Mục Lục DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT3
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ5
LỜI MỞ ĐẦU6
Chương 1:7
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI7
TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM7
1.1.Tổng quan về EVN7
1.1.1.Sự ra đời và quá trình phát triển của EVN7
1.1.2.Đặc điểm sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển tại EVN12
1.1.2.1.Vị thế độc quyền của EVN12
1.1.2.2.Hệ thống điện và đầu tư phát triển hệ thống điện. 13
1.2.Thực trạng đầu tư phát triển tại EVN14
1.2.1.Tình hình huy động vốn tại EVN14
1.2.1.1.Nguồn vốn bên trong. 15
1.2.1.2.Nguồn vốn bên ngoài17
1.2.2.Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển tại EVN22
1.2.2.1.Đầu tư phát triển nguồn và lưới điện. 23
1.2.2.2.Đầu tư phát triển KHKT-CN25
1.2.2.3.Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 26
1.2.2.4.Đầu tư vào các lĩnh vực khác. 28
1.2.3.Các nhân tốảnh hưởng tới quá trình ĐTPT tại EVN30
1.2.3.1.Nhóm nhân tố khách quan. 30
1.2.3.2.Nhóm nhân tố chủ quan. 31
1.3.Đánh giá khái quát tình hình đầu tư phát triển tại EVN32
1.3.1.Thành tựu. 32
1.3.1.1.Hệ thống nguồn và lưới điện đã được đầu tư đồng bộ. 32
1.3.1.2.Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao. 40
1.3.1.3.Doanh thu từ các lĩnh vực kinh doanh khác tăng. 40
1.3.2.Những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại trong quá trình đầu tư phát triển tại EVN42
1.3.2.1.Thiếu vốn đầu tư. 42
1.3.2.2.ĐTPT mới công suất nguồn điện chưa đáp ứng nhu cầu. 46
1.3.2.3.Đầu tư cải tạo và nâng cấp hệ thống lưới điện chưa đáp ứng yêu cầu. 48
1.3.2.4.Tiến độ thực hiện dự án chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 50
1.3.2.5.Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. 53
1.3.2.6.Rào cản xuất phát từ phía các đơn vị, người dân. 58
Chương 2. 61
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM61
2.1. Định hướng phát triển và đầu tư phát triển tại EVN61
2.1.1. Quan điểm phát triển. 61
2.1.2. Mục tiêu phát triển. 62
2.2. Giải pháp tăng cường đầu tư phát triển tại EVN63
2.2.1. Tăng cường huy động vốn từ các nguồn. 63
2.2.2. Tăng cường đầu tư cho nguồn và lưới điện. 65
2.2.2.1. Đầu tư phát triển nguồn điện. 65
2.2.2.2. Đầu tư phát triển hệ thống truyền tải và phân phối điện. 67
2.2.3. EVN cần phổ biến giải pháp tiết kiệm điện năng tới mọi người dân. 67
2.2.4. Giảm tỷ lệ tổn thất điện năng. 68
2.2.5. Đẩy mạnh tiến độ thực hiện các dự án. 70
2.2.6. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 71
2.2.6.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý. 71
2.2.6.2. Đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực. 73
2.2.6.3. Có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ có tay nghề cao. 74
2.2.6.4. Đầu tư cho đội ngũ nhân lực phục vụ dự án nhà máy điện hạt nhân. 74
2.3. Kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước. 75
2.3.1. Hoàn thiện các chính sách có liên quan. 75
2.3.2. Phát huy vai trò của các tổ chức liên quan. 77
2.3.3. Tiến tới mở cửa thị trường điện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD tại EVN78
2.4. Các đơn vị cần hợp tác giải quyết khó khăn. 79
KẾT LUẬN81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO82
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADB
: Asia Development Bank: Ngân hàng phát triển Châu Á
ASEAN
: Asociation of South East Asian Nations-Hiệp hội các nước Đông Nam Á
BOO
: Build- Operate-Own: Xây dựng- Vận hành- Sở hữu.
BOT
: Build- Operate- Transfer: Xây dựng- Vận hành- Chuyển giao
EVN
: Electricity of Viet Nam- Tập đoàn điện lực Việt Nam
GDP
: Gross Domestic Product- Tổng thu nhập quốc nội
IPP
: Independent power plant- Nhà máy điện độc lập
JBIC
: Japan Bank of International Cooperation- Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
ODA
: Official Development Assistance- Hỗ trợ phát triển chính thức
WB
: World Bank- Ngân hàng Thế Giới
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
TNDN
: Thu nhập doanh nghiệp
KT-XH
: Kinh tế xã hội
KHCB
: Khấu hao cơ bản
KHKT-CN
: Khoa học kỹ thuật và công nghệ
ĐTPT
: Đầu tư phát triển
CNVC
: Công nhân viên chức
VĐTXD
: Vốn đầu tư xây dựng
VTCC
: Viễn thông công cộng
TĐ
: Thủy điện
TTĐN
: Tổn thất điện năng
QHĐ
: Quy hoạch điện
GD& ĐT
: Giáo dục và đào tạo
ĐH
: Đại học
KH&CN
: Khoa học và công nghệ
TP HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1 : Bảng cân đối kế toán toàn Tập đoàn qua các năm
Bảng 2 : Bảng kết quả hoạt động kinh doanh toàn Tập đoàn
Bảng 3 : Sản lượng điện phát ra các năm 2000-2006 theo thành phần
Bảng 4 : Nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư phát triển tại EVN
Bảng 5 : Nguồn vốn bên trong
Bảng 6 : Nguồn vốn bên ngoài
Bảng 7 : Các dự án vay vốn nước ngoài năm 2007- 2008
Bảng 8 : Tình hình sử dụng vốn cho hoạt động đầu tư phát triển tại EVN
Bảng 9 : Tình hình sử dụng vốn cho đầu tư xây dựng hệ thống điện
Bảng 10: Tỷ trọng vốn đầu tư cho KHCN trong tổng doanh thu
Bảng 11: Tỷ trọng kinh phí đầu tư cho đào tạo trong tổng quỹ tiền lương qua các năm 2006-2008
Bảng 12: Báo cáo thu nhập hàng năm tại EVN qua các năm 2006-2008
Bảng 13: Tình hình đầu tư vào các công trình không thuộc lĩnh vực điện
Bảng 14: Chiều dài đường dây và dung lượng máy biến áp truyền tải qua các năm 2006-2008
Bảng 15: Công suất các nhà máy điện các năm 2006-2008
Bảng 16: Sản lượng điện thương phẩm phân phối cho các ngành KTQD qua các năm 2006-2008
Bảng 17: Doanh thu viễn thông điện lực
Bảng 18: Tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng VĐT cho nguồn điện
Bảng 19: Chỉ tiêu phát triển kinh tế và tiêu thụ điện năng ở 16 nước trên thế giới năm 2000 và dự báo cho Việt Nam năm 2020
82 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3196 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động đầu tư phát triển tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác đền bù giải phóng mặt bằng vô cùng gian truân và phức tạp vì chưa nhận được sự hợp tác từ phía các hộ dân cư. Chính sách của nhà nước, quy định của Nghị định 106 người dân và chính quyền địa phương đều nắm được nhưng muốn họ thực hiện lại không hề đơn giản. Lấy ví dụ đường dây 220 kV Bản Lả - Vinh nằm trọn trong tỉnh Nghệ An mà công tác giải phóng mặt bằng vô cùng phức tạp. Toàn tuyến với 173,8 km mà chỉ còn 12 hộ dân kiên quyết không nhận đền bù, đưa ra những yêu cầu rất “oái oăm” như: di chuyển ra khỏi hành lang trong khi đủ điều kiện tồn tại trong hành lang; đòi cấp bìa đỏ ở lô đất tái định cư rồi mới cho thi công; UBND xã yêu cầu bồi thường xây sân vận động…
Sự trì hoãn việc thi công xây dưng các công trình điện khiến cho tiến độ xây dựng đường dây liên tục bị kéo dài, gây thiệt hại rất lớn cho chủ đầu tư cũng như các nhà thầu, thực tế này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phối hợp với các địa phương liên quan có biện pháp giải quyết triệt để và nhanh chóng.
