MỤC LỤC
Tổng quan
Chương I
Những vấn đề chủ yếu liên quan tới sự phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam
Chương II
Quan điểm, mục tiêu và các chính sách phát triển
Chương III
Các chương trình, dự án trọng điểm
TỔNG QUAN
Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử
Giai đoạn 2006 – 2011
Cho tới năm 2005 thương mại điện tử (TMĐT) đã hình thành ở Việt Nam và đã bước đầu góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của một số doanh nghiệp. Nhà nước đã vạch ra chủ trương, đường lối chung mở đường cho TMĐT phát triển. Một số hoạt động nghiên cứu và triển khai đã được các cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp tiến hành. Tuy nhiên môi trường pháp lý choTMĐT chưa hình thành, nguồn nhân lực còn rất thiếu và yếu, hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT chưa thuậnlợi.
Mục tiêu của Kế hoạch là tới 2010 TMĐT sẽ góp phần nâng cao đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhờ ứng dụng mạnh mẽ TMĐT và nhờ sự công khai, minh bạch và hiệu quả của nhiều dịch vụ công do các cơ quan nhà nước cung cấp qua mạng.
Để đạt được mục tiêu này, nhà nước sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, đào tạo về TMĐT cho các doanh nghiệp, kịp thời xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT và phát huy vai trò tiên phong của các cơ quan nhà nước trong việc ứng dụng TMĐT trong mua sắm công.
Sáu chính sách lớn của Kế hoạch sẽ là cơ sở để triển khai nhiều chương trình, dự án cụ thể.
Chính sách thứ nhất là triển khai mạnh mẽ và liên tục hoạt động phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về TMĐT. Chính sách thứ hai là nhanh chóng tạo lập môi trường thuận lợi cho TMĐT với việc ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT. Chính sách tiếp theo là các cơ quan chính phủ ở mọi cấp cần phải đi tiên phong trong việc hỗ trợ và ứng dụng TMĐT.
Chính sách thứ tư và thứ năm là phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, tổ chức thực thi các quy định pháp luật liên quan tới TMĐT một cách cươngquyết, kịp thời. Cuối cùng, chính sách thứ sáu là tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về TMĐT.
Trên cơ sở sáu chính sách này sẽ triển khai nhiều chương trình, dự án cụ thể. Mỗi chương
trình, dự án sẽ do một cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì song song với sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác. Kinh phí triển khai các chương trình, dự án chủ yếu huy động từ toàn xã hội và nguồn ngân sách hàng năm cấp cho từng cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước cần thiết lập Quỹ phát
triển TMĐT từ ngân sách nhà nước để tài trợ cho những dự án khó xác định thuộc thẩm quyền của một cơ quan cụ thể, hoặc những dự án chỉ cần đầu tư nhỏ nhưng sẽ kích thích mạnh mẽ mọi đối tượng ứng dụng TMĐT.
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2446 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
• Ngày 13/6/2000, Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế có Thông báo số 56/UB-TV giao Bộ
Thương mại làm đầu mối tổng hợp, xây dựng Hiệp định khung eASEAN. Bộ Thương mại
- 8 -
đã phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan để xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ký
Hiệp định khung eASEAN vào tháng 11/2000.
• Ngày 4/10/2002, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 5549/VPCP-TCQT thông báo ý
kiến của Phó Thủ tướng Vũ Khoan về việc đồng ý giao Bộ Thương mại làm đầu mối Việt
Nam tham gia AFACT (Tổ chức tạo thuận lợi cho Thương mại và kinh doanh điện tử khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương).
• Bộ Thương mại, Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Khoa học và Công nghệ và một số cơ
quan nhà nước khác đã chủ động tham gia hợp tác quốc tế về các chủ đề liên quan tới
TMĐT trong cả khuôn khổ hợp tác đa phương với APEC, ASEM, UNCITRAL, v.v...
cũng như song phương với một số nước như Hàn quốc, Nhật bản.
4. Xu hướng phát triển trong giai đoạn 2006 – 2010
Việt Nam đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế cao trong giai đoạn 2006 – 2010 và coi phát triển
thương mại mạnh mẽ, đặc biệt là xuất khẩu, là một yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển
kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế trở nên sâu sắc và toàn diện với việc gia nhập WTO và cuối năm
2005 hoặc trong năm 2006 cũng sẽ góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của TMĐT.
Quốc Hội và Chính phủ cũng quyết tâm xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT. Giai
đoạn 2001 – 2005 TMĐT đã bắt đầu hình thành ở Việt Nam, giai đoạn 5 năm tiếp theo sẽ chứng kiến
sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT.
Có thể dự đoán các doanh nghiệp có quan hệ đối tác mạnh với nước ngoài sẽ là lực lượng đi
tiên phong ứng dụng TMĐT ở Việt Nam, đồng thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn cần sự hỗ trợ
của Nhà nước để có thể tiếp thu những ứng dụng tiên tiến của TMĐT một cách hiệu quả. Loại hình
giao dịch thương mại B2B sẽ dần dần chiếm ưu thế.
III. NHỮNG THÁCH THỨC CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
Mặc dù cơ hội cho sự phát triển TMĐT tại Việt Nam trong năm năm tới là to lớn nhưng các
thách thức cũng rất nặng nề. Tại thời điểm xuất phát của giai đoạn này Việt Nam phải đương đầu với
một số thử thách chủ yếu sau.
1. Nguồn nhân lực cho TMĐT còn thiếu
• Phần lớn doanh nghiệp mới nghe nói tới TMĐT nhưng chưa biết tới lợi ích, các điều kiện
tham gia TMĐT
• Tuyệt đại đa số dân chúng chưa biết tới khái niệm TMĐT
• Các cơ quan nhà nước mọi ngành, mọi cấp chưa biết tới khái niệm TMĐT
• Mới có rất ít lãnh đạo doanh nghiệp và cán bộ quản lý có kiến thức ban đầu về TMĐT
• Một số trường đại học bắt đầu quan tâm tới đào tạo về TMĐT nhưng đội ngũ giảng viên
hầu như chưa hình thành
• Số công chức nhà nước biết tới TMĐT rất ít, được đào tạo manh mún từ năm 2000 nhờ sự
hỗ trợ của một số dự án song phương và đa phương.
• Chưa hình thành nguồn nhân lực đáp ứng việc ứng dụng, chuyển giao và phát triển công
nghệ về TMĐT, kỹ năng kinh doanh TMĐT, giải quyết tranh chấp trong TMĐT
• Chương trình đào tạo nguồn nhân lực CNTT theo Quyết định 95
2. Môi trường pháp lý và chính sách chưa hình thành
2.1 Khung pháp lý:
- 9 -
• Giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu: đang xây dựng Luật giao dịch điện tử, Luật
Thương mại (sửa đổi) , Bộ Luật dân sự (sửa đổi).
• Nghị định Chữ ký số và chứng thực điện tử
• Cần nhiều văn bản pháp quy khác, nhưng tới 2005 vẫn chưa có kế hoạch cụ thể để xây
dựng và ban hành.
2.2 Chiến lược, chính sách
• Một số tư tưởng chỉ đạo lớn về TMĐT vẫn quá mơ hồ: Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2001 - 2010 của Đại hội Đảng IX, Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị
• Chưa có chiến lược phát triển TMĐT dài hạn
• Chưa có chính sách, giải pháp cụ thể nào được ban hành
2.3 Vấn đề thực thi các qui định pháp luật
• Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử và một số luật khác: có thể mất
vài năm mới ban hành đủ
• Thực thi luật kém
3. Hạ tầng ICT còn yếu
• Hạ tầng mạng viễn thông, đặc biệt là Internet
• Máy tính các loại
• Các phần mềm ứng dụng
• An ninh, an toàn mạng
4. Các thách thức khác
4.1 Bộ máy quản lý còn non yếu
• Mới chính thức giao Bộ Thương mại thống nhất quản lý nhà nước về TMĐT vào đầu năm
2004, nguồn lực còn hạn chế.
