Kế thừa quốc gia trong luật quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU Thế giới luôn vận động không ngừng. Cái cũ mất đi, cái mới xuất hiện. Tuy nhiên, cái mới không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có “sự kế thừa” những cái hay, cái tiến bộ của cái cũ để làm nấc thang bước lên (trong đó “ kế” nghĩa là kết nối; “thừa” là tiếp theo - Từ điển Từ và Ngữ Tiếng Việt của GS Nguyễn Lân). Với vai trò là hệ thống luật trên thế giới, luật quốc tế cũng có một chế định quy định về “ sự kế thừa”. Cụ thể tại kỳ họp XVI của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết về việc đưa vấn đề kế thừa vào danh mục những vấn đề trước mắt cần pháp điển hóa và ngày 22/8/1978 Công ước Viên về kế thừa, ngày 1/4/1978 Công ước Viên về kế thừa tài sản, hồ sơ lưu trữ và công nợ quốc gia được thông qua. Sở dĩ như vậy vì vấn đề kế thừa có vai trò ngày càng quan trọng trong sinh hoạt quốc tế, khi mà ngày càng có nhiều quốc gia giành lại được độc lập hay có thêm một số quốc gia được chia, tách, sáp nhập. Việc xác nhận một quốc gia có phải là quốc gia kế thừa của quốc gia trước đó hay không chẳng những ảnh hưởng đến riêng quốc gia mới đó mà còn có ý nghĩa quan trọng với nhiều quốc gia khác trên thế giới trong bối cảnh thế giới được coi là “phẳng” như hiện nay. Cho đến nay, kế thừa vẫn là một vấn đề phức tạp, còn nhiều cuộc tranh luận xung quanh nó. Nhìn chung trong các bộ phận của kế thừa có ba bộ phận cơ bản: kế thừa quốc gia, kế thừa chính phủ, kế thừa của các tổ chức quốc tế. Thứ nhất, kế thừa chính phủ là vấn đề phổ biến và có lẽ được các quốc gia nhất trí cao bởi hàng năm có rất nhiều chính phủ mới được bầu lên. Theo nguyên tắc đồng nhất và liên tục quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia, chính phủ mới hiển nhiên kế thừa quyền và nghĩa vụ của chính phủ trước đó (ngoại trừ trường hợp chính phủ mới được lập nên do cuộc cách mạng xã hội trong nội bộ quốc gia đó). Thứ hai, vấn đề kế thừa tổ chức quốc tế. Phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển cũng như mong muốn của các quốc gia trên thế giới đặc biệt từ sau Thế chiến Đệ nhị, các tổ chức quốc tế mới thật sự phát triển và phổ biến, phát huy được vai trò của mình. Kế thừa một tổ chức quốc tế tức là chấm dứt hoạt động của tổ chức đó và ra đời một tổ chức khác với chức năng tương tự. Vì các quốc gia thành viên là những “người” lập nên tổ chức đó, định ra vai trò, chức năng của tổ chức nên việc xem xét liệu tổ chức mới có kế thừa chức năng của tổ chức cũ hay không tùy thuộc vào các quốc gia thành viên. Do đó điều dễ hiểu là “ cho đến nay trong luật pháp quốc tế chưa có quy phạm chung quy định về sự kế thừa của các tổ chức quốc tế”. Thứ ba, vấn đề kế thừa quốc gia. Quốc gia được xem là chủ thể cơ bản của luật quốc tế, đóng vai trò là linh hồn trong luật quốc tế nên sự kế thừa quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quan hệ pháp luật quốc tế cũng như quan hệ giữa các quốc gia hiện nay. Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề về kế thừa quốc gia trong luật cũng như trong thực tiễn pháp lý quốc tế; đồng thời đề cập cụ thể về kế thừa quốc gia tại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay.

doc51 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11037 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế thừa quốc gia trong luật quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều có hiệu lực trong phân định ranh giới biển giữa hai nước có bờ biển đối diện. Trong thời gian từ năm 1977 đến năm 1982, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua một loạt các văn kiện pháp lý liên quan đến phần biển Việt Nam trong Vịnh. Đó là Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam và Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia ngày 7/7/1982. Trong các văn kiện này, Việt Nam đã không vạch một ranh giới chính thức nào cho thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Việt Nam nhấn mạnh sẽ cùng các quốc gia liên quan thông qua thương lượng trực tiếp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên. Ngày 22/11/1982, Bộ Ngoại giao Thái Lan tuyên bố phản đối tuyên bố đường cơ sở của Việt Nam và "bảo lưu mọi quyền mà luật quốc tế giành cho mình liên quan đến các vùng biển này và vùng trời trên đó".Ngày 19/8/1992, Thái Lan bổ sung các đá Ko Kra (8023'49" B 1000 44' 13'' Đ) và Ko Losin (70 10' 14'' B, 1010 59' 59'' Đ) vào hệ thống đường cơ sở của tuyên bố ngày 11/6/1970. Bang Cốc dường như đã đòi hỏi phải tính đến các đảo đá nhỏ chỉ nhô trên mặt nước 1,5 m, không người ở và không có một đời sống kinh tế riêng này trong phân định, trong khi lại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của các đảo xa bờ thuộc quốc gia