Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử đã chứng minh rằng, sự thành bại hay thịnh suy của một dân tộc, một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo dục, đào tạo bồi dưõng đội ngũ trí thức. Nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua ở thế kỷ XXI thực chất là cuộc chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục. Ở bất kỳ thời đại nào nguồn lực con người luôn là vị trí trung tâm, là động lực của sự phát triển xã hội. Trong đó thế giới quan khoa học và năng lực tư duy của con người là yếu tố cơ bản của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp “trồng người”. Ph.Ăngghen cho rằng, một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Bước vào công cuộc đổi mới trong xu thế hội nhập diễn ra mạnh mẽ, đồng thời với việc nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ tương xứng với trình độ khu vực và thế giới, là hàng loạt những vấn đề đặt ra đối với nền giáo dục nước ta như: Làm thế nào để sinh viên Việt nam có đủ trình độ và niềm tin để gánh vác sứ mệnh vẻ vang của dân tộc là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, làm thế nào để họ định hướng tư tưởng đúng trong đời sốngxã hội trong thời gian học tập cũng như ra công tác sau này. Từ đây có thể suy ra tầm quan trọng hàng đầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo sinh viên về các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và phát triển năng lực tư duy lý luận. Với tư cách thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học, triết học Mác – Lênin có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xác lập các phẩm chất đó cũng như lý tưởng sống của mỗi sinh viên. Trước sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, với lượng tri thức tăng lũy tiến với tốc độ lớn như hiện nay thì việc dạy và học khép kín theo chương trình của tất cả các môn học nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng là chưa phù hợp với xu hướng giáo dục - đào tạo trên thế giới. Để tạo ra được nguồn lực lao động có trình độ chuyên môn cao, tư duy sáng tạo và năng động, thích ứng một cách tích cực với thị trường thì lượng kiến thức mà ngành Giáo dục - Đào tạo trang bị cho sinh viên chỉ dừng ở mức “cần” cơ bản, còn điều kiện “đủ” đó chính là năng lực tự học, tự nghiên cứu, thói quen chủ động trong nhận thức, lĩnh hội tri thức. Rèn luyện kỹ năng này, là từng bước giúp cho sinh viên có khả năng định hướng và nhanh chóng nắm bắt đúng đối tượng một cách chính xác trong hoạt động trí tuệ, có khả năng xử lý nhạy bén các thông tin trước những tình huống khác nhau (vì bản thân thông tin chưa là tri thức khi chưa được sử lý), biết phê phán, phân tích đánh giá các quan điểm, lý thuyết và phương pháp của người khác để tiếp thu cái hay cái tốt, khắc phục cái lạc hậu, lệch lạc và quan trọng hơn cả là hình thành được tính độc lập trong tư duy và huy động được tri thức lý luận và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra mà không phụ thuộc vào người khác. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, nghị quyết nhằm đổi mới nội dung chương trình giáo dục - đào tạo và phương pháp dạy học. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay” [11, tr.203-204]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều” [12, tr.97]. Cụ thể hoá các nghị quyết trên, ngày 10 tháng 10 năm 2006 Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ra công văn số 11381/BGDĐT-ĐH & SĐH về việc hướng dẫn giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó yêu cầu: “Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc Đại học thành quá trình tự học của sinh viên có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng viên thực hiện 50 % thời gian môn học dành cho lên lớp và 50 % thời gian hội thảo có giảng viên hướng dẫn và sinh viên tự nghiên cứu” [7, Tr.2]. Thực tế trong giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc, một vấn đề luôn được giảng viên và sinh viên quan tâm là làm thế nào để nắm bắt được môn triết học Mác- Lênin? Vấn đề không đơn giản là sự nhồi nhét của người dạy và người học cố gắng thuộc lòng những nguyên lý, quy luật phổ biến của khoa học này đã được trình bày trong giáo trình. Để hiểu được nội dung và thực chất của Triết học Mác - Lênin thì trước hết phải coi nó là một triết học có sự: “Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng trong triết học”. Cả người dạy và người học phải gắn những nguyên lý chung của triết học với thực tiễn và phân tích được những vấn đề cuộc sống đã, đang và sẽ xảy ra. Bản chất của Triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới, các kết luận triết học không chỉ đơn thuần là lời giải đáp lý luận về các sự vật, hiện tượng, sự kiện nào đó mà nó là cơ sở lý luận có giá trị định hướng cho việc xác định, giải quyết những vấn đề ở mọi lĩnh vực khác nhau. Như vậy, triết học một mặt đòi hỏi người học phải có một trình độ tư duy trừu tượng và khái quát nhất định, có lối sống thực tế, kiến thức liên môn rộng, và điều khó khăn nhất đối với hầu hết sinh viên là lần đầu tiên được tiếp xúc với tri thức triết học (thực ra các em đã được học ở trường phổ thông, nhưng là kiến thức sơ đẳng với đa số giáo viên dạy kiêm nhiệm, chéo ban), năng lực nhận thức chưa hoàn thiện, nhất là tính độc lập trong tư duy và cách thức chuyển hóa tri thức của người dạy thành tri thức của người học, với giảng viên thì ít quan tâm đến việc hướng dẫn phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên một cách một cách chuyên nghiệp, khoa học, do đó chưa hình thành kỹ năng chủ động, độc lập trong việc khám phá tri thức triết học - vốn là môn học có tính trừu tượng cao. Tất cả điều trên dẫn đến kết quả học tập môn học này ở trường Đại học Tây Bắc còn rất thấp. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nói trên, tôi lựa chọn đề tài: “Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

doc114 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 15365 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học của đề tài. Những nội dung cơ bản của giả thiết phải chứng minh là: Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác –Lênin cho sinh viên ở trường Đại học Tây Bắc (Thực nghiệm ở hai chương cụ thể là chương IV. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật và chương IX. Lý luận nhận thức) khi tiến hành sẽ kích thích được tính tích cực, chủ động trong nghiên cứu và học tập của sinh viên đối với môn học này. Để so sánh, đối chứng với hiệu quả của hướng dẫn phương pháp tự học trong thực nghiệm, chúng tôi đã sử dụng hai giảng viên sử dụng hai phương pháp khác nhau, giảng viên dạy học có hướng dẫn phương pháp tự học được thực hiện ở lớp K48 ĐHSP Toán; giảng viên dạy học theo phương pháp thông thường không có hướng dẫn phương pháp tự học được thực hiện ở lớp K48 ĐHSP Ngữ Văn, cả hai lớp đều có chất lượng tương đương. Kết quả kiểm tra trưng cầu ý kiến sinh viên và qua hai bài kiểm tra nhận thức của sinh viên sau bài học cũng khẳng định phương pháp dạy học ở lớp thực nghiệm là phù hợp, có hiệu quả rõ rệt, tất cả sinh viên lớp thực nghiệm đều mong muốn có nhiều hình thức hoạt động hơn nữa trong học tập, nghiên cứu và có cảm tình với môn triết học hơn. Đây cũng chính là mục đích của đề tài nhằm nâng cao chất lượng học tập môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc. Để tiến hành thực nghiệm sư phạm, tôi đã xây dựng kế hoạch thực nghiệm, đặt giả thuyết thực nghiệm, lựa chọn địa điểm, thời gian, lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, với thiết kế nội dung chương IV và IX của chương trình môn triết học Mác – Lênin. Sau khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi dùng kết quả bài kiểm tra nhận thức và phiếu trưng cầu ý kiến sinh viên hai lớp để so sánh đối chiếu hiệu quả của hai phương pháp dạy học ở lớp đối chứng và lớp thực nghiệm. Kết quả cho thấy sinh viên lớp thực nghiệm tích cực, chủ động và sáng tạo hơn hẳn sinh viên lớp đối chứng. Thông qua việc hướng dẫn phương pháp tự học hai chương chúng tôi nhận thấy rằng đặc điểm cơ bản của hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin của sinh viên trường Đại học Tây Bắc được khái quát như sau: Ở chương nào trong triết học cũng có các khái niệm, phạm trù, đóng vai trò là cơ sở, là xuất phát điểm của toàn bộ nội dung chương đó. Trong mỗi chương đều có kết cấu rất chặt chẽ, nội dung tri thức được luận giải, sắp xếp theo một trình tự logic nhất định, ta chỉ có thể hiểu toàn bộ kiến thức và ý nghĩa của phần đó khi đã nắm chắc những khái niệm, phạm trù cơ bản, từ đó vận dụng liên hệ giữa lý luận và thực tiễn; Bất kỳ tiểu tiết nào trong chương đều phải được giảng viên đặt ra tình huống vấn đề để sinh viên suy nghĩ, thảo luận, liên hệ thực tiễn và chủ động đưa ra chính kiến của mình, sau đó giảng viên mới kết luận, có như vậy kiến thức sẽ khắc sâu vào tâm trí người học. Đây là những kết luận ban đầu khi vận dụng hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học cho sinh viên ở lớp thực nghiệm, việc khẳng định phương pháp trên trong thực nghiệm không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn phương pháp dạy truyền thống, trong chừng mực nhất định phương pháp này vẫn được phát huy khi nó được tích cực hoá và kết hợp nhuần nhuyễn với các phương pháp dạy học khác. Trong xu thế phát triển của giáo dục hiện đại, người giáo viên phải hết sức chú ý để lựa chọn các phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng và nội dung bài giảng, phải biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong nghiên cứu và học tập của sinh viên. CHƯƠNG 3 QUY TRÌNH VÀ ĐIỀU KIỆN HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC 3.1. Quy trình thực hiện Dạy học là quá trình dưới sự tổ chức, điều khiển của người giảng viên đối với sinh viên với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, là người chủ động tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà giảng viên và nội dung môn học đặt ra. Trong quá trình dạy học, hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên là hai hoạt động thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại, quy định lẫn nhau. Cả hai hoạt động ấy đều nhằm mục đích cuối cùng là người học tích cực, tự giác trong nhận thức để chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, có khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, hoạt động học, tự học của sinh viên luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất với hoạt động dạy học của giảng viên, không tách rời vai trò chủ đạo của giáo viên vì xét đến cùng cả hai hoạt động đó đều đi đến một mục tiêu duy nhất là nhận thức của người học. Do vậy, ở để tài này chúng tôi đưa ra quy trình cho cả hai hoạt động đó, đó là quy trình cho hoạt động dạy của người giảng viên và quy trình hoạt động tự học của sinh viên. 3.1.1. Đối với giảng viên * Quy trình thiết kế bài giảng hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin Bước 1: Xác định mục tiêu bài học Theo quan điểm hướng dẫn phương pháp tự học, người dạy phải có mục tiêu dạy học là giúp người học chủ động, tự giác thực hiện việc chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Xác định mục tiêu bài học sẽ giúp người dạy thiết kế được các hoạt động dạy của thầy và hoạt động tự học của trò, định hình được phương pháp, phương tiện để thực hiện nội dung bài học, với người học khi có mục tiêu, phương pháp thực hiện bài học cụ thể, họ sẽ chủ động, tích cực hơn trong việc xây dựng kế hoạch học tập của bản thân. Bước 2: Xác định phương pháp, phương tiện, tài liệu dạy học: - Phương pháp: Phương pháp dạy học được xác định trong bài học dựa trên cơ sở mục tiêu dạy học, đặc thù môn học và đối tượng học. Trong đó, mục tiêu về kiến thức của bài học giữ vai trò quan trọng, quyết định. Việc lựa chọn phương pháp được vận dụng ở đây là hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên. Với những nội dung kiến thức cụ thể (đến từng chương) sẽ có những hình thức hướng dẫn phương pháp tự học phù hợp. Hướng dẫn phương pháp tự học bao gồm: 1- Phương pháp lập kế hoạch học tập và các bước thực hiện kế hoạch đó 2- Hướng dẫn phương pháp đọc giáo trình, tài liệu tham khảo 3- Hướng dẫn phương pháp chuẩn bị bài và thảo luận (có giảng viên chỉ đạo hoặc tự tổ chức) - Phương tiện: Phương tiện dạy học, là trung gian để người dạy và người học tác động vào đối tượng dạy học, nó có khả năng làm sinh động, tăng sức mạnh tác động và khả năng ghi nhớ những nội dung của người dạy đến đối tượng học. Phương tiện dạy học được xác định từ nội dung và phương pháp dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được nội dung, mục tiêu môn học đã đề ra. Phương tiện dạy học phổ biến được các trường chuyên nghiệp nói chung và trường Đại học Tây Bắc nói riêng sử dụng là bảng, máy chiếu, cùng các loại mô hình, sơ đồ, bảng biểu … - Tài liệu: Tài liệu chủ yếu là Giáo trình môn triết học Mác – Lênin (dùng cho các trường Đại học, Cao đẳng) đối với cả người dạy và người học. Ngoài ra đối với người dạy còn có các tài liệu tham khảo như: Các tác phẩm kinh điển, các tài liệu chuyên đề, các tạp chí chuyên ngành… Bước 3: Hướng dẫn phương pháp tự học tự nghiên cứu cho sinh viên: - Hướng dẫn phương pháp phân tích cấu trúc lôgíc của bài học và liên hệ các vấn đề lý luận với thực tiễn. Để hiểu rõ hơn phương pháp này, hãy giả thuyết ta đang chuẩn bị đọc và chuẩn bị bài hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Trước khi đọc bài đó, ngưòi học phải nắm bố cục toàn chương này, bao gồm phần đầu là khái niệm của nguyên lý đó, sau đó là phần nội dung nguyên lý thể hiện ở các tính chất, và cuối cùng là ý nghĩa phương pháp luận được rút ta từ nội dung nguyên lý. Việc hình dung được bố cục này sẽ giúp người dạy cũng như người học nhận ra từng phần trong bài, và liên kết các phần khác nhau của bài học, liên hệ chúng với các kiến thức liên môn và với kinh nghiệm của bản thân. Trên cơ sở đó hướng dẫn cho sinh viên nhận ra bố cục cụ thể của bài học và liên hệ các vấn đề lý luận với thực tiễn cuộc sống, thao tác này sẽ giúp sinh viên khái quát được lượng thông tin cần nắm nhanh và rõ ràng hơn hơn. Khi thực hiện quy trình này, giảng viên cần hướng dẫn sinh viên tuân thủ các thao tác sau sau: Thao tác 1: Đọc lướt toàn bộ nội dung bài học sau đó rút ra các đề mục lớn, nhỏ theo trình tự của bài học. Khi đọc bài học với mục đích xem xét cấu trúc lôgíc của bài học, người đọc phải có