Chương 2
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
2.1. Định hướng phát triển và đầu tư phát triển tại EVN
2.1.1. Quan điểm phát triển
Phát triển điện phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Đẩy mạnh điện khí hoá nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.
Bảo đảm chất lượng điện năng để cung cấp dịch vụ điện với chất lượng ngày càng cao, giá cạnh tranh. Đặc biệt coi trọng tiết kiệm điện năng từ khâu phát, truyền tải đến khâu sử dụng.
Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp của đất nước như nguồn thuỷ năng (kết hợp với thuỷ lợi), khí, dầu, than cho sản xuất điện, áp dụng thiết bị sử dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và giảm ô nhiễm môi trường.
Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện để xây dựng nhà máy điện nguyên tử (sau năm 2015) đảm bảo an toàn tuyệt đối trong sử dụng, nhằm đa dạng hoá các nguồn năng lượng.
Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Từng bước hình thành thị trường điện lực cạnh tranh trong nước, đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia, không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ độc quyền khâu truyền tải, xây dựng và vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn, các nhà máy điện nguyên tử. Chủ động trong việc tham gia, liên kết lưới điện và mua bán điện với các nước trong khu vực.
Xây dựng giá điện phải đạt mục tiêu khuyến khích đầu tư cho phát triển ngành điện, tăng sức cạnh tranh về giá điện so với các nước trong khu vực, nhất là giá điện phục vụ sản xuất, tách phần chính sách xã hội ra khỏi giá điện. Có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi.
Kết hợp giữa điều hành mạng lưới điện thống nhất trong cả nước với xây dựng và điều hành hệ thống điện an toàn theo từng khu vực nhằm đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới truyền tải, phân phối điện quốc gia để cung cấp dịch vụ điện đảm bảo chất lượng, liên tục, an toàn, hiệu quả.
2.1.2. Mục tiêu phát triển
Mục tiêu phát triển của ngành Điện Việt Nam đến năm 2010 là: sử dụng tốt các nguồn thuỷ năng (kết hợp với thuỷ lợi), khí và than để phát triển cân đối nguồn điện. Xây dựng các cụm khí - điện - đạm ở Phú Mỹ và khu vực Tây Nam. Xúc tiến nghiên cứu, xây dựng thuỷ điện Sơn La. Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử. Đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới phân phối điện quốc gia. Đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh điện; có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi. Tăng sức cạnh tranh về giá điện so với khu vực.
Mục tiêu cụ thể:
Đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Phấn đấu đến năm 2005 đạt sản lượng khoảng 53 tỷ kWh; năm 2010 đạt sản lượng từ khoảng 88 đến 93 tỷ kWh và năm 2020 đạt sản lượng từ 201 đến 250 tỷ kWh.
Đẩy nhanh chương trình đưa điện về nông thôn, miền núi, phấn đấu đến năm 2010 đạt 90% số hộ dân nông thôn có điện, đến năm 2020 đạt 100% số hộ dân nông thôn có điện.
Đảm bảo cân bằng tài chính bền vững.
Đa dạng hoá phương thức đầu tư phát triển ngành và chuẩn bị các phương án nhập khẩu điện của các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành Điện.
Thực hiện cơ chế hoạt động đa dạng hoá sản phẩm, bao gồm nhiều Công ty có tư cách pháp nhân theo mô hình Liên kết tài chính - Công nghiệp - Thương mại - Dịch vụ - Tư vấn.
Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động điện lực.
2.1.3. Định hướng đầu tư phát triển tại EVN
Định hướng ĐTPT có vị trí quan trọng trong xây dựng, triển kai thực hiện các quy hoạch điện trong từng giai đoạn. Từ định hướng ĐTPT đề ra các giải pháp huy động vốn, chiến lược đầu tư phát triển, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT...Trong những năm trước mắt, EVN cần tích cực huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài phục vụ cho công cuộc đầu tư xây dựng hệ thống điện nhằm cung cấp đủ điện cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng toàn xã hội. Bên cạnh đó, EVN cần thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT: đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, giảm tỷ lệ tổn thất điện năng, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…Mặt khác, nhằm khẳng định vị thế của Tập đoàn, đồng thời để giảm khó khăn về vốn, EVN cần mạnh dạn rót vốn đầu tư sang các lĩnh vực khác với tỷ trọng hợp lý.
2.2. Giải pháp tăng cường đầu tư phát triển tại EVN
2.2.1. Tăng cường huy động vốn từ các nguồn
Phân tích sâu về thực trạng phát triển của ngành điện, vấn đề lớn nhất hiện nay đối với ngành điện lực là nhu cầu bức xúc về nguồn vốn . Để tiếp tục triển khai thực hiện các dự án điện các năm tiếp theo các Bộ, ngành, các ngân hàng thương mại liên quan và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cần chủ động, hợp tác chặt chẽ hơn để xử lý những vướng mắc, khó khăn về vốn để thực hiện các dự án điện, tuyệt đối không để chậm, giãn, dừng thi công các dự án điện quan trọng và cấp bách. Bên cạnh vốn đầu tư nước ngoài dưới dạng các dự án BOT, các nhà máy điện độc lập (IPP), Việt Nam cần huy động nhiều hơn nguồn vốn phi chính phủ ở trong nước thông qua các liên doanh, phát hành trái phiếu trong nước và cổ phần hóa.
Một kênh huy động vốn của EVN mà thời gian qua đã tiến hành là cổ phần hóa các nhà máy và đơn vị phân phối điện. Đây là kênh huy động vốn quan trọng và đã đem lại hiệu quả không nhỏ. Theo đó, EVN cần tiếp tục cổ phần hóa các nhà máy và đơn vị phân phối điện. Trước mắt, EVN sẽ tiến hành cổ phần hóa các nhà máy mới sau 1 năm đưa vào vận hành là thủy điện Sê San 3, Quảng Trị, A Vương, Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Đồng Nai 4 và bán tiếp cổ phần của EVN ở hai công ty cổ phần nhiệt điện Hải Phòng và Quảng Ninh và dự tính thu được với tổng giá trị 8.273 tỷ đồng.
Nghiên cứu tham gia thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu trong và ngoài nước để đầu tư các công trình điện. Phương án huy động vốn bằng phát hành trái phiếu trong nước (trái phiếu công trình) cho một số dự án thuỷ điện đi vào hoạt động giai đoạn 2005-2010 cần được EVN xúc tiến. Cụ thể, sẽ phát hành 6 dự án gồm thủy điện A Vương, Buôn Tua Srah, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Sông Ba Hạ, Sê San 4 và 2 công trình thủy điện Sơn La và Bản Vẽ, bổ sung nguồn vốn khoảng 6.597 tỷ đồng. Mặt khác, nghiên cứu trình Bộ Tài chính phát hành trái phiếu công ty ra nước ngoài với giá trị hàng năm 500 triệu USD.
Một giải pháp theo EVN là khả thi và huy động được nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển là đưa các nhà máy mới kêu gọi đầu tư theo hình thức IPP và đấu thầu EPC (như cụm các nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 2, 3, 4; nhiệt điện Ô Môn 3, 4; nhiệt điện Nhơn Trạch; nhiệt điện Mông Dương giai đoạn 2; thủy điện Nho Quế 1, 2, 3; thủy điện Sê Rê Pok 4, thủy điện Thượng Kon Tum, thủy điện Khe Bố...; thành lập công ty tài chính điện lực; ngân hàng cổ phần có sự tham gia của EVN...
Tiếp tục triển khai một số công trình đầu tư theo hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), liên doanh hoặc BOO để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, đồng thời tăng khả năng trả nợ cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam.
