Hôn nhân Hàn – Việt - Những vấn đề về thực trạng và nguyên nhân

Hôn Nhân Hàn – Việt: Những Vấn Đề về Thực Trạng và Nguyên Nhân Trần Nguyễn Lai Thi Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt với bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể, như: tốc độ tăng trưởng GDP, thị trường việc làm tăng mạnh, môi trường kinh tế được cải thiện, thu nhập bình quân theo đầu người gia tăng đã thực sự thu hút giới đầu tư khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO (07/11/06), là một sự kiện quan trọng thúc đẩy hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô ồ ạt vào Việt Nam. Đây là một sự kiện đáng mừng, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc cho Việt Nam phát huy nguồn lực của mình. Trong số những nhà đầu tư vào nước ta, những năm gần đây, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất. Theo cục Đầu tư nước ngoài, thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2007 Hàn quốc đứng đầu danh sách các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với 403 dự án và tổng vốn đăng ký gần 4,2 tỷ USD (so với năm 2006 có 207 dự án, đạt giá trị 2,78 tỷ USD). Đây là năm thứ 2 liên tiếp Hàn Quốc giữ ngôi vị đầu bảng này (nguồn?). Song song với việc phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ là sự xuất hiện của một số vấn đề xã hội đáng quan tâm, như xuất khẩu lao động, các đường dây buôn bán ma túy, các ổ chứa, .trong đó hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng ngoại quốc nói chung và Hàn Quốc nói riêng đang thực sự là một vấn đề nóng bỏng và cấp bách được dư luận xã hội quan tâm chú ý. Việc kết hôn với người nước ngoài đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở nước ta, đặc biệt là xu hướng lấy chồng Hàn Quốc của các cô gái nông thôn. Trên thực tế, việc phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc không phải lúc nào cũng như tưởng tượng trong phim của các cô về một cuộc sống tốt đẹp hơn ở một chân trời mới, với một người chồng mơ ước và bao dự định hoài bão về đất nước xinh đẹp Hàn Quốc, mà thực ra ở vấn đề này đã có rất nhiều chuyện bất cập diễn ra xung quanh việc cô dâu Việt lấy chồng Hàn như bị môi giới lừa bán vào các ổ mại dâm, bị bóc lột sức lao động, lạm dụng tình dục, bị đánh đập và hành hạ dã man thậm chí dẫn đến nhiều cái chết thương tâm nơi đất khách quê người. Trong sự giao lưu, hợp tác quốc tế thì hôn nhân nói chung và hôn nhân với người nước ngoài nói riêng là một vấn đề hết sức bình thường của mọi xã hội, luật pháp của mỗi quốc gia đều khẳng định: mỗi người đều có quyền lựa chọn, quyết định hạnh phúc và người bạn đời cho riêng mình. Nhưng trên thực tế, các quyết định hôn nhân cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nữa, từ khách quan đến chủ quan. Liên quan đến hoạt động hôn nhân này, nhiều câu hỏi được đặt ra như họ có được bảo đảm cuộc sống không?, có được chồng yêu thương không?, có được quan tâm hỗ trợ khi cần không hay là khi mọi chuyện vỡ lỡ ra thì lên án, tố cáo, trách móc sự thiếu hiểu biết của cô dâu. Trong thời gian vừa qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo, bài viết về vấn đề này. Trần Văn Phương, “Hiện tượng lấy chồng Hàn Quốc ở phụ nữ Việt Nam: Thực trạng và một vài suy nghĩ”, Hội thảo quốc tế “ Hôn nhân xuyên quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa” (tác giả nào), theo bài viết thì tác giả đã nêu ra những thực trạng của phụ nữ Việt Nam trong những năm gần đây, nếu trước đây phong trào kết hôn với người nước ngoài , mà chủ yếu là hiện tượng phụ nữ lấy chồng Đài Loan nở rộ lên một cách mạnh mẽ thì kể từ năm 2005 trở đi các trung tâm môi giới kết hôn với người Đài Loan đã “hạ nhiệt” không phải là do lấy chồng Đài Loan không còn sức hút mà thay vào đó là các cô gái nhắm đến “vùng đất hứa” mới, với “Korean dream” (giấc mơ Hàn Quốc) để gởi gấm tấm thân ngàn vàng. Và điều đó cũng dẫn tới nhiều chuyện tiêu cực mới xảy ra, không lường trước được. Bên cạnh những thực trạng tác giả đã nêu trong bài viết thì tác giả cũng đề ra những biện pháp nhằm bảo vệ nhân phẩm, quyền lợi của các cô dâu VIệt Nam, đồng thời hạn chế tình trạng môi giới gây mất trật tự xã hôi (nêu tác giả). “Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc: những cuộc hôn nhân không tình yêu và bao nỗi khó khăn”, Vietnamnet, thứ 5, 30/08/07, theo bài viết thì tác giả chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến khó khăn của một số cô gái Việt Nam lấy chồng nước ngoài, trong đó có Hàn Quốc là do hai bên không quen biết nhau. Chú rể gặp cô dâu ở trung tâm môi giới, chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu, không có giao tiếp, không hiểu biết về văn hóa và lối sống của nhau Có những cô dâu bị chồng đánh nhưng không hiểu vì sao bị đánh. Bản chất của những cuộc hôn nhân như thế này mang yếu tố rủi ro rất lớn, được chuyện thì coi như không có gì bàn cãi, còn không được thì không biết bao nhiêu chuyện tiêu cực diễn ra mà hầu hết những chuyện tình mai mối không tình yêu như thế này thường không có tuổi thọ lâu dài, một là ly dị, hai là gây nên những chuyện thương tâm làm đau lòng gia đình và xã hội. Đỗ Hoa, “Để làm lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân giữa cô dâu Việt Nam và chồng Hàn Quốc: Cần sự nỗ lực từ hai phía”, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 22/05/06, theo bài viết thì tác giả muốn nhấn mạnh “sự kiện ngày 21 tháng 4 năm 2006” khi Nhật báo hàng đầu của Hàn Quốc (Chosun) đăng bài “Các trinh nữ Việt Nam đến Korea – đất nước của hy vọng” đã gây nên những phản ứng dữ dội cả ở Việt Nam lẫn Hàn Quốc. Và theo tác giả thì những chuyện như thế này không tiếp tục diễn ra nữa vì nó sẽ làm mất tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước và tác giả chỉ ra rằng để làm lành mạnh mối quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và chồng Hàn Quốc không còn cách nào khác là cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp và sự nỗ lực từ 2 phía. “Cô dâu Việt lấy chồng Hàn sẽ được bảo vệ”, diễn đàn “Chính sách về vấn đề kết hôn quốc tế Hàn – Việt”, tại diễn đàn này bà Yang Seung Jo, cục trưởng Cục chính sách gia đình Hàn Quốc đã trả lời