• Chưa có các tổ chức hỗ trợ TMĐT thuộc nhà nước hoặc phi lợi nhuận.
• Chưa có cơ quan thống kê về TMĐT
4.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội chưa thuận lợi
• Chính phủ điện tử còn non yếu, chưa cung cấp các dịch vụ công thiết yếu cho TMĐT: hải
quan điện tử, thuế điện tử, cấp phép xuất nhập khẩu điện tử, đăng ký đầu tư điện tử, v.v...
• Tâm lý, tập quán mua bán: mua bán trực tiếp,
• Văn hóa doanh nhân, chữ tín của doanh nghiệp, khai man giá trị mua bán, mua bán hóa
đơn, v.v...
- 10 -
Chương II
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
I. QUAN ĐIỂM
1. Phát triển TMĐT sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy thương mại và nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới.
Thương mại điện tử tạo ra cơ hội mới giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường, giảm chi phí
giao dịch, tiết kiệm thời gian, nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng, v.v... qua đó nâng cao sức
cạnh tranh của mình. Trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam sẽ hội nhập sâu sắc và toàn diện vào
nền kinh tế thương mại quốc tế. Việt Nam có thể gia nhập WTO vào cuối năm 2005 hoặc trong năm
2006, hoàn thành việc cắt giảm thuế quan theo AFTA trong ASEAN, thực hiện đầy đủ các cam kết
với Hoa Kỳ theo Hiệp định Thương mại song phương, tham gia ký kết và triển khai Hiệp định
thương mại tự do ASEAN – Trung quốc (ACFTA) cũng như nhiều cam kết quốc tế khác liên quan
tới thương mại. Đồng thời với việc tiếp tục mở cửa thị trường trong nước theo lộ trình của các cam
kết quốc tế, hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội rất lớn để thâm nhập thị trường toàn
cầu. Phát triển mạnh mẽ thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội mới.
2. Doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt ứng dụng và phát triển TMĐT.
Doanh nghiệp là người bán, người mua, người phát triển phát triển công nghệ lớn nhất. Chính
mỗi doanh nghiệp sẽ tự quyết định có tham gia thương mại điện tử hay không, tham gia như thế nào,
vào thời điểm nào, sẽ đầu tư nhân lực và nguồn lực ra sao, v.v... Nói cách khác, doanh nghiệp là lực
lượng nòng cốt đối với việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử.
3. Nhà nước có vai trò tạo ra môi trường thuận lợi, cung cấp nhiều dịch vụ công hỗ trợ cho
TMĐT và tích cực ứng dụng TMĐT
Mặc dù doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò quyết định trong ứng dụng và phát
triển thương mại điện tử nhưng Nhà nước đóng vai trò quan trọng. Nhà nước có nhiệm vụ tạo ra môi
trường thuận lợi cho ứng dụng và phát triển thương mại điện tử, xây dựng khung khổ pháp lý, thiết
lập sự cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ tạo ra cơ chế giải quyết tranh chấp, bí mật riêng tư, bảo vệ người
tiêu dùng, v.v... Đồng thời, Nhà nước cũng là khách hàng rất lớn của các doanh nghiệp, chiếm tỷ
trọng đáng kể trong các giao dịch thương mại.
Nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho thương mại điện tử như hải quan
điện tử, thuế điện tử, đăng ký đầu tư điện tử, cấp phép nhập khẩu điện tử, v.v... Nếu nhà nước không
hoàn thành tốt nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công này thì thương mại điện tử cũng rất khó phát
triển một cách toàn diện và mạnh mạnh mẽ.
4. Nhà nước và doanh nghiệp cần chủ động, tích cực trong hợp tác quốc tế để tạo ra môi
trường thuận lợi, thu hút công nghệ tiên tiến cho sự phát triển TMĐT
Thương mại điện tử mang tính toàn cầu. Ngay từ năm 1998, Hội nghị bộ trưởng lần thứ hai
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã nhấn mạnh thương mại điện tử trên phạm vi toàn cầu
đang tăng trưởng nhanh chóng và tạo ra nhiều cơ hội mới cho thương mại. Các thành viên cũng cam
kết tiếp tục duy trì thực tế không đánh thuế hải quan đối với các giao dịch điện tử qua biên giới. Năm
2001 WTO tiếp tục khẳng định thương mại điện tử tạo ra nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đặt
ra những thách thức mới cho thương mại của mọi thành viên, dù là thành viên phát triển hay đang
- 11 -
phát triển, đồng thời WTO thừa nhận tầm quan trọng của việc tạo ra và duy trì một môi trường thuận
lợi cho sự phát triển của thương mại điện tử trong tương lai. Đồng thời, các nước thành viên một lần
nữa cam kết tiếp tục duy trì thực tế không đánh thuế hải quan đối với các giao dịch điện tử qua biên
giới.
Các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực khác như APEC, ASEM, ASEAN đều coi
thương mại điện tử có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế thương mại và cố gắng tạo ra môi
trường quốc tế thuận lợi cho thương mại điện tử. Các tổ chức chuyên môn, đặc biệt là các tổ chức
thuộc hệ thống Liên Hợp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, AFACT, v.v... có nhiều hoạt động để
tạo ra môi trường thuận lợi trên phạm vi toàn cầu cho các hoạt động thương mại điện tử.
Ngoài việc tham gia các hoạt động quốc tế đa phương và nhiều bên, chúng ta cũng cần đẩy
mạnh các hoạt động hợp tác song phương với các nước và khu vực có khoa học công nghệ tiên tiến
và có quan hệ kinh tế thương mại chặt chẽ như Hoa Kỳ, EU, Nhật bản, Hàn quốc, v.v...
5. Phát triển TMĐT gắn chặt với ứng dụng và phát triển CNTT
Sự phát triển của thương mại điện tử gắn chặt với sự phát triển của CNTT và chính phủ điện
tử. Trong những năm qua CNTT ở nước ta đã phát triển khá nhanh. Chiến lược phát triển CNTT và
truyền thông đặt TMĐT như một trong những trụ cột chính của phát triển CNTT trong những năm tới.
Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT cần phù hợp với Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông
cũng như Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam tới 2010.
II. MỤC TIÊU
1. Phần lớn (khoảng 70%) các doanh nghiệp lớn tiến hành giao dịch doanh nghiệp tới doanh
nghiệp (B2B) và ứng dụng TMĐT ở mức cao.
Thực tiễn phát triển TMĐT trên thế giới cho thấy loại hình B2B ra đời trước khi xuất hiện
loại hình B2C. Khi đó các doanh nghiệp lớn tiến hành mua bán thường xuyên dựa trên các mạng giá
trị gia tăng (VAN – Value Added Network) với giá trị giao dịch lớn. Nhờ áp dụng TMĐT nên các
doanh nghiệp này đã nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của của mình. Internet ra
đời đã tạo ra một cuộc cách mạng về TMĐT. Tuy nhiên loại hình giao dịch B2B vẫn tiếp tục chiếm
ưu thế và có tác động chủ yếu tới nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như của
toàn bộ nền kinh tế.
Thống kê về TMĐT cho thấy tại những nước có hạ tầng CNTT tiên tiến, tỷ lệ hộ gia đình có
máy vi tính cao, kết nối Internet qua broadband, loại hình giao dịch B2B vẫn cao gấp nhiều lần so với
B2C.
Phấn đấu tới năm 2010 phần lớn (khoảng 70%) các doanh nghiệp lớn nắm vững kỹ năng kinh
doanh trên mạng và tiến hành các giao dịch B2B.
2. Hầu hết (khoảng 90%) các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) biết tới lợi ích của TMĐT và
có ứng dụng nhất định
Tại Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác trên thế giới, DNV&N rất năng động và có vị
trí quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này bị hạn chế về nguồn lực nên ứng
dụng TMĐT là cơ hội để họ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, tiết kiệm chi phí
giao dịch và chăm sóc khách hàng, v.v... Thực tế ở Việt Nam tới 2005 cho thấy chính các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng TMĐT.