Tăng cường quan hệ với các ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế để vay vốn đầu tư, ưu tiên vay các nguồn vốn ODA có lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài (ODA chỉ giao cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam); sau đó đến các ngân hàng thương mại với phương châm khi các ngân hàng trong nước không đáp ứng được thì vay các ngân hàng thương mại nước ngoài.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế: trước mắt EVN cần tập trung thực hiện tốt các thoả thuận hợp tác đã ký với các quốc gia, tổ chức quốc tế và xúc tiến các chương trình hợp tác mới thông qua hỗ trợ của các tổ chức JICA, METI, JETRO, JEPIC; xúc tiến việc ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác, chuẩn bị tiến tới đàm phán các điều khoản mua bán than, cụ thể với các đối tác úc, Indonexia cũng như các đối tác chiến lược về nhập khẩu than và liên hệ với các đối tác về khả năng cung cấp than từ các nguồn Lào, Nga, Nam Phi; đôn đốc thực hiện các dự án song phương với Châu Âu, tìm kiếm các nguồn vốn ODA song phương phù hợp cho các dự án đòi hỏi thiết bị công nghệ cao mà các nhà sản xuất trong nước không thể đáp ứng được; đẩy mạnh hợp tác giữa EVN và các doanh nghiệp LB Nga, Ucraina và các doanh nghiệp các nước trong khối Đông Âu trong lĩnh vực điện, triển khai các hoạt động hợp tác với HAPUA, Trung Quốc qua các công trình và hợp tác cụ thể, thiết thực như mua bán điện cấp 220 kV, nghiên cứu đấu nối với cấp 500 kV và các công trình nguồn điện khác... duy trì và đẩy mạnh hơn nữa các hợp tác với Lào và Campuchia; Tham gia các hoạt động tuyên truyền về dự án điện nguyên tử, giao lưu với các đối tác quốc tế về cải tổ ngành điện, về hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam trong bối cảnh mới.
2.2.2. Tăng cường đầu tư cho nguồn và lưới điện
Đầu tư phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện theo hướng hiện đại. Phát triển thuỷ điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, điện nguyên tử..., kết hợp trao đổi, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực. Tập đoàn Điện lực Việt Nam chỉ đầu tư những công trình phát điện có công suất từ 100 MW trở lên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác đầu tư các công trình có công suất nhỏ hơn. Phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại hệ thống truyền tải, phân phối nhằm nâng cao độ tin cậy, an toàn cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng.
2.2.2.1. Đầu tư phát triển nguồn điện
Mục tiêu phát triển của ngành Điện Việt Nam đến năm 2010 là: sử dụng tốt các nguồn thuỷ năng (kết hợp với thuỷ lợi), khí và than để phát triển cân đối nguồn điện. Xây dựng các cụm khí - điện - đạm ở Phú Mỹ và khu vực Tây Nam. Xúc tiến nghiên cứu, xây dựng thuỷ điện Sơn La. Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử. Đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới phân phối điện quốc gia. Đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh điện; có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi. Các biện pháp trước mắt cần triển khai là:
Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp của đất nước như nguồn thuỷ năng (kết hợp với thuỷ lợi), khí, dầu, than cho sản xuất điện, áp dụng thiết bị sử dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và giảm ô nhiễm môi trường. Cần xác định hướng ưu tiên phát triển thuỷ điện, nhất là các công trình có lợi ích tổng hợp (cấp nước, chống lũ, chống hạn...). Khuyến khích đầu tư các nguồn thuỷ điện nhỏ với nhiều hình thức để tận dụng nguồn năng lượng sạch, tái sinh này. Trong khoảng 20 năm tới sẽ xây dựng hầu hết các nhà máy thuỷ điện tại những nơi có khả năng xây dựng. Dự kiến đến năm 2020 tổng công suất các nhà máy thủy điện khoảng 13.000 - 15.000 MW.
Phát triển các nhà máy nhiệt điện với tỷ lệ thích hợp, phù hợp với khả năng cung cấp và phân bố của các nguồn nhiên liệu:
Nhiệt điện than: dự kiến đến năm 2010 có tổng công suất khoảng 4.400 MW. Giai đoạn 2011 - 2020 cần xây dựng thêm khoảng 4.500 - 5.500 MW (phụ tải cơ sở), 8.000 - 10.000 MW (phụ tải cao). Do nguồn than sản xuất trong nước hạn chế, cần xem xét xây dựng các nhà máy điện sử dụng than nhập.
Nhiệt điện khí: đến năm 2010 có tổng công suất khoảng 7.000 MW, giai đoạn 2011 - 2020 cần xây dựng thêm khoảng 3.500 MW (phương án cấp khí cơ sở), trong trường hợp nguồn khí phát hiện được nhiều hơn cần xây dựng thêm khoảng 7.000 MW.
Phát triển các nhà máy sử dụng năng lượng mới và tái tạo. Tận dụng các nguồn năng lượng mới tại chỗ để phát điện cho các khu vực mà lưới điện quốc gia không thể cung cấp được hoặc cung cấp kém hiệu quả, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt danh mục dự án "Phát triển năng lượng tái tạo và mở rộng, cải tạo lưới điện cho các xã vùng sâu, vùng xa". Dự án này được vay vốn Ngân hàng Phát triển Châu Á với trị giá 205 triệu USD. Dự án trên được phê duyệt sẽ góp phần khai thác hiệu quả hơn nguồn năng lượng đa dạng như NL mặt trời, NL gió và địa nhiệt...và đặc biệt là thuỷ điện nhỏ.
Đa dạng hoá phương thức đầu tư phát triển ngành và chuẩn bị các phương án nhập khẩu điện của các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc. Theo hiệp định hợp tác năng lượng đã ký kết, Việt Nam sẽ nhập khẩu khoảng 2.000 MW công suất từ Lào. Tiếp theo sẽ xem xét nhập khẩu điện từ Campuchia và Trung Quốc.
Đầu tư khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở Việt Nam với quy mô công suất khoảng 2.000 MW, dự kiến đưa vào vận hành giai đoạn sau năm 2015. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi năng lượng toàn cầu bị mất cân bằng, giá các loại năng lượng hoá thạch ngày càng tăng cao và với nguy cơ khủng hoảng năng lượng toàn cầu, năng lượng hạt nhân ngày càng trở thành một nguồn năng lượng quan trọng góp phần đáp ứng sự gia tăng nhu cầu năng lượng, tăng cường an ninh cung cấp năng lượng và giảm thiểu phát thải carbon. Ở Việt Nam, việc phát triển điện hạt nhân nói riêng và việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình nói chung đã được Đảng, Nhà nước định hướng và chỉ đạo thực hiện trên chục năm qua. Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 01/2006/QĐ-TTg ngày 03/01/2006. Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét triển vọng đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/07/2007, dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam sẽ được đưa vào vận hành năm 2020, và Tập đoàn Điện lực Việt Nam được giao là chủ đầu tư của dự án. Gần đây nhất, ngày 04/06/2008, Luật Năng lượng nguyên tử đã được Quốc hội chính thức thông qua tại Kỳ họp thứ III Quốc hội khóa XII. Với trọng trách là đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ và tin cậy cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân và đời sống sinh hoạt của nhân dân, Tập đoàn Điện lực Việt Nam được coi là chủ đầu tư tiềm năng nhất của dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam và là đơn vị tiên phong trong đầu tư và ứng dụng năng lượng tái tạo và năng lượng không truyền thống tại Việt Nam. Để chuẩn bị cho sứ mệnh này, tháng 09/2007, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã thành lập Ban chuẩn bị đầu tư dự án điện hạt nhân và năng lượng tái tạo (NRPB) với chức năng nhiệm vụ chính: Thay mặt Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư cho dự án Nhà máy điện hạt nhân bao gồm các công việc:
Quản lý thực hiện chuẩn bị đầu tư dự án Nhà máy điện hạt nhân theo các quy định của Luật Xây dựng và các nghị định liên quan, bao gồm các khâu: Báo cáo Đầu tư, Dự án đầu tư xây dựng công trình.
Chuẩn bị về cơ sở vật chất kĩ thuật, nhân lực và đào tạo nhân lực để phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế để chuẩn bị đầu tư, nhận chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế về nhà máy điện hạt nhân.
2.2.2.2. Đầu tư phát triển hệ thống truyền tải và phân phối điện
Cần xác định rõ đầu tư phát triển nguồn điện phải đi đôi với phát triển lưới điện, phát triển lưới điện phân phối phải phù hợp với phát triển lưới điện truyền tải.
Đầu tư phát triển nhanh hệ thống truyền tải 220, 500 kV nhằm nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng trên lưới truyền tải, bảo đảm khai thác kinh tế các nguồn điện; phát triển lưới 110 kV thành lưới điện phân phối cung cấp trực tiếp cho phụ tải.
Nghiên cứu giảm bớt cấp điện áp trung thế của lưới điện phân phối. Nhanh chóng mở rộng lưới điện phân phối đến vùng sâu, vùng xa. Tập trung đầu tư cải tạo lưới điện phân phối để giảm tổn thất điện năng, giảm sự cố và nâng cao độ tin cậy cung cấp điện.
2.2.3. EVN cần phổ biến giải pháp tiết kiệm điện năng tới mọi người dân
Thế giới đang đứng trước nguy cơ phải đối mặt với khủng hoảng năng lượng. Trong khi chưa tìm được nguồn năng lượng mới thay thế, tiết kiệm năng lượng là giải pháp cân bằng nền kinh tế một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Ở Việt Nam, tiết kiệm điện trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp khó khăn hiện nay còn giúp giảm áp lực đầu tư phát triển nguồn điện mới.
Phổ biến sử dụng đèn Compact: Phát huy những hiệu quả và lợi ích đã đạt được trong chương trình quảng bá sử dụng 1 triệu đèn Compact (năm 2005-2006), EVN cần tiếp tục triển khai chương trình quảng bá sử dụng đèn Compact trong giai đoạn 2007- 2010 để việc sử dụng đèn Compact ngày càng phổ biến và bền vững.
Quảng bá đèn huỳnh quang T8 và chấn lưu tiết kiệm năng lượng: Tiến tới chuyển đổi thị trường đèn huỳnh quang thường (T10) sang sử dụng đèn huỳnh quang gầy (T8, T5) và chấn lưu tiết kiệm năng lượng, EVN cần tăng cường thực hiện các hoạt động quảng bá chương trình và thực hiện dự án chiếu sáng hiệu quả trường học với sự tài trợ của Quỹ môi trường toàn cầu GEF thông qua Ngân hàng Thế giới.
Chương trình tuyên truyền trên Đài tiếng nói Việt Nam: Nhằm đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền và phổ biến chương trình tiết kiệm điện năng tới đông đảo người dân, EVN cần tiếp tục phối hợp với Đài tiếng nói Việt Nam triển khai Chương trình hành động phối hợp tuyên truyền tiết kiệm điện dưới nhiều hình thức như: điểm tin nhanh, bình luận và điều tra về các trường hợp sử dụng điện lãng phí; xây dựng các chuyên mục sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất công nghiệp. Ngoài ra EVN tổ chức cuộc thi tìm hiểu cách sử dụng điện tiết kiệm; phối hợp với Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức tập huấn về tiết kiệm điện cho các đài phát thanh truyền hình các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương.
Tiếp tục hoàn thiện trang thông tin điện tử về tiết kiệm điện: Nhằm đa dạng hóa các hình thức tuyền truyền tiết kiệm điện cũng như muốn xây dựng cầu nối thông tin giữa EVN với khách hàng trên lĩnh vực thông tin và tư vấn tiết kiệm điện, ngày 15/3/2008 EVN đã tổ chức lễ ra mắt trang thông tin điện tử hppt://www.tietkiemnangluong.vn về tiết kiệm điện với nội dung tư vấn sử dụng điện tiết kiệm hiệu quả, hướng dẫn sử dụng các thiết bị tiết kiệm điện, tra cứu các thông tin về tình hình sản xuất điện và các thông tin khoa học về điện .... Hiện nay, trang thông tin vẫn chưa thu hút được nhiều sự chú ý, do vậy cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đê tuyên truyền phổ biến ý thức tiết kiệm điện tới mọi người dân.
2.2.4. Giảm tỷ lệ tổn thất điện năng
Theo yêu cầu của Chính phủ, đến năm 2010, Tập đoàn Điện lực Việt Nam phải giảm tỷ lệ tổn thất điện năng xuống còn 8%, thấp hơn 1% so với yêu cầu trong Chương trình tiết kiệm điện giai đoạn 2006-2010 tại Quyết định số 80/2006/QĐ-TTg. Đây là một thách thức rất lớn đối với EVN, nếu như phụ tải công nghiệp trong cơ cấu phụ tải không tăng một cách đột biến và nguy cơ thiếu nguồn, phải huy động công suất cao từ các nguồn điện hiện có không sớm được khắc phục. Hơn nữa, việc giảm tỷ lệ tổn thất điện năng phụ thuộc rất nhiều vào công tác đầu tư phát triển và cải tạo, hoàn thiện lưới điện, lắp đặt hệ thống bù công suất phản kháng, đồng thời tăng cường các biện pháp quản lý, chống tổn thất thương mại...
Tỷ lệ tổn thất điện năng hiện nay đã sát với tổn thất kỹ thuật, để tiếp tục giảm tổn thất kỹ thuật EVN cần triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp cả về đầu tư lẫn quản lý vận hành; khẩn trương thực hiện công tác đầu tư xây dựng mới các công trình đường dây và trạm biến áp nhằm đưa điện áp cao vào gần các trung tâm phụ tải, rút ngắn bán kính cấp điện, san tải cho các đường dây và trạm biến áp đã đầy tải; tăng cường lắp đặt tụ bù để đảm bảo cos các suất tuyến trung áp phải đạt 0,95 trở lên, đồng thời xem xét thay mới các máy biến áp đã vận hành quá lâu, có hiệu suất thấp, nghiên cứu áp dụng công nghệ mới.
Cần xác định rõ: biện pháp đầu tư phát triển lưới điện, cải tạo nâng cấp lưới điện đóng vai trò quan trọng nhất, biện pháp này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn và cần có thời gian thực hiện và đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với EVN.
Đối với công tác quản lý vận hành: Trong chế độ vận hành bình thường của hệ thống điện, phải đảm bảo điện áp các nút trong tiêu chuẩn cho phép, tăng cường các biện pháp quản lý vận hành như: Cân bằng pha; hoán vị máy biến áp đầy, non tải; khai thác tốt hệ thống tụ bù hiện có; tiếp tục triển khai áp dụng công nghệ mới; khai thác hiệu quả hệ thống SCADA, các phần mềm tính toán hiện có để vận hành kinh tế hệ thống điện và giảm TTĐN.
Giải pháp khoa học - công nghệ nhằm giảm tỷ lệ tổn thất điện năng:
Tăng cường đầu tư khoa học - công nghệ và quản lý để tiếp tục phấn đấu giảm tổn thất điện năng xuống khoảng 10% vào năm 2010 và dưới 10% vào những năm sau. Áp dụng công nghệ thích hợp trong ngành để nâng cao hiệu quả đầu tư và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sử dụng công nghệ thông tin để đảm bảo vận hành tối ưu hệ thống điện.
Thực hiện chương trình quản lý nhu cầu (DSM) để cắt giảm công suất đỉnh nhằm tiết kiệm đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi trong vận hành hệ thống điện, tiết kiệm điện trong tiêu dùng.
Tập trung nghiên cứu khoa học, công nghệ tiên tiến áp dụng cho sản xuất và truyền tải điện năng. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại theo hướng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu tác động đến môi trường với những bước đi hợp lý.