những câu hỏi của báo chí Việt Nam một cách chân thành và thiết thực nhất. Tại đây bà đã nói: “Dù cùng văn hóa, ngôn ngữ nhưng tỷ lệ ly hôn giữa những cặp vợ chồng người Hàn ngày càng tăng bởi đời sống hôn nhân là một quá trình phức tạp. Đời sống hôn nhân của những gia đình cô dâu ngoại quốc ở Hàn Quốc càng khó khăn hơn vì bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa. Nhưng các cô dâu Việt Nam đừng nghĩ mình đang đơn độc ở Hàn Quốc. Chúng tôi luôn bên cạnh các bạn”. Đây có thể xem như là một động thái tích cực từ phía Hàn Quốc trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh từ mối quan hệ hôn nhân xuyên quốc gia này. Trong khuôn khổ bài viết này tôi hướng đến việc tìm hiểu thực trạng hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Hàn Quốc, bên cạnh đó, xác định một số nguyên nhân thúc đẩy hiện tượng kết hôn đa văn hóa này. Trên cơ sở những mục tiêu trên, bài viết sẽ trả lời một số câu hỏi nghiên cứu cụ thể sau: Thực trạng của vấn đề hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Hàn Quốc như thế nào?Quá trình hình thành hôn nhân đa văn hóa như thế nào?Nguyên nhân thúc đẩy phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc là gì? Trong bài viết này, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và người Hàn Quốc. Phạm vi nghiên cứu nằm chủ yếu ở các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long như Tây Ninh, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cần Thơ, Cà Mau . Đây là vùng có số lượng phụ nữ lấy chồng ngoại quốc nhiều nhất nước, đặt biệt trong những năm gần đây xu thế lấy chồng Hàn Quốc tăng vọt. Phân tích thực trạng hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc sẽ góp phần làm rõ các vấn đề đã và đang được bàn luận nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng, giúp chỉ ra những nhận định chưa chính xác, qua đó giúp cho không những riêng tôi mà còn cho những nhà công tác xã hội có cái nhìn đúng đắn về vấn đề hôn nhân đa văn hóa này và đưa ra những phương thức hỗ trợ có hiệu quả cho cộng đồng có phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc nói riêng và của phụ nữ lấy chồng ngoại nói chung. Hơn nữa, trên cơ sở phân tích các tư liệu sẵn có, bài viết sẽ góp phần bổ sung các phương pháp phân tích khoa học trong việc nghiên cứu phát triển cộng đồng, những lý luận cũng như các lý thuyết về Giới và phát triển. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin chủ yếu của bài viết này là phương pháp phân tích tư liệu sẵn có. Báo cáo sẽ sử dụng tư liệu từ các nguồn sau đây: - Tư liệu là các báo cáo, công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân đa văn hóa. - Các bài viết trong các tạp chí, tập san chuyên ngành xã hội học, công tác xã hội trong và ngoài nước - Sách, tài liệu tham khảo khác.

doc18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7178 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hôn nhân Hàn – Việt - Những vấn đề về thực trạng và nguyên nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hôn Nhân Hàn – Việt: Những Vấn Đề về Thực Trạng và Nguyên Nhân Trần Nguyễn Lai Thi Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt với bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể, như: tốc độ tăng trưởng GDP, thị trường việc làm tăng mạnh, môi trường kinh tế được cải thiện, thu nhập bình quân theo đầu người gia tăng đã thực sự thu hút giới đầu tư khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO (07/11/06), là một sự kiện quan trọng thúc đẩy hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô ồ ạt vào Việt Nam. Đây là một sự kiện đáng mừng, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc cho Việt Nam phát huy nguồn lực của mình. Trong số những nhà đầu tư vào nước ta, những năm gần đây, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất. Theo cục Đầu tư nước ngoài, thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2007 Hàn quốc đứng đầu danh sách các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với 403 dự án và tổng vốn đăng ký gần 4,2 tỷ USD (so với năm 2006 có 207 dự án, đạt giá trị 2,78 tỷ USD). Đây là năm thứ 2 liên tiếp Hàn Quốc giữ ngôi vị đầu bảng này (nguồn?). Song song với việc phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ là sự xuất hiện của một số vấn đề xã hội đáng quan tâm, như xuất khẩu lao động, các đường dây buôn bán ma túy, các ổ chứa,….trong đó hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng ngoại quốc nói chung và Hàn Quốc nói riêng đang thực sự là một vấn đề nóng bỏng và cấp bách được dư luận xã hội quan tâm chú ý. Việc kết hôn với người nước ngoài đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở nước ta, đặc biệt là xu hướng lấy chồng Hàn Quốc của các cô gái nông thôn. Trên thực tế, việc phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc không phải lúc nào cũng như tưởng tượng trong phim của các cô về một cuộc sống tốt đẹp hơn ở một chân trời mới, với một người chồng mơ ước và bao dự định hoài bão về đất nước xinh đẹp Hàn Quốc, mà thực ra ở vấn đề này đã có rất nhiều chuyện bất cập diễn ra xung quanh việc cô dâu Việt lấy chồng Hàn như bị môi giới lừa bán vào các ổ mại dâm, bị bóc lột sức lao động, lạm dụng tình dục, bị đánh đập và hành hạ dã man thậm chí dẫn đến nhiều cái chết thương tâm nơi đất khách quê người. Trong sự giao lưu, hợp tác quốc tế thì hôn nhân nói chung và hôn nhân với người nước ngoài nói riêng là một vấn đề hết sức bình thường của mọi xã hội, luật pháp của mỗi quốc gia đều khẳng định: mỗi người đều có quyền lựa chọn, quyết định hạnh phúc và người bạn đời cho riêng mình. Nhưng trên thực tế, các quyết định hôn nhân cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nữa, từ khách quan đến chủ quan. Liên quan đến hoạt động hôn nhân này, nhiều câu hỏi được đặt ra như họ có được bảo đảm cuộc sống không?, có được chồng yêu thương không?, có được quan tâm hỗ trợ khi cần không hay là khi mọi chuyện vỡ lỡ ra thì lên án, tố cáo, trách móc sự thiếu hiểu biết của cô dâu. Trong thời gian vừa qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo, bài viết về vấn đề này. Trần Văn Phương, “Hiện tượng lấy chồng Hàn Quốc ở phụ nữ Việt