Hoạt động thương mại năm 2005 và phương hướng công tác năm 2006

Một là, tiến hành tổng kiểm tra các hoạt động đã được phân cấp, ủy quyền cho địa phương thực hiện. Mục tiêu kiểm tra là đánh giá toàn diện các hoạt động được uỷ quyền của địa phương và công tác thực thi pháp luật thương mại trên địa bàn, từ đó tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật; Hai là, tiếp tục thực hiện việc phân cấp quản lý đối với một số hoạt động thương mại mới như quản lý hoạt động nhượng quyền thương mại, đăng ký dấu nghiệp vụ giám định theo hướng phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của địa phương trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; Ba là, tăng cường công tác phổ biến, bồi dưỡng cán bộ của địa phương trong những lĩnh vực được phân cấp. Việc phân cấp cho địa phương phải bảo đảm sự ăn khớp, đồng bộ giữa các trung ương và địa ph ương, sự thống nhất giữa các địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ được phân cấp; Bốn là, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế kiểm tra việc thực hiện hoạt động công vụ của cơ quan, đơn vị trong ngành thương mại.

pdf50 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2268 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động thương mại năm 2005 và phương hướng công tác năm 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 để có thể áp dụng từ năm 2007. Cà phê: Mục tiêu xuất khẩu năm 2006 là tốc độ tăng kim ngạch 4,8% (tăng 35 triệu USD) so với năm 2005. Dự báo lượng xuất khẩu chỉ tăng nhẹ so với năm 2005 nhưng giá xuất khẩu năm nay sẽ tăng khá so với năm 2005. Thị trường xuất khẩu vẫn là các nước EU, Bắc Âu, và Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, năm 2006 cần quan tâm các thị trường khu vực ASEAN và đặc biệt quan tâm xúc tiến thị trường Trung Quốc. Các giải pháp để đạt được mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này như sau: - Tận dụng cơ hội thị trường nhằm đạt được giá trị cao nhất cho một đơn vị sản phẩm xuất khẩu. - Trước mắt, cần tập trung vào khâu công nghệ sau thu hoạch, như thực hiện phân loại và sấy khô cà phê theo đúng các tiêu chuẩn của nước nhập khẩu nhằm tăng giá trị xuất khẩu trên một đơn vị sản phẩm. 32 - Đẩy mạnh hoạt động giao dịch, xuất khẩu trên các sàn giao dịch quốc tế để tìm kiếm mức giá có lợi trong xuất khẩu. - Tiếp tục xây dựng thương hiệu và xuất khẩu cà phê đã qua chế biến. Cao su: Mục tiêu đặt ra đối với mặt hàng này năm 2006 là kim ngạch tăng 4,2% (33 triệu USD) so với năm 2005. Công tác điều hành thị trường xuất khẩu năm 2006 triển khai theo hướng sau: Thứ nhất, tiếp tục khai thác các thị trường quen thuộc như Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ; Thứ hai, ưu tiên khai thác các thị trường mới, có tốc độ tăng kim ngạch cao trong thời gian gần đây để xuất khẩu cao su có hàm lượng chế biến cao như EU (Đức, Bỉ, Hà Lan, Anh, các nước Bắc Âu...), Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ; Các giải pháp để đạt được mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này như sau: - Hạn chế xuất khẩu thô, áp dụng tiêu chuẩn cao su xuất khẩu với hàm lượng chế biến nhất định. - Phân tích những ảnh hưởng của liên minh các nước xuất khẩu cao su châu Á đối với thị trường cao su nhằm tận dụng những ảnh hưởng tích cực của liên minh này trong hoạt động xuất khẩu cao su của nước ta. - Trong thời gian tới, nghiên cứu khả năng đầu tư, trồng và khai thác cao su ở các nước láng giềng có điều kiện tự nhiên phù hợp với cây cao su. Nhân điều: Mục tiêu đặt ra đối với mặt hàng này năm 2006 là kim ngạch tăng 23,5% (114 triệu USD) so với năm 2005. Công tác điều hành thị trường xuất khẩu năm 2006 tập trung theo hướng sau: Thứ nhất, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng chế biến cao vào thị trường các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, EU và các nước Trung Đông; Thứ hai, Khai thác các thị trường mới như Nga, các nước thuộc Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Các giải pháp để đạt được mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này như sau: - Điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu điều thô nhằm khuyến khích nhập khẩu điều thô từ châu Phi làm nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào cũng như những hạn chế về khả năng khai thác lợi thế của các nước thuộc khu vực này. - Nâng cao hàm lượng chế biến hơn nữa đối với sản phẩm xuất khẩu, giảm xuất khẩu điều sơ chế, nhằm tăng giá trị xuất khẩu trên một đơn vị sản phẩm xuất khẩu. - Cải thiện năng lực cung nguyên liệu trong nước trên cơ sở thực hiện các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ nông dân mở rộng diện tích trồng điều, lựa chọn giống tốt, củng cố hệ thống cơ sở vật chất lưu kho và công nghệ chế biến. - Các doanh nhiệp nghiên cứu việc đầu tư sang Lào, Campuchia để thâm canh cây điều nhằm tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho xuất khẩu. 33 Một số nông sản khác như Chè, lạc nhân, sắn các loại tiếp tục có triển vọng tốt về giá và nhu cầu, hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu đề ra trong năm 2006. Nhóm mặt hàng xuất khẩu mới Trong vài năm gần đây, một số mặt hàng xuất khẩu đã có kim ngạch khá lớn nhưng vẫn xếp trong “Nhóm mặt hàng khác” như túi xách, vali, ô dù; tinh bột sắn, sản phẩm cao su, các sản phẩm từ thép... Bên cạnh đó còn xuất hiện một số mặt hàng mới tham gia xuất khẩu nhưng đã có kim ngạch khá lớn như đóng tàu, máy biến thế và động cơ điện, giấy bìa và sản phẩm từ giấy bìa, hoá chất - hoá mỹ phẩm - chất tẩy rửa, săm lốp ôtô xe máy. Các mặt hàng này cần được quan tâm, khai thác để nâng cao KNXK trong điều kiện nhiều mặt hàng khác bắt đầu gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất. Khả năng tăng trưởng xuất khẩu và giải pháp đối với các mặt hàng chủ yếu cho năm 2006 như sau: Đóng tàu: Năm 2005, KNXK thu được từ các hợp đồng đóng tàu đã đạt được gần 200 triệu USD. Với khả năng và tiến độ thực hiện các hợp đồng đã ký, mục tiêu đặt ra trong năm 2006 là 250 triệu. Việc hoàn thành mục tiêu phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ của Chính phủ do đây là hoạt động đòi hỏi vốn lớn, công nghệ, kỹ thuật cao. Các giải pháp để đạt được mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này như sau: - Chính phủ tiếp tục hỗ trợ vốn bằng lãi suất tín dụng ưu đãi và bảo lãnh vay của các tổ chức tín dụng quốc tế. - Chính phủ tiếp tục cho phép ngành đóng tàu kêu gọi đầu tư của nước ngoài, bán trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài... Máy biến thế và động cơ điện: Đây là hai mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp hiện đã đạt KNXK 280 triệu USD trong năm 2005, có thị trường xuất khẩu tương đối vững, đặc biệt ở các nước châu Phi, Nam Á và Trung Đông. Mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này năm 2006 là 350 triệu USD. Các giải pháp để đạt được mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này như sau: - Tiếp tục đầu tư dự án mới và mở rộng, cải tạo các dự án hiện có bằng các công ty vốn 100% trong nước do đây là ngành không đòi hỏi công nghệ cao. - Đầu tư cho các dự án cung cấp nguyên liệu phụ trợ, giảm nhập khẩu các nguyên, vật liệu trong nước đã sản xuất được. - Trong dài hạn, xây dựng chiến lược phát triển, tìm ra các sản phẩm đặc thù mà Việt Nam có lợi thế để tập trung đầu tư, mở rộng sản xuất. Thép và các sản phẩm từ gang thép: Số liệu thống kê cho thấy năm 2005 KNXK các mặt hàng từ thép đã đạt khoảng 400 triệu USD. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là các kết cấu thép, các sản phẩm đúc sẵn từ thép và gang... Xuất khẩu sản phẩm này hiện đang có những lợi thế nhất định, như: chi phí nhân công rẻ, nhu cầu thị trường thế giới tăng ổn định và các nước công nghiệp 34 và mới công nghiệp đang xu hướng dịch chuyển sản xuất sang các nước đang phát triển. Mục tiêu xuất khẩu năm 2006 là 500 triệu USD. Thị trường xuất khẩu mặt hàng này rất đa dạng từ các nước thuộc EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản đến các nước trong khu vực ASEAN với yêu cầu rất khác nhau và nhu cầu hầu như không hạn chế. Các giải pháp để đạt được mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này như sau: - Khuyến khích sản xuất sản phẩm từ thép tại các làng nghề thủ công bằng các tạo thuận lợi hơn cho các chủ doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn quy mô từ nhỏ đến trung bình. - Lựa chọn các sản phẩm có hàm lượng tinh chế và tính mỹ thuật cao như lan can bằng gang pha đồng, cửa sổ hình, nắp cống, chậu hoa... để thực hiện các đơn hàng xuất khẩu nhằm nâng cao giá trị các hợp đồng xuất khẩu; - Quy hoạch vùng nguyên liệu, vùng sản xuất để đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường của nước nhập khẩu Các mặt hàng khác: Gần đây, mới xuất hiện một số mặt hàng mới như túi xách, vali, ô dù giấy bìa và sản phẩm từ giấy bìa, hoá chất - hoá mỹ phẩm - chất tẩy rửa, săm lốp ôtô xe máy.. có tốc độ tăng trưởng KNXK khá cao. Đây là những mặt hàng có thị trường đa dạng, nhu cầu nhập khẩu lớn, tăng trưởng KNXK năm sau đều cao hơn năm trước, trong khi không phải chịu hạn ngạch, rào cản kỹ thuật và rào cả phi thuế khác. Hạn chế cơ bản của các mặt hàng này hiện nay là sản xuất hàng xuất khẩu còn nhỏ, lẻ, quy mô không đủ đáp ứng các đơn hàng lớn, các nhà sản xuất đa phần là tư nhân, hộ cá thể và công ty nhỏ, gặp khó khăn về vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất. Trong năm 2006 và thời gian tới, nếu khắc phục được những hạn chế ở trên, hàng năm nhóm hàng này có thể đóng góp trên 1,5 tỷ USD vào tổng KNXK của cả nước, tốc độ tăng KNXK hàng năm có thể đạt trên 20%/năm. 1.2.2. Một số giải pháp chung a. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại - Cần tạo ra những thay đổi cơ bản trong các chương trình xúc tiến xuất khẩu theo hướng thiết kế các chương trình xúc tiến chuyên ngành đối với từng ngành hàng, tập trung vào một số thị trường cụ thể. Năm 2006, tập trung vào các chương trình sau: (i) Xác định một số thị trường xuất khẩu cụ thể (từ 5-10 thị trường) cho một số mặt hàng xuất khẩu cụ thể; (ii) Tổ chức các Chương trình quảng bá thương hiệu vào một số thị trường cụ thể với quy mô lớn, kết hợp giữa các ngành, nghề và lĩnh vực. - Tăng cường hơn nữa công tác quảng bá sản phẩm Việt Nam trên các phương tiện thông tin, truyền thông ở nước ngoài, đặc biệt là việc quảng cáo sản phẩm và hình ảnh Việt Nam trên các kênh truyền hình, tạp chí quốc tế nổi tiếng (CNN, BBC, Economics...). - Tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan ngoại giao và đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là tăng cường mối liên hệ, hợp tác giữa các 35 thương vụ Việt Nam, các Trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận thị trường. - Cải tiến mô hình và chức năng hoạt động của các cơ quan xúc tiến thương mại để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ xúc tiến thương mại từ ngân sách của nhà nước; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ và điều hành xúc tiến thương mại nói chung và các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia nói riêng; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ xúc tiến thương mại để xoá bỏ dần tình trạng phổ biến hiện nay là các doanh nghiệp trông chờ vào kinh phí và những chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước. b. Nâng cao năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu - Cần mở rộng hơn nữa các đối tượng tham gia cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thương mại, nhất là dịch vụ logistics cho các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm và hệ thống quản lý tốt trong lĩnh vực này, giảm tối đa sự độc quyền trong cung cấp dịch vụ hỗ trợ thương mại; Xóa bỏ các chi phí không chính thức của các doanh nghiệp vận tải hàng hóa(4); Giảm bớt chi phí, thời gian trong các giao dịch liên quan đến dịch vụ công của các cơ quan quản lý nhà nước như các thủ tục liên quan đến nhà, đất, xây dựng, kiến trúc...; Tiếp tục giảm bớt giá cả dịch vụ nhất là các dịch vụ về viễn thông5, điện, nước và các dịch vụ tại bến cảng. - Dành nguồn vốn của Nhà nước để tập trung đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu, như cải tạo hệ thống giao thông, vận tải nội địa, mở các tuyến đường bộ, đường sắt xuyên quốc gia; cải tạo và nâng cấp năng lực xếp dỡ, hình thành sự liên kết giữa các loại hình vận tải nhằm khai thác và tận dụng ưu thế của mỗi loại hình vận tải trong từng khu vực. - Nhà nước cũng cần tập trung đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất-nhập khẩu ở khu vực biên giới, đặc biệt là ở một số cửa khẩu lớn giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia, từ đó nối với Thái Lan, Myanmar để khai thác tốt hơn những thoả thuận về thuận lợi hoá thương mại trong khu vực Tiểu vùng sông Mêkông. c. Hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh Thứ nhất, cần tiếp tục tạo ra các yếu tố cần thiết để xây dựng một môi trường canh tranh cho doanh nghiệp. Đây là