thích
bán ở dạng tươi hơn. Vải xuất khẩu vẫn chủ
yếu là qua chế biến (vải đóng hộp dạng cùi,
nước vải lên men, cùi vải đông lạnh). Tình
trạng mất mùa được giá, được mùa mất giá
ảnh hưởng rất lớn tới các tác nhân sản xuất
cũng như thu gom. Năm được mùa (2004)
43.21%
56.79%
Kiêm Thu gom
Từ năm 2004, vải Thanh Hà đã có thương
hiệu nhưng trên thị trường nhiều người tiêu
dùng vẫn chưa biết (nhãn mác, logo giới thiệu
sản phẩm). Việc tham gia các hiệp hội của các
tác nhân trong ngành hàng vải còn kém hiệu
quả và rất thiếu thông tin cũng như các cơ hội
tiếp cận thị trường lớn (các thị trường ngoài
nước).
4. KẾT LUẬN
Năm mất mùa (2006)
56.33%
43.67%
Kiêm Thu gom
Hệ thống các tác nhân tham gia ngành
hàng vải Thanh Hà khá đa dạng nhưng sự vận
hành của nó phụ thuộc chủ yếu vào 5 tác nhân
chính: tác nhân sản xuất, tác nhân kiêm 1 (sản
xuất kiêm sấy), tác nhân kiêm 2 (thu gom
kiêm sấy), tác nhân thu gom và tác nhân chế
biến (cơ sở chế biến vải đóng hộp).
Sự tham gia của các tác nhân vào kênh
phân phối vải tươi và vải khô cũng như sự
đóng góp giá trị gia tăng của những tác nhân
này vào mỗi kênh hàng không giống nhau.
Kênh phân phối vải tươi có 3 tác nhân chính:
hộ sản xuất, hộ thu gom và các cơ sở chế biến.
Giá trị gia tăng không có sự thay đổi lớn giữa
năm được mùa và năm mất mùa và chủ yếu
tập trung vào các cơ sở chế biến chiếm tới
59% sau đó đến hộ sản xuất 39% và thấp nhất
là hộ thu gom 2%. Kênh phân phối vải khô
chỉ có 2 tác nhân chính: các hộ sản xuất kiêm
sấy và hộ thu gom. Giá trị gia tăng có sự khác
nhau rõ rệt giữa năm được mùa và năm mất
mùa. Năm được mùa, giá trị gia tăng của hộ
103
Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Thu Huyền
sản xuất kiêm sấy là 57%, hộ thu gom 43%.
Trái lại năm mất mùa giá trị này chỉ là 44%
với hộ sản xuất kiêm sấy và 56% với các hộ
thu gom.
Một số thách thức đặt ra cho ngành hàng
vải Thanh Hà đó là chưa có sự gắn kết chặt
chẽ giữa các tác nhân. Tác nhân chế biến vải
đóng hộp tạo ra giá trị gia tăng lớn song tỷ
trọng vải tươi được đưa vào chế biến còn rất
thấp (3-5% tổng sản lượng). Vải khô xuất
khẩu chủ yếu theo con đường tiểu ngạch nên
dễ bị tư thương xuất khẩu ép giá. Ứng dụng
các tiên bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
bảo quản sản phẩm sau thu hoạch cũng như
chế biến còn hạn chế.
Để thúc đẩy ngành hàng vải Thanh Hà
hoạt động hiệu quả hơn trong thời gian tới,
cần thực hiện một số giải pháp đồng bộ sau:
- Khuyến khích người sản xuất áp dụng
các TBKHKT nhằm tăng năng suất và hạn chế
sự tác động của thời tiết cũng như có thể giãn
vụ thu hoạch để nâng cao hiệu quả kinh tế.
- Khuyến khích người sản xuất tham gia
các hiệp hội để sản xuất ra vải chất lượng cao
và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
- Đẩy mạnh quảng bá thương hiệu vải
Thanh Hà (đã có chứng nhận) trên nhiều
phương tiện thông tin đại chúng để khẳng
định chất lượng cũng như giới thiệu tiêu
chuẩn sản phẩm đến người tiêu dùng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DAVIS J.H., GOLDBERT R.A. (1957). A
concept of Agribusiness. Boston (USA):
Harvard University, p 136.
Niên giám thống kê huyện Thanh Hà (2005).
Ph.Lebailly và cộng sự, 2002, Phương pháp
nghiên cứu ngành hàng, Tạp chí Kết
quả nghiên cứu Khoa học-Kỹ thuật
nông nghiệp, số 2/2002, Tr 9, NXB
Nông nghiệp Hà Nội.
Phạm Vân Đình (1999). Phương pháp phân
tích ngành hàng nông nghiệp. NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
SCHAFFER J.D (1973). On the concept of
subsector studies. Am. J. Afr. Econ.55,
p 333-335.
Trần Thế Tục (2004) Hỏi đáp về nhãn -vải, Tr
61, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
104
Ho¹t ®éng cña c¸c t¸c nh©n trong ngµnh hµng v¶i thiÒu Thanh Hµ
105
Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Thu Huyền
106
ĐÍNH CHÍNH
Bài: Ảnh hưởng của nồng độ chitosan đến chất lượng và thời gian bảo quản chanh
Trang 72, hình 1a và hình 1b sửa lại như sau:
Hình 1a. Biến đổi chỉ số L trên vỏ quả chanh
ở các công thức bảo quản
Hình 1b. Biến đổi chỉ số b trên vỏ quả chanh
ở các công thức bảo quản
ĐÍNH CHÍNH
Bài: Ảnh hưởng của nồng độ chitosan đến chất lượng và thời gian bảo quản chanh
Trang 72, hình 1a và hình 1b sửa lại như sau:
Hình 1a. Biến đổi chỉ số L trên vỏ quả chanh
ở các công thức bảo quản
Hình 1b. Biến đổi chỉ số b trên vỏ quả chanh
ở các công thức bảo quản
59.83
51.62
56.18
37.10
30
35
40
45
50
55
60
65
70
0 10 20 30
Thời gian bảo quản (ngày)
M
àu
sắ
c
vỏ
(c
hỉ
số
L
)
CT1 CT2 CT3
21.96
50.12
44.24
47.83
0
10
20
30
40
50
60
0 10 20 30
Thời gian bảo quản (ngày)
M
àu
sắ
c
vỏ
(c
hỉ
số
b
)
CT1 CT2 CT3
59.83
51.62
56.18
37.10
30
35
40
45
50
55
60
65
70
0 10 20 30
Thời gian bảo quản (ngày)
M
àu
sắ
c
vỏ
(c
hỉ
số
L
)
CT1 CT2 CT3
21.96
50.12
44.24
47.83
0
10
20
30
40
50
60
0 10 20 30
Thời gian bảo quản (ngày)
M
àu
sắ
c
vỏ
(c
hỉ
số
b
)
CT1 CT2 CT3
Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Thu Huyền
108
Hình 1a. Biến đổi chỉ số L trên vỏ quả
chanh ở các công thức bảo quản
Hình 1b. Biến đổi chỉ số b trên vỏ quả
chanh ở các công thức bảo quản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo khoa học- Hoạt động của các tác nhân trong ngành hàng vải thiều thanh hà.pdf