- 12 -
Phấn đấu tới năm 2010 hầu hết (khoảng 90%) các DNV&N biết tới lợi ích của TMĐT và có
những ứng dụng nhất định vào từng khâu hay của toàn bộ các khâu của giao dịch thương mại.
3. Một bộ phận đáng kể (khoảng 15%) hộ gia đình và cá nhân có thói quen mua sắm trên mạng
(B2C)
Việt Nam là một nước đang phát triển có thu nhập thấp. Tuy nhiên, Việt Nam đã đề ra mục
tiêu GDP năm 2010 sẽ tăng gấp đôi so với năm 2001. Những thành tựu phát triển kinh tế trong giai
đoạn năm năm 2001 – 2005 cho thấy việc đạt được mục tiêu này có thể là hiện thực. Thu nhập bình
quân đầu người, nhất là ở các vùng đô thị, tăng nhanh trong khi chi phí cho máy tính cá nhân và
Internet giảm mạnh sẽ tạo ra cộng đồng ngày càng tăng các hộ gia đình và cá nhân sử dụng Internet
cho các mục đích khác nhau, đặc biệt là cho việc mua sắm trên mạng.
Đồng thời, tỷ lệ thanh niên được đào tạo tốt, tiếp thu nhanh cái mới và hấp thụ ảnh hưởng của
văn hoá thương mại các nước tiên tiến, v.v... ngày càng tăng nhanh sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy
các hộ gia đình và các cá nhân, đặc biệt ở vùng đô thị, mua sắm hàng hoá qua mạng Internet.
Các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ thiết yếu như nước máy, điện, điện thoại, ngân hàng,
v.v... đang phát triển mạnh các hình thức thanh toán tự động. Nhiều siêu thị bán lẻ và các nhà cung
cấp dịch vụ khác đã và sẽ tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ hình thức bán hàng hoá và dịch vụ qua mạng.
Các doanh nghiệp này sẽ tạo ra động lực và thói quen cho các hộ gia đình và cá nhân ứng dụng
TMĐT trong mua sắm hàng hoá và dịch vụ của họ.
Chính vì vậy, song song với việc ưu tiên hỗ trợ loại hình B2B, cố gắng để tới năm 2010 một
bộ phận đáng kể (khoảng 15%) hộ gia đình và cá nhân có thói quen mua hàng hoá và dịch vụ trên
mạng.
4. Tất cả các chào thầu mua sắm chính phủ được công bố trên các trang tin điện tử của các cơ
quan Chính phủ và 30% mua sắm chính phủ được tiến hành trên mạng (B2G).
Việt Nam đã đặt ra mục tiêu và triển khai các biện pháp mạnh mẽ thực hiện cải cách hành
chính nhằm nâng cao hiệu quả, đơn giản thủ tục, minh bạch hoá, hiện đại hoá nền hành chính của đất
nước. Song song với Chương trình cải cách hành chính, Việt Nam cũng xây dựng Kế hoạch tổng thể
phát triển Chính phủ điện tử tới năm 2010. Đây chính là các tiền đề quan trọng để các cơ quan chính
phủ cung cấp các dịch vụ công gắn chặt với TMĐT như thuế điện tử, hải quan điện tử, cấp giấy phép
nhập khẩu điện tử, chứng nhận xuất xứ hàng hoá qua mạng, v.v... Đồng thời quá trình cải cách hành
chính và xây dựng chính phủ điện tử cũng tạo điều kiện và bắt buộc các cơ quan chính phủ phải minh
bạch hoá các hoạt động mua sắm chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước. Dần dần, các cơ quan chính
phủ từ cấp trung ương tới địa phương phải tuân thủ chặt chẽ các quy định về đấu thầu, cạnh tranh
trong mua sắm công, công khai việc mua sắm trên mạng.
Mục tiêu đặt ra là tới năm 2010 hầu hết các chào thầu mua sắm chính phủ sẽ được công bố
công khai trên mạng và 30% mua sắm chính phủ ứng dụng TMĐT hình thức B2G.
III. CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
Bốn mục tiêu nêu trên đối với TMĐT có thể đạt được nếu thực hiện tốt sáu chính sách lớn.
Thứ nhất, triển khai mạnh mẽ và liên tục hoạt động phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về TMĐT. Thứ
hai, nhanh chóng tạo lập môi trường thuận lợi cho TMĐT với việc ban hành đầy đủ và đồng bộ các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT. Thứ ba, các cơ quan chính phủ ở mọi cấp cần phải
đi tiên phong trong việc hỗ trợ và ứng dụng TMĐT. Thứ tư, phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT
trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Thứ năm, tổ chức thực thi các quy định pháp luật
- 13 -
liên quan tới TMĐT một cách cương quyết, kịp thời. Thứ sáu, tích cực tham gia các hoạt động hợp
tác quốc tế về TMĐT.
1. Phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về lợi ích và kỹ năng ứng dụng TMĐT phải đi trước một
bước và phải tiến hành liên tục. Nhà nước phải coi đây là một công việc lớn góp phần phát
triển TMĐT trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
TMĐT gắn chặt với công nghệ tin học và truyền thông hiện đại. Tuy nhiên chủ thể của mọi
hoạt động thương mại vẫn là con người, không phải là công nghệ mà chính con người là nhân tố
quyết định tới thành công của việc ứng dụng TMĐT. Kinh nghiệm một số nền kinh tế ở châu Á cho
thấy mặc dù không phát minh ra công nghệ nguồn, mang tính cách mạng, nhưng nhờ có chính sách
phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT tốt nên vẫn xếp thứ hạng cao trong ứng dụng CNTT và TMĐT
như Hàn quốc, Đài loan, Singapore. Trong khi đó thực tiễn ở Việt Nam tới năm 2005 cho thấy một
số doanh nghiệp ứng dụng CNTT rất tốt nhưng hầu như chưa biết tới lợi ích của TMĐT nên hầu như
chưa có kế hoạch triển khai để tận dụng các cơ hội do TMĐT mang lại.
Hoạt động phổ biến, tuyên truyền, đào tạo khó thu lợi nhuận, chậm thu hồi vốn nên các doanh
nghiệp ít quan tâm kinh doanh. Đây chính là một loại hình dịch vụ công thuộc chức năng của nhà
nước
1.1. Đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền về TMĐT, đặc biệt cho các DNV&N
Ứng dụng TMĐT có liên quan sâu sắc tới nhiều mặt kinh tế xã hội nên đòi hỏi sự hưởng ứng
và tham gia của tất cả tầng lớp nhân dân, mọi lĩnh vực kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp cũng như
các tổ chức kinh tế - xã hội.
Do đó, việc phổ biến, tuyên truyền sâu rộng về các vấn đề liên quan tới TMĐT có ý nghĩa
quyết định tới việc ứng dụng TMĐT. Trong giai đoạn 2006 - 2010 cần tập trung phổ biến, tuyên
truyền về lợi ích và kỹ năng TMĐT như sau:
i. Phổ biến, tuyên truyền cho các nhà quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N
i.1 Theo loại hình doanh nghiệp
• Các Tổng công ty lớn của nhà nước: loại hình doanh nghiệp này có quy mô lớn nhưng
chưa quan tâm đầy đủ tới công tác đào tạo cán bộ về TMĐT. Cần hỗ trợ cho các nhà lãnh
đạo các Tổng công ty lớn của nhà nước biết tới lợi ích của TMĐT, từ đó họ sẽ xây dựng
kế hoạch triển khai TMĐT tại chính đơn vị của mình.
• Các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần: loại hình doanh nghiệp này nói chung có
quy mô vừa và nhỏ, khá năng động trong kinh kinh doanh và dễ tiếp thu công nghệ mới.