yếu tố căn bản để giúp doanh nghiệp tạo ta sức "đề kháng" nhằm vượt qua những thách thức của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế. Thứ hai, Nhà nước có các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực, thông qua đó nâng cao chất lượng quản lý sản xuất – kinh doanh và năng suất lao động, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là một loại công cụ hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế được WTO cho phép. 4 Các nhà vận tải hàng hóa đều nói răng "30% chi phí của chúng tôi là chi phí dọc đường", đây là chi phí không thể nào chấp nhận trong cuộc cạnh tranh quốc tế, theo bài phỏng vấn TS Lê Đăng Doanh trên báo điện tử Vietnamnet ngày 2/2/2006: http//vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2006/02/537892 5 Mặc dù đã giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn còn cao so với mức trung bình của khu vực. 36 Thứ ba, nâng cao chất lượng, rút ngắn thời gian cung cấp các dịch vụ công và giải quyết các thủ tục hành chính tại các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ sở hành chính công. Như đã phân tích ở phần trên, việc tốn phí thời gian cũng làm tăng chi phí của doanh nghiệp, vì vậy các cấp, các ngành và các địa phương cần tập trung giải quyết dứt điểm những tồn tại và hạn chế trong lĩnh vực này. Thứ tư, xóa bỏ độc quyền và kinh doanh độc quyền; thiết lập và xử lý nhanh, hiệu quả mối quan hệ giữa Hiệp hội – doanh nghiệp – Chính phủ, thông qua đó Chính phủ có thể nắm bắt, giải quyết kịp thời những đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Thứ năm, hỗ trợ cung cấp thông tin xúc tiến thương mại, dự báo thị trường nhằm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Đây cũng là hình thức được WTO cho phép và có thể đẩy mạnh trong thời gian tới. Bên cạnh các giải pháp trên các Bộ, các ngành, các địa phương cần tiếp tục xây dựng và tìm các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời gian tới bằng các nhóm công cụ thích hợp, không vi phạm các cam kết với WTO trong thời gian tới như: - Nhóm biện pháp hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu thông qua sắp xếp doanh nghiệp, ngành nghề; nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn; hỗ trợ tín dụng, tài chính (được phép) đối với các nhà sản xuất thuộc những ngành công nghiệp non trẻ cần bảo hộ. - Nhóm biện pháp hỗ trợ các nhà sản xuất, xuất khẩu Việt Nam vượt qua các rào cản thương mại và phi thương mại, ứng phó hiệu quả các biện pháp tự vệ của thị trường nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu. d. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại Tiến hành rà soát ngay từ đầu năm các văn bản quy phạm pháp quy do Bộ Thương mại ban hành, hủy bỏ ngay những văn bản, những quy định trái với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hoặc không đúng thẩm quyền, sửa đổi, bổ sung những quy định không phù hợp, gây cản trở hoạt động thương mại (nhất là lĩnh vực đầu tư liên quan đến thương mại). Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng xây dựng các Nghị định hướng dẫn Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh và các vấn đề liên quan đến lĩnh vực thương mại của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Đảm bảo hoàn thành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ giao Bộ Thương mại năm 2006. Cải tiến phương thức xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng đẩy mạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, Bộ, Ngành tham gia xây dựng. Đảm bảo trong nửa đầu năm 2006 trình Chính phủ ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật, Pháp lệnh đã được Quốc hội, Ủy Ban Thường vụ quốc hội thông qua trong năm 2005. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực thương mại, kịp thời phát hiện những tồn tại, vướng mắc của doanh nghiệp để có giải pháp điều hành, khắc phục. 37 Bộ Thương mại tích cực phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thương mại, nhất là trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên của WTO, như sau: + Trên cơ sở các cam kết với WTO tiếp tục hoàn thiện và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành các Luật, Pháp lệnh hiện hành và sẽ ban hành trong thời gian tới nhằm tạo cơ chế hỗ trợ, bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, các ngành có lợi thế cạnh tranh, nâng cao sức cạnh tranh của các ngành và sản phẩm ngay trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, cơ chế tự vệ... + Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với NCIEC xây dựng quy định của Chính phủ về cơ chế phân công, trách nhiệm và phối hợp, điều phối liên bộ, ngành và giữa trung ương và địa phương trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, trình Thủ tướng ban hành trong năm 2006. Kiện toàn Bộ máy trong cơ quan Bộ Thương mại và ngành thương mại nhằm tổ chức thực hiện, hướng dẫn thực hiện và giám sát quá trình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiệu quả theo hướng công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại trong thời gian tới. Xác định rõ vai trò và trách nhiệm của Bộ Thương mại và cơ chế ủy quyền, phối hợp với các Sở, các địa phương và các Bộ, Ngành liên quan điều hành xuất-nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu của các địa phương. 2. Nhập khẩu 2.1. Mục tiêu Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa dự kiến tăng 14-16% so với năm 2005, đạt trên 42-43 tỷ USD. Mục tiêu cơ bản đối với nhập khẩu là: - Thực hiện chính sách nhập khẩu hợp lý, bảo đảm vật tư, nguyên liệu cho sản xuất, nhất là nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu, ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; - Gắn kết chặt chẽ giữa xuất và nhập khẩu, cân đối ngoại tệ và khả năng sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu. - Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất-nhập khẩu, hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2. Giải pháp thực hiện Theo tinh thần Nghị định số 12/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài và có hiệu lực từ 01/05/2006 (thay thế Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài) và Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/08/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 57/1998/NĐ-CP, trong thời gian tới, hàng 38 hóa nhập khẩu của Việt nam về cơ bản được tự do nhập khẩu, chỉ còn một số mặt hàng cần kiểm soát nhập khẩu theo quy định của điều ước quốc tế, hiệp định mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ (trước mắt gồm Xe 2, 3 bánh gắn máy từ 175 cm3 trở lên và Súng đạn thể thao) và một số mặt hàng nhập khẩu theo chế độ hạn ngạch thuế quan như Muối, Thuốc lá nguyên liệu, Trứng gia cầm. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các các cơ quan quản lý nhà nước phải nhanh chóng nghiên cứu các công cụ thích hợp để vừa quản lý được nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu các hàng hóa trong nước đã sản xuất được để hạn chế nhập siêu, đồng thời vừa khuyến khích, đa dạng hóa các mặt hàng nhập khẩu để đảm bảo nguồn nguyên liệu cung ứng cho sản xuất trong nước, tạo động lực thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh đối với nền sản xuất trong nước. Trước mắt, trong năm 2006 cần thực hiện một số giải pháp quản lý nhập khẩu sau: Khuyến khích các doanh nghiệp FDI đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách mở rộng quyền nhập khẩu và phân phối trên thị trường nội địa đối với các vật tư, tư liệu sản xuất, nhất là các hàng hóa sản xuất trong cùng hệ thống của nhà đầu tư. Khẩn trương ban hành các hàng rào thương mại và hàng rào phi thương mại đối với hàng nhập khẩu để hạn chế những hành vi bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nội địa. Triển khai các chương trình xúc tiến thương mại ngay trên thị trường nội địa để quảng bá hàng hóa, vật tư đối với người tiêu dùng và nhà sản xuất để hạn chế nhập khẩu hàg hóa trong nước đã sản xuất được. Theo đó, tiến tới thực hiện các chương trình tuyên truyền, giáo dục "người Việt Nam dùng hàng Việt Nam". Trong thời gian tới, cần nhanh chóng kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý cạnh tranh và chống độc quyền, củng cố mối quan hệ giữa doanh nghiệp – hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh và chống độc quyền để có thể phản ứng nhanh, hiệu quả đối với hàng hóa nhập khẩu vi phạm các quy định về cạnh tranh, phá giá và tự vệ. Nâng cao hiệu lực của công tác quản lý thị trường, của cơ quan hải quan để kiểm soát gian lận thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu, qua đó góp phần giảm lượng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. 3. Hạn chế thâm hụt cán cân thương mại Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 của Việt Nam đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ chấm dứt nhập siêu. Để hiện thực hoá mục tiêu đặt ra trong Chiến lược, nhiệm vụ đặt ra cho năm 2006 là kiểm soát được nhập siêu ở mức khoảng 12% tổng KNXK hàng hoá (khoảng 4- 4,5 tỷ USD); Hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được. Nhằm hạn chế nhập siêu, trong năm 2006 cần tiếp tục thực hiện các giải pháp cơ bản như: 39 - Đẩy mạnh xuất khẩu, tạo động lực để xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu trong thời gian tới. - Đẩy nhanh tiến trình đàm phán gia nhập WTO trong thời gian sớm nhất để mở rộng thị trường, nâng cao KNXK. - Bộ Thương mại phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan nhanh chóng hoàn tất các thủ tục để Việt Nam được phía EU công nhận về quy chế nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này, nhất là trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại. - Các Bộ, ngành, Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp cần tăng cường khả năng dự báo giá cả hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản xuất khẩu. - Các doanh nghiệp cần chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt chú trọng khâu chất lượng. Cần lưu ý các mặt hàng dệt may và da giày đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt với hàng Trung Quốc. 4. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập siêu dịch vụ Trong thời gian tới, phấn đấu xuất khẩu dịch vụ tăng bình quân 8,5%/năm. Để đạt được mục tiêu này cần thực hiện các giải pháp cụ thể đối với một số dịch vụ quan trọng như sau: - Du lịch: Tổ chức và khai thác tốt thị trường khách du lịch quốc tế để nâng cao giá trị thu về thông qua các chương trình giúp nâng cao mức chi tiêu của khách du lịch quốc tế dưới hình thức mua sắm hàng hoá và tiêu dùng dịch vụ. - Xuất khẩu lao động: nâng cao giá trị và hiệu quả đầu tư tốt cho công tác đào tạo và tuyển dụng lao động, đáp ứng được yêu cầu về chất lượng lao động của các thị trường nhập khẩu để nâng cao số lượng lao động ra nước ngoài làm việc. - Định hướng, tập trung đầu tư để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các nhà cung cấp Việt nam đối với các dịch vụ phục vụ các nhà đầu tư nước ngoài trong khu chế xuất và khu kinh tế cửa khẩu. Nếu được định hướng và tập trung phát triển tốt thì đây sẽ là những lĩnh vực dịch vụ có khả năng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. - Dịch vụ vận tải hàng không và hàng hải quốc tế: tiếp tục chuyển đổi cơ cấu, hợp lý hóa quy trình cung cấp dịch vụ để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh, qua đó nâng cao KNXK đối với loại hình dịch vụ này. Bên cạnh các giải pháp cụ thể đối với những dịch vụ quan trọng nêu trên, cần tính đến các giải pháp chung, có tính chất chiến lược như sau: - Tiếp tục đẩy nhanh mở cửa thị trường dịch vụ để tạo áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước, qua đó góp phần kích thích nâng cao sức cạnh tranh của các dịch vụ xuất khẩu. - Khẩn trương xây dựng chương trình quản lý nhập khẩu dịch vụ trong thời gian tới để có các biện pháp thích hợp nhằm giảm nhập siêu dịch vụ 40 - Các Bộ, ngành, địa phương cần khẩn trương thực hiện nhiệm vụ của mình theo Chỉ thị số 49 của Thủ tướng Chính phủ: Tổng cục thống kê chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành địa phương liên quan đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống phân loại dịch vụ, phương pháp tính toán, hệ thống biểu mẫu báo cáo kế hoạch dịch vụ; các Bộ, ngành, địa phương tăng cường hoạt động thông qua các cuộc họp được tổ chức thường xuyên hơn hoặc qua trao đổi ý kiến bằng văn bản. - Các Bộ, Ngành, địa phương nhanh chóng kiện toàn phân công cán bộ chịu trách nhiệm công tác thống kê và tổng hợp hoạt động dịch vụ trong ngành và địa phương như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 49 và thông báo kết quả về Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Văn phòng Chính phủ để có các giải pháp điều hành kịp thời nhằm thúc đẩy phát triển xuất khẩu các dịch vụ có tiềm năng, hạn chế nhập khẩu các dịch vụ không cần thiết. II. TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA 1. Mục tiêu Phấn đấu tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ của cả nước đạt 560 ngàn tỷ đồng, tăng khoảng 17-18%; Chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP và tăng thấp hơn tốc độ tăng giá năm 2005 (khoảng 7,5-8%). Thị trường nội địa tiếp tục tăng trưởng và bình ổn được thị trường trong nước, không để xảy ra các cơn sốt giá trên thị trường trong nước, tạo bước chuyển biến rõ rệt về tổ chức và hoạt động của các hệ thống phân phối; Tăng cường cơ chế điều hành, giám sát hoạt động thương mại đặc biệt đối với các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất. Rà soát, xóa bỏ mọi quy định bất hợp lý ở tất cả cả các cấp, các ngành, thúc đẩy cơ chế, chính sách khuyến khích lưu thông hàng hóa phát triển, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội; Hoàn thiện cơ chế tổ chức điều hành thị trường nội địa để huy động tối đa nguồn lực trong xã hội, mở rộng sự tham gia của mọi thành phần kinh tế thông qua phát triển các mô hình phân phối theo hướng văn minh, hiện đại trên thị trường nội địa, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội trong tình hình mới; Hoàn thiện quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng trong thương mại. Đẩy mạnh việc cải tạo, nâng cấp,mở rộng, hiện đại hóa các không gian kinh tế - thương mại theo hướng văn minh, hiện đại như hệ thống chợ, hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, hệ thống kho bãi... để nâng cao chất lượng thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Phát triển thị trường nông thôn, hướng vào xây dựng khung pháp lý và cơ sở hạ tầng cho các giao dịch thương mại nông sản theo phương thức kinh doanh mới như: đấu giá nông sản , thực hiện mua bán thông qua các hình thức hợp đồng như hợp đồng mua bán kỳ hạn, hợp đồng giao sau... triển khai cơ chế hiệp thương về giá tiêu thụ giữa những nhà kinh doanh nông sản. 2. Các giải pháp chủ yếu để đạt được mục tiêu 2.1. Hoàn thiện thể chế 2.1.1. Xây dựng và ban hành văn bản qui phạm pháp luật 41 Hoàn thành các văn bản qui định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Luật Thương mại liên quan đến thị trường trong nước. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 11/1999/NĐ-CP ngày 3/3/1999 về hàng hoá và dịch vụ cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và hạn chế kinh doanh, tiến hành nghiên cứu xây dựng các Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định nêu trên. Xây dựng đề án "Phát triển Thương mại nội địa đến năm 2010” trình Chính phủ để thống nhất quan điểm, mục tiêu, từ đó đề ra các giải pháp, chính sách mang tính đồng bộ nhằm phát triển thương mại nội địa nói chung và hệ thống phân phối nói riêng. Trên cơ sở Đề án được phê duyệt, từng bước triển khai, trình Thủ tướng ban hành Quyết định một số chính sách phát triển hệ thống phân phối trọng điểm (về hàng hoá và về địa bàn thị trường). Trên cơ sở kinh nghiệm rút ra từ việc xây dựng quy chế kinh doanh xăng dầu, phối hợp với các bộ, ngành tiếp tục xây dựng Quy chế kinh doanh đối với các mặt hàng cần thiết phải quản lý bằng Quy chế kinh doanh đặc thù như thuốc chữa bệnh, phân bón… theo hướng gắn cơ chế quản lý với việc củng cố, phát triển hệ thống kinh doanh những mặt hàng quan trọng, thiết yếu này. Xây dựng Đề án "Phát triển kinh tế tập thể trong lĩnh vực thương mại đến năm 2015” và văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật HTX sửa đổi và các Nghị định đã được Chính phủ ban hành. Khẩn trương xây dựng dự án qui hoạch hệ thống chợ trên phạm vi toàn quốc. Trong năm 2006, tập trung xây dựng các dự án qui hoạch phát triển chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, kho bán buôn, trung tâm triễn lãm giới thiệu sản phẩm trên phạm vi cả nước và ở từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trên cơ sở đó, có kế hoạch thực hiện cụ thể, có lộ trình và thứ tự ưu tiên. Gắn qui hoạch chợ với quy hoạch phát triển các siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm phân phối và các hình thức tổ chức thương mại khác. Phối hợp cơ quan hữu quan xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kinh tế-kỹ thuật và hướng dẫn thiết kế cho các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại chủ yếu, trước mất tập trung vào các loại hình và cấp độ chợ; bước đầu nghiên cứu xây dựng đề án sàn giao dịch và buôn bán kỳ hạn nông sản. 2.1.2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách Nâng cao tính pháp lý của công tác qui hoạch ngành thương mại trong chương trình qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của cả nước và của từng địa phương. Khi qui hoạch khu đô thị, khu công nghiệp, khu dân cư phải bố trí đủ diện tích cho hạ tầng thương mại. Đề xuất, kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách hiện hành về phát triển và quản lý chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, nhất là các chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại trên các địa bàn, nhất là địa bàn nông thôn, miền núi; khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cải tạo, xây dựng mới hạ tầng thương mại; đầu tư công nghệ để quản lý doanh nghiệp theo phương pháp hiện đại; liên doanh, liên kết với nhau để phát triển hệ thống theo " chuỗi". 42 Điều chỉnh và ban hành chính sách đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng thương mại và hoạt động trong lĩnh vực phân phối như với các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sản xuất trọng điểm (được bố trí, thuê đất; tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ hố trợ; miễn, giảm thuế nhập khẩu thiết bị, máy móc, thuế thu nhập doanh nghiệp,…) Chú ý tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh theo Luật cạnh tranh, Luật Thương mại và các qui định của pháp luật hiện hành. Chống các hành vi lợi dụng chương trình quảng cáo, khuyến mại, giảm giá bán, thiếu minh bạch trong việc áp dụng chính sách bán hàng cho các đối tượng bán buôn và bán lẻ,… để tiến hành cạnh tranh không lành mạnh. Sử dụng một phần kinh phí của quĩ XTTM để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc thuê chuyên gia nước ngoài vào đào tạo, chuyển giao công nghệ; cử cán bộ, nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài; quảng bá thương hiệu,… Tiếp tục chỉ đạo các địa phương sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị định số 02/2003/NĐ-CP về phát triển và quản lý chợ và các văn bản hướng dẫn; Quyết định 559/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển chợ đến năm 2010; Quyết định 1371/QĐ-BTM ngày 24/9/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại ban hành qui chế siêu thị và