trong đầu ba hoạt động: Lược bớt, giữ lại những ý chính cần nắm bắt. Để có thể lược bỏ và giữ thông tin, người đọc phải phân tích thông tin ở một cấu trúc sâu, nghĩa là đòi hỏi phải lý giải được vì sao trong một phần, ý đó lại là ý cơ bản có vai trò chi phối các ý khác, khi hiểu và nhớ được ý đó thì có thể triển khai mở rộng toàn bộ nội dung. Sau khi tiến hành xong các thao tác đó ở tư duy thì người học tiến hành ghi chép. Ví dụ: Sau khi đọc lướt phần nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thì tiến hành việc lược bớt thông tin, tiêu đề mục nhỏ, giữ lại những đề mục lớn và vừa, sau đó ghi ra nội dung như sau: 1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến 2. Các tính chất của mối liên hệ 3. Ý nghĩa phương pháp luận Thao tác 2: Từ các đề mục lớn đó, chúng ta đi đến nội dung cơ bản của từng đề mục, việc làm này giúp ta hiểu sâu và rộng hơn cấu trúc lôgíc của bài học. 1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến + Mối liên hệ phổ biến là gì? + Bản chất của nó thể hiện như thế nào? 2. Các tính chất của mối liên hệ + Tính khách quan + Tính phổ biến + Tính đa dạng phong phú Các loại mối liên hệ 3. Ý nghĩa phương pháp luận + Quan điểm toàn diện + Phân biệt từng loại mối liên hệ Đối với việc liên hệ với thực tiễn cuộc sống: trước hết phải hiểu sâu và đúng nội dung lý luận; phân tích cứ liệu thực tiễn; rồi đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn - Hướng dẫn phương pháp phân tích các phạm trù, khái niệm triết học Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Người ta có thể tạm chia khái niệm thành ba loại. Khái niệm thông thường: chỉ tên một sự vật được dùng trong giao tiếp. Ví dụ: Cái bàn, cái nhà, nhà máy…, hay trong khoa học tự nhiên: Nói lên thuộc tính, cấu trúc, bản chất của từng ngành khoa học. Ví dụ: Nguyên tử, điện tử, cơ năng, hóa năng… trong vật lý học. Khái niệm triết học là khái niệm rộng nhất, nó mang tính chất khái quát, phổ biến nhất của thế giới sự vật, bao gồm toàn bộ các lĩnh vực của thế giới vật chất. Ví dụ: Vật chất, ý thức, vận động...Những khái niệm rộng này ngưòi ta gọi là phạm trù triết học Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nhất định nào đấy mà là của toàn bộ thế giới hiện thực. Vì phạm trù triết học có đặc trưng là khái niệm trừu tượng, mang tính khái quát cao, cho nên khi phân tích các khái niệm, phạm trù triết học phải tuân thủ các thao tác sau: Thao tác 1: Phải xác định phạm vi của khái niệm, phạm trù, xem nó thuộc loại khái niệm nào. Những khái niệm có trong chương trình triết học Mác – Lênin khác với các khái niệm của khoa học cụ thể. Một cái phản ánh những thuộc tính chung của toàn bộ thế giới sự vật, một cái phản ánh thuộc tính riêng rẽ của một lĩnh vực thế giới. Ví dụ: khái niệm vận động của triết học khác vận động của khoa học cụ thể. + Việc xác định phạm vi khái niệm giúp cho người giảng viên cũng như người tự học đi đúng hướng, không bị sa lầy vào những tri thức cụ thể, riêng biệt của một khoa học cụ thể. + Ý nghĩa nếu xác định được khái niệm của triết học khác với khái niệm của khoa học tự nhiên hay khái niệm thông thường thì giúp cho người giảng viên khai thác tri thức đúng hướng; Mặt khác, giúp cho người học dễ tiếp thu, thấy rõ bản chất của khái niệm triết học. Thao tác 2: Phải xác định được kết cấu lôgíc của khái niệm. Mỗi khái niệm bao giờ cũng có 2 mặt: Nội hàm Ngoại diên Cấu trúc khái niệm Nội hàm của khái niệm là tập hợp các dấu hiệu cơ bản của đối tượng hay lớp đối tượng được phản ánh trong khái niệm đó. Còn ngoại diên của khái niệm là đối tượng hay tập hợp đối tượng được khái quát trong khái niệm. Thao tác 3: Phải nêu được ý nghĩa phương pháp luận của khái niệm. Các khái niệm của triết học đều có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của nó. Sau khi làm rõ các khái niệm, người giảng viên phải phân tích giá trị của khái niệm đối với lý luận khoa học và ứng dụng khái niệm đó vào thực tiễn. Ví dụ: Khái niệm mối liên hệ có hai ý nghĩa Ngoài những các bước đã nêu trên, không thể không quan tâm sâu sắc tới những thao tác khái niệm trong khi giảng dạy như mở rộng và thu hẹp khái niệm, phân chia khái niệm. Thao tác mở rộng và thu hẹp khái niệm giúp cho người học hiểu cơ sở của việc bớt và thêm từ biểu thị khái niệm sẽ làm khái niệm được mở rộng hoặc thu hẹp, tức là làm cho khái niệm biến đổi. Khi chúng ta thêm và bớt từ biểu thị cho khái niệm có nghĩa là thêm và bớt dấu hiệu cơ bản khác biệt vào khái niệm. Theo quy luật quan hệ ngược giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm sẽ làm cho nội hàm khái niệm tăng lên, ngoại diên khái niệm giảm đi (thêm từ biểu thị khái niệm) hoặc sẽ làm cho nội hàm giảm đi, ngoại diên tăng lên (bớt từ biểu thị khái niệm). Do đó, ngay trong quá trình giảng dạy dù chỉ vô tình thêm hay bớt từ biểu thị khái niệm sẽ làm cho người học không hiểu kỹ khái niệm , nội dung tư tưởng được biểu thị trong khái niệm, thậm chí có trường hợp hiểu sai nội dung tư tưởng, chẳng hạn, khi giảng khái niệm ý thức. Ví dụ, chúng ta đưa ra khái niệm: “Mối liên hệ” (là phạm trù triết học chỉ sự tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng). Ở khái niệm này ta đã lược bớt đi nội hàm của khái niệm nhằm mở rộng khái niệm, điều này dẫn đến sai lầm là khái niệm không phản ánh đủ những dấu hiệu cơ bản. - Quy trình hướng dẫn phương pháp phân tích các nguyên lý, quy luật của triết học. Mỗi nguyên lý, quy luật của triết học đều có đặc trưng với cấu trúc như sau: + Các khái niệm + Nội dung của nguyên lý, quy luật + Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật Do vậy khi hướng dẫn phương pháp phân tích các nguyên lý, quy luật của triết học chúng ta phải tuân thủ các thao tác sau: Thao tác 1: Phân tích các khái niệm Mỗi nguyên lý, quy luật đều chứa đựng các khái niệm, hiểu đúng đắn các khái niệm là tiền đề hiểu đúng các nguyên lý, quy luật. Ví dụ: Nguyên lý mối liên hệ phổ biến có khái niệm mối liên hệ; Nguyên lý sự phát triển có khái niệm sự phát triển; Quy luật phủ đình của phủ định có các khái niệm: Phủ định, phủ định biện chứng… Giảng viên khi phân tích các khái niệm cũng như sinh viên trong quá trình tự học phải lưu ý: Đảm bảo tính chính xác của các khái niệm - đó là điều kiện để đi tìm hiểu các nguyên lý, quy luật. Phải hiểu nắm được mối liên hệ tác động qua lại giữa các khái niệm. Ví dụ như mối quan hệ giữa khái niệm chất và lượng, khái niệm phủ định và phủ định biện chứng... Thao tác 2: Phân tích nội dung nguyên lý, quy luật Lênin cho rằng: Khái niệm chưa phải là cao nhất mà tư tưởng phù hợp với hiện tại mới là cao nhất. Bản thân khái niệm chưa phải là vương quốc riêng của hiện thực, mà khái niệm (phạm trù) chỉ là những bậc thang của quá trình nhận thức chân lý, giúp con người tiến sâu vào khai phá hiện thực. Cho nên không thể dừng lại ở khái niệm mà phải tiếp tục khai thác nội dung nguyên lý, quy luật vì những nguyên lý, quy luật mới phản ánh được bản chất của hiện thực. Khi phân tích nội dung các nguyên lý, quy luật phải đứng trên lập trường duy vật biện chứng, đồng thời khi phân tích phải đưa ra các cứ liệu để minh hoạ, chứng minh cho lý luận triết học. Các cứ liệu bao gồm: + Các tài