Nếu giới chủ các loại hình doanh nghiệp này hiểu rõ lợi ích của TMĐT họ sẽ nhanh chóng
và mạnh dạn tổ chức triển khai trong doanh nghiệp của họ.
• Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: thường có công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản
lý cao và nhanh nhậy trong ứng dụng CNTT và TMĐT. Hoạt động tuyên truyền đối với
đối tượng này chủ yếu cung cấp thông tin cập nhật về môi trường pháp lý, về thực thi
quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, v.v... liên quan tới TMĐT của Việt
Nam.
i.2 Theo loại hình kinh doanh
Thực tế cho thấy có một số lĩnh vực kinh doanh có những yếu tố thuận lợi cho ứng dụng
TMĐT. Trong lĩnh vực dịch vụ là các hoạt động kinh doanh trong du lịch, tài chính, vận tải, giải trí,
- 14 -
phân phối. Trong lĩnh vực hàng hoá là các hoạt động kinh doanh các mặt hàng như thiết bị CNTT và
truyền thông, nông sản, hoá chất, cơ khí, dệt may, thủ công mỹ nghệ. Trong hoạt động phổ biến,
tuyên truyền cần chú trọng vào các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh này.
ii. Phổ biến, tuyên truyền cho các cán bộ lãnh đạo kinh tế các cấp
Các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
chính sách và thực thi pháp luật liên quan tới TMĐT nhưng ít có cơ hội tìm hiểu về lĩnh vực này. Cần
phổ biến, tuyên truyền về các lợi ích cũng như các rủi ro khi ứng dụng TMĐT cho các cán bộ lãnh
đạo kinh tế tại các bộ ngành ở Trung ương cũng như các nhà lãnh đạo kinh tế ở các tỉnh, đặc biệt là
cán bộ của các sở thương mại, tài chính, đầu tư, tư pháp.
iii. Phổ biến, tuyên truyền cho giới trẻ ở các đô thị
Trong giai đoạn 2006 – 2010 hạ tầng CNTT và TT trong khu vực dân cư sẽ tương đối phát
triển ở các đô thị lớn. Đồng thời các dịch vụ hỗ trợ cho TMĐT như phân phối, thanh toán cũng phát
triển khá nhanh ở các đô thị. Trong số người tiêu dùng thì giới trẻ rất năng động, thích tìm hiểu cái
mới và ngày càng chủ động về kinh tế. Vì vậy, phát triển TMĐT cho loại hình B2C trước hết tập
trung vào giới trẻ ở đô thị.
Chú trọng sử dụng các phương tiện phổ biến, tuyên truyền có sức truyền tải cao như truyền
hình, báo viết, báo điện tử. Phương pháp phổ biến, tuyên truyền cần hấp dẫn và kích thích người
tham gia ứng dụng vào thực tiễn.
1.2. Phổ biến, tuyên truyền lợi ích của TMĐT tới người tiêu dùng, đồng thời khuyến khích các doanh
nghiệp ứng dụng TMĐT trực tiếp bán hàng tới người tiêu dùng (B2C)
Không chỉ do khó khăn về các vấn đề công nghệ, đặc biệt là mức độ truy cập Internet còn
thấp, mà tập quán và tâm lý mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam cũng là một yếu tố cản trở cho
việc mua sắm qua mạng. Nước ta chưa phải là một nước công nghiệp hoá, phần lớn người tiêu dùng
chưa có tác phong công nghiệp, chưa tuân theo những quy định chặt chẽ về thời gian, tuân thủ pháp
luật, biết đòi hỏi lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, v.v...
Song song với hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng TMĐT bán hàng trực tiếp
tới người tiêu dùng, chúng ta cần phổ biến, tuyên truyền về lợi ích của TMĐT cho đông đảo người
tiêu dùng, trước hết là người tiêu dùng tại các đô thị và ưu tiên phổ biến về lợi ích mua trên mạng các
dịch vụ và các sản phẩm được “số hoá”.
1.3. Phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT một cách đồng bộ và cân đối
Việc đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền về TMĐT có tác động to lớn để xã hội quan
tâm tới các lợi ích của TMĐT. Tuy nhiên hoạt động này mang tính bề rộng và phong trào, cần phải
có các hoạt động nhằm phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT một cách đồng bộ và cân đối mang tính
bề sâu, diễn ra liên tục. Dựa trên nguồn nhân lực có tri thức về nhiều khía cạnh liên quan tới kinh tế,
thương mại, CNTT và TT, pháp lý, sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh, v.v... mới có thể
đưa TMĐT thật sự đi vào cuộc sống.
Phát triển nguồn nhân lực là việc làm của toàn xã hội, nhà nước chỉ hỗ trợ mạnh trong giai
đoạn đầu, sau đó chính các doanh nghiệp là lực lượng chủ yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là tự chịu chi phí cho việc này.
i. Đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề
- 15 -
Tới năm 2005 một số trường đại học chuyên ngành kinh tế thương mại đã giảng dạy về
TMĐT. Điều này phản ánh sự năng động, nắm bắt thực tiễn và gắn hoạt động đào tạo với hoạt động
sản xuất kinh doanh trong công tác đào tạo đại học của chúng ta. Trong giai đoạn 2006 tới 2010 cần
mở rộng hoạt động đào tạo chính quy về TMĐT tại nhiều trường đại học khắp cả nước không những
trong chuyên ngành kinh tế thương mại mà cả các chuyên ngành khác như CNTT, pháp lý, an ninh.
Ngoài đào tạo về TMĐT ở cấp đại học, cần quan tâm đào tạo ở cấp cao đẳng và học nghề.
Các trường dạy nghề thuộc các chuyên ngành thương mại, du lịch, quản trị kinh doanh, v.v... sẽ đào
tạo ra đội ngũ đông đảo người lao động biết cách tham gia vào các hoạt động kinh tế trong thời đại
của Internet.
ii. Đào tạo cho cán bộ quản lý nhà nước
TMĐT chỉ có thể phát triển mạnh và góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia khi nhà nước tạo ra được môi trường thuận lợi. Có nhiều bộ ngành ở
Trung ương và tất cả các địa phương liên quan tới hoạch định chính sách và thực thi pháp luật liên
quan tới TMĐT. Việc đào tạo cán bộ tại các cơ quan nhà nước liên quan là rất cấp bách và phải đi
trước một bước.
Tuy nhiên, việc đào tạo phải bám sát chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để gắn chặt hoạt
động đào tạo với thực tiễn.
Có thể tổ chức đào tạo theo các chuyên đề. Chuyên đề liên quan tới khía cạnh kinh tế của
TMĐT cho các bộ ngành Thương mại, Tài chính, Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Thuỷ sản, Ngân hàng Trung ương. Chuyên đề liên quan tới an ninh, an toàn, sở hữu trí tuệ trong
TMĐT cho các bộ ngành Công an, Tư pháp,Văn hoá Thông tin, Khoa học và Công nghệ, Bưu chính
và Viễn thông. Chuyên đề về các tranh chấp trong TMĐT cho Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát Nhân dân
tối cao, Toà án Nhân dân tối cao. Các chuyên đề về bảo vệ người tiêu dùng, thống kê, cạnh tranh lành
mạnh v.v... liên quan tới TMĐT cũng cần được tổ chức cho các cơ quan tương ứng.
Song song với đào tạo cho các cán bộ quản lý nhà nước cấp trung ương cũng phải đào tạo cho
các cán bộ cấp địa phương, ưu tiên cho cấp tỉnh, theo các chuyên đề trên.
iii. Vận động và hỗ trợ một số doanh nghiệp tham gia hoạt động đào tạo về TMĐT:
Nguồn nhân lực của nhà nước có thể trực tiếp tham gia hoạt động đào tạo TMĐT có số lượng
chưa nhiều. Trong khi đó một số doanh nghiệp CNTT vì những lí do khác nhau khá nhiệt tình trong
hoạt động đào tạo TMĐT. Chúng ta cần khuyến khích các công ty CNTT, đặc biệt là các công ty đa
quốc gia và các công ty trong nước có hoạt động kinh doanh gắn chặt với sự mở rộng của TMĐT
cung cấp dịch vụ đào tạo về TMĐT.