trung tâm thương mại, trên cơ sở đó tổ chức Hội nghị toàn quốc nhằm sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện và phương hướng tiếp tục triển khai các văn bản nêu trên. 2.2. Nâng cao hiệu quả điều tiết vĩ mô thị trường và hoạt động thương mại Nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của Tổ Điều hành thị trường trong nước trong việc vận dụng các công cụ điều hành vĩ mô để điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả thị trường theo phương châm “dự báo sớm, phản ứng nhanh” … nhằm bảo đảm giữ vững các cân đối lớn về cung-cầu các mặt hàng trọng yếu trong mọi tình huống. Để có thể ổn định các cân đối vĩ mô của nền kinh tế, nhất là cân đối các mặt hàng trọng yếu có hiệu quả, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành tổ chức điều tra, khảo sát để dự báo nhu cầu tiêu dùng và mức tiêu thụ từng loại mặt hàng trọng yếu từng năm của giai đoạn 2006-2010 trên phạm vi toàn quốc, từng khu vực, từng đối tượng tiêu dùng cũng như các yêu cầu cần bảo đảm để giữ vững quan hệ cung cầu đối với từng ngành hàng (chiến lược và qui hoạch phát triển, chính sách và cân đối nguồn nguyên liệu, hệ thống phân phối và thương nhân, thời vụ sản xuất và tiêu dùng ...). Các Bộ quản lý ngành cần chủ động chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp tính toán chi phí đầu vào và giá thành sản xuất các mặt hàng trọng yếu một cách hợp lý và chặt chẽ, phản ánh khách quan các yếu tố tăng giá đầu vào để dự kiến các mức giá bán mà thị trường có thể chấp nhận, từng bước điều chính thận trọng giá bán cụ thể nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao thu nhập cho người lao động, nhưng không được gây “sốc” trên thị trường và phản ứng lan truyền tăng giá đến các sản phẩm khác. Tổ chức tốt hệ thống thông tin tình hình thị trường, giá cả thế giới và trong nước đối với các mặt hàng, trước hết là đối với các mặt hàng trọng yếu trên cơ sở đó tổng hợp, phân tích và dự báo tốt mọi biến động của thị trường để giúp các cơ quan nhà nước 43 và doanh nghiệp có các quyết sách phù hợp. Nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của Hội đồng tư vấn thông tin thuộc Bộ Thương mại. Các Hiệp hội và doanh nghiệp cần rà soát chặt chẽ hơn qui hoạch cụ thể (cả sản xuất, qui mô phát triển, chủng loại mặt hàng trong nhóm, hệ thống phân phối, bao bì , dịch vụ kèm theo, giá cả....) để phát triển mạnh ngành hàng nằm nâng cao khả năng cạnh tranh và khẳng định vị thế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. 2.3. Phát triển các mô hình tổ chức thị trường nội địa trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế Hình thành và phát triển các kết cấu hạ tầng thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá; bao gồm chợ, trung tâm thương mại (bán buôn, bán lẻ hàng hoá), siêu thị, kho bán buôn, trung tâm triển lãm giới thiệu sản phẩm và mạng lưới các cửa hàng bán lẻ tiện lợi, phù hợp với sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng của cư dân trên từng địa bàn. Đối với địa bàn nông thôn, miền núi: chú trọng phát triển mạng lưới chợ với loại hình và cấp độ khác nhau, trước mắt tập trung phát triển các chợ đầu mối nông sản và các chợ dân sinh tại những nơi có nhu cầu bức xúc về chợ nhưng chưa có chợ. Đối với địa bàn thành phố, thị xã: Đẩy nhanh quá trình xây dựng và phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị và chuỗi siêu thị và các loại hình khác (trung tâm bán buôn, trung tâm bán lẻ, sàn giao dịch, hệ thống kho hàng gắn với logistic...) đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng nhanh của khu vực này, từng bước đổi mới bộ mặt thị trường nội địa theo hướng văn minh và hiện đại. Tạo lập mối liên kết trong hệ thống các thương nhân gắn với quá trình lưu thông hàng hoá và mối liên kết giữa lưu thông với sản xuất, đặc biệt là với sản xuất nông nghiệp. Phát triển các phương thức đại lý mua bán và mua bán theo hợp đồng, theo sự đặt hàng ổn định và lâu dài về hàng nông sản, vật tư sản xuất nông nghiệp và hàng công nghiệp tiêu dùng giữa thương nhân với nông dân. Phối hợp với Liên minh HTXVN và trong việc nghiên cứu, xây dựng và nhân rộng một số mô hình HTXTM, trong đó có mô hình HTX liên kết với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh để tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, mô hình HTX bao gồm cả thể nhân lẫn pháp nhân, HTX kinh doanh và quản lý chợ... Hình thành từng bước các tập đoàn, các tổng công ty kinh doanh thương mại lớn trên cơ sở thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung, phát triển theo hướng văn minh và hiện đại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi với việc mở cửa thị trường phân phối cho các nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở đó thúc đẩy việc đổi mới tổ chức và phương thức kin doanh, công nghệ quản lý của các doanh nghiệp phân phối trong nước, góp phần đổi mới toàn diện hệ thống phân phối trong nước. 44 2.4. Phát triển các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistic để giảm chi phí giao dịch và hỗ trợ hoạt động xuất-nhập khẩu và thương mại nội địa Muốn thực hiện được định hướng nêu trên, cần thực hiện các biện pháp và các công việc sau đây: Thứ nhất, Khảo sát nhu cầu và xây dựng kế hoạch phát triển dịch vụ logistic trong giai đoạn 2006-2010 trên cơ sở kế hoạch phát triển thương mại, bao gồm thương mại nội địa và xuất-nhập khẩu. Thứ hai, Tổ chức đào tạo các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistic, chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh kho, các doanh nghiệp giao nhận vận tải. Thứ ba, Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển các cơ sở kinh doanh dịch vụ logistic như điều kiện về địa điểm, đất đai... Thứ tư, Thúc đẩy việc hình thành các công ty lớn, các tập đoàn kinh doanh dịch vụ logistic, mở cửa thị trường logistic cho các nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình hợp lý. 2.5. Phát triển thương mại điện tử Tuyên truyền để phổ cập thương mại điện tử, trước hết cho cộng đồng doanh nghiệp, các cấp quản lý và các hiệp hội ngành hàng. Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp để đẩy mạnh các ứng dụng thương mại điện tử dưới hình thức B2B, B2C, B2G. Khuyến khích đầu tư phát triển và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài để phát triển ứng dụng thương mại điện tử; Khuyến khích, hỗ trợ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng và các loại hình dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán điện tử. Đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Chính phủ để cung cấp các dịch vụ công; trước mắt tập trung vào các dịch vụ gồm khai báo hải quan điện tử, thuế điện tử, các thủ tục liên quan đến đầu tư và đăng ký kinh doanh. Nhanh chóng nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về thương mại điện tử, tạo hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho hoạt động thương mại điện tử phát triển. Ưu tiên hợp tác đa phương với các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ chức chuyên trách về thương mại của Liên hiệp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, UNCEFACT; ưu tiên hợp tác song phương với các nước tiên tiến về thương mại điện tử. 45 III. NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ĐỂ TẬN DỤNG CƠ HỘI, VƯỢT QUA THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 1. Chuẩn bị nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế 1.1. Tập trung đầu tư cho phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh Khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận hoàn toàn thị trường của 150 thành viên WTO. Để tận dụng tốt cơ hội này, về phía Nhà nước, cần đềiu chỉnh Chiến lược xuất khẩu cho giai đoạn sau năm 2005 cho phù hợp với bối cảnh mới. Trên cơ sở đó, Nhà nước xác định một số ngành hàng mà chúng ta có lợi thế cạnh tranh để có chính sách đầu tư thích hợp, tạo điều kiện cho các ngành này phát triển, thâm nhập vững chắc thị trường quốc tế. Về phía doanh nghiệp, cần khẩn trương cơ cấu lại tổ chức, lựa chọn và xây dựng Chiến lược phát triển phù hợp với năng lực của mình để có thể sản xuất ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao nhất. 1.2. Tăng cường XTTM và hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường Bộ Thương mại thông qua các cơ quan xúc tiến thương mại trong và ngoài nước tiếp tục đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, tập trung vào hoạt động tổ chức và tham gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước, tổ chức các đoàn khả sát ở nước ngoài, thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước, xây dựng và quảng bá thương hiệu. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tăng cường xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan hoàn thiện cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Bộ Tài chính tổ chức lại hệ thống quỹ Hỗ trợ phát triển nhằm cung cấp hỗ trợ tài chính cho hoạt động xuất-nhập khẩu phù hợp với quy định WTO. Đối tượng có thể bao gồm các nhà xuất khẩu trong nước và các nhà nhập khẩu nước ngoài khi mua bán hàng hóa sản xuất tại Việt nam. Ngoài ra cần củng cố hệ thống cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài và gắn kết hoạt động của các cơ quan này với các doanh nghiệp, hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng để giúp các doanh nghiệp làm quen và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử. 2. Nâng cao năng lực đối phó với thách thức 2.1. Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh Với các ngành phải chịu nhiều thách thức từ các cam kết về mở cửa thị trường, Chính phủ và các Bộ, Ngành cần xây dựng cơ chế, chính sách định hướng các doanh nghiệp liên kết, chuẩn bị lực lượng khai thác các yếu tố thuận lợi để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài khi ta mở cửa thị trường. Theo hướng đó, Chính phủ cho phép hình thành một số tập đoàn kinh tế trong những lĩnh vực dệt may, da giày, viễn thông, năng lượng, phân phối, vận tải... nhằm tạo điều kiện tập trung nguồn lực, chuyên môn hóa sản xuất – kinh doanh, khai thác triệt để các lợi thế để nâng cao năng lực cạnh tranh. Song song với nhiệm vụ trên, cần đẩy nhanh tiến độ đổi mới doanh nghiệp nhằm huy động thêm nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hóa phù hợp với các quy định của 46 WTO và cam kết quốc tế của Việt Nam về doanh nghiệp thương mại nhà nước. Cải cách, tổ chức lại, nâng cao hiệu quả hoat động của các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực mà Nhà nước duy trì độc quyền để các doanh nghiệp này hoạt động theo các tiêu chí thương mại, không có sự bao cấp của Nhà nước. 2.2. Hoàn thiện cơ chế đối phó với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh Trên cơ sở các công cụ pháp luật đã được ban hành (Pháp lệnh tự vệ, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam...), cần hoàn thiện cơ chế thực thi để vừa phù hợp với quy định của WTO, vừa đối phó được với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật thương mại quốc tế để doanh nghiệp của ta sẵn sàng đối phó với tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước cũng như chủ động yêu cầu Chính phủ có biện pháp xử lý khi các đối tác nước ngoài có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam (bán phá giá, trợ cấp). Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý với các hiệp hội ngành nghề và các doanh nghiệp trong giải quyết các vụ việc, hạn chế hậu quả bất lợi. 2.3. Củng cố hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, kiểm dịch Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn về quy cách và chất lượng sản phẩm cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế, tăng cường công tác kiểm tra giám sát hàng hoá trên thị trường. Hệ thống kiểm tra chất lượng này không chỉ giúp ngăn chặn nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà còn là điều kiện quan trọng để kiểm soát chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của các nước nhập khẩu, tránh các vụ việc tiềm ẩn ảnh hưởng đến uy tín hàng xuất khẩu Việt Nam như dư lượng kháng sinh trong tôm xuất khẩu, chất gây ung thu trong nước chấm... 2.4. Hỗ trợ doanh nghiệp những thông tin và kiến thức về HNKTQT Đàm phán gia nhập WTO đã đi vào giai đoạn cuối cùng, nhiều cam kết đã định hình khá rõ. Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế cần phối hợp với các Bộ, Ngành chức năng và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức các lớp tập huấn để cung cấp cho các doanh nghiệp nội dung các quy định của WTO, yêu cầu của các đối tác và tóm tắt mặt bằng cam kết của ta để có sự chuẩn bị phù hợp. Công tác bồi dưỡng kiến thức về pháp luật thương mại quốc tế, đặc biệt là các kiến thức liên quan đến nhập khẩu vào thị trường nước ngoài và xử lý tranh chấp, cũng cần được coi trọng. IV. HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VÀ ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI Năm 2006 là năm bản lề trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại thông qua việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại, Luật Giao dịch điện tử được thông qua năm 2005. Năm 2006 cũng là năm bắt đầu thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng hệ thống pháp luật thương mại trong tình hình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt khi nước ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, thông thoáng cho doanh nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. 