liệu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn + Các sự kiện thực tiễn cả về lĩnh vực đời sống xã hội và các hiện tượng tự nhiên + Các số liệu thống kê, bảng biểu có nguồn gốc tin cậy, khách quan Ví dụ khi phân tích tính chất của sự phát triển có tính đa dạng, phong phú, ta lấy cứ liệu cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Thao tác 3: Sau khi làm sáng tỏ cơ sở khoa học của mỗi nguyên lý, quy luật thì phải nói tới ý nghĩa vận dụng của chúng Mỗi nguyên lý, quy luật triết học đều có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn + Tính khoa học của nguyên lý, quy luật đòi hỏi phải làm rõ tính khách quan của nó + Tính thực tiễn yêu cầu mỗi nguyên lý, quy luật đều được ứng dụng vào thực tiễn để giải thích thế giới và tiến tới cải tạo thế giới. Từ đó chỉ ra ý nghĩa phương pháp luận của nội dung đã học, đề ra những giải pháp giúp cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người có hiệu quả hơn. * Quy trình hoạt động dạy học trên lớp Đây là phần thiết kế cho từng bước lên lớp của người dạy với tư cách là chủ thể của quá trình hướng dẫn tự học cho sinh viên. Các hoạt động dạy và học trên lớp bao gồm các bước sau: Bước 1: Kiểm tra bài cũ: Nên thực hiện thường xuyên kiểm tra bài cũ vào đầu giờ học (từ 5-10 phút), nhằm đánh giá kết quả học tập bài cũ, nắm bắt thông tin phản hồi, chuẩn bị tâm thế chủ động cho người học bắt đầu bài học mới. Bước 2: Giới thiệu bài mới (chương mới) Đây là hoạt động cần thiết nhằm tạo tâm thế, định hướng tư duy, tập trung chú ý của người học vào chủ đề của bài học. Do vậy, giới thiệu bài mới cần đạt được các yêu cầu: Kết nối bài cũ, khái quát mục tiêu, phương pháp và ý nghĩa của bài học. Bước 3: Dạy bài mới (sử dụng phương pháp hướng dẫn tự học là chính) Để việc dạy học thành công thì việc thiết kế đầy đủ, chi tiết các hoạt động của người dạy và người học, kế hoạch thảo luận, dự kiến các tính huống có thể xảy ra và phương hướng xử lý trong quá trình dạy học. Trong bước này, người dạy nên xuất phát từ nội dung bài học, phương pháp, phương tiện dạy học đã lựa chọn để thiết kế các hoạt động dạy và học tương ứng với từng nội dung cụ thể, đặc biệt nhấn mạnh phương pháp tự học, tự nghiên cứu là chính Như vậy, tương ứng với nội dung bài học và đơn vị kiến thức, việc thiết kế phải chỉ rõ được các yếu tố như: Thời gian thực hiện, phương pháp, phương tiện, hoạt động của giảng viên, hoạt động của sinh viên (theo mẫu thiết kế bài thực nghiệm). Lưu ý, thiết kế các hoạt động dạy học phải quán triệt nguyên tắc dạy học tích cực: Hoạt động dạy là tạo tình huống, hướng dẫn tổ chức, chỉ đạo thực hiện các hoạt động học. Hoạt động học, người học chủ yếu tự lực hoặc kết hợp với bạn, thảo luận nhóm hoặc làm theo hướng dẫn của giảng viên trong việc chiếm lĩnh tri thức. Bước 4: Củng cố, luyện tập bài học Đây là hoạt động quan trọng tiếp sau hoạt động dạy học bài mới, toàn bộ nội dung kiến thức được khái quát thành lại hệ thống. Các đơn vị kiến thức trong bài học được kết nối lại trong mối quan hệ logic của chủ đề, kiến thức trọng tâm được nhấn mạnh, có rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn. Tuỳ theo nội dung kiến thức bài học và từng đối tượng ở lớp học, việc thảo luận và ôn tập củng cố kiến thức có thể được thực hiện hoàn toàn do người dạy hoặc do sinh viên (dưới sự hướng dẫn của giảng viên), thời gian và không gian do giảng viên và sinh viên thống nhất, quan điểm chỉ đạo chung là từng bước chuyển hoá hoạt động này thành hoạt động chủ động, tự giác của sinh viên, mục tiêu của củng cố kiến thức là ôn luyện lại lý thuyết và vận dụng lý thuyết đó vào lý giải các vấn đề thực tiễn của bản thân và xã hội đặt ra, đồng thời giảng viên phải đưa ra các tình huống, câu hỏi, bài tập để giúp cho sinh viên nắm vững kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Tầm quan trọng của quy trình thực hiện bài giảng trên lớp và yêu cầu cần đạt được khi thực hiện quy trình này Dạy học học phần triết học Mác - Lênin trong các trường Đại học, Cao đẳng nói chung và trường Đại học Tây Bắc nói riêng cho tới thời điểm này là theo niên chế, nội dung và thời gian được theo phân phối chương trình theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo và thời khoá biểu của nhà trường. Chủ thể tham gia quá trình dạy học là giảng viên và sinh viên, đối tượng dạy học là tri thức triết học Mác - Lênin. Do đó, đối tượng thực hiện quy trình bài giảng này bao gồm cả giảng viên và sinh viên, tuy nhiên trong phạm vi đề tài này ta chỉ tập trung nói tới vai trò chủ đạo của giảng viên, với tư cách là người chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt sinh viên phương pháp tự chiếm lĩnh kiến thức bài học. Quy trình thực hiện bài giảng của hoạt động dạy học sử dụng hướng dẫn phương pháp tự học gồm bốn bước như đã nêu trên. Thực hiện đúng quy trình là nguyên tắc bắt buộc đảm bảo hoàn thành mục tiêu bài giảng, với yêu cầu như sau: w Người dạy phải chủ động hoàn toàn trong việc triển khai các hoạt dộng dạy học đã định trước, thực sự trở thành người tổ chức, dẫn dắt người học tiến hành các hoạt động tự học, thảo luận để nhận biết và chiếm lĩnh kiến thức. Đồng thời, cả người dạy và người học tránh được các tình huống ngoại lệ ngoài ý muốn làm cho tiến trình bài giảng mất phương hướng, lệch trọng tâm, tốn thời gian và ảnh hưởng tới kết quả bài giảng, đặc biệt cần chú ý trong phần thảo luận và liên hệ thực tiễn. w Người học không chỉ chủ động trong việc tiếp nhận và khẳng định kiến thức, kỹ năng, thái độ, lập trường của mình mà còn cung cấp cho người dạy những thông tin về nhu cầu, năng lực, sự hiểu biết của bản thân cho người dạy. Đây là biểu hiện về kết quả của sự tương tác giữa hoạt động dạy và hoạt động học, là một trong những điều kiện cần thiết để người dạy điều chỉnh các thiết kế và tổ chức dạy học ngày càng hoàn thiện hơn. w Người dạy cho dù có trình độ cao về nghiệp vụ chuyên môn, có nhiều kỹ năng kỹ xảo về sư phạm, nếu dạy học không tuân thủ quy trình, dạy học trên lớp một cách tuỳ tiện, ngẫu hứng thì chắc chắn sẽ không thực hiện được mục tiêu môn học. Như vậy, việc thực hiện đúng quy trình bài giảng trên lớp là nguyên tắc bắt buộc. Trong mỗi bước đều có chức năng nhiệm vụ của nó, người dạy không thể xem nhẹ, hoặc tuỳ tiện cắt bỏ đi một bước nào đó trong quy trình. Hoặc ngược lại, người dạy cũng không quá đề cao, coi trọng quá mức một bước nào đó trong quy trình. Ngoài ra, việc thực hiện đầy đủ nhuần nguyễn các bước của quy trình bài giảng hướng dẫn phương pháp tự học không thể đơn thuần là người dạy thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình hướng dẫn phương pháp tự học, mà đòi hỏi giảng viên phải kết hợp tổng hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm phát huy tối đa tính hiệu quả của hoạt động dạy và . * Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên Kiểm tra là quá trình thu thập thông tin về kết quả học tập của sinh viên nhờ đó giảng viên có thể tự đánh giá được quá trình dạy học, bao gồm phương pháp, phương tiện dạy học và phân loại sinh viên, từ đó chỉnh sửa, bổ xung quy trình và sử dụng phương pháp phù hợp với từng đối tượng, giúp sinh viên thực hiện nhiệm vụ học tập môn học. Đánh giá kết quả học tập còn là kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu đề ra sau mỗi nội dung bài học (hoặc từng phần) đề ra của sinh viên, xác định mức độ nắm được kiến thức, kỹ năng của sinh viên so với yêu cầu của chương trình khi sử dụng một quy trình, phương pháp dạy học nào đó. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên có ý nghĩa quan trọng đối với giảng viên, vì nó không đơn thuần thực hiện theo quy chế đào tạo mà từ kết quả này, giảng viên sẽ thu được những thông tin ngược chiều về sinh viên, nắm được thực trạng kết quả học tập và nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó. Qua đó, giáo viên điều chỉnh hoạt động của sinh viên, hướng dẫn sinh viên tự điều chỉnh hoạt động học tới hoàn thiện. Nhờ kiểm tra đánh giá, sinh viên được ôn tập, củng cố tri thức phát triển trí tuệ. Cũng nhờ kiểm tra đánh giá mà sinh viên từng bước biết tự kiểm tra khả năng nhận thức, kỹ năng kỹ xảo, phương pháp học tập của bản thân hơn thế ở sinh viên xuất hiện nhu cầu được thường xuyên kiểm tra và tự kiểm tra. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên có tác dụng điều chỉnh hoạt động dạy của giảng viên, hoạt động học của sinh viên và tác động vào phương hướng giáo dục – đào tạo, phương pháp quản lý giáo dục của bộ môn, nhà trường. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập chính xác, khách quan sẽ có tác dụng kích thích người học tự giác, quyết tâm hơn trong học tập, khi thiết kế phương thức kiểm tra, đánh giá trong hoạt động dạy học có hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên. Đề tài xin đề xuất quy trình tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Một là, xác định mục tiêu kiểm tra, đánh giá Vấn đề mà giảng viên phải xác định trong bước này là: Kiểm tra để làm gì ? Kiểm tra để xác định mức độ nhận thức bài học của sinh viên đến đâu? Kiểm tra, đánh giá để thu nhận thông tin cho việc điều chỉnh hoạt động dạy học; kiểm tra để phân loại học sinh?… Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu kiểm tra, giảng viên tiến hành xây dựng các câu hỏi kiểm tra cho phù hợp. Hai là, nghiên cứu mục tiêu, nội dung học tập cần kiểm tra. Trên cơ sở đó xây dựng hệ thống câu hỏi và đáp án. Số lượng câu hỏi phụ thuộc vào trọng số kiến thức cần kiểm tra, loại bài kiểm tra, thời gian kiểm tra. Hệ thống câu hỏi cần thể hiện sự phân hoá, đảm bảo 80% câu hỏi đo được mức độ đạt chuẩn, 20% ở mức độ nâng cao. Đáp án cần chi tiết, rõ ràng, hạn chế sự ảnh hưởng của chủ quan của giảng viên chấm. (Xem phụ lục 4) Ba là, tổ chức kiểm tra cần tuân thủ đúng quy chế, nghiêm túc, trung thực. Bốn là, tiến hành chấm bài theo quy chế, hạn chế tối đa những ảnh hưởng chủ quan của người chấm. Năm là, tổng hợp kết quả kiểm tra, phân tích số liệu, rút kinh nghiệm sau kiểm tra. Tóm lại: trong kiểm tra, đánh giá để thực hiện được mục tiêu đã đề ra, giảng viên cần tiến hành đầy đủ các bước đánh giá (Xác định mục tiêu, ra đề, coi, chấm thi, tổng hợp rút kinh nghiệm) kết quả học tập của học sinh theo đúng quy trình trên cơ sở đảm bảo các yêu cầu, khách quan, toàn diện, đúng quy chế giáo dục - đào tạo. 3.1.2. Với sinh viên * Hướng dẫn sinh viên xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch tự học một cách phù hợp, khoa học Xây dựng kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch tự học là một công việc quan trọng và cần thiết đối với sinh viên trong quá trình tự học. Nhờ có kế hoạch mà sinh viên có thể học tập một cách chủ động, bố trí công việc và phân phối thời gian học trên lớp và tự học một cách hợp lý khoa học, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và kế hoạch chung của trường. Có thể nói kế hoạch tự học là điều kiện thuận lợi cho học tập đạt kết quả cao. Trong thực tế những năm gần đây cho thấy, số sinh viên trường Đại học Tây Bắc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch tự học chưa nhiều và hiệu quả, đa số sinh viên chưa thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học, tự nghiên cứu. Vì vậy, với chức năng và nhiệm vụ của mình giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên biết cách xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học trên cơ sở kế hoạch chung của nhà trường. Kế hoạch được xây dựng phải có mục đích, nội dung, phương pháp rõ ràng và có tính khả thi cao, phù hợp với năng lực của cá nhân và thời gian tự học cho phép, phải đảm bảo sự cân đối hợp lý trong việc sử dụng thời gian vào các hoạt động học tập, lao động, vui chơi, giải trí, dự báo được các tình huống, các biến động có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến đến việc thực hiện kế hoạch học tập của cá nhân hoặc lớp. Để thực hiện được sinh viên phải xác định được tất cả các công việc phải thực hiện, căn cứ vào nhiệm vụ học tập; dự kiến thời gian thực hiện công việc lập kế hoạch cụ thể theo ngày, tuần, tháng, học kỳ, năm học để dễ sử dụng. Khi đã lập được kế hoạch tự học, yêu cầu sinh viên phải nỗ lực thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Việc thực hiện này đòi hỏi sinh viên phải có sự kiên trì, nhẫn nại, quyết tâm cao, có sự nỗ lực lớn của ý trí, tập trung tư tưởng hướng mình vào hoạt động học tập để thực hiện kế hoạch đề ra bởi đây là một quá trình biến những điều dự định thành hiện thực, là sự tiến hành trong thực tiễn các hành động theo phương thức đã lựa chọn, chính giai đoạn này thể hiện rõ nét đặc trưng của cá nhân trong hoạt động. Làm được như vậy thì không những chất lượng tự học môn triết học Mác - Lênin được nâng cao mà chất lượng học tập các môn học nói chung đạt hiệu quả. Cụ thể giảng viên có thể giao nhiệm vụ cho sinh viên xây dựng các kế hoạch tự học các môn học trong từng tuần/ tháng/ học kỳ hoặc một năm theo các bước sau. Bước 1: Thống kế các công việc cần làm (các công việc cụ thể trong năm, trong học kỳ, trong tháng hoặc trong tuần). Bước này căn cứ vào kế hoạch học tập, nhiệm vụ học tập môn học được giao, các công việc của lớp, tổ và cá nhân Bước 2: Xác định quỹ thời gian tự học: Ở nhà, lớp, thư viện… Bước 3: Xác định khối lượng công việc và yêu cầu đạt được của mỗi công việc, chú ý đến những công việc quan trọng nhất. Xác định cụ thể mốc thời gian, mức độ hoàn thành công việc. Bước 5: Kiểm tra sự hợp lý của từng kế hoạch, sau một thời gian thực hiện có rút kinh nghiệm bổ sung. Ví dụ mẫu kế hoạch học tập: Buổi Thứ Sáng Chiều Tối Hai Lên lớp Đọc sách thư viện Tự ôn, làm bài tập đọc bài mới Ba Lên lớp Thảo luận nhóm Tự ôn, làm bài tập đọc bài mới Bốn Lên lớp Thảo luận lớp Tự ôn, làm bài tập đọc bài mới Năm Lên lớp Đọc sách thư viện Tự ôn, làm bài tập đọc bài mới Sáu Lên lớp Thảo luận lớp Tự ôn, làm bài tập Bẩy Thực tế Thể thao Nghỉ Chủ nhật Nghỉ Thể thao Đọc bài mới * Hướng dẫn sinh viên kỹ năng đọc giáo trình và tài liệu tham khảo; kết hợp đọc với ghi chép. Giáo trình và tài liệu tham khảo là nguồn tri thức đa dạng và phong phú, giúp người học mở rộng đào sâu tri thức, tăng vốn hiểu biết của mình và thoả mãn nhu cầu nhận thức của bản thân. Tuy nhiên, đọc giáo trình và tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động bản thân không đơn giản như đọc sách báo mang tính chất giải trí, mà đọc ở đây là học, nghiên cứu, đọc hiểu, phải có tư duy phân