1.4. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng TMĐT giữa các doanh nghiệp
lớn
Thực tiễn trên thế giới cho thấy giao dịch giữa các doanh nghiệp lớn chiếm tỷ trọng rất cao
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi các doanh nghiệp lớn ứng dụng mạnh mẽ TMĐT sẽ góp
phần rất nhanh và mạnh tới hiệu quả chung của mỗi doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
Tại hầu hết các nước phát triển loại hình B2B giữa các doanh nghiệp lớn đã hình thành cách đây vài
thập kỷ và tiếp tục phát triển nhanh. Trong khi đó ở Việt Nam các doanh nghiệp lớn hầu như chưa
ứng dụng TMĐT trong các hoạt động thương mại.
- 16 -
APEC đặt mục tiêu thương mại phi giấy tờ vào năm 2010 trong các nền kinh tế đang phát
triển. Tham gia hội nhập kinh tế trong APEC trong lĩnh vực thương mại phi giấy tờ trước hết đòi hỏi
chúng ta phải tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lớn.
2. Đẩy nhanh việc tạo lập môi trường pháp lý
TMĐT tạo ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp. Vì vậy, tới năm 2005 mặc dù giá trị
pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các giao dịch thương mại chưa được pháp luật thừa nhận nhưng
nhiều doanh nghiệp trong nước đã tích cực, chủ động ứng dụng TMĐT. Tuy nhiên, TMĐT chỉ có thể
phát triển mạnh mẽ khi các giao dịch thương mại thông qua phương tiện điện tử được pháp luật đảm
bảo.
TMĐT liên quan tới nhiều lĩnh vực nhưng do nguồn lực có hạn nên chúng ta cần xây dựng kế
hoạch soạn thảo và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật với trình tự hợp lý. Trước hết cần ban
hành các văn bản pháp quy thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động
thương mại, tiếp đó là các văn bản điều chỉnh các vấn đề đảm bảo cho thông điệp dữ liệu có giá trị
pháp lý, cuối cùng là các văn bản điều chỉnh các hành vi khác liên quan tới TMĐT.
Khi soạn thảo các văn bản pháp quy cần phải tổ chức cho đông đảo công dân, cộng đồng các
doanh nghiệp và các nhóm lợi ích tham gia góp ý với các hình thức phù hợp. Đồng thời cần tham
khảo kinh nghiệm ban hành các văn bản luật tương ứng của các nước khác.
2.1. Các văn bản pháp quy thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu
Tới cuối năm 2006 cần ban hành các luật tạo nền tảng cho TMĐT là Luật Giao dịch điện tử,
Luật Thương mại (sửa đổi) và Bộ Luật dân sự (sửa đổi) (quy định chung về hợp đồng)
2.2. Các văn bản pháp quy điều chỉnh các vấn đề đảm bảo cho thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý
Tới cuối năm 2007 cần ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh nhiều khía cạnh liên quan
tới TMĐT như chữ ký số và chứng thực điện tử (CA), hợp đồng điện tử, an toàn và bảo mật, giải
quyết tranh chấp, v.v...
2.3. Các văn bản pháp quy khác
Trong các năm 2008 – 2010 cần ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
mọi khía cạnh liên quan tới TMĐT như bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tội
phạm trên mạng, các vấn đề về thuế nội địa và thuế hải quan, v.v...
3. Các cơ quan chính phủ phải nhanh chóng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ TMĐT và chủ động,
tích cực tham gia TMĐT
Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử tới năm 2010 sẽ hỗ trợ cho Chương trình cải
cách hành chính nhằm tạo ra sự công khai, minh bạch, hiệu quả của các cơ quan nhà nước từ Trung
ương tới địa phương. Ứng dụng TMĐT trong các cơ quan nhà nước là một biện pháp quan trọng góp
phần xây dựng thành công chính phủ điện tử ở nước ta. Hơn nữa mua sắm chính phủ chiếm tỷ lệ
đáng kể trong thương mại nên nếu các cơ quan nhà nước đẩy mạnh việc mua hàng hoá và dịch vụ
trên mạng sẽ kích thích các doanh nghiệp phải ứng dụng TMĐT để tăng cơ hội bán sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ của mình.
Song song với việc ứng dụng TMĐT trong mua sắm chính phủ tại các bộ ngành và chính
quyền địa phương (B2G), các cơ quan nhà nước cũng phải đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ công
- 17 -
hỗ trợ cho TMĐT (G2B) như hải quan điện tử, khai báo và nộp thuế điện tử, cấp phép nhập khẩu
điện tử, đăng ký kinh doanh điện tử, chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu điện tử, v.v...
3.1. Ứng dụng TMĐT trong mua sắm chính phủ
Cải cách hành chính là hoạt động có mức ưu tiên cao từ nay cho tới 2010 với mục tiêu hiện
đại hoá, minh bạch hoá và nâng cao hiệu quả nền hành chính quốc gia. Xây dựng chính phủ điện tử
sẽ gắn liền với cải cách hành chính.
Mua sắm chính phủ chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giao dịch thương mại. Nhiều nước đã
ban hành các quy định chặt chẽ về nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước phải ứng dụng TMĐT trong
mua sắm công nhằm đạt hiệu quả cao nhất từ tiền thuế của nhân dân. Chẳng hạn, Chỉ thị của Tổng
thống Hoa Kỳ về thương mại điện tử ngày 17/12/1999 đã nhấn mạnh người đứng đầu các cơ quan
chính phủ phải thúc đẩy sử dụng thương mại điện tử để việc mua sắm của liên bang được nhanh hơn,
rẻ hơn, tiết kiệm cho người nộp thuế.
Trong giai đoạn 2006 – 2010 cần sửa đổi các quy định về đấu thầu trong mua sắm chính phủ
theo hướng bắt buộc các chủ đầu tư phải công bố mời thầu trên trang tin điện tử (trang web) chính
thức của tổ chức mời thầu và các trang tin điện tử của các cơ quan khác, chẳng hạn của Bộ KHĐT,
Thương mại, Tài chính đối với mua sắm của các cơ quan trung ương và của Sở KHĐT, Thương mại,
Tài chính đối với mua sắm của các cơ quan thuộc chính quyền địa phương.
3.2. Đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho TMĐT
Nhiều dịch vụ công là những mắt xích không thể tách rời trong chu trình giao dịch thương
mại, nếu các dịch vụ công này không được tin học hoá và đáp ứng các đòi hỏi tự động hoá giao dịch
trên mạng thì TMĐT cũng rất khó phát triển.
Trong giai đoạn 2006 – 2010 cần đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho TMĐT.
Quy định đến năm 2010 các cơ quan đưa được phần lớn (70%) dịch vụ công lên mạng. Những dịch
vụ cần ưu tiên cung cấp trên mạng càng sớm càng tốt như sau:
• Thuế điện tử: thuế nội địa, thuế xuất nhập khẩu (Bộ Tài chính)
• Hải quan điện tử (Bộ Tài chính)
• Các thủ tục xuất nhập khẩu điện tử (Bộ Thương mại)
• Các thủ tục liên quan tới đầu tư, đăng ký kinh doanh điện tử (Bộ KHĐT)
• Các loại giấy phép chuyên ngành liên quan đến hoạt động thương mại (hiện do rất nhiều
Bộ cấp: Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ
Văn hóa - Thông tin, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội, v.v...)