47 1. Đẩy mạnh công tác xây dựng thể chế phù hợp với tiến trình HNKTQT Một là, trong năm 2006, tiếp tục, hoàn chỉnh các dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thương mại đã trình trên cơ sở ý kiến của các thành viên Chính phủ để Thủ tướng Chính phủ ký ban hành (Bộ đã trình Chính phủ 14 dự thảo Nghị định, trong đó 06 Nghị định đã được thông qua và ban hành); Hai là, trong năm 2006, tiếp tục xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 03 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thương mại, 05 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, ban hành theo thẩm quyền 15 Thông tư, thông tư liên tịch, 20 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại để hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thực thi Luật Thương mại; Ba là, thường xuyên tổ chức hệ thống hóa pháp luật theo từng lĩnh vực, phân tích, so sánh đối chiếu với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, loại bỏ những văn bản đã hết hiệu lực, trình các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo (trình Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ Quyết định 91/TTg khi Luật đấu thầu có hiệu lực). Bốn là, trên cơ sở khảo sát và tổng kết thực tiễn, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại mới phát sinh, các phương thức hoạt động thương mại mới; chú trọng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại trong lĩnh vực dịch vụ nói chung và các quan hệ thương mại trong các phân nhóm dịch vụ cụ thể chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, chuyển tải nội dung bảo vệ người tiêu dùng vào tất cả các lĩnh vực hoạt động thương mại; Năm là, hệ thống hóa điều ước quốc tế đã ký kết với các nước, các tổ chức kinh tế thương mại khu vực và các cam kết mở cửa thị trường cũng như thực hiện các quy định của WTO; Xây dựng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa các điều ước quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam; Công bố quyền kinh doanh xuất- nhập khẩu, quyền phân phối cho các nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp FDI theo lộ trình cam kết. Sáu là, tổ chức tốt kênh đối thoại về xây dựng thể chế giữa Bộ Thương mại, các Sở Thương mại, các doanh nghiệp để tiếp thu, chọn lọc những vấn đề cấp thiết tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp; Tổ chức thường xuyên các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho các địa phương và các doanh nghiệp. 2. Đẩy mạnh cải cách hành chính Một là, tổ chức hệ thống hóa pháp luật về thương mại trên website của Bộ Thương mại theo từng lĩnh vực và được cập nhật thường xuyên để bảo đảm minh bạch hóa chính sách, tạo kênh thông tin thông suốt giữa Bộ Thương mại, các Sở Thương mại, các cơ quan thương vụ ở nước ngoài và các doanh nghiệp trong và ngoài nước; Hai là, thường xuyên định kỳ rà soát thủ tục hành chính có liên quan đến doanh nghiệp để đảm bảo luôn minh bạch hóa thủ tục hành chính, kịp thời cải cách thủ tục hành chính không còn phù hợp; Trước mắt, nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ loại 48 bỏ quy định phê duyệt nhập khẩu thiết bị đối với các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam theo quy định tại Nghị định 91; miễn thuế đối với doanh nghiệp FDI và tạm nhập tái xuất... Ba là, không ngừng hoàn thiện các quy chế công tác liên quan đến lề lối làm việc, chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức trong ngành thương mại, minh bạch hóa quy trình tác nghiệp của các cơ quan, đơn vị trong ngành thương mại. Nghiên cứu ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng (theo ISO 9000 - 2001) trong hoạt động của cơ quan Bộ Thương mại; Bốn là, xây dựng cơ sở pháp lý và tổ chức thực hiện tin học hóa quản lý nhà nước trong ngành thương mại. Xây dựng quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ điện tử, cấp một số giấy chứng nhận đăng ký, giấy phép kinh doanh qua mạng internet; Năm là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức để đảm bảo chất lượng, hiệu quả công việc, nâng cao tinh thần trách nhiệm của từng cán bộ, công chức trong ngành thương mại; Sáu là, tổ chức kênh thông tin thông suốt giữa cơ quan quản lý nhà nước về thương mại ở trung ương và địa phương trong việc xử lý những đề xuất, vướng mắc của địa phương và doanh nghiệp; Bảy là, tiếp tục thực hiện công khai tài chính cùng với các quy định về công khai trong quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường sự kiểm tra, giám sát quá trình quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước, bảo đảm sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Tám là, nghiên cứu, ứng dụng cơ chế khoán biên chế và kinh phí hành chính đến các cơ quan, đơn vị trong ngành thương mại kể cả các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. 3. Tiếp tục phân cấp đối với quản lý nhà nước về thương mại và tăng cường kiểm tra việc thực thi pháp luật Một là, tiến hành tổng kiểm tra các hoạt động đã được phân cấp, ủy quyền cho địa phương thực hiện. Mục tiêu kiểm tra là đánh giá toàn diện các hoạt động được uỷ quyền của địa phương và công tác thực thi pháp luật thương mại trên địa bàn, từ đó tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật; Hai là, tiếp tục thực hiện việc phân cấp quản lý đối với một số hoạt động thương mại mới như quản lý hoạt động nhượng quyền thương mại, đăng ký dấu nghiệp vụ giám định… theo hướng phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của địa phương trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; Ba là, tăng cường công tác phổ biến, bồi dưỡng cán bộ của địa phương trong những lĩnh vực được phân cấp. Việc phân cấp cho địa phương phải bảo đảm sự ăn khớp, đồng bộ giữa các trung ương và địa phương, sự thống nhất giữa các địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ được phân cấp; Bốn là, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế kiểm tra việc thực hiện hoạt động công vụ của cơ quan, đơn vị trong ngành thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_hoat_dong_thuong_mai_nam_2005_8009.pdf
Luận văn liên quan