Nam: Thực trạng và một vài suy nghĩ”, Hội thảo quốc tế “ Hôn nhân xuyên quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa” (tác giả nào), theo bài viết thì tác giả đã nêu ra những thực trạng của phụ nữ Việt Nam trong những năm gần đây, nếu trước đây phong trào kết hôn với người nước ngoài , mà chủ yếu là hiện tượng phụ nữ lấy chồng Đài Loan nở rộ lên một cách mạnh mẽ thì kể từ năm 2005 trở đi các trung tâm môi giới kết hôn với người Đài Loan đã “hạ nhiệt” không phải là do lấy chồng Đài Loan không còn sức hút mà thay vào đó là các cô gái nhắm đến “vùng đất hứa” mới, với “Korean dream” (giấc mơ Hàn Quốc) để gởi gấm tấm thân ngàn vàng. Và điều đó cũng dẫn tới nhiều chuyện tiêu cực mới xảy ra, không lường trước được. Bên cạnh những thực trạng tác giả đã nêu trong bài viết thì tác giả cũng đề ra những biện pháp nhằm bảo vệ nhân phẩm, quyền lợi của các cô dâu VIệt Nam, đồng thời hạn chế tình trạng môi giới gây mất trật tự xã hôi (nêu tác giả). “Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc: những cuộc hôn nhân không tình yêu và bao nỗi khó khăn”, Vietnamnet, thứ 5, 30/08/07, theo bài viết thì tác giả chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến khó khăn của một số cô gái Việt Nam lấy chồng nước ngoài, trong đó có Hàn Quốc là do hai bên không quen biết nhau. Chú rể gặp cô dâu ở trung tâm môi giới, chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu, không có giao tiếp, không hiểu biết về văn hóa và lối sống của nhau…Có những cô dâu bị chồng đánh nhưng không hiểu vì sao bị đánh. Bản chất của những cuộc hôn nhân như thế này mang yếu tố rủi ro rất lớn, được chuyện thì coi như không có gì bàn cãi, còn không được thì không biết bao nhiêu chuyện tiêu cực diễn ra mà hầu hết những chuyện tình mai mối không tình yêu như thế này thường không có tuổi thọ lâu dài, một là ly dị, hai là gây nên những chuyện thương tâm làm đau lòng gia đình và xã hội. Đỗ Hoa, “Để làm lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân giữa cô dâu Việt Nam và chồng Hàn Quốc: Cần sự nỗ lực từ hai phía”, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 22/05/06, theo bài viết thì tác giả muốn nhấn mạnh “sự kiện ngày 21 tháng 4 năm 2006” khi Nhật báo hàng đầu của Hàn Quốc (Chosun) đăng bài “Các trinh nữ Việt Nam đến Korea – đất nước của hy vọng” đã gây nên những phản ứng dữ dội cả ở Việt Nam lẫn Hàn Quốc. Và theo tác giả thì những chuyện như thế này không tiếp tục diễn ra nữa vì nó sẽ làm mất tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước và tác giả chỉ ra rằng để làm lành mạnh mối quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và chồng Hàn Quốc không còn cách nào khác là cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp và sự nỗ lực từ 2 phía. “Cô dâu Việt lấy chồng Hàn sẽ được bảo vệ”, diễn đàn “Chính sách về vấn đề kết hôn quốc tế Hàn – Việt”, tại diễn đàn này bà Yang Seung Jo, cục trưởng Cục chính sách gia đình Hàn Quốc đã trả lời những câu hỏi của báo chí Việt Nam một cách chân thành và thiết thực nhất. Tại đây bà đã nói: “Dù cùng văn hóa, ngôn ngữ nhưng tỷ lệ ly hôn giữa những cặp vợ chồng người Hàn ngày càng tăng bởi đời sống hôn nhân là một quá trình phức tạp. Đời sống hôn nhân của những gia đình cô dâu ngoại quốc ở Hàn Quốc càng khó khăn hơn vì bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa. Nhưng các cô dâu Việt Nam đừng nghĩ mình đang đơn độc ở Hàn Quốc. Chúng tôi luôn bên cạnh các bạn”. Đây có thể xem như là một động thái tích cực từ phía Hàn Quốc trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh từ mối quan hệ hôn nhân xuyên quốc gia này. Trong khuôn khổ bài viết này tôi hướng đến việc tìm hiểu thực trạng hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Hàn Quốc, bên cạnh đó, xác định một số nguyên nhân thúc đẩy hiện tượng kết hôn đa văn hóa này. Trên cơ sở những mục tiêu trên, bài viết sẽ trả lời một số câu hỏi nghiên cứu cụ thể sau: Thực trạng của vấn đề hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Hàn Quốc như thế nào? Quá trình hình thành hôn nhân đa văn hóa như thế nào? Nguyên nhân thúc đẩy phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc là gì? Trong bài viết này, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và người Hàn Quốc. Phạm vi nghiên cứu nằm chủ yếu ở các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long như Tây Ninh, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cần Thơ, Cà Mau…. Đây là vùng có số lượng phụ nữ lấy chồng ngoại quốc nhiều nhất nước, đặt biệt trong những năm gần đây xu thế lấy chồng Hàn Quốc tăng vọt. Phân tích thực trạng hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc sẽ góp phần làm rõ các vấn đề đã và đang được bàn luận nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng, giúp chỉ ra những nhận định chưa chính xác, qua đó giúp cho không những riêng tôi mà còn cho những nhà công tác xã hội có cái nhìn đúng đắn về vấn đề hôn nhân đa văn hóa này và đưa ra những phương thức hỗ trợ có hiệu quả cho cộng đồng có phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc nói riêng và của phụ nữ lấy chồng ngoại nói chung. Hơn nữa, trên cơ sở phân tích các tư liệu sẵn có, bài viết sẽ góp phần bổ sung các phương pháp phân tích khoa học trong việc nghiên cứu phát triển cộng đồng, những lý luận cũng như các lý thuyết về Giới và phát triển. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin chủ yếu của bài viết này là phương pháp phân tích tư liệu sẵn có. Báo cáo sẽ sử dụng tư liệu từ các nguồn sau đây: - Tư liệu là các báo cáo, công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân đa văn hóa. - Các bài viết trong các tạp chí, tập san chuyên ngành xã hội học, công tác xã hội trong và ngoài nước - Sách, tài liệu tham khảo khác. Thực trạng hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và người Hàn Quốc “Nhà nghèo, vất vả quanh năm mà vẫn không có cái dư để dành, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Cái nghèo dai dẳng đã khiến Huỳnh Mai bỏ học sớm, xuống tận Bạc Liêu làm công nhân thủy sản từ năm 15 tuổi. 4 năm sau cô về Bình Dương làm ở xưởng gỗ. Đầu năm 2006, có người trong xóm mai mối cho Mai lấy chồng Hàn Quốc, lúc đầu gia đình cô không đồng ý. Nhưng Mai nghĩ đây là lúc mình có thể trả nợ được cho gia đình, giúp gia đình thoát khỏi cảnh nghèo túng hiện nay nên cô đã mạnh dạn nêu ra ý kiến trước cả nhà, ba mẹ cô không chịu nhưng Mai cứ nài nỉ: “ Gia đình mình nghèo quá, con đi 2, 3 năm là có tiền sẽ gửi về phụ giúp gia đình, nuôi các em ăn học”. Ông Huỳnh Văn Sáu đã gật đầu. Chính ông cũng không ngờ rằng cái gật đầu của mình đã cướp đi mãi mãi đứa con gái ngoan hiền của mình”. (trích nguồn) Mai chết đi để lại bao thương tiếc cho gia đình và những người biết chuyện về Mai, cô còn trẻ quá mà, mới 21 tuổi đời mà đã ra đi vĩnh viễn. Bức thư của Huỳnh Mai viết trước khi chết tại nhà ở phường Munhoa, thành phố Cheonan (Hàn Quốc), được công khai hôm 6/8/2007 trong đó có đoạn viết như sau: “ Em đã cố gắng rất nhiều để trở thành một người vợ tốt, một người mẹ tốt, em mong muốn có một gia đình đầm ấm. Em rất muốn nói chuyện nhiều với anh, em cũng như những con gái khác rất muốn đối xử tốt với chồng. Nhưng sao anh lại không quan tâm tới em? Em mong muốn có một gia đình đầm ấm và trở thành một người vợ tốt đối với chồng, nhưng ước mơ giản dị đó của em không trở thành hiện thực”, thư Huỳnh Mai viết , đề ngày 25/06/2007. Hàn Quốc_ một trong những con rồng của châu Á, nơi có những sản phẩm nổi tiếng như Samsung, LG, Deawoo, các công nghệ giải trí, đồ thời trang, và đặc biệt, trong những năm gần đây, khi phim Hàn ngày càng được giới trẻ ưa chuộng. Khi mà hình ảnh những đôi trai gái trên phim hết sức tình tứ và lãng mạn, nội dung phim có tính nhân văn sâu sắc, phong cảnh thiên nhiên xinh đẹp đã làm không biết bao nhiêu cô gái Việt mơ ước có cuộc sống như vậy. Với công nghệ này, nó đã có tác động mạnh mẽ đến phong cách ăn mặc và lối sống của giới trẻ Việt Nam. Theo như Cục đầu tư nước ngoài thì nguồn vốn Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam trong mấy năm gần đây, đặc biệt năm 2007 đạt kỷ lục. Và việc hai nước đưa vào sử dụng đường bay thẳng từ Busan và Seoul đến Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với tần suất 1 đến 2 chuyến bay trong ngày, cũng như việc miễn thị thực visa cho khách du lịch Hàn Quốc, từ đó, mỗi năm chúng ta đón hơn 18.000 khách du lịch đến Việt Nam. Đây thực sự là điều kiện thuận lợi để công dân hai nước có cơ hội tiếp xúc và giao lưu với nhau nhiều hơn. Tại Hàn Quốc, tính tổng số lượng các cuộc kết hôn của nữ thanh niên Việt Nam với đàn ông Hàn Quốc trong 5 năm ( từ năm 2001 đến 2005) mà Cục thống kê Hàn Quốc thống kê được là 10.279 trường hợp. Căn cứ vào số lượng thống kê này, trong 5 năm qua rõ ràng tỷ lệ gia tăng số lượng các cuộc kết hôn giữa năm sau so với năm trước là rất lớn. Cụ thể là năm 2002 (so năm 2001) số đàn ông Hàn Quốc kết hôn với nữ thanh niên Việt Nam tăng hơn 355%; năm 2003 (so năm 2002) tăng hơn 294%; năm 2004 (so với 2003) tăng hơn 175%; năm 2005 (so với 2004) tăng hơn 236%. Nếu tính riêng năm 2005 so với số lượng năm 2001, số lượng kết hôn giữa đàn ông Hàn Quốc với nữ thanh niên Việt Nam tăng hơn của năm 2005 so với năm 2001, tỷ lệ chênh lệch đến hơn 4344% (xem biểu đồ 1). (trích dẫn nguồn) Biểu đồ 1 Đáng lưu ý, nếu so với các quốc gia khác ở Đông Nam Á như Philippines và Thái Lan, Việt Nam là nước có tỷ lệ nữ thanh niên kết hôn với đàn ông Hàn Quốc nhiều nhất và tăng nhanh nhất. Hơn nữa, đến nay vẫn chưa có dấu hiệu nào để cho thấy số lượng nữ thanh niên nước ta sẽ ít lấy chồng nước ngoài (nhất là đàn ông Hàn Quốc) (xem biểu đồ 2) Biểu đồ 2 Cách đây 10 năm, khi mà việc lấy chồng nước ngoài còn khá mới mẻ ở Việt Nam, và nếu có, lúc bấy giờ chủ yếu cũng là lấy chồng Đài Loan, thì việc lấy chồng xứ sở “Kim Chi” chỉ đếm trên đầu ngón tay, với một số lượng vô cùng ít ỏi, và chủ yếu là những công nhân nữ Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc, thì tính đến thời điểm này có trên 16.217 cô dâu Việt đang sinh sống trên đất Hàn (trích dẫn nguồn). Trước đây việc kết hôn với người nước ngoài ở Hàn Quốc bị định kiến, được xem là trái với thuần phong mỹ tục, là điều đáng hổ thẹn. Vì ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, giáo dục Hàn Quốc đã dạy cho trẻ em biết tự hào về sự thuần khiết của chủng tộc mình. Thế nhưng do bối cảnh toàn cầu hiện nay, những người phụ nữ Hàn được giải phóng, họ không còn sự ràng buộc hay phụ thuộc vào người đàn ông nữa. Họ được tự do làm việc và hưởng lương như người đàn ông, họ trở nên năng động, tự tin hơn, và tham gia vào nhiều các hoạt động kinh tế, tổ chức chính trị, xã hội hơn nên họ thích sống độc lập hoặc kết hôn muộn hơn. Dự báo, đến năm 2012 tại Hàn Quốc, một thực tế là cứ 124 nam giới thì mới có 100 phụ nữ ở tuổi từ 24 đến 30, đây là hậu quả của tình trạng phá thai tràn lan khi phát hiện thai nhi là nữ trong những năm 1980. Chính vì vậy, nam giới cao tuổi chưa lập gia đình ngày càng nhiều và họ bắt đầu hướng ra nước ngoài để tìm vợ. Trước nhu cầu thực tế của xã hội, thì các công ty môi giới ở Hàn Quốc lần lượt mở ra đáp ứng những nhu cầu thiết thực đó. Và hệ quả của nó là không biết bao nhiêu cuộc hôn nhân xuyên quốc gia không tình yêu ra đời, những cuộc tình chóng vánh, thậm chí chưa từng diễn ra cuộc tình nào mà chỉ thông qua mối lái dẫn dắt. Số công ty môi giới Hàn Quốc lấy vợ Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Philippines, Mông Cổ, Thái Lan.... ngày càng tăng (trích dẫn nguồn). Để cạnh tranh, các công ty này còn đưa ra những chiêu bài thu hút khách hàng như giảm giá dịch vụ cho những cuộc môi giới trọn gói, sủ dụng công nghệ quảng cáo về hôn nhân môi giới với giá rẻ, lấy vợ đẹp trên báo chí, internert, băng rôn, áp phích, tờ rơi..... tràn lan trên đường phố và cả ở nông thôn Hàn Quốc. Hiện tại, ở Hàn Quốc có khoảng 600 – 1000 công ty, trung tâm môi giới, văn phòng tư vấn hôn nhân giữa Việt Nam với Hàn Quốc. Các công ty này thực hiện dịch vụ hôn nhân môi giới trọn gói với giá từ 10.000 USD đến 16.000 USD. Ngoài ra trên các thông tin đại chúng, các công ty này còn đưa ra những tít lớn như: “Chỉ trong vòng 4 – 7 ngày cưới được vợ Việt Nam, đảm bảo 100%, không thành công không thu phí” hay những tin như: “ Cô dâu Việt Nam đã sẵn sàng, chỉ cần có ý định của bạn”, “Người gìa, người muốn tái hôn, người đã có con, người khuyết tật đều có thể lấy trinh nữ Việt Nam xinh đẹp”. Và rồi những băng rôn, áp phích, poster kêu gọi kết hôn với phụ nữ Việt Nam với những lời lẽ như sau: “sau sáu tháng sống chung, nếu người chồng không hài lòng có thể đưa cô dâu đến công ty môi giới để trả về Việt Nam, công ty sẽ “đền” cô dâu khác”. Tại Hàn Quốc, môi giới hôn nhân được công nhận là hợp pháp nên có đến 17.9% công dân Hàn Quốc thông qua loại dịch vụ này để tìm bạn đời. Theo như báo cáo của Cục thống kê Hàn Quốc, thì chỉ trong vòng năm năm, tỉ lệ kết hôn với người nước ngoài của Hàn Quốc tăng lên ba lần, trong đó tỉ lệ lấy vợ Việt Nam lên đến 43 lần, năm 2001 là 143 người, năm 2003 là 1.403, đến năm 2005 là 5.822 người. Số cô dâu Việt Nam chiếm tổng số 1/5 tổng số cô dâu nước ngoài ở Hàn Quốc, đứng thứ hai sau Trung Quốc. (trích dẫn nguồn) Những ông chồng Hàn lấy vợ Việt đa phần xuất thân ở các vùng nông thôn có hoàn cảnh nghèo khó, thu nhập ít ỏi, khó có khả năng lấy vợ bản xứ, phần lớn ở độ tuổi từ 30 – 45. Với hoàn cảnh như vậy, cho nên muốn tìm người bạn đời phù hợp với mình, họ hướng đến những quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn, trong đó có Việt Nam, để tìm bạn đời của mình. Mục đích của các chú rể là cưới vợ để có con nối dõi, có người chăm sóc cha mẹ già, làm người giúp việc trong gia đình hoặc có một bộ phận hạn hữu là giúp chồng trong việc kinh doanh. Bên cạnh đó, theo cục thống kê thì cũng có tới 62,9% cô dâu Việt Nam thông qua môi giới để lấy chồng Hàn Quốc. Phần lớn họ cũng xuất thân từ khu vực nông thôn Việt Nam như: Cần Thơ, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cà Mau, Tây Ninh... và cũng nghèo khó (trích dẫn nguồn). Hiện tượng các cô gái trẻ tuổi lấy chồng Hàn Quốc xuất hiện như một làn sóng, nhằm mục đích cải thiện cuộc sống hiện tại của gia đình. Ở Cần Thơ, năm 2004 chỉ có 34 cô gái lấy chồng Hàn Quốc, đến năm 2005 con số này tăng lên 379 trường hợp và số lượng này tiếp tục tằng vào những năm tiếp theo sau đó (trích dẫn nguồn). Đa số các cô lấy chồng Hàn Quốc thường có độ tuổi từ 18 đến 25, sống chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trình độ học vấn thấp, thường là cấp 1, cấp 2 và có nhiều trường hợp mù chữ. Những người phụ nữ này đa phần là không có công việc ổn định, không có ruộng đất canh tác, và sống chủ yếu vào gia đình. Trong những năm gần đây, số lượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc tăng đột biến, một trong những lý do có thể xem xét đến đó là do có sự sút giảm đáng kể tỉ lệ kết hôn với người Đài Loan khi chính phủ Đài Loan đã ban hành một số những quy định mới gây trở ngại không ít cho hoạt động môi giới cũng như kết hôn với người Đài Loan. Vì vậy, đối tượng người Việt Nam có nhu cầu lấy chồng ngoại quốc đã chuyển dịch dần sang đối tượng là người Hàn Quốc. Bởi lẽ thủ tục đăng ký kết hôn ở Hàn Quốc rất đơn giản, không cần có mặt cô dâu khi đăng kí kết hôn và tác động của các trào lưu văn hoá xứ Hàn, trong bối cảnh toàn cầu hoá đã xích gần hơn mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Quá trình hình thành hôn nhân xuyên quốc gia Trước hết, chúng ta tìm hiểu khái niệm kết hôn và hôn nhân là gì? Trong khoản 2, điều 8 của Luật HN và GĐ quy định: “ Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Và khoản 6 của điều 8 quy định: “ Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Thực vậy, mối quan hệ giữa vợ và chồng trong hôn nhân chính là hạt nhân của tế bào gia đình, là mối quan hệ cơ bản để từ đó xây dựng nên một gia đình mà kết hôn là sự khởi đầu. Hôn nhân với những người trong nước với nhau hay hôn nhân có yếu tố nước ngoài cũng đều phải thực hiện theo đúng pháp luật quy định. Tuy nhiên, theo Cục thống kê thì quá trình hôn nhân có yếu tố nước ngoài được hình thành theo hai cách: đôi nam nữ tự tìm hiểu dẫn đến hôn nhân hoặc thông qua các dịch vụ môi giới. Trong trường hợp thứ nhất đó là mối quan hệ hôn nhân tự nguyện cao và xuất phát từ cơ sở tình cảm; hiểu biết lẫn nhau trên các vị trí công tác, học tập. Trường hợp thứ hai thông qua các hình thức môi giới: các công ty môi giới hôn nhân hoặc qua sự giới thiệu của người thân, người kết hôn trước. Đây là một hình thức tìm kiếm quan hệ hôn nhân thông qua các bên tham gia lựa chọn, trong đó không loại trừ có cả các tổ chức môi giới hôn nhân với mục đích “ hoạt động kinh doanh kiếm lời”. Hiên tượng lấy chồng Hàn Quốc của những cô gái Việt Nam xảy ra trong bối cảnh nước ta mở rộng, giao lưu hợp tác kinh tế, có nhiều sự khác biệt so với chuyện lấy chồng ngoại truớc đây.Sự không bình thường không chỉ về số lượng tăng ồ ạt trong thời gian ngắn, lại tập trung ở các tỉnh Nam Bộ mà còn vì những hệ quả tiêu cực khác như: chuyện ngược đãi, lợi dụng phụ nữ Việt Nam với danh nghĩa hôn nhân Hàn - Việt, là sự hoạt động bất hợp pháp của một số người lừa đảo, kiếm chác, mà bản chất là sự kinh doanh về thể xác, tình cảm của phụ nữ.... “ Mai mối” là một tập tục truyền thống có từ lâu đời ở các nước châu Á. Nhưng mai mối ở đây, đúng nghĩa là mai mối, chứ không bị lợi dụng như là một công cụ để ép duyên. Ở đây đôi bên tự quyết định các bước tiếp theo sau khi bà mối mối lái cho cặp đôi nam và nữ. Tuy nhiên, đó là cái thời xa xưa, hiên nay môi giới hôn nhân nói chung và môi giới kết hôn với người nước ngoài nói riêng luôn có tính hai mặt. Mặt tích cực là tạo điều kiện cho hai bên có điều kiện làm quen, tiếp xúc và tìm hiểu “ nhân thân” của nhau. Đó cũng là những yếu tố cần thiết để hình thành giai đoạn tiền hôn nhân, nhất là trong xã hội công nghiệp. Mặt trái của môi giới kết hôn với người nước ngoài là áp đặt, cung cấp những thông tin sai lệch cho khách hàng để kiếm lời. Họ tìm mọi cách để thành công với mục đích kiếm được tiền, bất kể việc cung cấp thông tin sai, lừa dối đôi bên dẫn đến những hậu quả khôn lường, làm nhiều gia đình tan vỡ, trong đó người chịu ảnh hưởng nhiều nhất, thiệt thòi nhất là người phụ nữ. Hoạt động của các loại hình công ty môi giới hôn nhân như vậy chính là cơ sở cho việc thiết lập các mối quan hệ đầu tiên dẫn đến nhiều quan hệ phức tạp khác do