• Giải quyết tranh chấp trên mạng
Ngoài ra cần có quy định cụ thể về sự phối hợp giữa các bộ ngành để cung cấp tất cả các dịch
vụ công gắn với thương mại theo quy trình "một cửa" đối với doanh nghiệp. Đây là vấn đề khó thực
hiện với cả những nước như Singapore, Hàn Quốc. Tuy nhiên ta là nước đi sau nên có thể học tập
kinh nghiệm từ các nước khác.
4. Chủ động phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài
Trong giai đoạn 2001 – 2005 hạ tầng CNTT và truyền thông ở nước ta đã thay đổi nhanh
chóng theo hướng hiện đại hoá và cước phí sử dụng ngày càng thấp. Đây là yếu tố quan trọng để
- 18 -
TMĐT hình thành và bắt đầu phát huy hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên có thể nhận thấy ngoài hạ tầng
Internet ra thì hầu hết các hạ tầng kỹ thuật khác cần thiết cho TMĐT vẫn còn đang trong giai đoạn
thử nghiệm. Trong giai đoạn 2006 – 2010 chúng ta cần chủ động phát triển hạ tầng CNTT và truyền
thông theo Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông tới 2010. Ngoài ra, cần phát triển hạ tầng kỹ
thuật cho TMĐT trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Đây là con đường nhanh nhất để
tiếp cận với công nghệ tiên tiến của thế giới về TMĐT.
4.1. Hỗ trợ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng triển khai nhanh hoạt động thanh toán
điện tử và từng bước đưa vào ứng dụng một cách an toàn, hiệu quả
Thanh toán điện tử là một khâu quan trọng trong hoạt động thương mại điện tử. Trong giai
đoạn phát triển ban đầu của TMĐT tại Việt Nam (2001 – 2005) hầu như chưa tồn tại dịch vụ thanh
toán điện tử. Tuy nhiên, từ năm 2006 nếu các ngân hàng vẫn chưa cung cấp dịch vụ thanh toán điện
tử thì sẽ cản trở lớn tới sự phát triển của TMĐT.
i. Hỗ trợ thông qua các các tổ chức tín dụng quốc tế
Những kết quả của chương trình hiện đại hoá hoạt động các ngân hàng thương mại quốc
doanh từ nguồn vốn vay WB, ADB, v.v... trong giai đoạn 2001 – 2005 và những năm tiếp theo đã và
đang giúp một số ngân hàng thử nghiệm và bước đầu đưa vào ứng dụng các dịnh vụ thanh toán điện
tử.
ii. Hỗ trợ thông qua tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và có lộ trình mở cửa thích hợp
Cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước cùng với các cam kết hội
nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là các cam kết với Hoa Kỳ theo Hiệp định
Thương mại song phương và các cam kết với WTO, sẽ thúc đẩy mạnh các ngân hàng hiện đại hoá,
cung cấp các dịch vụ mới bao gồm cả thanh toán điện tử.
iii. Hỗ trợ thông qua các chương trình nghiên cứu khoa học, chương trình thử nghiệm:
Trong giai đoạn 2001 – 2005 đã có một số dự án với kinh phí từ ngân sách nhà nước đã hỗ trợ
cho nghiên cứu thử nghiệm thanh toán điện tử như dự án “Kỹ thuật TMĐT”, Đề tài NCKH cấp nhà
nước KC 01-05 về một số vấn đề kỹ thuật và công nghệ trong TMĐT. Trong giai đoạn 2006 – 2010
cần tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu thử nghiệm và triển khai cho các ngân hàng cũng như một số doanh
nghiệp đi tiên phong trong việc tham gia thanh toán điện tử.
4.2. Ban hành các chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư và chuyển giao công nghệ nhằm thúc
đẩy phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT, các chính sách liên quan tới tài chính nhằm hỗ trợ mạnh
cho việc tham gia TMĐT
i. Ban hành các chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư và chuyển giao công nghệ
TMĐT liên quan chặt chẽ tới nhiều lĩnh vực của CNTT và truyền thông, sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, xuất nhập khẩu, v.v... Đầu tư vào nghiên cứu cũng như ứng dụng TMĐT có độ rủi ro nhất
định, vì vậy cần có các chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này.
• Đầu tư vào kinh doanh dựa trên TMĐT
• Đầu tư vào công nghệ, phần mềm phục vụ TMĐT
• Đầu tư vào phổ biến, chuyển giao công nghệ hỗ trợ cho TMĐT
- 19 -
ii. Ban hành các chính sách liên quan tới tài chính một cách thông thoáng nhằm hỗ trợ mạnh cho
việc tham gia TMĐT
Mặc dù tham gia TMĐT sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, nhưng kinh nghiệm
từ nhiều nước và cả ở Việt Nam cho thấy không phải mọi doanh nghiệp đều sẵn sàng tham gia
TMĐT, trong giai đoạn đầu nhà nước cần ban hành các chính sách thông thoáng kích thích các doanh
nghiệp tham gia TMĐT. Trong số các chính sách đó, các chính sách liên quan tới tới tài chính có vị
trí rất quan trọng. Khi TMĐT đã trở nên phổ biến, sẽ dần dần xóa bỏ các khác biệt giữa việc tiến
hành các hoạt động thương mại có hoặc không tham gia TMĐT.
• Miễn giảm các loại thuế: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng
• Các ưu đãi về tín dụng: lãi suất đầu tư
4.3. Xây dựng mạng kinh doanh điện tử cho một số ngành công nghiệp
Giao dịch B2B chiếm trên 90% giao dịch thương mại điện tử. Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng
mạng kinh doanh điện tử cho một số ngành công nghiệp nhằm tạo đà cho TMĐt phát triển, đồng thời
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của một số ngành công nghiệp khi Việt Nam đã trở thành
thành viên của WTO.
5. Tổ chức thực thi các quy định pháp luật liên quan tới thương mại điện tử một cách cương
quyết, kịp thời
5.1. Xây dựng cơ chế, bộ máy mạnh để thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bí mật riêng tư, bảo vệ
người tiêu dùng
Các vấn đề về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bí mật riêng tư và bảo vệ người tiêu dùng đã gắn
rất chặt với thương mại truyền thống, trong TMĐT các vấn đề này càng gắn chặt hơn. Do tính tức
thời, liên tục 24/7 và xuyên quốc gia của nó, TMĐT đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ mang tính
toàn cầu đối với việc thực thi quyền bảo vệ sở hữu trí tuệ, bí mật riêng tư và bảo vệ người tiêu dùng.
Cho tới năm 2005 chúng ta vẫn chưa thực thi đầy đủ các quy định pháp luật về các vấn đề
trên ngay trong thương mại tryền thống. Vì vậy, trong giai đoạn 2006 – 2010 chúng ta cần xây dựng
cơ chế, bộ máy mạnh để thực thi các quy định pháp luật đối với quyền bảo vệ sở hữu trí tuệ, bí mật
riêng tư và bảo vệ người tiêu dùng vừa cả trong thương mại truyền thống, vừa cả trong TMĐT.
5.2. Xây dựng cơ chế, bộ máy giải quyết tranh chấp mạnh để sẵn sàng đáp ứng được các vấn đề phát
sinh trong TMĐT
Hoạt động thương mại bao giờ cũng gắn liền với giải quyết tranh chấp. Trong khi bộ máy và
cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại truyền thống đã tương đối hoàn chỉnh thì trên thế giới
cũng như ở Việt Nam hầu như chưa xác lập được bộ máy và cơ chế giải quyết các tranh chấp phát
sinh trên cơ sở ứng dụng TMĐT.
Trong giai đoạn 2006 – 2010 cần xây dựng cơ chế, bộ máy giải quyết tranh chấp có hiệu quả
để sẵn sàng giải quyết một cách thoả đáng các tranh chấp phát sinh trong TMĐT thông qua các hình
thức như giải quyết tranh chấp qua cơ chế tự hoà giải, cơ quan trọng tài kinh tế, các cơ quan hành
chính hay toà án kinh tế hoặc toà án hành chính.