2.2.5. Đẩy mạnh tiến độ thực hiện các dự án
Để giải quyết dứt điểm những tồn tại, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án điện, EVN cần chỉ đạo các ban chức năng của Tổng công ty phối hợp chặt chẽ với các Ban quản lý dự án khẩn trương hoàn thành các thủ tục xét thầu, sớm phê duyệt kết quả các gói thầu và yêu cầu nhà thầu triển khai thực hiện. Cần áp dụng cơ chế đặc biệt để đẩy nhanh công tác xét thầu, tránh làm chậm trễ tiến dộ thực hiện các dự án. Cơ chế đặc biệt được nói đến ở đây là văn bản số 797/CP-CN, Thủ tướng Chính phủ giao các bộ, ngành, UBND các địa phương và EVN 21 nhiệm vụ (trong đó EVN có 10 nhiệm vụ). Theo đó, cho phép EVN không phải tổ chức đấu thầu mà được chỉ định thầu đối với các công ty tư vấn trong nước. Một số hạng mục phức tạp, áp dụng công nghệ mới EVN có thể thuê tư vấn nước ngoài làm tư vấn phụ. Các đơn vị tư vấn triển khai lập thiết kế kỹ thuật giai đoạn 1 gần như đồng thời với lập báo cáo nghiên cứu khả thi, nhất là công tác khảo sát địa chất, môi trường, di dân.Văn bản 797/CP-CN cũng cho phép EVN căn cứ yêu cầu của việc thi công các nhà máy để chọn ra một tổ hợp nhà thầu chuyên sâu từng loại công việc như đào đắp, vận chuyển, đổ bê-tông, lắp thiết bị... để giao việc. Tổ hợp này được chỉ định thầu do một đơn vị đảm nhiệm chức năng nhà thầu chính. Những trường hợp đặc biệt, cần sự trợ giúp từ cấp trên, cần cử cán bộ trực tiếp cùng tham gia quá trình xem xét hồ sơ với các Ban quản lý dự án để rút ngắn thời xét thầu. Đồng thời, lãnh đạo cấp trên sẽ thường xuyên kiểm tra, họp giao ban công trường với Ban quản lý dự án và các đơn vị tham gia thi công để kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh.
Bên cạnh đó đối với các công trình mới, các đơn vị tư vấn thiết kế các công trình điện cũng nên cân nhắc, xem xét thiết kế hướng tuyến để hạn chế mức thấp nhất để đường dây đi qua vùng dân cư, hạn chế tối đa nảy sinh các vướng mắc về giải phóng mặt bằng.
Ngoài ra, để giải quyết những mối e ngại từ tâm lý người dân, các cán bộ quản lý cần nâng cao nhận thức của người dân, từ đó tăng cường sự hợp tác từ phía các hộ dân cư. Như trường hợp Công trình đường dây điện 220 kV Tuy Hòa - Nha Trang đã nói ở trên, các cán bộ đảm nhận công tác giải phóng mặt bằng cần giảng giải, phổ biến cho người dân: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định 106/2005/NĐ - CP của Chính phủ thì khoảng cách từ bất kỳ bộ phận nào của nhà ở, công trình đến dây dẫn gần nhất khi dây ở trạng thái tĩnh ở cấp điện áp 220 kV là 6m. Quy định ngưỡng giới hạn an toàn về cường độ điện trường mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn cho con người sống và làm việc trong vùng ảnh hưởng của điện trường. Theo đó, các tiêu chuẩn thiết kế, xây lắp công trình đường dây 220 kV Tuy Hòa - Nha Trang đều tuân thủ các quy định thiết kế, vận hành của Việt Nam. Đặc biệt là quy định về ngưỡng an toàn điện từ trường theo Nghị định 106/2005/NĐ- CP của Chính phủ. Thêm vào đó, để người dân thực sự tin tưởng vào các tiêu chuẩn trên, các cơ quan chức năng cần cam kết với nhân dân có nhà cửa, vật kiến trúc bị ảnh hưởng hành lang công trình nếu sau khi đóng điện vận hành công trình mà có sự nhiễm điện, không an toàn theo quy định thì phải lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để di dời nhà ở, vật kiến trúc ra khỏi hành lang an toàn công trình
Cần có phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong quá trình thực hiện đền bù, từ đó đưa ra mức đền bù hợp lý vừa đảm bảo thi công xây dựng công trình, vừa tạo điều kiện cho người dân sinh sống và làm việc ổn định.
2.2.6. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
2.2.6.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý
Hoàn thiện bộ máy quản lý Trong thời gian tới, EVN tiếp tục thực hiện sắp xếp đổi mới doanh nghiệp theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt. Theo đó, hoàn thành cổ phần hóa các đơn vị phát điện, viễn thông, công nghệ thông tin; xây dựng kế hoạch sắp xếp các công ty phân phối điện (chuyển thành công ty TNHH MTV hoặc cổ phần hóa) báo cáo Thủ tướng Chính phủ thông qua để triển khai thực hiện. Đồng thời, EVN tích cực chuẩn bị bộ máy tổ chức để triển khai các dự án nguồn điện được phê duyệt tại Quyết định số 110/2007/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2007 về phê duyệt Qui hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025. EVN phấn đấu hoàn thành công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp vào năm 2010, xây dựng và phát huy mọi nguồn lực để trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, giữ vững vai trò đầu tàu trong cung cấp điện cho nền kinh tế quốc dân.Bổ sung và hiệu chỉnh Luật Điện lực trình Quốc hội thông qua năm 2004 làm cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động điện lực, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm soát và điều phối thị trường điện lực. Nghiên cứu xây dựng đầy đủ các khuôn khổ pháp lý, các điều kiện để sớm hình thành thị trường điện lực cạnh tranh. Xây dựng lộ trình cải cách cơ cấu tổ chức ngành công nghiệp điện lực theo định hướng chiến lược đã đề ra.
Tiếp tục thực hiện cải cách giá điện theo lộ trình đã được duyệt năm 2009, thực hiện theo Quyết định số 21/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 12 tháng 2 năm 2009 và Thông tư số 05/TT-BCT của Bộ Công thương về giá bán điện năm 2009 và hướng dẫn thực hiện, ban hành ngày 26 tháng 2 năm 2009. Bên cạnh đó, EVN cần nghiên cứu điều chỉnh biểu giá điện theo hướng giảm bù chéo quá lớn giữa các nhóm khách hàng. Tổng công ty Điện lực Việt Nam cần thực hiện hạch toán riêng phần dịch vụ mang tính công ích.
Có kế hoạch phân bổ và sử dụng nguồn lực hợp lý. Cụ thể, EVN cần xác định thứ tự ưu tiên các dự án điện để đưa vào vận hành trong các năm 2008, 2009 và 2010, trên cơ sở đó, lập kế hoạch giải ngân theo từng tháng gửi các ngân hàng thương mại để chủ động bố trí và giải ngân vốn đáp ứng tiến độ của từng dự án; đàm phán với các ngân hàng thương mại để thương thảo về lãi vay của các hợp đồng tín dụng đã ký và các hợp đồng tín dụng đã được giải ngân; đàm phán với các ngân hàng thương mại để ký hợp đồng tín dụng cho các dự án thủy điện Sơn La, Huội Quảng, Bản Chát, nhiệt điện Uông Bí mở rộng 2, ... và lưới điện đồng bộ; thực hiện các biện pháp để chuyển đổi cơ cấu nguồn vốn các dự án thủy điện như: huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tiếp tục cổ phần hóa các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn; ngừng đầu tư các công trình ngoài lĩnh vực điện để tập trung vốn tự có cho các dự án điện... nhằm giảm sức ép về vốn đối với các ngân hàng thương mại. Tập đoàn Điện lực Việt Nam cần đảm bảo được vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành điện Việt Nam.