khác như đảo Thổ Chu có diện tích khoảng 10 km2 và 500 - 600 dân, xứng đáng phải có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Trong vịnh Thái Lan, các phay chạy theo hướng Bắc - Nam tính từ Tây sang Đông bao gồm: bồn Champon, thềm Samui, bồn Tây, bồn Kra, đứt gãy ngầm Ko Kra và rãnh sâu Pattani có độ dày trầm tích 6 km được coi là khu vực triển vọng có dầu. Đường yêu sách năm 1971 do chính quyền Việt Nam Cộng hoà vạch bao gồm phần lớn phía Bắc và rìa ngoài của bồn Mã Lai, trong khi yêu sách của Thái Lan bao phủ phần Tây - Bắc. Phía Tây các lô 15, 16 và cấu trúc B, nơi có những phát hiện lớn về khí đều nằm chồng lên vùng Việt Nam yêu sách. Do vậy, các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong các lô này bị tạm thời gác lại. Nhằm khai thông quá trình thăm dò và khai thác dầu khí, Thái Lan đề nghị mở đàm phán với Việt Nam về vấn đề phân định biển. Thông cáo chung Việt Nam - Thái Lan ngày 12/1/1978 thể hiện hai nước đã đồng ý đàm phán về biên giới biển giữa họ. Tuy nhiên, sự bất đồng về việc giải quyết cuộc xung đột Campuchia đã gác lại vấn đề. Tháng 6/1990, Thái Lan cấp đặc nhượng 8.000 km2 cho CFP - Total, bao gồm lô Total-1-B14, Total-1-B15 và Total-1-B16 nằm chồng lên các lô 40, 46, 51, 54, 55 và 58 mà Việt Nam đã cấp cho Petrofina (Bỉ) vào cùng thời gian đó. Tháng 6/1993, Total đã khoan giếng Ton Sak - 1, một cấu tạo nằm ở phía Đông của mỏ Bongkot và nằm sát đường yêu sách 1971 của Việt Nam. Trong năm 1994, tổ hợp công ty này đã khoan tiếp các giếng Ton Sak - 3, 4, 5, gặp khí condensat. Tranh chấp giữa hai nước lại đẩy hai bên một lần nữa tới bàn đàm phán. Hơn nữa, sự thay đổi tình hình chính trị trong khu vực và nhu cầu khai thác tài nguyên thiên nhiên đặt ra những vấn đề cần giải quyết thông qua một giải pháp cho tranh chấp. Ngày 15/11/1990, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Thái Lan trong chuyến thăm chính thức Việt Nam đã đề nghị với Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một sự hợp tác chung phát triển dầu khí trong khu vực tranh chấp. Chuyến thăm Việt Nam ngày 17/9/1991, Thủ tướng Vương quốc Thái Lan cũng biểu lộ mong muốn giải quyết vấn đề phân định thềm lục địa giữa hai nước. Tháng 10 năm 1991, trong lần gặp đầu tiên tại Băng Cốc Thái Lan của Uỷ ban hỗn hợp Việt - Thái về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật, hai bên đã thông qua biên bản liên quan đến vấn đề phân định các vùng biển như sau: a) Hai bên cần hợp tác xác định ranh giới các vùng biển do hai nước yêu sách; b) Hai bên cần cố gắng phân định biên giới biển trong khu vực chồng lấn giữa hai nước; c) Một sự phân định như vậy không nên bao gộp các vùng chồng lấn do bất kỳ một nước thứ ba nào yêu sách. Hai bên cũng đồng ý rằng, trong khi chờ đợi một sự phân định như vậy, không có một hoạt động phát triển hay đặc nhượng nào trong khu vực chồng lấn cho bất kỳ nhà thầu nào. Hai bên sẽ thông báo cho nhau không có một hoạt động phát triển hay đặc nhượng nào trong khu vực Việt Nam yêu sách chồng lên vùng phát triển chung giữa Thái Lan và Malaixia. Trong bối cảnh đó, phía Thái Lan đề nghị trong trường hợp các cố gắng nêu ở điểm (b) thất bại thì hai bên có thể xem xét áp dụng khái niệm vùng phát triển chung phía Thái Lan. Phân định vùng đặc quyền kinh tế cũng nằm trong mối quan tâm của chính phủ hai nước. Việc đánh bắt cá bất hợp pháp của ngư dân Thái Lan trong các vùng biển của các nước láng giềng đã gây tổn hại không chỉ tới nguồn tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia này mà còn cả thanh danh của Chính phủ Thái Lan. Trong quan hệ với Việt Nam, Thái Lan đã nhiều lần thể hiện nguyện vọng ký kết một hiệp định về nghề cá và xác định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế. Đó là những biện pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn nạn đánh bắt cá bất hợp pháp. Ngày 23/2/1988, Vương quốc Thái Lan tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế của mình. Tuyên bố này không đưa ra một ranh giới thật sự nào của vùng đặc quyền kinh tế Thái Lan. Như vậy, giữa Thái Lan và Việt Nam có hai vấn đề cần giải quyết, đó là phân định thềm lục địa và phân định vùng đặc quyền kinh tế. Vịnh Thái Lan không sâu và có bề rộng không vượt quá 300 hải lý nên bản thân nó đã tạo ra một hoàn cảnh hữu quan. Đường phân chia sẽ được xác định chủ yếu căn cứ vào các hoàn cảnh địa lý.Do được đánh giá có tiềm năng dầu khí trên một thềm lục địa duy nhất trong Vịnh, hai bên hữu quan, Việt Nam và Thái Lan, đều có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc sản xuất dầu khí, có cùng mối quan tâm giành được phần thềm lục địa nhiều nhất có thể. Hơn nữa, các bên không quên giành được sự kiểm soát tối đa cột nước phía trên thềm lục