biệt đúng sai, có thái độ phê phán, có sự tập trung cao độ hay nói các khác là phải có tài liệu tham khảo và tài liệu tham khảo thì mới mang lại hiệu quả. Vì vậy, không phải sinh viên nào cũng dễ dàng thực hiện được, cho nên trong dạy học giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên có kỹ năng đọc sách và tài liệu tham khảo, điều này không chỉ có lợi trong quá trình học mà còn có giá trị to lớn trong những năm tháng sau này để sinh viên có thể tự học tự nghiên cứu liên tục trong quá trình công tác sau này. Kỹ năng đọc giáo trình và tài liệu tham khảo trải qua các bước sau đây: - Để đọc sách và tài liệu tham khảo đạt kết quả trong tự học, trước tiên sinh viên phải xác định được mục đích của việc đọc sách là gì? Để được như vậy, sinh viên cần phải căn cứ vào nhiệm vụ học tập để lựa chọn sách và nội dung cần đọc cho phù hợp. - Sinh viên phải nắm vững phương pháp đọc căn cứ vào mục đích đọc sách, loại sách cần đọc, sinh viên có thể sử dụng nhiều cách đọc khác nhau như: đọc lướt qua, đọc kỹ có nghiền ngẫm, có tư duy, có nhận xét, có đánh giá những chi tiết, những điểm quan trọng; đọc toàn bộ cuốn sách từ đầu đến cuối những không nghiền ngẫm kỹ, đọc từng phần; đọc đi đọc lại nhiều lần một quyển sách, mỗi một cách đọc đều phù hợp với một mục đích nhất định của việc tự học. Tuy nhiên tuỳ theo nhiệm vụ học tập mà chúng ta có thể lựa chọn hoặc phối hợp các cách đọc khác nhau một cách hợp lý để nội dung cần đọc được hiểu một cách sâu sắc, toàn diện. - Sinh viên phải tiếp tục tư duy trong khi đọc, sinh viên khi tiến hành việc đọc sách phải có sự tập trung chú ý cao độ, phải biết phối hợp các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hình tượng hoá, so sánh … để phát hiện ra các thuộc tính bản chất những đặc điểm cơ bản, những nội dung chủ yếu, mấu chốt của vấn đề. Trên cơ sở đó rút ra những kết luận, nhận xét, đánh giá chính xác vấn đề cần đọc, phải ghi chép một cách khoa học những điều đã đọc. Trong quá trình đọc để có hiệu quả cần ghi chép, đọc và ghi chép luôn gắn liền với nhau trong quá trình tự học, đặc biệt là mượn sách thư viện, do đó sinh viên cũng cần phải được rèn luyện kỹ năng này. - Ghi chép trong khi đọc tài liệu là một kỹ năng cần thiết và quan trọng giúp người đọc có thể kiểm tra được mức độ lĩnh hội tài liệu của mình tạo cơ sở để người đọc ghi nhớ kiến thức và giữ lại được tư liệu khi cần thiết, vì nếu chỉ đọc một lần (thậm chí hai, ba lần) cho dù có đọc kỹ đến đâu, người đọc cũng không thể nhớ hết được nội dung bài viết một cách sâu sắc được. Tuy đó là một kỹ năng đơn giản, dễ thực hiện, nhưng hầu hết sinh viên thường có thói quen đọc, không ghi chép nên sau khi đọc xong hoặc sau một thời gian ngắn là có thể quên và khi cần thì lại không tái hiện lại được. Vì vậy, để giúp sinh viên có kỹ năng ghi chép khi đọc sách, tài liệu tham khảo, giáo viên cần hướng dẫn cho sinh viên biết cách ghi chép thông qua một số hình thức như: Trích tài liệu để ghi lại nguyên văn, lập đề cương khi đọc sách, viết tóm tắt những nội dung cơ bản, viết dưới dạng thu hoạch chuyên đề... Đây là những hình thức ghi chép giúp sinh viên có thể ghi nhớ và khi cần thì dễ dàng đọc và nhớ lại được. Để sinh viên có thể ghi chép hiệu quả trong quá trình đọc sách, người đọc phải có sự phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá để làm nổi bật những ý trọng tâm cơ bản cần ghi chép và việc ghi chép sẽ có hệ thống khoa học rõ ràng. * Hướng dẫn sinh viên có kỹ năng hệ thống hóa, khái quát hóa tài liệu. Đây là kỹ năng rất quan trọng giúp người học phát triển năng lực nhận thức của bản thân, có khả năng khái quát, hệ thống hoá tài liệu dưới hình thức làm dàn ý, đề cương, sơ đồ, mô hình… và giúp họ dễ dàng nắm được tài liệu nghiên cứu một cách tổng quát và toàn diện, nhiều sinh viên chưa thực hiện tốt được kỹ năng này bởi vì để thực hiện được sinh viên phải có sự nỗ lực tư duy ở mức độ cao để khái quát hệ thống hoá kiến thức những yếu tố cơ bản, có cùng thuộc tính, sắp xếp theo một hiện tượng nhất định bằng những từ ngữ ngắn gọn, dễ hiểu. Trong quá trình đọc, sinh viên phải nghiên cứu kỹ tài liệu để hiểu sâu sắc vấn đề thì mới khát quát được và phải tùy theo khả năng của mình để khái quát hoá, hệ thống hoá vấn đề dưới dạng đề cương, sơ đồ cho phù hợp. Để giúp sinh viên có kỹ năng hệ thống hoá, khái quát hoá tài liệu trong hoạt động tự học sinh viên phải hiểu khái quát hoá là gì? Khái quát hoá được thực hiện dưới hình thức nào? Khái quát là thâu tóm những cái có tính chất chung cho một lớp sự vật, hiện tượng. Khái quát hoá là thực hiện hoạt động tư duy để khái quạt khái quát hoá diễn ra dưới những hình thức sau: + Khái quát hoá tài liệu bằng cách xây dựng dàn ý tổng quát, viết đề cương tóm tắt (có thể theo chuyên đề hoặc theo chương, phần phải tự học, hình thức này giúp sinh viên nắm được tổng quát tài liệu và vấn đề cần nghiên cứu. + Khái quát những dấu hiệu chung nhất, bản chất của sự vật, hiện tượng riêng lẻ để rút ra các khái niệm hoặc khái quát từ các khái niệm, các mối liên hệ, quan hệ chung, tất yếu để rút ra các quy luật, nguyên lý. Ví dụ: Khái quát từ những khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy…để từ đó rút ra quy luật lượng đổi chất đổi. Kỹ năng khái quát hoá vấn đề cần thiết đối với mọi môn học của sinh viên. Nhờ có kỹ năng này, mà sinh viên có thể khái quát một vấn đề nào đó qua nhiều tài liệu khác nhau để nắm được cái chung nhất, và từ cái chung này khi làm bài kiểm tra có thể triển khai mở rộng ra thành một bài luận hoàn chỉnh, mà sinh viên không nhất thiết phải học thuộc lòng một khối lượng lớn tri thức của môn học. Với hệ thống hoá, sinh viên phải nhận biết được tính lôgíc của nội dung đã đọc, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của sự vật, hiện tượng để sắp xếp các ý, phần thành một hệ thống chặt chẽ. Thực hiện được như vậy sẽ giúp sinh viên nắm kiến thức có hệ thống, nhanh chóng, rõ ràng, khi đọc theo mạch lôgíc dễ hiểu. 3.2. Điều kiện thực hiện quy trình 3.2.1. Đối với đội ngũ giảng viên dạy học môn triết học Mác – Lênin Để hướng dẫn phương pháp tự cho sinh viên môn triết học Mác – Lênin trường Đại học Tây Bắc theo quy trình đã đề ra, nhất thiết cần hội tụ đầy đủ các điều kiện sau: - Về chuyên môn, giảng viên phải được đào tạo chính quy, đúng chuyên môn, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, tâm huyết với nghề nghiệp. Thực tế hiện nay trong dạy học môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc, về số lượng giảng viên quá ít (đúng chuyên ngành chỉ có 04 đồng chí), khối lượng công việc nhiều (900 tiết/người/năm học). Còn về chất lượng (chỉ có 01 thạc sỹ), như ta đã biết nếu giảng viên được đào tạo đúng chuyên ngành thì sẽ hiểu sâu, rộng kiến thức chuyên môn, điều có ý nghĩa quan trọng đối với người giảng viên, trong khi đó ở bộ môn đa số là chuyên ngành giáo dục chính trị và còn rất trẻ, rất ít đồng chí có chuyên môn hẹp. Một số đồng chí được đào tạo ở những trường có tính nghiên cứu (Trường KHXH và Nhân văn) nên còn hổng về phương pháp, mà trước hết giảng viên chỉ có thể dạy tốt khi có phương pháp dạy hay và nắm vững, hiểu sâu kiến thức mà mình dạy. Vì vậy, trong thời gian tới để củng cố