Để góp phần giảm chi phí quản lý, EVN nên triển khai áp dụng các tiện ích kỹ thuật như ngân hàng thu hộ qua tài khoản, thẻ tín dụng...Một ví dụ điển hình trong phương pháp này: Điện lực Bà Rịa-Vũng Tàu đã tiến hành ký kết hợp đồng hợp tác thu tiền điện qua ngân hàng với Ngân hàng Đầu tư & Phát triển (BIDV) Chi nhánh Bà Rịa-Vũng Tàu và Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) Chi nhánh Vũng Tàu. Sau một thời gian ngắn thực hiện phương thức thanh toán này, đã đem lại tiện ích cho cả 3 bên là đơn vị cung cấp điện, ngân hàng và người sử dụng điện. Dịch vụ thu tiền điện qua ngân hàng giúp khách hàng của ngành điện và ngân hàng thanh toán hóa đơn tiền điện được thuận tiện, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian. Hình thức thanh toán đa dạng, có thể bằng tiền mặt, ủy nhiệm chi, thanh toán bằng thẻ ATM, hoặc ký hợp đồng ủy quyền cho ngân hàng trích nợ tài khoản để thanh toán (nhờ thu không chờ chấp nhận)... Thủ tục đăng ký sử dụng dịch vụ đơn giản, khách hàng có thể đăng ký tại quầy giao dịch ngân hàng, tại đơn vị điện lực, hoặc qua nhân viên điện lực đi ghi chỉ số điện, nhân viên thu tiền điện hàng tháng. Việc thanh toán tiền điện qua ngân hàng không chỉ mang lại tiện ích cho khách hàng, mà còn giúp cho ngân hàng tăng số lượng khách hàng mở tài khoản giao dịch, qua đó ngân hàng có điều kiện mời gọi khách hàng sử dụng các sản phẩm, loại hình dịch vụ khác của ngân hàng. Về phía ngành điện, tiết kiệm chi phí do giảm nhân lực đi thu tiền điện hàng tháng, qua đó tập trung cho việc nâng cao chất lượng cung cấp điện cho khách hàng.
2.2.6.2. Đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực
Theo lộ trình, năm 2015, Việt Nam sẽ bắt tay vào xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên và đến năm 2020 sẽ đưa vào sử dụng tổ máy đầu tiên với công suất 1.000 MW, sau đó sẽ lần lượt đưa vào sử dụng các tổ máy tiếp theo. Kinh phí đào tạo nhân lực cho nhà máy điện hạt nhân chiếm khoảng từ 2-5% tổng kinh phí của một dự án điện hạt nhân. Việc đầu tư kinh phí cho đào tạo nhân lực kỹ thuật hạt nhân, đặc biệt là đào tạo cơ bản là rất quan trọng.
Kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực của EVN giai đoạn 2008 – 2010, dự kiến đến 2015 cần được tiếp tục triển khai thực hiện với mục tiêu, đối tượng và các chương trình đào tạo cụ thể phù hợp với mô hình tổ chức của Tập đoàn, đảm bảo mục tiêu năng suất lao động hàng năm của EVN tăng 20%. EVN đã ban hành quy chế mới về đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhằm phân cấp quản lý rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn giữa EVN - đơn vị trong các hoạt động về đào tạo. EVN cần tăng cường phối hợp với Tổng cục dạy nghề và các trường trực thuộc tổ chức xây dựng, thẩm định 05 chương trình khung đào tạo nghề trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề các nghề: hệ thống điện; thí nghiệm điện; đo lường điện; kỹ thuật lò hơi; kỹ thuật tuabin hơi. Tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho chương trình phát triển điện hạt nhân do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì. Các trường thuộc EVN cần được định hướng tự chủ về tài chính, nghiên cứu phương án thí điểm cổ phần hoá và triển khai mạnh mẽ việc đào tạo theo nhu cầu của EVN và xã hội
EVN cần tiếp tục tổ chức và điều phối các chương trình đào tạo dài hạn, ngắn hạn thuộc các dự án lớn, đào tạo về công nghệ mới và các chức danh do EVN quản lý. Các đơn vị được chủ động thực hiện kế hoạch đào tạo hàng năm với kinh phí được định hướng chiếm từ 1,5 đến 5% quỹ lương. Bên cạnh đó, cần triển khai các hạng mục dự án Đào tạo sử dụng vốn vay WB bao gồm: chương trình đào tạo tiếng Anh cho 40 cán bộ quản lý; chương trình phát triển nguồn nhân lực nhằm mục đích xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của EVN theo hướng hiện đại, chuyên môn hoá; các chương trình đào tạo thạc sỹ QTKD và thạc sỹ chuyên ngành tài chính; các chương trình đào tạo phát triển chuyên môn: chăm sóc khách hàng, phát triển thương hiệu, quan hệ công chúng, tối ưu hoá hệ thống điện, an toàn lưới 110kV, độ tin cậy và chất lượng điện. Sau khi các chương trình này được triển khai thực hiện, EVN cần tiếp tục thực hiện đào tạo liên tục cho các đơn vị trên cơ sở sử dụng các kết quả dự án đã đạt được.
2.2.6.3. Có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ có tay nghề cao
Tiền lương là mối quan tâm đặc biệt đối với người làm công ăn lương, bởi vì tiền lương là nguồn thu nhập chính nhằm duy trì và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động và gia đình họ. Vì vậy tiền lương và thu nhập phải thể hiện sự công bằng trong phân phối theo kết quả lao động và hiệu suất công tác của mỗi người. Đối với các cán bộ có tay nghề cao tại EVN, để giải quyết hiện tượng chảy máu chất xám, cần tăng cường đầu tư cho quỹ lương để tiến tới san bằng khoảng cách với các doanh nghiệp trong ngành. Sự san bằng này không chỉ về mặt con số mà còn về mặt đánh giá chất lượng. Người làm ít cũng như người làm nhiều, cần có một hệ thống thưởng ngoài lương phù hợp, gắn với thành tích để khuyến khích mọi người hoàn thành tốt công việc. Ngoài ra để tăng cường hiệu quả cũng như tạo sự hấp dẫn của công việc, cần lập một quỹ đào tạo thường xuyên, để vừa trang bị kỹ năng nghề nghiệp cho công chức lại vừa là phần thưởng cho những người làm việc xuất sắc.Theo đó, phải thành lập các quỹ khen thưởng, quỹ hỗ trợ phát triển nhằm nâng cao tính sáng tạo của người lao động. Thu nhập cao, quyền lợi tăng thêm như mua cổ phiếu ưu đãi hay các chức danh là những đãi ngộ được các DN mới đầu tư vào lĩnh vực điện chào đón những người đã có thâm niên hoạt động trong ngành điện. Lẽ dĩ nhiên, với cơ chế hoạt động của các công ty cổ phần, công ty tư nhân, thì những ưu đãi để thu hút người tài không khó khăn như các DN 100% vốn nhà nước.Do vậy, EVN cần tận dụng lợi thế này để thu hút ‘chất xám’ đảm bảo nguồn nhân lực có trình độ cao trong công cuộc đầu tư xây dựng của mình.
2.2.6.4. Đầu tư cho đội ngũ nhân lực phục vụ dự án nhà máy điện hạt nhân
Nguồn nhân lực cho Chương trình Điện hạt nhân ở giai đoạn đầu từ nay đến năm 2020 của Việt Nam cần trên 1.000 người, tập trung vào 3 lĩnh vực chính yếu, đó là nhân lực thực hiện Dự án; các cơ quan quản lý; nhân lực hoạt động nghiên cứu, triển khai và hỗ trợ kỹ thuật, chưa kể phải huy động từ 6.000-10.000 công nhân xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Vì vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực này phải được quan tâm đi trước một bước. Giải pháp trước hết là Chính phủ nhanh chóng phê duyệt Chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân, để sớm thành lập Ban Chỉ đạo về đào tạo nguồn nhân lực này trong phạm vi cả nước. Theo đó, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam sẽ đảm nhiệm thành lập Trung tâm đào tạo chuyên ngành hạt nhân, cung cấp nguồn nhân lực nòng cốt cho Chương trình điện hạt nhân của nước ta. Đồng thời, các trường đại học tiến hành quy hoạch và nâng cấp các khoa, bộ môn đào tạo hạt nhân; bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ chuyên ngành hạt nhân hiện có; xây dựng chương trình đào tạo tại nước ngoài cho số cán bộ nòng cốt của Chương trình Điện hạt nhân.
Một giải pháp cần thiết nữa cho Chương trình Điện hạt nhân ở giai đoạn đầu là mời chuyên gia các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân tiên tiến đến nước ta, để giúp đỡ đào tạo cán bộ trẻ về công nghệ và an toàn điện hạt nhân. Mặt khác, Việt Nam cũng cần tăng cường sử dụng hiệu quả các kênh hợp tác quốc tế đã có như Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) phục vụ mục tiêu đào tạo, phát triển nguồn nhân lực hạt nhân một cách bền vững.