địa phân chia, một vùng biển quan trọng đối với công nghiệp đánh bắt cá. Rõ ràng vùng đặc quyền kinh tế đóng một vai trò không thể bỏ qua trong phân định thềm lục địa. Ngày 7 - 10/9/1992, cuộc họp cấp chuyên viên đầu tiên về phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được tiến hành tại Băng Cốc. Phía Việt Nam đề nghị phân chia vùng chồng lấn hình thành giữa hai đường 1971 và 1973, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt với Điều 74 và 83 của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 về phân định theo nguyên tắc công bằng. Phía Thái Lan đòi hỏi lấy đường 1973 làm cơ sở phân định, đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh đường 1971. Nói cách khác, Thái Lan không chấp nhận sự tồn tại vùng chồng lấn giới hạn bởi các đường 1971, 1973 và hiệu lực của đảo Thổ Chủ trong phân định. Cuộc họp tiếp theo tại Hà Nội từ ngày 20 - 23/5/1993, nhằm thúc đẩy đàm phán, phía Việt Nam đã đề nghị chia 50/50 vùng chồng lấn 1971 - 1973, nhưng phía Thái Lan vẫn giữ lập trường cũ.Tới vòng đàm phán III từ ngày 10 - 13/1/1995, phía Thái Lan đã thể hiện có chuyển biến tích cực khi không bác bỏ đường 1971, và nêu nguyên tắc "mọi đường phân chia phải phản ánh một giải pháp công bằng" - nguyên tắc mà phía Việt Nam đã đề cập đến ngay từ đầu.Như vậy, hai bên đã thống nhất cần áp dụng nguyên tắc công bằng trong phân định để đi đến một giải pháp công bằng. Hai bên đều đồng ý áp dụng phương pháp trung tuyến trong phân định. Tuy nhiên, hai bên lại có bất đồng sâu sắc trong việc giải thích thế nào là công bằng, cần phải tính đến các yếu tố công bằng nào trong phân định và đường trung tuyến được tính giữa bờ và bờ hay giữa đảo và đảo. Phân định thềm lục địa Việt Nam - Thái Lan chính là giải quyết sự không thống nhất giữa các bên về xác định hiệu lực của các đảo. Điều này thể hiện cuộc đấu tranh pháp lý dai dẳng giữa các bên trong suốt các vòng đàm phán tiếp theo: vòng IV từ ngày 5 - 9/6/1995, vòng V từ ngày 28 - 31/8/1995. Phía Việt Nam, căn cứ Điều 121 Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 cho rằng, quần đảo Thổ Chu mà đảo lớn nhất là đảo Thổ Chu có diện tích khoảng 10 km2 và 500 - 600 dân xứng đáng phải có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Các đá Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan chỉ nhô trên mặt nước 1,5 m, không có người ở và không có một đời sống kinh tế riêng, nên không thể được coi như đảo Thổ Chu. Các đá này nằm cách bờ biển Thái Lan 26 và 37 hải lý. Phía Thái Lan cho rằng vị trí quần đảo Thổ Chu, nằm cách đảo Phú Quốc 55 hải lý, tạo một hiệu lực sai lệch đường biên giới biển có thể. Thái Lan công nhận đảo có quyền có hiệu lực nhưng không phải là một hiệu lực toàn phần. Theo Thái Lan, vấn đề xác định hiệu lực đảo trong phân định còn rất khác nhau, chưa có một tiêu chuẩn thống nhất, thể hiện qua thực tiễn quốc tế và các phán quyết của Tòa án pháp lý quốc tế. Thái Lan đề nghị cho đảo Thổ Chu hưởng 25 - 30% hiệu lực và chấp nhận dành tối đa cho phía Việt Nam 30% diện tích vùng chồng lấn. Tuy nhiên tới vòng VI, những biến chuyển chính trị trên chính trường Thái Lan đã tác động đến tình hình đàm phán.Sau khi quan hệ giữa hai nước phát triển thêm với chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Thái Lan tháng 3 năm 1997 và kết quả kỳ họp lần thứ nhất của Uỷ ban Hỗn hợp Việt - Thái về hợp tác kinh tế cũng như thiết lập trật tự trên biển và nghề cá, đàm phán đã tiến triển trở lại. Trong cuộc đàm phán nối lại vòng VIII tại Đà Lạt, từ ngày 30/5 - 3/6/1997, hai bên đã đồng ý giải quyết đồng thời cả hai vấn đề phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế bằng một đường ranh giới duy nhất.Khu vực phân định mà Hiệp định ngày 9/8/1997 điều chỉnh được xác định trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc không nên bao gộp các vùng chồng lấn do bất kỳ một nước thứ ba nào yêu sách. Khu vực này được giới hạn ở phía Bắc và phía Nam bằng các đường yêu sách 1971, 1973. Phía Tây được giới hạn bởi đường "dàn xếp tạm thời" giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia năm 1991 trong một tuyên bố chung thoả thuận hai bên không tiến hành bất kỳ hoạt động phát triển dầu khí nào ở ngoài đường trung tuyến giữa Thổ Chu và Poulo Wai cho đến khi có một giải pháp cuối cùng. Phía Đông được giới hạn bởi ranh giới khu vực phát triển chung Thái Lan - Malaixia năm 1979. Tuy nhiên Việt Nam bảo lưu quyền của mình trong vùng chồng lấn ba bên Việt Nam - Th ái Lan - Malaixia. Việc lấy ranh giới khu vực phát triển chung Thái Lan - Malaixia làm ranh giới cho vùng cần giải quyết chỉ có ý nghĩa là mọi giải pháp giữa Việt Nam và Thái Lan không gây ảnh hưởng gì tới yêu sách của Malaixia, bên thứ ba, trong vùng