5.3. Quy định cơ quan chịu trách nhiệm thống kê về TMĐT, triển khai nhanh hoạt động thống kê về
TMĐT
- 20 -
Thống kê về TMĐT có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan nhà nước khi xây dựng chiến
lược, chính sách ở tầm vĩ mô cũng như đối với các doanh nghiệp khi xác định chiến lược kinh doanh
của mình. Thống kê tốt sẽ giúp các nhà làm chính sách xác định đúng đắn những ảnh hưởng hiện tại
và tiềm tàng của nền kinh tế số hoá, qua đó đánh giá được tác động của các chiến lược CNTT, từ đó
dẫn đến việc sửa đổi chiến lược sao cho khai thác được tối ưu tiềm năng kinh tế của những công
nghệ mới.
Chúng ta đã ban hành Luật Thống kê và đang tích cực triển khai luật này. Trong giai đoạn
2006 – 2010 cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê về nền kinh tế số hoá, giúp đánh giá một cách
toàn diện và có hệ thống việc ứng dụng TMĐT trên phạm vi toàn quốc, đồng thời quy định một cơ
quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về thống kê TMĐT.
6. Chủ động, tích cực tham gia hợp tác quốc tế về TMĐT và các chủ đề liên quan như thuận lợi
hoá thương mại và thương mại phi giấy tờ
TMĐT là kết tinh của hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá. Không một nước nào có thể
phát triển TMĐT nhanh và lành mạnh nếu không có sự hợp tác quốc tế một cách sâu sắc và toàn
diện về thương mại và các lĩnh vực khác như viễn thông, tài chính, hải quan, vận tải, v.v...
Một mặt, Việt Nam cần chủ động tham gia hợp tác quốc tế để mở rộng thị trường xuất khẩu
cho hàng hoá và dịch vụ của mình, thống nhất các chuẩn về công nghệ, thuế hải quan, bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, giải quyết tranh chấp, an toàn trong các giao dịch thương mại
sử dụng Internet, v.v... Mặt khác, thông qua hợp tác quốc tế chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của
các tổ chức quốc tế và các nước khác về đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ, chính sách, pháp luật,
v.v...
Trong hợp tác đa phương cần ưu tiên các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực như
WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ chức chuyên trách về thương mại của UN như UNCTAD,
UNCITRAL, AFACT. Trong hợp tác song phương cần ưu tiên hợp tác với các nước tiên tiến về
TMĐT và có quan hệ thương mại mật thiết với ta như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
- 21 -
Chương III
CÁC CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN
Một số chương trình, dự án cần được triển khai theo sáu chính sách lớn nhằm phát triển
nhanh và vững chắc TMĐT trong giai đoạn 2006 – 2010. Mỗi chương trình, dự án do một cơ quan
chủ trì và có thể có nhiều cơ quan phối hợp. Bộ Thương mại với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước
về TMĐT cùng phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các cơ quan chủ trì có trách
nhiệm xây dựng cụ thể nội dung, tiến độ và kinh phí cho từng chương trình, dự án.
I. PHỔ BIẾN, TUYÊN TRUYỀN VÀ ĐÀO TẠO VỀ TMĐT
Chương trình, dự án
Đơn vị
Năm
hoàn
thành
1 Phổ biến, tuyên truyền về TMĐT
1.1 Cho cộng đồng các doanh nghiệp Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam
(VCCI)
2010
Cho một số lĩnh vực
- Du lịch Tổng cục Du lịch
(TCDL)
2007
- Tài chính Bộ Tài chính (TC) 2007
- Vận tải Bộ Giao thông vận tải
(GTVT)
2007
-Văn hoá, Giải trí Bộ Văn hoá thông tin
(VHTT)
2007
- Phân phối Bộ Thương mại (TM) 2007
- Dệt may TM, Bộ Công nghiệp
(CN)
1.2 Cho các cán bộ lãnh đạo kinh tế TM,TC, Ngân hàng
Nhà nước (NHNN)
2007
1.3 Cho thanh niên ở các đô thị Hội Tin học chủ trì,
Đoàn thanh niên
2007
2 Phát triển nguồn nhân lực
2.1 Đào tạo chính quy tại các trường đại học, cao đẳng Bộ Giáo dục và Đào
tạo (GD)
2010
Đào tạo tại các trường dạy nghề Bộ Lao động (LĐ) 2010
2.2 Đào tạo cán bộ quản lý nhà nước
Về thương mại TM 2010
Về thuế, hải quan TC 2008
Các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ sản TM 2008
Ngân hàng NHNN 2008
An ninh Bộ Công an (CA) 2010
Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và Công
nghệ (KHCN)
2010
Bản quyền Bộ Văn hoá Thông tin
(VHTT)
2010
Giải quyết tranh chấp Bộ Tư pháp (TP), 2010
- 22 -
Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao (VKSTC),
Toà án Nhân dân Tối
cao (TATC)
Thống kê Tổng cục Thống kê
(TCTK), Bộ Bưu chính
Viễn thông (BCVT),
TM
2008
2.3 Vận động, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia đào tạo TM, BCVT,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(KHĐT)
2010
3 Tuyên truyền, hỗ trợ các doanh nghiệp lớn ứng dụng
TMĐT
Phổ biến về lợi ích của việc mua bán trực tuyến tự động
giữa các doanh nghiệp lớn (hình thức B2B
Integration)trong một số ngành như dệt may, điện tử, cơ
khí, xi măng, chế biến gỗ, v.v...
TM, NHNN, TC,
VCCI, Bộ Công nghiệp
(CN), Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT), Bộ Thuỷ
sản (TS)
2010
4 Phổ biến, tuyên truyền tới người tiêu dùng TM, VCCI,
Đài Tiếng nói VN,
Truyền hình VN
2007
Hỗ trợ các doanh nghiệp bán lẻ qua mạng Các Sở TM, Sở BCVT 2007
II. XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ CHO TMĐT
Chương trình, dự án Đơn vị Năm
hoàn
thành
1 Các văn bản pháp quy thừa nhận giá trị pháp lý của giao
dịch điện tử
Bộ Luật dân sự (sửa đổi)
Bổ sung quy định về hợp đồng điện tử
TP 2005
Luật Thương mại (sửa đổi)
Bổ sung quy định về giá trị pháp lý của thông điệp dữ
liệu trong các giao dịch thương mại
TM 2005 -
2006
Luật Giao dịch điện tử
Thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong
các giao dịch dân sự, bao gồm thương mại, và các giao
dịch hành chính.
Quốc Hội, TM,
BCVT, v.v...
2005 –
2006
2 Các văn bản pháp quy điều chỉnh các vấn đề cụ thể
Nghị định về hợp đồng điện tử trong thương mại
Hướng dẫn thực hiện Luật giao dịch điện tử và Luật
Thương mại (sửa đổi), Bộ Luật dân sự (sửa đổi)
TM 2006
Nghị định về chữ ký số và chứng thực điện tử BCVT 2005 -
2006
Nghị định về thanh toán điện tử NHNN 2006
Nghị định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực tài chính,
thuế, hải quan
TC 2006
Một số nghị định khác thực hiện Luật Giao dịch điện tử
trong các lĩnh vực kinh tế
GTVT, XD, v.v... 2007
Thông tư về đăng ký cấp phép đầu tư, thành lập doanh
nghiệp qua mạng
KHĐT 2007
Thông tư về đăng ký, cấp phép, chứng nhận xuất xứ hàng TM 2006
- 23 -
hoá, v.v... liên quan tới các thủ tục xuất nhập khẩu qua
mạng
3 Các văn bản pháp quy khác
Bộ Luật hình sự (sửa đổi)
Thêm chương mới về hình phạt đối với tội phạm trên
mạng, bao gồm tội phạm về TMĐT
Bộ Công an (CA) 2007
Nghị định về phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại (sửa đổi)
Thêm chương mới về phạt vi phạm hành chính trong
TMĐT
TM 2006
Nghị định về chứng cứ ở dạng thông điệp dữ liệu
Hướng dẫn thực hiện Bộ Luật tố tụng dân sự, quy định
các tiêu chuẩn thừa nhận chứng cứ ở dạng thông điệp dữ
liệu
CA 2006
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại về các quy
định bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia TMĐT
TM, Hội bảo vệ người
tiêu dùng
2006
Rà soát các quy định cản trở TMĐT
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam
thay đổi nhanh và liên tục. Cần rà soát thường xuyên sự
nhất quán của các quy định trong hệ thống các văn bản
này, phát hiện những quy định gây cản trở cho TMĐT và
thông báo, phối hợp giữa các cơ quan để sửa đổi.