Nguồn nhân lực hạt nhân chủ yếu của Việt Nam có gần 800 người, hiện làm việc phần lớn tại Viện Năng lượng Nguyên tử. Trong giai đoạn đầu của Chương trình, phải rất coi trọng việc quy hoạch và bố trí sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ hạt nhân này, đi đôi với việc ban hành các chính sách liên quan bao gồm về lương và điều kiện làm việc nhằm thu hút lực lượng giỏi vào làm việc trong ngành hạt nhân. Đây là giải pháp nhanh và hiệu quả nhất để có được những chuyên gia nòng cốt cho nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở nước ta, trên cơ sở kế thừa các kinh nghiệm đã tích lũy trong hơn 30 năm phát triển của Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam.
2.3. Kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước
2.3.1. Hoàn thiện các chính sách có liên quan
Điện là lĩnh vực được xem là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, đòi hỏi nguồn vốn lớn và thời gian xây dựng tương đối dài. Việc lo vốn cho các dự án điện không phải là tầm cỡ của các Tập đoàn được Chính phủ giao mà là của đất nước, của Chính phủ nhằm có chính sách vĩ mô đồng bộ để thu hút vốn trong xã hội và các nhà đầu tư nước ngoài. Để góp phần tháo gỡ những khó khăn về vốn tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam, nhằm thúc đẩy việc đầu tư điện theo QHĐ VI, chính phủ cần xem xét và phê duyệt một số đề xuất sau:
Cho phép EVN bán cổ phần ở một số dự án nhà máy điện đang vận hành cho các tổ chức trong và ngoài nước để lấy tiền tăng đầu tư cho dự án mới, cho bán thêm cổ phần ở các dự án đã cổ phần hoá, EVN chỉ giữ tối thiểu 30% vốn điều lệ. Cho phép cổ phần hoá các công trình điện mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. Thí điểm phát hành trái phiếu công trình và phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán. Thực hiện liên doanh, liên kết trong đầu tư các công trình điện.Thành lập ngay Công ty Cổ phần ở một số Dự án chuẩn bị đầu tư để thu hút vốn trong xã hội ngay tư đầu cho các dự án điện.
Có biện pháp điều chỉnh giá điện theo hướng thị trường hoá điện lực. Đây là một việc làm hết sức quan trọng, Chính phủ có thể quy định giá sàn và biên độ dao động giá (giá trần) do thị trường quyết định nhằm dần tăng bước tiếp cận thị trường, tạo cơ chế giá điện linh hoạt nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Khi Chính phủ còn quy định giá điện cứng nhắc thì sẽ gây ra rào cản khiến cho nhà đầu tư nước ngoài không đầu tư trực tiếp.
Ngoài ra, Chính phủ cần ưu tiên bố trí vốn tín dụng ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển, vốn ODA và các nguồn vay song phương của nước ngoài cho EVN để thực hiện đầu tư các công trình điện trọng điểm của quốc gia. Hỗ trợ vốn ngân sách cho các dự án điện khí hoá nông thôn, miền núi, hải đảo nhằm mục đích phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo cho các khu vực này. Nhà nước cần có chính sách giao đất không thu tiền hoặc miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất với các công trình điện. Bộ Công Thương cần tăng cường chỉ đạo chủ đầu tư các nhà máy điện ngoài EVN đảm bảo tiến độ các dự án nguồn điện; đặc biệt là các dự án nhiệt điện Sơn Động, Cẩm Phả có vai trò lớn trong việc đảm bảo điện cho miền Bắc ngay từ mùa khô 2009-2010.
Chính phủ cần xem xét giảm thuế giá trị gia tăng cho sản phẩm điện từ 10% xuống mức ưu đãi hơn để giảm sức ép tăng giá điện
Tạo cơ chế chính sách thông thoáng để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình điện. Để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào dự án điện, cần giải quyết các vướng mắc trong hợp đồng mua bán điện, đồng thời có cơ chế thông thoáng cả về thủ tục cũng như cách tính giá điện công khai, minh bạch. Tính bình quân, mỗi dự án điện hiện nay cũng có công suất từ 1000 - 1200 MW và với giá cả đầu vào như hiện nay thì khả năng vượt 20.000 tỷ đồng cho một dự án là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên, theo quy định, các dự án có giá trị vượt quá 20.000 tỷ đồng thì phải trình Quốc hội để xem xét thông qua. Đây chính là nguyên nhân khiến cho rất nhiều dự án của EVN bị chậm tiến độ do thời gian trình xem xét, thẩm duyệt là quá lâu. Do đó, chính phủ cần có những cơ chế ưu đãi về mặt thủ tục hành chính để tháo gỡ những vướng mắc trong thẩm duyệt,cấp phép... từ đó mới có thể đẩy nhanh tiến độ các dự án.
2.3.2. Phát huy vai trò của các tổ chức liên quan
- Bộ Công nghiệp: Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các chủ đầu tư và các đơn vị liên quan thực hiện đúng tiến độ và có hiệu quả các công trình điện. Thường xuyên theo dõi, đánh giá tình hình cung - cầu về điện, tình hình thực hiện các dự án nguồn và lưới điện để điều chỉnh, kiến nghị bổ sung kịp thời danh mục, chủ đầu tư và tiến độ các dự án cho phù hợp với thực tế phát triển của ngành điện. Phê duyệt quy hoạch địa điểm, quy hoạch chi tiết các trung tâm điện than, quy hoạch thủy điện để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Chỉ đạo việc phát triển các nguồn khí thiên nhiên cho phát điện, công nghiệp và dân dụng. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng cơ chế tài chính để khuyến khích đầu tư phát triển các dự án năng lượng mới và tái tạo. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành thực hiện việc đàm phán ký kết hợp tác, trao đổi điện với các nước láng giềng và tham gia của Việt Nam vào hệ thống điện liên kết giữa các nước trong khu vực tiểu vùng sông Mê Kông. Chỉ đạo, đôn đốc các địa phương, các chủ đầu tư thực hiện tốt các dự án năng lượng nông thôn theo kế hoạch và tiến độ quy định. Chỉ đạo nghiên cứu, chế tạo thí điểm thiết bị đồng bộ cho các dự án nhà máy điện than và thủy điện.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần khẩn trương xây dựng cơ chế chính sách để thu hút đầu tư và sử dụng hợp lý nguồn vốn ODA nhằm tạo điều kiện cho ngành điện phát triển đồng bộ, cân đối, hợp lý và bền vững. Bộ Tài chính cần tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các cơ chế huy động vốn đầu tư phát triển ngành điện nhằm đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu điện của toàn xã hội theo Quy hoạch điện VI. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cần sớm bố trí vốn ngân sách và có chính sách ưu tiên nguồn vốn ODA cho các dự án điện cũng như ưu tiên cho các khu vực nông thôn chưa có điện.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện đầu tư các công trình điện để đảm bảo yêu cầu phát triển ngành điện bền vững. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại ký kết các hợp đồng tín dụng với EVN và kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng này, đồng thời có biện pháp hỗ trợ và xử lý kịp thời những vướng mắc liên quan đến vốn cho các dự án điện, kể cả bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ, tạo điều kiện để các đơn vị thực hiện tốt hợp đồng tín dụng và kế hoạch đầu tư các dự án điện vào vận hành ở các năm tiếp theo…
- Đối với các ngân hàng thương mại, cần xem xét cho phép EVN được miễn ký quỹ khi mở L/C thanh toán của hợp đồng nhập khẩu thiết bị khi Tập đoàn có số dư trên gửi tại ngân hàng; chủ động phối hợp với EVN trong việc đàm phán và hoàn tất các thủ tục để ký các hợp đồng tín dụng, đồng thời thực hiện việc giải ngân vốn đầy đủ, kịp thời cho các dự án theo kế hoạch giải ngân vốn hàng tháng của EVN.