và nâng cao chất lượng giảng dạy, mỗi giảng viên cần phải có ý thức tự học, tự bồi dưỡng hơn nữa nhằm trau dồi kiến thức, năng lực chuyên môn, đặc biệt là phương pháp giảng dạy. Có như vậy mới có thể sử dụng được quy trình hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên. - Còn sự tâm huyết với nghề nghiệp, ở mỗi giảng viên thể hiện ở hai mặt chính là yêu nghề và yêu người. Trong bất cứ xã hội nào, thời đại nào, người làm việc mà không yêu nghề thì không thành đạt trong nghề, nghề dạy học không ngoài quy luật đó. Bởi vậy, mỗi giáo viên muốn thành đạt phải yêu nghề dạy học thực sự, vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện đúng chức năng là người “Kỹ sư tâm hồn”. Yêu nghề thể hiện trước hết ở sự say mê nghiên cứu khoa học, nghiên cứu tri thức chuyên môn giảng dạy. Thực hiện điều đó phải có một quá trình lao động dày công, có niềm say mê không ngại khó, ngại khổ, học từ sách vở, học từ đồng nghiệp và cả từ sinh viên…chỉ khi nào có tinh thần cầu tiến như vậy mới có thể nắm bắt đầy đủ và vững vàng trong hướng dẫn sinh viên tự tiếp cận, chiếm lĩnh tri thức môn học được. Song song với việc nghiên cứu chuyên môn, người giảng viên phải không ngừng rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp từ lập kế hoạch bài giảng, thiết kế bài giảng, thiết kế hoạt động dạy và học, tổ chức thảo luận, dự liệu tình huống, tổ chức thực hiện khâu kiểm tra đánh giá … Nhưng giỏi chuyên môn vững tay nghề đối với người giáo viên như thế là chưa đủ ở họ phải có tình yêu thương con người, tình cảm yêu quý tôn trọng sinh viên. Chính nhờ có sự quan tâm tận tình giúp đỡ sinh viên trong học tập, rèn luyện, chia sẻ, động viên các em vượt qua khó khăn trở ngại của hoàn cảnh mà không ngừng cố gắng học tập và như thế nhân cách của học sinh càng phát triển. Và cuối cùng, để quy trình đạt hiệu quả thì mỗi giảng viên cần quán triệt các yêu cầu khi vận dụng hướng dẫn phương pháp tự học. Để thực hiện được hướng dẫn phương pháp tự học, ngoài điều kiện về đào tạo và tâm huyết với nghề nghiệp cần tích cực và kiên trì thay thế các phương pháp dạy học truyền thống bằng các phương pháp có hướng dẫn tự học trong quá trình giảng dạy. 3.2.2. Đối với sinh viên học môn triết học Mác - Lênin Điều kiện để thực hiện quy trình hướng dẫn phương pháp tự học đối với sinh viên phải có những điều kiện sau: - Phải có đủ trình độ nhận thức theo quy chế chung, đồng thời phải có đủ những phẩm chất và năng lực thích ứng với hướng dẫn phương pháp tự học. Người học phải có đủ trình độ nhận thức theo chuẩn mực chung tức là người học phải đảm bảo một cách khách quan về trình độ nhận thức theo quy định chung, tuy điều này không phổ biến nhưng là hiện tượng có thật. Nó là sản phẩm của sự thiếu trách nhiệm từ người dạy đến người quản lý đồng thời cũng là sản phẩm của căn bệnh thành tích trong giáo dục. Vấn đề này phải được đề cập tới vì người học không đủ trình độ nhận thức sẽ gặp nhiều khó khăn trong học tập, quan trọng hơn, người dạy phải có phương pháp dạy học phù hợp để dạy được cả người đủ trình độ nhận thức và người có trình độ nhận thức dưới mức quy định. Mục tiêu cao nhất đối với người giảng viên đó là dưới sự tổ chức chỉ đạo của mình, sinh viên dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực này. Phẩm chất và năng lực thích ứng với hướng dẫn dẫn phương pháp tự học của sinh viên thể hiện trên các mặt như xác định mục đích, động cơ học tập ý thức tự giác trong tự học, tự nghiên cứu, có kỹ năng phân tích thông tin để chuyển hóa thành tri thức của mính, có khả năng lựa chọn và sáng tạo ra nhiều phương pháp, hình thức học tập cho phù hợp với mình, có trách nhiệm với kết quả học tập. 3.2.3. Đối với các cấp quản lý * Cấp quản lý đối với hướng dẫn phương pháp tự học của trường Đại học Tây Bắc bao gồm Ban giám hiệu, các bộ phận chức năng, các đoàn thể, các khoa tổ bộ môn, các giáo viên chủ nhiệm… Trong giới hạn của đề tài này, các cấp quản lý chúng tôi chỉ đề cập chủ yếu là Ban giám hiệu, và các tổ chuyên môn. Các cấp quản lý không chỉ quản lý tốt các hoạt động trên lớp của sinh viên mà còn phải quản lý cả các hoạt động ngoài giờ, ngoại khoá của sinh viên trong chương trình đào tạo. Nội dung quản lý hoạt động học tập trên lớp của sinh viên bao gồm bốn nội dung: - Quản lý việc thực hiện kỷ cương, nề nếp trong học tập. - Quản lý việc thực hiện nội dung chương trình kế hoạch đào tạo. - Tổ chức các hoạt động dạy học trong lớp nhằm phát huy vai trò tích cực tự giác học tập của sinh viên. - Tổ chức các hoạt động đảm bảo điều kiện học tập của sinh viên. Các biện pháp tổ chức thực hiện là: - Thực hiện nề nếp kỷ cương trong giờ lên lớp. - Tạo điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật để tổ chức các hoạt động dạy và học trên lớp nhằm phát huy tính tích cực tự học của sinh viên. * Quản lý các hoạt động ngoài giờ lên lớp của sinh viên. Tự học ngoài giờ lên lớp có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp sinh viên mở rộng hiểu sâu những điều đã học, vận dụng những tri thức đã học vào các tình huống cụ thể. Việc đọc trước tài liệu học tập giúp sinh viên tiếp thu tri thức mới ở lớp được nhanh hơn. Tự học ở nhà là một bộ phận khăng khít có vai trò không thể thiếu được trong quá trình dạy học. 3.3. Những khuyến nghị với nhà trường, giảng viên và sinh viên Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà trường (hướng dẫn phương pháp tự môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc), từ việc khảo sát thực nghiệm giảng dạy trực tiếp sinh viên của nhà trường. Trong phạm vi đề này, để nâng cao chất lượng tự học cho sinh viên góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và tự đào tạo, tôi xin đưa ra một số khuyến nghị sau: - Cần tăng cường hơn nữa sự quan tâm lãnh đạo của Ban giám hiệu, các phòng, khoa, tổ bộ môn đối với công tác giáo dục - đào tạo nhằm tạo ra sự chuyển biến rõ rệt, thúc đẩy phong trào tự học, tự nghiên cứu phát triển rộng khắp trong sinh viên toàn trường. - Nâng cao chất lượng dạy học cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc đồng thời cũng chính là nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo giảng viên trong nhà trường, góp phần cụ thể hóa tư tưởng đổi mới phương pháp dạy học trong các trường Đại học, Cao đẳng hiện nay. Vì vậy trường cần coi trọng việc nâng cao chất lượng tự học cho sinh viên, xem nó vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ giáo dục - đào tạo. - Nhà trường cần khuyến khích và giảng viên cần phải tích cực tăng cường áp dụng các biện pháp dạy học tích cực, đặc biệt là thường xuyên duy trì đổi mới phương pháp dạy học ở giảng viên và sinh viên theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập để biến quá trình dạy học thành quá trình tự học tập của sinh viên. Từ đó sinh viên sẽ có thói quen tự giác tự học và chất lượng học tập sẽ được nâng lên. - Nhà trường cần tạo điều kiện tốt nhất về trang thiết bị, phương tiện tự học, xây dựng môi trường tự học thuận lợi cho sinh viên, có chính sách khuyến khích, làm tốt công tác thi đua khen thưởng, khích lệ động viên để sinh viên tự học, tự nghiên cứu một cách thường xuyên liên tục. Như vậy, trên cơ sở tiến hành thực nghiệm sư phạm hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên tại trường Đại học Tây Bắc, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu quy trình và rút ra một số kết luận như sau: Một là, phải thực hiện đúng quy trình đối với giáo viên như quy trình thiết kế bài giảng; quy trình hoạt đông trên lớp và quy trình kiểm tra đánh giá nhận thức của sinh viên. Đây được xem là nhân tố cơ bản có vai trò quyết định đến tính khả thi khi ứng dụng đề tài này. Hai là, phải thực hiện đúng quy trình đối với sinh viên (bao gồm hướng dẫn sinh viên biết cách xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học có hiệu quả, hướng dẫn sinh viên kỹ năng đọc giáo trình và tài liệu tham khảo, hướng dẫn sinh viên có kỹ năng ghi chép tài liệu, hướng dẫn cho sinh viên có kỹ năng hệ thống hoá, khái quát hoá tài liệu). Muốn thực hiện được các quy trình đó phải chú ý đến điều kiện cơ bản đối với giảng viên (phải được đào tạo chu đáo, có chuyên môn sâu, có tâm với nghề nghiệp và quán triệt các yêu cầu khi hướng dẫn phương pháp tự học), cùng với đó là điều kiện đối với sinh viên, với các cấp quản lý cần phải quan tâm trú trọng đến các kiến nghị mà tác giả đề tài đã đưa ra. Trên cơ sở kết quả thực nghiệm đã chứng minh bước đầu có tính khoa học và đúng đắn, từ đó chúng ta có thể khẳng định nếu trong quá trình dạy học, trong từng chương, phần và giờ học cụ thể, giảng viên biết chú ý đổi mới phương pháp dạy học, hướng dẫn chỉ đạo sinh viên biết phát huy năng lực vốn có của bản thân, chủ động tích cực tự học, tự nghiên cứu, cùng với quy trình kiểm tra đánh giá phù hợp, khách quan, được nhà tường quan tâm tạo điều kiện tạo ra phong trào thi đua trong học tập thì chắc chắn hiệu quả và chất lượng học tập của môn triết học Mác – Lênin sẽ được nâng lên rõ rệt trong thời gian tới. KẾT LUẬN Từ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đề tài, qua tiến hành thực nghiệm sư phạm hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên tại trường Đại học Tây Bắc cho thấy, hướng dẫn phương pháp tự học đối với môn triết học Mác - Lênin là quan trọng và rất cần thiết bởi tự học là yếu tố cơ bản quyết định chất lượng học tập của sinh viên nói riêng và chất lượng giáo dục - đào tạo trường Đại học Tây Bắc nói chung nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lực con người các tỉnh miền núi Tây Bắc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cũng thông qua việc nghiên cứu đề tài chúng tôi thấy rằng tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định. Khắc phục tình trạng sinh viên thụ động, trông chờ vào sự truyền đạt một chiều của giảng viên, dẫn giờ giảng trầm lắng, không tạo ra môi trường trao đổi khoa học, sinh viên chỉ học đối phó và chỉ hiểu biết đơn thuần những kiến thức thầy giảng và những gì có trong giáo trình. Bản thân sinh viên sẽ không hình thành được phương pháp, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, đây là những hạn chế còn khá phổ biến ở sinh viên trường Đại học Tây Bắc khi học tập môn học này. Với sinh viên hệ Đại học, phương pháp và kỹ năng tự học dưới sự hướng dẫn của giảng viên là rất quan trọng, trên cơ sở hướng dẫn của giảng viên theo một quy trình khoa học sẽ giúp sinh viên chủ động hoàn toàn trong việc học tập, tất nhiên trong quá trình dạy học việc tự học của sinh viên không thể tách rời vai trò chủ đạo, tổ chức của giảng viên cũng như sự cộng tác cùng tham gia của các thành viên trong lớp. Ở vai trò là người tổ chức, giảng viên có nhiệm vụ giúp đỡ hình thành cho người học lựa chọn và xác định cho mình những phương pháp, cách thức tự học, tự nghiên cứu hợp lý, hiệu quả bằng việc tăng cường sử dụng tổng hợp các phương pháp học tập tích cực, trong đó lấy tự học làm căn bản. Bên cạnh đó phương pháp dạy học của giảng viên còn nhiều bất cập, chưa thực sự đổi mới, việc sử dụng và kết hợp hài hoà các phương pháp dạy học tích cực chưa được giảng viên vận dụng, đặc biệt là hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên trong dạy học môn triết học Mác - Lênin. Vì vậy, sinh viên ít có điều kiện phát huy tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của mình trong học tập. Vận dụng lý luận về tự học và hướng dẫn phương pháp tự học vào môn triết học Mác – Lênin, chúng tôi tiến hành xây dựng kế hoạch thực nghiệm hai lớp, một lớp có hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên và lớp đối chứng sử dụng dạy học truyền thống. Tiến trình thực nghiệm được thực hiện ở hai lớp có trình độ tương đương trong thời gian hai tuần, với hai cụm kiến thức (chương VI và chương IX) tại trường Đại học Tây Bắc, sau đó tiến hành kiểm tra đánh giá nhận thức, trưng cầu ý kiến của sinh viên sau giờ giảng để so sánh đối chiếu và rút ra kết luận về thực nghiệm sư phạm, từ đó khẳng định giả thuyết thực nghiệm mà luận văn đã đưa ra. Trên cơ sở thực nghiệm sư phạm, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu và rút ra các kết luận sau: Thứ nhất, với giảng viên phải thực hiện đúng quy trình đối với giáo viên như quy trình thiết kế bài giảng, bao gồm: Quy trình hướng dẫn, phân tích các khái niệm, phạm trù triết học; quy trình hướng dẫn xem xét cấu trúc logic bài học và liên hệ lý luận với thực tiễn; quy trình hướng dẫn phân tích các nguyên lý, quy luật triết học; quy trình thực hiện các bước lên lớp và quy trình kiểm tra đánh giá nhận thức của sinh viên. Thứ hai, phải thực hiện đúng quy trình đối với sinh viên, bao gồm: Hướng dẫn sinh viên biết cách thiết kế và thực hiện kế hoạch tự học có hiệu quả, hướng dẫn sinh viên kỹ năng đọc giáo trình và tài liệu tham khảo, hướng dẫn sinh viên có kỹ năng ghi chép tài liệu, hướng dẫn cho sinh viên có kỹ năng hệ thống hoá, khái quát hoá tài liệu, hướng dẫn sinh viên giải các bài tập nhận thức trong hoạt động tự học. Thứ ba, muốn thực hiện có hiệu quả các quy trình đó phải chú ý và đảm bảo các điều kiện đối với giảng viên, sinh viên và các cấp quản lý. Thứ tư, để hiện thực hóa các kết quả luận văn đã đạt được, cần phải có sự quan tâm hưởng ứng của cán bộ, giảng viên và sinh viên, sự tạo điều kiện của nhà trường nhằm nhân rộng quy trình hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên trở thành phong trào dạy học tích cực, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng học tập môn triết học Mác – Lênin nói riêng và giáo dục – đào tạo trường Đại học Tây Bắc nói chung. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, cả về lý luận và thực tiễn, chúng tôi nhận thấy xung quanh đề tài này còn nhiều vấn đề đặt ra. Do thời gian và khả năng nghiên cứu có hạn nên tác giả không thể đi sâu nghiên cứu hết mọi vấn đề mà quy trình dạy học có hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên đặt ra, rất mong được các nhà khoa học đóng góp ý kiến để đề tài luận văn hoàn thiện hơn về lý luận và thực tiễn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN CHINH THUC.DOC
  • docBẢNG GHI CHÚ NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT.doc
  • docDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.doc
  • docDE CUONG LV.doc
  • docMỤC LỤC.doc
  • docPhụ lục 04.doc
  • docPHỤ LỤC 1.doc
  • docPhụ lục 2.doc
  • docPhụ lục 3.doc
  • docTOM TAT LUAN VAN CHINH THUC.DOC
Luận văn liên quan