này. Sau chín vòng đàm phán, hai bên đã đi đến thoả thuận: 1. Đường phân chia thoả thuận là một đường thẳng kẻ từ điểm C (70 49'0" B, 103002'30" Đ), tới điểm K (8046'54"B; 102012'11"Đ). Điểm C chính là điểm nhô ra nhất về phía Bắc của khu vực phát triển chung Thái Lan - Malaixia được xác định rõ trong bản ghi nhớ ngày 21/2/1979, và trùng với điểm 43 của đường yêu sách thềm lục địa của Malaixia năm 1979. Điểm K nằm trên đường thẳng cách đều Thổ Chu và Poulo Wai, đây là đường "dàn xếp tạm thời" Việt Nam - Campuchia năm 1991. Với hiệu lực 32,5% của đảo Thổ Chu, đường phân định thoả thuận này trên thực tế cho thấy Việt Nam được hưởng 1/3 diện tích và Thái Lan được hưởng 2/3  diện tích vùng chồng lấn. 2. Đường biên giới biển CK tạo thành biên giới phân định thềm lục địa giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan, đồng thời cũng là đường phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước. Mỗi bên ký kết đều thừa nhận các quyền chủ quyền và tài phán của bên kia trên vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế nằm trong phạm vi đường biên giới biển được xác lập bởi Hiệp định. 3. Trong trường hợp có cấu trúc dầu hoặc khí duy nhất hoặc mỏ khoáng sản có tính chất bất kỳ nào nằm vắt ngang đường biên giới thì hai bên phải có trách nhiệm trao đổi thông tin, cùng tìm kiếm thoả thuận sao cho các cấu trúc hoặc mỏ này được khai thác một cách hiệu quả nhất và chi phí cũng như lợi tức từ việc khai thác sẽ được phân chia một cách công bằng. 4. Hai bên cũng cam kết sẽ tiến hành đàm phán với Malaixia về khu vực yêu sách thềm lục địa chồng lấn giữa  ba nước, nằm trong vùng phát triển chung Thái Lan - Malaixia được xác định bởi Bản ghi nhớ giữa Vương quốc Thái Lan và Malaixia về thành lập cơ quan quyền lực chung khai thác tài nguyên đáy biển trong khu vực thềm lục địa xác định của hai nước trong vịnh Thái Lan, ký tại Chiềng Mai ngày 21/2/1979. Hiệp định ngày 9/8/1997 đã mở ra một trang mới không chỉ trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam - Thái Lan mà cả trong lịch sử phân định vịnh Thái Lan. Hiệp định bao gồm những điểm nổi bật sau: - Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong vịnh Thái Lan. Ngoài tranh chấp giữa Việt Nam và Thái Lan, vẫn tồn tại vấn đề phân định biển giữa Việt Nam - Campuchia, Campuchia - Thái Lan, Việt Nam - Thái Lan - Malaixia và Việt Nam - Campuchia - Thái Lan.- Đây là hiệp định về phân định biển đầu tiên được ký kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực, đồng thời cũng là hiệp định về phân định toàn bộ các vùng biển đầu tiên trong khu vực. Trong khu vực, đã có Hiệp định về phân định thềm lục địa giữa Inđônêxia và Malaixia ngày 27/10/1969 và ngày 21/12/1971, phân định thềm lục địa giữa Inđônêxia và Thái Lan ngày 17/12/1971 và phân định thềm lục địa giữa Thái Lan và Malaixia ngày 21/12/1971; Bản ghi nhớ Thái Lan - Malaixia ngày 21/2/1979 về thiết lập Cơ quan quyền lực chung nhằm khai thác tài nguyên đáy biển trong khu vực xác định trong vịnh Thái Lan, Hiệp định về khai thác chung Việt Nam - Malaixia ngày 5/6/1992, nhưng đây là lần đầu tiên có một hiệp định phân chia cả thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước thành viên ASEAN có tranh chấp biển. - Hiệp định này đã khẳng định xu thế có thể thoả thuận về một đường biên giới biển duy nhất phân định đồng thời thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong các vùng biển không rộng quá 400 hải lý giữa các bờ biển đối diện nhau. - Cùng với việc ký kết Hiệp định về phân định, hai Chính phủ còn đạt được thoả thuận về hợp tác bảo đảm an ninh trên biển và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật trong vịnh thông qua việc tổ chức tuần tra chung giữa Hải quan Thái Lan và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; tổ chức tuyên truyền, giáo dục ngư dân hai nước tôn trọng quy định về đánh cá và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật. - Quá trình yêu sách kéo dài từ những năm 1971, 1973, nhưng quá trình đàm phán để đạt được hiệp định giải quyết vấn đề đã được tiến hành trong một thời gian ngắn. Trong vòng năm năm, từ 1992 đến 1997, với chín vòng đàm phán, hai bên đã nhanh chóng đi đến kết quả cuối cùng, thể hiện thiện chí của cả hai nước Việt Nam - Thái Lan, tinh thần hợp tác phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Nên nhớ Thái Lan và Malaixia đã mất hơn 10 năm đàm phán để tìm một giải pháp cho tranh chấp thềm lục địa giữa họ trên vùng chồng lấn rộng 7.250 km2. Năm 1979, họ mới đạt được một thoả thuận về thành lập Cơ quan quyền lực chung phát triển chung vùng chồng lấn đó và phải tới năm 1992 cơ quan này mới được thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Việc giải quyết một