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam trong khi chờ giải quyết thủ tục thế chấp, tiếp tục được giải ngân các khoản vay tín dụng ưu đãi cho di dân tái định cư và chế tạo cơ khí thủy công trong nước để không ảnh hưởng đến tiến độ của các dự án.
2.3.3. Tiến tới mở cửa thị trường điện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD tại EVN
Việc thiếu hàng hoá trong một nền kinh tế thường không chỉ ở lỗi của doanh nghiệp. Trong trường hợp này cũng vậy, lỗi thiếu điện cần phải được nhìn từ phía quản lý, điều hành ngành điện của Chính phủ. Việc thiếu điện hiện nay gợi cho chúng ta nhớ thời kỳ thiếu gạo những năm 1980. Rõ ràng Việt Nam hồi đó không thiếu khả năng sản xuất gạo, cũng như bây giờ Việt Nam không thiếu khả năng sản xuất điện. Vấn đề là chưa có đủ động cơ để sản xuất. Động cơ chỉ tồn tại trong những cơ chế thích hợp, mà Chính phủ chưa tạo ra một cơ chế thích hợp để ngành điện phát triển. Do đó Chính phủ cần phải tạo ra một thị trường hiện đại. Một thị trường hiện đại hoạt động hiểu quả sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh tích cực giữa các công ty sản xuất điện, giữa các nhà bán lẻ và giữa các công ty cung cấp đường dây tải. Việc cạnh tranh sẽ khiến các doanh nghiệp này liên tục phải tìm cách cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh và có những kế hoạch dài hạn thích hợp. Một thị trường điện hiệu quả cũng tạo ra cơ chế ngăn cản các doanh nghiệp sử dụng sức mạnh thị trường để gây sức ép tăng giá nhằm trục lợi bằng sự tổn thất của người tiêu dùng.
Theo đó, chính phủ cần tiến tới mở của thị trường điện theo lộ trình dài hạn để tạo động cơ cho ngành điện phát triển, bao gồm bốn bước:
Bước 1:Cho phép tư nhân và quốc tế đầu tư sản xuất điện. EVN mua điện của các công ty sản xuất điện độc lập (IPPs) qua các hợp đồng dài hạn (đang thực hiện).
Bước 2: Tự do hoá một phần thị trường bán buôn: để các IPPs tự do cạnh tranh với nhau, trong khi EVN giữ thế độc quyền trên thị trường bán lẻ (lộ trình 2010-2014 của Bộ Công nghiệp). Giai đoạn này thị trường bán buôn có nhiều người bán nhưng chỉ có một người mua.Trong giai đoạn này, có nhiều người bán buôn nhưng chỉ một người mua (EVN) để bán lại trên thị trường bán lẻ. Giai đoạn 1, tong người bán buôn ký hợp đồng với EVN, các hợp đồng này độc lập với nhau và giá cả được xác định kín giữa hai bên. Trong giai đoạn 2, những người bán buôn phải cạnh tranh với nhau để bán cho EVN. Giá cả được xác định theo mức thị trường, công khai và chỉ một giá duy nhất cân bằng cung-cầu.
Bước 3: Tự do hoá hoàn toàn thị trường bán buôn thông qua việc phá thế độc quyền bán lẻ của EVN và cho phép các người mua lớn có thể mua trực tiếp từ người bán buôn. Khi giai đoạn này kết thúc, thị trường bán buôn sẽ có nhiều người bán và nhiều người mua. Theo lộ trình của Bộ Công nghiệp, giai đoạn này sẽ được thực hiện trong thời gian 2014-2022.
Bước 4: Giai đoạn cuối cùng là tự do hoá cả thị trường bán lẻ điện. Khi giai đoạn này được thực hiện, người mua điện nhỏ cũng có quyền lựa chọn mua điện của các công ty bán lẻ khác nhau. Giai đoạn này sẽ được thực hiện sau năm 2022- cũng theo lộ trình của Bộ Công nghiệp.
Việc tự do hoá thị trường điện sẽ tạo động lực cho giới đầu tư tư nhân và quốc tế tham gia sản xuất điện. Tuy nhiên, đây không phải là một kết quả tất yếu, nếu không được thực hiện tốt thì việc tự do hoá thị trường điện sẽ tạo ra những bẫy giá cả nguy hiểm cho người mua và không chắc sẽ giải quyết được tình trạng khan hiếm điện. Việc tái cơ cấu thị trường điện, vì thế, là một việc khó khăn, nhiều rủi ro và đòi hỏi các nhà quản lý và hoạch định chính sách phải có kiến thức tốt hoặc được tư vấn tốt về thị trường điện hiện đại và cách xây dựng nó.
2.4. Các đơn vị cần hợp tác giải quyết khó khăn
Các địa phương chủ trì phối hợp với các chủ đầu tư thực hiện việc giải phóng mặt bằng, bồi thường, di dân, tái định cư cho các dự án nguồn điện, lưới điện theo quy định.
Các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện lực có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Chỉ thị số 19/2005/CT-TTg ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện tiết kiệm trong sử dụng điện.
Vào thời điểm hiện nay, lưới điện lưới điện ở một số thành phố lớn- nơi tập trung diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên xảy ra hiện tượng quá tải do không đủ nguồn điện cung cấp cho hệ thống. Do vậy, các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp cần có kế hoạch sắp xếp lại thời gian sản xuất một cách hợp lý và chủ động nguồn điện dự phòng nhằm đối phó với tình hình thiếu điện trong thời gian tới, đồng thời phải ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo mục tiêu tốc độ tăng trưởng sản xuất, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Về phía các công ty Điện lực, phải có trách nhiệm giám sát chặt chẽ biểu đồ phụ tải của các khách hàng sử dụng điện trên địa bàn, nhất là những khách hàng sử dụng với công suất lớn, có phương án cụ thể đối với tình hình thiếu điện, ổn định cung cấp điện cho sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tránh việc cắt điện sinh hoạt trên diện rộng kéo dài.
KẾT LUẬN
Những năm gần đây, nhờ đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng, sự hỗ trợ kịp thời về chủ trương chính sách, quyết định của Chính phủ , Bộ Công nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để EVN vượt qua trở ngại, từng bước khẳng định mình và đến nay phát triển rất mạnh mẽ.
So với những năm mới thành lập và trước khi trở thành tập đoàn, EVN đã có những thay đổi mạnh mẽ từ năng lực quản lý, điều hành cho đến trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên đều có những bược tiến rõ rệt.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện các dự án, Tập đoàn vẫn còn những tồn tại như: tiến độ thực hiện các dự án còn chậm, việc huy động vốn đầu tư chưa hiệu quả …Những tồn tại này có thể do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan nhưng đòi hỏi Ban lãnh đạo của EVN phải có những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục khó khăn hiện nay và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Do khả năng thu thập tài liệu và hiểu biết thực tế có hạn nên báo cáo thực tập tổng hợp không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: PGS. TS Từ Quang Phương đã nhiệt tình hướng dẫn em thực hiện bài viết này.
Sinh viên
Kim Thị Quý
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế đầu tư – PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt và PGS.TS Từ Quang Phương
2. Giáo trình lập dự án đầu tư - PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt
3. Thẩm định tài chính Dự án đầu tư - ThS. Đinh Thế Hiển
4. Tạp chí điện lực năm 2007, 2008, 2009
5. Các bài viết từ trang Web của Tập đoàn Điện Lực Việt Nam .
6. Tập đoàn điện lực Việt Nam( 2006- 2008)- Báo cáo thực hiện đầu tư xây dựng của EVN các năm 2005-2008.
7. Tập đoàn điện lực Việt Nam( 2006- 2008)- Báo cáo thực hiện lao động thu nhập của EVN các năm 2006-2008.
8. Tập đoàn điện lực Việt Nam( 2006- 2008)- Báo cáo Tài chính năm 2006- 2008 cảu EVN
9. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2000- 2008, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội.
10. NHTG(1998), Bảo đảm năng lượng cho sự phát triển của Việt Nam, những thách thức đối với ngành năng lượng, Hà Nội.
11. Các trang Web:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoạt động đầu tư phát triển tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam- thực trạng và giải pháp.DOC