kiểu hôn nhân này đem lại. Không thể có hạnh phúc thực sự khi hôn nhân không xuất phát từ tình cảm từ hai phía, không có tình yêu đôi lứa, không có sự hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau. Mà hạnh phúc là ở chỗ: “ Vợ chồng chung thuỷ, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giứp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững” (điều 18, chương III). Những “điều khoản và quy định này cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài” (Điều 7). Hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với đàn ông Hàn Quốc liệu có phải tất cả đều hạnh phúc hay không? Hay thực chất hiện tượng này là sự gặp gỡ giữa hai mục đích khác nhau: đàn ông Hàn Quốc muốn tìm vợ phù hợp với khả năng có thể có của mình, ngược lại phần đông các cô gái Việt Nam xuất phát từ động cơ kinh tế và một số lý do khác. Chính vì vậy, cần có các tổ chức môi giới hợp pháp và nguyên tắc đầu tiên phải là cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho những cô gái có ý định kết hôn với người nước ngoài để họ có đủ năng lực cùng với gia đình đưa ra quyết định đúng đắn cho cuộc hôn nhân của mình. Những yếu tố trong sự hình thành hôn nhân xuyên quốc gia Những nguyên nhân kinh tế Đây được xem là nguyên nhân chủ yếu và hầu như là nguồn gốc chính hình thành mối quan hệ hôn nhân xuyên quốc gia. Thực vậy, vấn đề kinh tế là một trong những vấn đề thường xuyên được đề cập trên báo chí với lý do chủ yếu lấy chồng ngoại quốc đặc biệt là Hàn Quốc là uớc mơ để thoát nghèo, để được giàu có, và đổi đời. Các cô gái lấy chồng Hàn đa phần là con trong các gia đình làm nghề nông hoặc làm thuê nông nghiệp, đông con. Cho nên, việc lựa chọn người bạn đời cho mình được dựa trên cơ sở kinh tế thực dụng, ưu tiên cho người nước ngoài, vì người nứơc ngoài thường gắn cái mác giàu có, đảm bảo về kinh tế. Chính vì vậy họ thường nghĩ đến việc kết hôn với người nước ngoài để đạt được lợi ích về kinh tế, vật chất. “Nghe dì Lan kể các chị cùng quê lấy được chồng Hàn Quốc sang đó sung sướng, em muốn đi lắm. Nhà nghèo, em cũng chỉ mong lấy chồng Hàn để có tiền giúp gia đình như các chị”, Hiên ngậm ngùi kể. “Gia đình mình nghèo quá, con đi 2,3 năm là sẽ có tiền gởi về phụ giúp gia đình, nuôi các em ăn học”, tâm sự của Huỳnh Mai trứơc khi lên đường lấy chồng Hàn. Nhiều cô gái, tuy biết là cực khổ, nhưng vẫn nhắm mắt đưa chân, vẫn “ao ước” được về làm dâu xứ Hàn vì lý do như để trả hiếu cho cha mẹ. Có những cô gái bị lừa lấy chồng nước ngoài, thực chất là bị bán vào nhà thổ, đến khi được giải cứu đưa về Việt Nam, lại tìm cách quay lại Hàn vì: “Nhà em nghèo, bố lại ốm đau, cho em đi thế này là để cứu cánh cho gia đình, em mà xách vali về đến cửa nhà thôi thì bố mẹ em có lẽ lăn ra mà chết. Em không thể về được. Nếu phải về nước, em sẽ ở lại Hà Nội hoặc TP.Hồ Chí Minh, kiếm tiền gởi về quê”. (Báo Gia Đình và Xã Hội, ngày 18/06/2006) Những yếu tố về văn hóa Nhân tố văn hoá cũng quan trọng không kém phần kinh tế. Hiện nay quá trình toàn cầu hoá khiến cho văn hoá các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau hơn, từ đó quan điểm về giá trị, về đời sống của con người có sự thay đổi. Những chướng ngại về chủng tộc trong nội tâm được giải phóng, đa số người ta không còn cảm thấy rào cản về ngôn ngữ, màu da, tập tục nữa. Thực vậy, nếu cách đây khoảng 10 năm về trước thì chuyện kết hôn với người nước ngoài bị xem là trái với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, bị lên án, phê phán thì giờ đây, những người dân trong cộng đồng đã không còn coi đó là điều bất thường nữa. Dư luận xã hội ở cộng đồng chuyển dần thái độ từ không tán thành sang thông cảm, một số người còn bày tỏ thái độ đồng tình đối với hiện tượng các cô gái lấy chồng Hàn Quốc. Thêm nữa qua sách báo, phim ảnh, văn hoá phương Tây đã được truyền bá nhiều vào Việt Nam dẫn đến thay đổi về quan niệm hôn nhân xuyên quốc gia. Đặc biệt, là ở phía Nam, nơi có nền kinh tế phát triển, các công ty Hàn Quốc vào làm việc nhiều, làm cầu nối cho sự giao lưu. Hoạt động môi giới ở phía Nam nở rộ trở thành một ngoại lực kích thích cho việc hôn nhân xuyên quốc gia. Thêm vào đó, tâm lý và văn hoá Nam Bộ dù ít lệ thuộc vào ảnh hưởng Nho giáo nhưng riêng chữ “Hiếu” lại ảnh hưởng mạnh, chữ hiếu của người Nam Bộ là chữ hiếu triệt để, có nhiều người lấy chồng ngoại về để lấy tiền nuôi bố mẹ, cho bố mẹ cái nhà trong đó chưa biết tâm tính ông chồng ra sao cả. Tính tự do cá nhân của người dân vùng Nam Bộ cao hơn, cho nên sự lựa chọn chưa chắc là đúng nhưng họ được quyền lựa chọn, không ràng buộc nhiều bởi cộng đồng. Thêm vào đó, các cô dâu lấy chồng Hàn đa phần ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, xuất thân chủ yếu từ làm nghề nông, nơi mà khu vực đang có nhiều sự biến động về đất đai, mà hệ quả là làm nhiều người, nhiều gia đình, không còn đất canh tác, họ rơi vào tình trạng sống chủ yếu bằng nghề làm thuê. Cùng với sự cơ giới hoá, hiện đại hoá, nguồn lao động dư thừa ở nông thôn tăng lên đáng kể, làm cho khu vực này có sự chênh lệch lớn về mức sống giữa nông thôn và đô thị. Bối cảnh này dẫn đến xu hướng dịch chuyển lao động từ nông thôn ra đô thị để kiếm việc làm, đảm bảo thu nhập cho bản thân và gia đình. Đồng thời với hiện tượng di cư từ nông thôn ra đô thị là sự dịch chuyển nhân khẩu mang tính đặc thù. Đó là xu hướng kết hôn với người nước ngoài và trong những năm gần đây là lấy chồng Hàn Quốc. Những tư liệu định lượng, định tính từ nhiều nguồn thông tin khảo sát đã chứng tỏ việc kết hôn với người có quốc tịch khác là một trong những phương pháp hữu hiệu nhằm thoát khỏi tình trạng đói nghèo và nâng mức sống của một bộ phận dân cư ở vùng đất đầy tiềm năng phát triển kinh tế nhưng cũng lắm rủi ro này (trích dẫn nguồn). Bên cạnh đó, đặc điểm văn hoá – xã hội vùng Đồng Bằng sông Cửu Long nổi bật là nền văn hoá mở, với sự giao thoa nhiều yếu tố văn hoá: văn hoá Ấn Độ qua người Khơme, văn hoá Trung Quốc qua người Hoa, văn hoá Hồi giáo qua người Chăm. Tất cả sự đa dạng, sự khác biệt đó được hoà hợp, liên kết lại trong một nền văn hoá Việt Nam rất phong phú trên vùng đất mới, tạo nên những nét bản sắc văn hoá có nét