TM, TP 2010
III. CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC ỨNG DỤNG VÀ CUNG CẤP CÁC DỊCH VỤ CÔNG HỖ
TRỢ TMĐT
Chương trình, dự án Đơn vị Năm
hoàn
thành
1. Ứng dụng TMĐT trong mua sắm chính phủ
Nghị định về mua sắm chính phủ
Quy định về nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước phải ứng
dụng TMĐT trong mua sắm công và quy định các thủ tục
liên quan
KHĐT 2007
Xây dựng tổ chức quản lý và hỗ trợ ứng dụng TMĐT
Thiết kế và duy trì Trang tin điện tử mua sắm quốc gia và
bắt buộc tất cả mua sắm công cấp chính phủ phải thông
báo mời thầu, xét thầu, v.v... tại trang tin này
KHĐT 2006
Các cơ quan nhà nước ở Trung ương ứng dụng TMĐT
trong mua sắm công
Tuỳ theo giá trị mua sắm hàng hoá và dịch vụ công, công
bố mời thầu, xét thầu, v.v... tại Trang tin điện tử mua sắm
quốc gia hoặc tại trang tin điện tử của cơ quan mình
GTVT, XD,
NN&PTNT, CN, TS,
CA, QP, v.v...
2007
Các cơ quan nhà nước ở địa phương ứng dụng TMĐT
trong mua sắm công.
Mỗi tỉnh, thành phố có Trang tin điện tử mua sắm công.
Tuỳ theo giá trị mua sắm hàng hoá và dịch vụ công, công
bố mời thầu, xét thầu, v.v... tại Trang tin điện tử mua sắm
quốc gia hoặc tại trang tin điện tử của tỉnh, thành phố
TP HCM, Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng, v.v...
2008
Xây dựng các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử trong mua TM, KHĐT 2008
- 24 -
sắm công
Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chuẩn trao đổi dữ
liệu điện tử, các hồ sơ, mẫu biểu chuẩn dạng điện tử sử
dụng trong mua sắm công từ Trung ương tới địa phương,
có tính tới sự khác biệt trong mua sắm công của từng
ngành, từng lĩnh vực.
2 Cung cấp trên mạng các dịch vụ công hỗ trợ TMĐT
Các thủ tục liên quan tới xuất nhập khẩu
Cung cấp trên mạng các dịch vụ đăng ký, cấp phép, chứng
nhận, v.v... liên quan tới xuất nhập khẩu, bao gồm nhiều
thủ tục chuyên ngành do các bộ quản lý như công nghiệp,
nông nghiệp, y tế, thuỷ sản, v.v...
TM chủ trì, CN,
N&PTNT, TS, v.v...
2010
Thủ tục khai báo và nộp thuế hải quan điện tử TC 2006
Thủ tục khai báo và nộp thuế điện tử TC 2007
Các thủ tục liên quan tới đầu tư điện tử
Đăng ký kinh doanh, phê duyệt dự án đầu tư từ có vốn từ
ngân sách nhà nước, v.v...
KHĐT 2008
IV. PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG KỸ THUẬT CHO TMĐT
Chương trình, dự án Đơn vị Năm
hoàn
thành
1 Thanh toán điện tử
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới
thanh toán điện tử, hướng dẫn các ngân hàng thương mại
và các tổ chức tín dụng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
NHNN 2007
2 Các biện pháp khuyến khích đầu tư và chuyển giao công
nghệ
Đầu tư vào kinh doanh dựa trên TMĐT TM 2010
Đầu tư vào công nghệ, phần mềm BCVT
2010
3 Hỗ trợ tham gia TMĐT
Hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng TMĐT thông qua các
ưu đãi về tín dụng và thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT,
v.v...
TC, TM
2008
4 Xây dựng các chuẩn trao đổi dữ liệu sử dụng trong TMĐT
Xây dựng các biểu mẫu chuẩn dạng điện tử cho các ngành
như thương mại, tài chính , vận tải, hải quan, v.v... Ứng
dụng mạnh mẽ các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử EDI và
ebXML.
TM, BCVT, KHCN 2010
5 Tiêu chuẩn hoá các văn bản, chứng từ sử dụng trong
TMĐT
TM 2007
6 Xây dựng đầu mối hậu cần (logistics) cho các hoạt động
thương mại, đặc biệt là xuất nhập khẩu
TM, TC, GTVT
2010
7 Xây dựng mạng kinh doanh điện tử cho một số ngành TM 2010
- 25 -
công nghiệp
V. THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
Chương trình, dự án Đơn vị Năm
hoàn
thành
1 Cơ chế, bộ máy thực thi quyền sở hữu trí tuệ, bí mật riêng
tư, bảo vệ người tiêu dùng
Quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm bản quyền KHCN, VHTT, CA,
TM
2010
Bí mật riêng tư CA 2010
Bảo vệ người tiêu dùng TM, Hiệp hội Bảo vệ
người tiêu dùng
2010
2 Giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp qua cơ quan hành chính, qua hoà
giải
Bước đầu thành lập một Ban hoà giải trong TMĐT cung
cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp trên mạng
TM 2006
Giải quyết qua trọng tài kinh tế Trọng tài kinh tế, VCCI 2008
Giải quyết qua toà án TP, TANDTC 2010
3 Thống kê về TMĐT
Xây dựng các tiêu chí thống kê trong lĩnh vực TMĐT. Tổ
chức thu thập số liệu thống kê và công bố rộng rãi.
TCTK, TM, BCVT 2010
VI. HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TMĐT
Chương trình, dự án Đơn vị Năm
hoàn
thành
1. Nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO đối với chính
sách TMĐT của Việt Nam
Tiếp tục theo dõi Quyết định của WTO về việc không áp
dụng thuế hải quan đối với ccs giao dịch điện tử qua biên
giới
TM 2006
2 Tham gia các hoạt động liên quan tới TMĐT, thương mại
phi giấy tờ và thuận lợi hoá thương mại trong APEC
TM, BCVT, CA,
KHCN
2010
3 Tham gia các hoạt động liên quan tới TMĐT trong ASEM TM, BCVT
2010
4 Tham gia các hoạt động liên quan tới TMĐT trong
ASEAN
Về khía cạnh thương mại TM 2010
Về khía cạnh kỹ thuật BCVT
2010
5 Hợp tác với các cơ quan chuyên môn liên quan tới TMĐT TM 2010
- 26 -
thuộc Liên Hợp quốc (UNCITRAL, UNCTAD, CEFACT,
AFACT, v.v...)
6 Hợp tác song phương với các nước và nền kinh tế
Thúc đẩy thương mại song phương, hài hoà các tiêu
chuẩn, tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, học tập kinh nghiệm xây
dựng chính sách và qui định pháp luật, v.v...
TM
7 Rà soát các quy định trong các hiệp ước quốc tế liên quan
tới TMĐT
Tiến hành nghiên cứu một cách thường xuyên các quy
định trong các hiệp ước của các tổ chức quốc tế, các hiệp
ước mà Việt Nam tham gia liên quan tới TMĐT. Đề xuất
việc thực thi và tham gia các hiệp ước quốc tế liên quan
tới TMĐT.
TP, TM 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử ở việt nam giai đoạn 2006 - 2011.pdf