đặc thù riêng cần được lưu giữ và phát huy (trích dẫn nguồn). Với bối cảnh kinh tế - văn hoá – xã hội như vậy, nó đã tạo nên nét đặc trưng của tính cách người dân, sống cởi mở, dễ thích nghi với sự thay đổi, dễ tiếp nhận cái mới, vì vậy cũng đồng hành với lối sống dễ bao dung, dễ tha thứ cho những hành vi của người khác và đặc biệt là tính ràng buộc của cộng đồng càng thoáng hơn. Những đặc điểm trong tính cách đã giúp người dân vùng sông nước Cửu Long thích nghi tốt với mọi biến đổi tự nhiên, xã hôi. Điều này cũng phản ánh đặc điểm văn hoá mang tính chất mở của người dân Nam Bộ, dễ dàng tiếp nhận, hoà hợp với những luồn nhân khẩu mớivà cũng không khắt khe ràng buộc những người muốn ra đi. Về phương diện tư tưởng Trào lưu cải cách, mở cửa đã dẫn quan niệm hôn nhân của người Việt Nam hiện nay hoà vào dòng chảy toàn cầu hoá, và việc kết hôn với người ngoại quốc không còn là điều bất thường nữa mà kéo theo đó những tư tưởng bảo thủ trước kia cũng dần lùi vào dĩ vãng, nhường chỗ cho những tư tưởng mới thoáng hơn. Đồng thời, tư tưởng tự do và đời sống cá nhân chủ nghĩa của người phương Tây qua phim ảnh truyền vào Việt Nam, ảnh hưởng rất lớn đối với người Việt Nam, nhất là đối với giới trẻ. Không phải tất cả những luồng tư tưởng đang tràn lan vào Việt Nam như hiện nay đều là tốt, mà nó cũng bao gồm những mặt trái của nó. Có không ít đối tượng không phải xuất thân từ những gia đình có kinh tế khó khăn, họ là những cô gái nông thôn con nhà khá giả, lười lao động, có tâm lý đua đòi, “sính ngoại”, kết hôn chỉ vì “để được đi máy bay” hay “thật tình, muốn đi”. Thậm chí như thấy hàng xóm có người lấy chồng Hàn Quốc nên cũng theo, hoặc khi xem phim Hàn thấy tình cảm gia đình, tình yêu lãng mạn, gần gũi và phong cảnh đẹp nên có cảm tình với người Hàn, yêu thích người Hàn, rồi dẫn đến lấy chồng Hàn luôn. Họ coi đó là “mốt”, không cần biết chồng thế nào, “miễn là họ ok thì mình gật đầu”, trốn cha, trốn mẹ, lấy chồng Hàn Quốc, khi ván đã đóng thuyền rồi mới báo cho ba mẹ hay. “Tôi mần ruộng, còn con Nết làm nghề may, cũng đủ sống. Thế mà khi có bà mai đến nói sang Hàn Quốc được sung sướng, nó khóc lóc, lạy lục đòi tôi cho đi lấy chồng Hàn, còn doạ nếu tôi không đồng ý, sẽ ở giá suốt đời”, bà Rốt, mẹ của cô Nết lấy chồng Hàn nói với giọng buồn bã. “ Nó doạ sẽ bỏ nhà đi bụi nếu tôi không đồng ý cho lấy chồng Hàn Quốc, nên đành chấp thuận. Cưới xong, chồng nó về nước ngay, nói để lo thủ tục bảo lãnh, nhưng giấy tờ thiếu tùm lum, đến lần thứ năm này mới xong”, bà Lưu than thở khi vừa nhận được visa cho con gái đi lấy chồng Hàn Quốc. “Xem phim Hàn, thấy đàn ông xứ họ dù nghèo hay giàu, đều đẹp trai, lãng mạn, hiếu thảo, nên em lên TP.HCM đăng ký học, hy vọng kiếm được tấm chồng như thế”, Linh học viên tiếng Hàn tại một trung tâm ngoại ngữ chia sẻ. Có một số đối tượng laị kết hôn vì có những bậc cha mẹ do thiếu hiểu biết, sính rể ngoại đã bất chấp tình yêu và sự hoà hợp của đôi nam nữ, những chuẩn mực của phong tục tập quán dân tộc, tìm kiếm bằng đượccho con gái mình người chồng ngoại. “Ông bà Năm chỉ có một cô con gái duy nhất, điều kiện kinh tế gai đình cũng chẳng lấy gì làm thiếu thốn. Trước kia, khi cô gái ở độ tuổi trăng rằm, ông bà đã tính chuyện gả con cho một anh chàng lực điền cùng quê chân chất, thật thà. Thế nhưng, nghe trong vùng rộ lên phong trào lấy chồng ngoại và thấy một vài gia đình khác làm đám cưới cho con gái với “rể Tây” cũng oách ra trò, thấy họ cũng trở thành những “ông bà sui” có giá nên ông bà Năm cũng tính chuyện cho con gái lấy chồng Tây.” Một số ít đối tượng là những nữ sinh viên hoặc học sinh ở thành thị, do có những suy nghĩ lệch lạc về cách sống và quan niệm nhân cách, phẩm cách của giới trẻ, đã đồng ý chung sống với những người nước ngoài giàu có. “ Thủa nhỏ moa có đọc một câu rất thú của Gorki: Phàm là đàn bà đẹp, không ngu đần cũng phóng đãng. Đã là đàn bà đẹp nếu không biết sử dụng sức mạnh tự nhiên ấy sẽ bị cho là ngu đần, còn nếu luôn mài nhọn thứ vũ khí chinh phục ghê gớm đó, sử dụng nó làm bàn đạp thăng tiến thì lại bị khoác cho cái mác lăng nhăng. Moa thà bị coi là phóng đãng còn hơn phải chịu tiếng ngu đần”. Lời của một cô gái hiện đang làm vợ bé của một giám đốc người Thái (Báo Tiền Phong, ngày 11/03/2002) Đa số các cuộc hôn nhân với người Hàn Quốc nói riêng và lấy chồng ngoại nói chung đều thông qua môi giới. Và các công ty môi giới này thì muôn hình vạn trạng, với đủ kiểu hình hoạt động khác nhau nhằm thu hút khách hàng, nhằm duy trì hoạt động của công ty mình. Một số kiến nghị mang tính giải pháp Hôn nhân đa văn hóa bản thân nó mang lại nhiều những sự cải thiện và phát triển, tuy nhiên cũng làm xuất hiện không ít những bất cập trong xã hội. Đây thực sự là bài toán khó, không thể giải quyết tức thời được mà cần phải được phối hợp thực hiện giữa các ngành, các cấp với lãnh đạo địa phương trong một thời gian lâu dài để đạt được hiệu quả tốt nhất nhằm hạn chế những hệ quả xấu do quá trình hôn nhân xuyên quốc gia gây ra. Trong khuôn khổ bài viết này, qua tham khảo một số công trình nghiên cứu trước, tôi mạo muội đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp để nhằm làm tốt hơn vấn đề hôn nhân này. Các đối tượng lấy chồng Hàn Quốc chủ yếu tập trung ở những cô gái trẻ thuộc các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long, với trình độ học vấn thấp, hiểu biết xã hội yếu. Do đó, họ dễ dàng bị cám dỗ bởi sự tác động từ cuộc sống xung quanh, từ phim ảnh..... Cộng đồng, mà trụ cột là Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên và chính quyền địa phương (sở tại) cần phải có những giải pháp tiếp cận các đói tượng này để giáo dục, nâng cao nhận thức về cuộc sống, thông tin, cảnh báo cho họ thấy rằng hôn nhân với chồng Hàn Quốc không phải là giải pháp tốt nhất để thay đổi cuộc sống. Mà giải pháp căn cơ, lâu dài nhất ở khu vực này là cần phải có chính sách đào tạo để những cô gái trẻ có trình độ hiểu biết, có tri thức, có tay nghề cao và có một chính sách sử dụng nguồn nhân lực trẻ hợp lý nhằm giải quyết công ăn, việc làm, mức sống của người dân được nâng cao thì tình trạng “ xuất khẩu cô dâu” ra nước ngoài sẽ được hạn chế. Tăng cường các điều kiện trong các quy định pháp lý về việc kết hôn với người nước ngoài như về ngôn ngữ, về thời gian quen biết.... Thực vậy, trong thời gian qua, chúng ta đã để xảy ra nhiều việc gây ảnh hưởng đến hình ảnh người phụ nữ Việt Nam là do kẻ hở trong các chính sách pháp luật hiện hành chính là khâu thủ tục công nhận hồ sơ đăng ký kết hôn. Lợi dụng sơ hở trong luật hôn nhân và gia đình của hai nước, các cô dâu Việt Nam thường gửi hồ sơ dăng lý kết hôn sang Hàn Quốc (vì luật pháp nước này không quy định cô dâu bắt buộc phải có mặt khi dăng ký kết hôn) sau đó gởi về Việt Nam và chúng ta buộc xác nhận ( vì nghị định 68 về hướng dẫn quản lý quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài không cấm). Do đó các trung tâm môi giới trá hình, bất hợp pháp trong nước đã kết hợp với các công ty môi giới phía Hàn Quốc kí kết đường dây môi giới xuyên quốc gia để đưa phụ nữ Việt Nam sang Hàn Quốc không phải vì mục đích hôn nhân. Do đó, Bộ Tư pháp cần phải có sự sửa đổi, bổ sung luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo đó, đối tuợng kết hôn có yếu tố nước ngoài phải đảm bảo các điều kiện cụ thể sau: - Đối với những công dân Hàn Quốc khi sang Việt Nam lấy vợ cần phải có: là công dân không bị truy tố, truy nã hình sự hoặc đang trong giai đoạn thi hành án; có giấy chứng nhận sức khoẻ (của phía Hàn Quốc và phía Việt Nam); giấy chứng nhận độc thân hoặc ly hôn; lý lịch bản thân và gia đình có xác nhận chính quyền địa phương, chứng nhận về tình trạng kinh t ế, nghề nghiệp....; giấy cam kết sau khi kết hôn phải đảm bảo quy ền lợi công dân, không gây bạo hành gia đình gây thương tích và ảnh hưởng tinh th ần của cô dâu, nếu li hôn phải có lý do chính đáng, quy định rõ ràng về quyền phân chia tài sản, quyền nuôi dạy con cái và quyền trở về Việt Nam hay ở lại Hàn Quốc. - Đối với những công dân Việt Nam khi lấy chồng là người Hàn Quốc ngoài việc thực hiện các quy định chung trong luật hôn nhân và gia đình cần phải thực hiện các điều kiện: phải biết cơ bản về ngôn ngữ Hàn Quốc (cần có những quy định về giáo trình, giáo án, thi cử và cấp bằng chứng chỉ); hiểu biết về văn hoá ứng xử, giao tiếp, quan hệ vợ chồng và gia đình nhà chồng.... - Ngoài ra hai bên kết hôn có tuổi tác không quá chênh lệch, chứng minh mục đích hôn nhân phải là tự nguyện, tiến bộ. Nghị định 68/2002 của Chính phủ đã quy định việc cấm các công ty môi giới hoạt động ở Việt Nam. Thế nhưng trên thực tế, các công ty môi giới trá hình vẫn còn hoạt động “chui” một cách khá công khai và sôi nổi. Các loại hình cò môi giới hoạt động ngày càng tinh vi, khôn khéo và theo một đường dây có tổ chức nhằm lừa đảo, dụ dỗ các cô gái thôn quê, vơ vét những đồng tiền “ siêu lợi nhuận”.Vì vậy cần phải có những quy định xử phạt thật nặng đối với những đối tượng hoạt động bất hợp pháp và thiếu chân chính nhằm tiêu diệt tận gốc đường dây môi giới, buôn bán phụ nữ xuyên quốc gia. Thông qua mô hình câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững, qua những nội dung sinh hoạt để cung cấp kiến thức và kỹ năng giáo dục gia đình cho các thành viên trong gia đình, nhằm từng bước nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vỉtong vấn đề hôn nhân xuyên quốc gia ở những vùng dân cư có nhiều khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí còn hạn chế. Nâng cao trình độ học vấn không chỉ riêng những cô dâu lấy chồng Hàn Quốc mà còn phải nâng cao trình đọ cho người dân, đặc biệt là thanh niên địa phương giúp họ tiếp cận những cơ hội cải thiện cuộc đời. Tuyên truyền và giáo dụcvề ước mơ, hoài bão cho thanh niên, về tính độc lập và khơi dậy khe năng lập nghiệp của mỗi người. Bảo vệ người Việt Nam sống ở nước ngoài, đặc biệt là Hàn Quốc thông qua việc thực hiện chặt chẽ các quy định về báo cáo tình trạng lưu trú với cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Cơ quan này phải đảm bảo nắm được các thông tin về người Việt Nam sống ở nước ngoài, có hồ sơ về họ để kịp thời bảo vệ họ trong những trường hợp cần thiết. Có một trung tâm tư vấn về hôn nhân. Trung tâm này ngoài việc giúp những người tìm đến giải quyết những vấn đề của họ còn là trung tâm tư vấn, tuyên truyền và đào tạo về kiến thức pháp luật để người dân có thể sống và làm việc theo pháp luật, tự bảo vệ mình, về phong tục tập quán và bản sắc văn hoá, những giá trị truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, về văn hoá và ngôn ngữ của đối tượng kết hôn của họ và về những kỹ năng sống cần thiết khi gia nhập cộng đồng văn hoá khác. Trung tâm này không chỉ hướng đến những người Việt Nam có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài còn hướng đến những người nước ngoài.Trung tâm, trước tiên, cần đặt tại những điểm nóng của hiện tượng phụ nữ lấy chồng nước ngoài, đặc biệt là Hàn Quốc, vừa đảm bảo tự hạch toán lại đảm bảo thu hút được người dân đến tìm hiểu cả về quãng đường và chi phí. Tóm lại, kết hôn với người nước ngoài không còn là chuyện “ không bình thường” nữa, nó đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Quá trình phân tích ở trên đã cho thấy tính hai mặt của hiện tượng kết hôn này, do vậy chúng ta, những người làm công tác xã hội, cần phải có những cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn về vấn đề này. Đó không phải là sự lên án hay chỉ trích về hành vi của các cá nhân tham gia trong mối quan hệ này, mà cần phải có những hành động thiết thực hơn để giúp những cô gái đã, đang và sẽ kết hôn với người nước ngoài có được những kiến thức cũng như thông tin để hiểu rõ hơn về hiện tượng hôn nhân đa văn hóa này. Tài liệu tham khảo chính: Bổ sung thêm 1. Lê Thị Nhâm Tuyết, Phạm Thị Minh Hằng, Phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. 2. Trần Văn Phương, Hiện tượng lấy chồng Hàn Quốc ở phụ nữ Việt Nam: thực trạng và một vài suy nghĩ. 3. Webiste: http//www.tuoitre.com.vn 4. Website: http//www.thanhnien.com.vn 5. Website: http//www.vnn.vn 6. Website: http//www.vietbao.vn 7. Website: http//www.vnexpress.net 8. Website: http//www.google.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHôn Nhân Hàn – Việt- Những Vấn Đề về Thực Trạng và Nguyên Nhân.doc
Luận văn liên quan