cách nhanh chóng và chính xác vấn đề phân chia vùng chồng lấn đã thể hiện quyết tâm của hai nước trong khu vực trong việc thực thi Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, mà Việt Nam và Thái Lan đều là các nước thành viên. - Đối với Việt Nam, đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được với các nước láng giềng. Việt Nam là nước có số lượng các tranh chấp biển liên quan nhiều nhất trong số các tranh chấp biển của khu vực. Hiệp định ngày 26/7/1997 có tác động nhất định thúc đẩy các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp biển giữa Việt Nam với các nước hữu quan trên tinh thần khoản 7, Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. - Hiệp định phân định biển này tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước Việt Nam - Thái Lan, góp phần đảm bảo ổn định an ninh trật tự trên biển, đẩy mạnh sản xuất dầu khí giữa hai nước. 2.6. Với Philippin: Philippin vốn là nước không có quyền gì đối với quần đảo Trường Sa vì Hiệp định Paris năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban Nha theo đó Tây Ban Nha giao Philippin cho Mỹ đã xác định phạm vi quần đảo Philippin trên bản đồ kèm theo Hiệp định, theo bản đồ đó nước Philippin không bao gồm 1 đảo nào của quần đảo Trường Sa. Từ năm 1951, Philippin bắt đầu chuẩn bị dư luận để nhẩy vào tranh chấp quần đảo Trường Sa với lời tưyên bố của Tổng thống Philippin Quirino rằng quần đảo Spratly (tức Trường Sa) phải thuộc về Philippin vì nó ở gần Philippin. Từ năm 1971-1973, Philippin cho quân đội ra chiếm đóng 5 đảo trên quần đảo Trường Sa và năm 1977-1978 chiếm thêm hai đảo nữa. Cả 7 đảo nằm ở phía Bắc quần đảo. Họ ra sức cửng cố vị trí trên quần đảo: Chở đất ra đảo để trồng dừa, cạp thêm đất ra biển để làm đường băng cho máy bay chiến đấu mở đường hàng không thường kỳ, tổ chức đánh cá, xây dựng kho ướp lạnh, tổ chức thăm dò, khai thác dầu khí ở Đông Bắc quần đảo (có tin nói là sản lượng dầu khai thác ở đây đảm bảo 10% nhu cầu dầu của Philippin). Đầu năm 1979, Philippin công bố sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11/6/1978 coi toàn bộ quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa) là lãnh thổ Philippin và đặt tên cho quần đảo là Kalayaan. Năm 1980 Philippin mở rộng lấn chiếm xuống phía Nam quần đảo, chiếm đóng đảo Công Đo cách đảo gần nhất mà họ chiếm đóng cũ gần 150 hải lý. Từ năm 1978 đến 1994 Việt Nam và Philippin đã thoả thuận ở cấp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Thủ tướng Chính phủ, Tổng thống và Chủ tịch nước là sẽ giải quyết mọi tranh chấp giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình trên tinh thần hữu nghị, hoà giải, tin cậy lẫn nhau. Ngày 7/11/1995 hai Bộ Ngoại giao Việt Nam – Philippin đã đạt được thoả thuận về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản đối với vùng tranh chấp trong đó có các điểm chính là: - Hai bên đồng ý thông qua thương lượng, hoà bình tìm kiếm giải pháp cơ bản cho vấn đề tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. - Kiềm chế không sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực, thúc đẩy hợp tác song phương hoặc đa phương về bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, khí tượng, chống thảm hoạ, tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển và kiểm soát ô nhiễm môi trường, bảo vệ tài nguyên biển Ở quần đảo Trường Sa. - Bảo đảm tự do hàng hải theo quy định của luật quốc tế. - Từng bước tăng cường hợp tác và giải quyết dút điểm tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Cuối tháng 4 đầu tháng 5/1996, hai bên đã thực hiện thành công chuyến khảo sát chung về khoa học biển tại khu vực quần đảo Trường Sa và Biển Đông. Hai bên sẽ tiếp tục tổ chức khảo sát khoa học chung trên khu vực quần đảo và trên Biển Đông. Uỷ ban hỗn hơp Việt Nam – Philippin do Bộ trưởng Ngoại giao hai nước dẫn đầu họp tại Hà Nội tháng 1/1997 đã thoả thuận về một số biện pháp xây dựng lòng tin trên quần đảo, trong đó có việc trao đổi các cuộc viếng thăm của các chỉ huy quân sự và lực lượng đồn trú của hai bên trên quần đảo. 2.7 Với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: Năm 1957-1958, có sự trao đổi giữa Trung ương Đảng hai nước về biên giới. Ngày 2/11/1957 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị: "Vấn đề biên giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại do Chính phủ hai nước quyết định; nhất thiết cấm các nhà chức trách và các đoàn thể địa phương không được thương lượng với nhau để cắm lại mốc giới hoặc cắt nhượng đất cho nhaư" .  Hàm ý của bức thư là hai bên cần căn cứ vào các Công ước về hoạch định biên giới mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế kỷ trước để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước. Tháng 4/1958 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trả lời đồng ý với ý kiến của Trung ương Đảng Việt Nam về công tác biên giớl Việt – Trung. Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới giữa hai nước là về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ 15/8/1974 – 22/11/1974 tại Bắc Kinh, cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc đàm phán mới chỉ có tính cách tìm hiểu quan điểm của nhau và không đi tới thoả thuận nào. Cuộc đàm phán thứ hai về biên giới là về đường biên giới trên bộ và về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ tháng 10/1977 đến tháng 6/1978 tại Bắc Kinh, cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Cuộc đàm phán này cũng không đi tới thoả thuận nào. Từ tháng 2 năm 1979 đến 1986 diễn ra chiến tranh và xung đột quân sự trên vùng biên giới đặc biệt là trên biên giới các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, ác liệt và kéo dài nhất là Ở biên giới tỉnh Hà Giang. Từ năm 1991 hai nước khôi phục quan hệ bình thường. Qua hai vòng đàm phán về biên giới cấp chuyên viên và một vòng đàm phán cấp Chính phủ trong hai năm 1992, 1993, ngày 19/10/1993 hai nước ký "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa". Thực hiện thoả thuận trên, hai bên đã tổ chức 3 diễn đàn đàm phán cấp chuyên viên: về biên giới trên bộ; về biên giới trong Vịnh Bắc bộ; về các vấn đề trên Biển Đông và một diễn đàn đàm phán cấp Chính phủ để xem xét các vấn đề do các nhóm chuyên viên trình lên. 2.7.1. Về biên giới trên bộ Thực hiện thoả thuận ngày 19/10/1993 là căn cứ vào các Công ước 1887 và 1895 mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế kỷ trước để "xác định lại toàn đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc", hai bên đã họp 12 vòng nhóm công tác về biên giới trên bộ trước năm 2000.[4] 2.7.2. Về đường biên giới trong Vịnh Bắc Bộ Hai bên đã họp 10 vòng nhóm công tác về Vịnh Bắc bộ và 6 vòng tổ chuyên gia về Vịnh Bắc BỘ để thực hiện thoả thuận về nguyên tắc phân định Vịnh Bắc bộ là "áp dụng luât biển quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế, để tiến hành đàm phán phân định Vịnh Bắc bộ", "theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh Bắc bộ để đi đến một giải pháp công bằng". Cuộc đàm phán có tiến triển và hai bên đang cùng cố gắng để có thể ký Hiệp ước về phân định Vịnh Bắc bộ cũng trước năm 2000. Vấn đề lớn nhất màhai bên phải giải quyết là vấn đề hiệu lực các đảo ven bờ của Việt Nam và đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng 130 km 2.7.3. Về các vấn đề trên Biển Đông Trên Biển Đông, vấn đề tranh chấp phức tạp và quan trọng nhất là về hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bởi vì hai quần đảo giữ một vị trí chiến lược trọng yếu trên Biển Đông. Nếu như nước ngoài chiếm cả hai quần đảo thì nước Việt Nam không còn thế đứng trên Biển Đông và bị bao vây trên hướng biển. Quần đảo Hoàng Sa bao gồm trên 30 đảo, bãi, đá ngầm trên một vùng biển rộng khoảng 15.000 – 16.000 km2 cách Đà Nẵng khoảng 170 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo, bãi, đá ngầm trên vùng biển rộng khoảng 160.000 – 180.000 km2, đảo gần nhất của quần đảo cách Vũng Tầu khoảng 250 hảì lý. (Trung Quốc quan niệm quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều quan niệm của ta là điểm cực Nam của quần đảo Trường Sa là 6050′ Bắc trong khi Trung Quốc coi điểm cực Nam của quần đảo Trường Sa là 40 Bắc giáp Bornéo). Theo những tài liệu chính thức, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo từ thế kỷ thứ 17, tiếp đó Chính quyền Đông Dương đã củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: thành lập bộ máy hành chính thuộc hai tỉnh Thừa Thiên và Bà Rịa, cho cảnh sát ra đồn trú, lập đài khí tượng, trạm vô tuyến điện, xây đèn biển. Cho đến đầu thế kỷ 20 không có nước nào tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam. Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905 tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến Hải Nam. Trung Quốc địa lý học Giáo khoa thư xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18013′ Bắc". Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas) làm cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên Biển Đông. Tháng 5 năm 1909 Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn phái đô đốc Lý Chuẩn đem 3 pháo thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo trên quần đảo Hoàng Sa rồi về . Năm 1921 Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam. Từ đó bắt đầu có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 trên quần đảo Trường Sa. Năm 1935 lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ có cả 4 quần đảo trên Biển Đông là của Trung Quốc (công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 còn viết rằng: "Các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc xa nhất về phía Nam"). Nếu không có chiến tranh thế giới thứ hai thì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là liên tực và thật sự từ thế kỷ 17. Nhưng năm 1939, Nhật Bản đã chiếm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Pháp và đã biến quần đảo Trường Sa thành căn cứ hải quân trong chiến tranh thế giới thứ hai. Tháng 11/1943, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ, Anh, Trung (Tổng thống Roosevelt, Thủ tướng Churchill, Tổng thống Tưởng Giới Thạch) họp tại Cairo có bàn về các lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc. Tuyên bố của Hội nghị viết: "Các vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc phải trả lại cho Trung Quốc gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ". Như vậy rõ ràng là cả 3 người đứng đầu 3 cường quốc trong đó có Tổng thống Trung Hoa Tưởng Giới Thạch đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc. Tháng 7, tháng 8 năm 1945 Tuyên ngôn của Hội nghị Potsdam với sự tham gia của 4 nước Mỹ, Anh, Trung, Liên Xô lại viết: "Các điều khoản của bản tuyên bố Cairo sẽ được thi hành". Như vậy cả 4 cường quốc trong đó có Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ Trung Quốc. Năm 1947, cuốn Nam Hải chư đảo địa lý Chí lược do Bộ Nội Chính Trung Hoa Dân Quốc xuất bản có bản đồ "Nam hải chư đảo vị trí lược đồ" thể hiện một đường 11 đoạn coi 80% Biển Đông và cả 4 quần đảo trên Biển Đông là thuộc Trung Quốc. Năm 1950 trên bản đồ Trung hoa Nhân dân Cộng hoà Quốc phân tỉnh tinh đồ có một phụ đồ thể hiện quốc giới của Trung Quốc gồm 11 đoạn coi cả 4 quần đảo và 80% Biển Đông là lãnh thổ Trung Quôc. Điểm cực nam của Trung Quốc là 4o Bắc giáp Bornéo.. Ngày 15/8/1951, Chu Ân Lai Thủ tướng Trung Quốc tuyên bố: "Các quần đảo Tây Sa và Nam sa cũng như các quần đảo Đông Sa và quần đảo Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc." Năm 1951 tại Hội nghị San Francisco với sự tham gia của 51 nước, đại biểu Liên Xô đã đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc, đề nghị này đã bị Hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và văn kiện của Hội nghị ký ngày 8/9/1951 chỉ ghi về hai quần đảo là "Nhật bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với 2 quần đảo". Tại Hội nghị này, ngày 7/9/1951 Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã trịnh trọng tuyên bố "Khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam đối với các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa".  Đối với Tuyên bố đó không một nước nào phản đối hoặc bảo lưu. Như vậy là Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận hai quần đảo không phải là lãnh thổ Trung Quốc. Trong Hoà ước giữa Trung Quốc và Nhật Bản ngày 28/4/1952, Trung Quốc ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco mà không hề yêu cầu Nhật Bản trả lại cho Trung Quốc hai quần đảo. Tuy vậy, trên thực tế, lợi dụng tình hình Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, năm 1956 Trung Quốc cho quân đội ra chiếm nhóm phía đông quần đảo Hoàng Sa, Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa. Tháng Giêng năm 1974, lợi dụng tình hình Mỹ phải rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc dùng một lực lượng hải quân, không quân quan trọng đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa khi đó do quân đội của Chính quyền Sài Gòn bảo vệ. Chính quyền Sài Gòn đã liên lạc với Mỹ yêu cầu giúp đỡ.  Theo báo cáo của Trần Kim Phượng, Đại sứ Sài gòn tại Mỹ ngày 2/2/1974 thì "Ngoại trưởng Kissinger chỉ coi cuộc tranh chấp đảo Hoàng Sa như là một vấn đề ngoài lề thậm chí là điều bất lợi trong khung cảnh của sự phối hợp với Trung Cộng để hạn chế Băc Việt Nam" và phía Mỹ "không muốn nhúng tay vào". Thái độ của Mỹ khiến cho ông Nguyễn Văn Thiệu phải bộc lộ lo ngại với các cận thần về khả năng Trung Cộng sẽ đánh Trường Sa và chiếm Par Force giống như Paracel (có Complicité hoặc bằng Laisser-faire của Mỹ), những chữ Pháp nói trên là theo bút tích của ông Thiệu. Năm 1988 Trung Quốc lại huy động lực lượng không quân, hải quân tấn công chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, từ đó ra sức củng cố các điểm này làm bàn đạp cho những bước tiến mới. Ở Trung Quốc đã có những dư luận về những bước tiến tiếp bằng vũ lực trên quần đảo khiến cho năm 1997 hai tác giả người Mỹ Humphrey Hawksley và Simon Holberton đã viết cuốn Dragon Strike coi là "một lời cảnh báo" về "một sự kiện lịch sử sắp diễn ra trong vài năm sắp tới".  "Tuy chỉ là một kịch bản suy tưởng nhưng dựa trên hàng trăm sự kiện có thật xảy ra những năm qua và trong những ngày gần đây. Vì vậy nó cung cấp cho các nhà chiến lược của nhiều quốc gia một tầm nhìn và nhiều điều đáng suy nghĩ". Và ở Trung Quốc năm 1993 hai tác giả Hiểu Bình và Thanh Ba đã biên soạn và xuất bản cuốn "Quân đội Trung Quốc liệu có đánh thắng trong cuộc chiến tranh tới không?". Cuốn sách viết: "Nếu nhà cầm quyền Việt Nam không có nhượng bộ gì trong vấn đề Nam Sa thì Trung Quốc và Việt Nam nhất định sẽ có đánh nhau"; "Thập kỷ 90 là thời kỳ then chốt để giải quyết vấn đề Nam Sa. Thời kỳ này qua đi, có thể Trung Quốc sẽ mất một dịp may lịch sử". Cuốn sách còn cho biết rằng năm 1992, một hội nghị quân sự của Trung Quốc họp ở miền Nam Tnmg Quốc đã định ra những nguyên tắc tác chiến, kết hợp thủ đoạn đánh và doạ, "nhanh chóng … đánh đuổi quân chiếm đóng nước ngoài ra khỏi Nam Sa (tức Trường Sa)". Tình hình tranh chấp phức tạp trên Biển Đông khiến cho dư luận quốc tế lo ngại, ngày 22/7/1992, các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao các nước thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã ra tuyên bố của Hiệp hội ASEAN về vấn đề Biển Nam Trưng Hoa, bản tuyên bố viết: "Cho rằng các vấn đề Biển Nam Trung Hoa chứa đựng những vấn đề nhạy cảm thuộc về chủ quyền và quyên tài phán của các bên ưực tiếp liên quan. Lo ngạì rằng bất kỳ diễn biến có tính chất thù địch nào trong Biển Nam Trung Hoa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoà bình và sự ổn định trong khu vực. Dưới đây: 1. Nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết bằng phương thức hoà bình, không dùng vũ ìực, đối với tất cả các vấn đề liên quan đến chủ quyền và quyền tài phán trong Biển Narn Trung Hoa. 2. Khẩn thiết yêu cầu các bên liên quan tự kiềm chế, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc giải quyết tận gốc tất cả các cuộc tranh chấp." Trong tuyên bố ngày 10/5/1995, Mỹ cũng tỏ ra lo ngại về tình hình khu vực và "cực lực phản đối việc sử dụng vũ lực hay đe doạ để giải quyết những yêu sách đối nghịch". Về phía Việt Nam, chúng ta kiên trì thực hiện nguyên tắc đã thoả thuận ngày 19/10/1993 là "tiếp tực đàm phán về các vấn đề trên biển (Biển Đông) để đi đến một giải pháp cơ bản lâu dài. Trong khi đàm phán giải quyết vấn đê, ai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực". Tuyên bố của Quốc hội Việt Nam tháng 6/1994 nhân dịp phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển đã cụ thể hoá quan điểm của Việt Nam về vấn đề Biển Đông là: "Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền và quyền tàí phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa, trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để từn gìảì pháp cơ bản, lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực". Quốc hội Việt Nam nhấn mạnh: "Cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước của Liên Hơp quốc về Luật biển năm 1982". Sở dĩ có điều nhấn mạnh này là để đối phó với sự việc năm 1992 Trung Quốc đã ký với Công ty Crestone của Hoa Kỳ cho công ty này thăm dò khai thác một lô rộng 25.500 km2 trên thềm lục địa Việt Nam cách đường cơ sở của Việt Nam 84 hải lý và cách Hải Nam 570 hải lý. Theo tin nước ngoài ngày 4/12/1996 Công ty Benton Oil và Gas có trụ sở ở Califomia đã mua lại Công ty Crestone với giá 15,45 tnệu USD vâ do đó đã thay thế Công ty Crestone trong quan hệ với Trung Quốc để thực hiện hợp đồng mà Crestone đã ký với Trung Quốc. Ngày 10/6/1994 Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn tuyên bố rằng lô Thanh long, phía Tây khu vực Tư Chính cách đảo Hòn Hải nằm trên đường cơ sở của Việt Nam 90 hải lý cũng thuộc chủ quyền của Trung Quốc vì đó là vùng phụ cận của quần đảo Nam Sa. Về yêu sách của Trung Quốc đối với thềm lục địa Việt Nam ở khu vực Tư Chính, Thanh Long, xin giới thiệu một số ý kiến của Luật sư Brice Clagett Văn phòng luật sư Covington và Burling ở Washington đăng trên tạp chí Dầu mỏ và khí đốt của Anh (các số 10 và 11 năm 1995) để tham khảo, Clagett viết: "Lô Thanh Long nằm ngay trên thềm lục địa Việt Nam, thậm chí cả trong nghĩa hẹp của từ ngữ này"; "Theo bất kỳ định nghĩa nào về thềm lục địa hoặc theo bất kỳ quan điểm hơp lý nào của Luật quốc tế, yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực Thanh long là lố bìch", "Có thể kết luận rằng yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực Tư Chính cũng bất hợp lý không hơn không kém yêu sách của họ đối với khu vực Thanh Long. Khu vực Tư Chính tiếp giáp với khu vực Thanh Long về phía Đông, nằm chủ yếu trên dốc lục địa và (có lẽ) bờ lục địa của Víệt Nam. Khu vực Tư Chính bắt đầu từ quãng đường đẳng sâu 150m và tựt xuống rồi kết thúc ở khu vực đồng bằng ở sâu 1800-2000m tách khỏi đảo Trường Sa". "Bờ dốc của đảo Trường Sa nằm đối diện chứ không tiếp liền với bờ dốc của lục địa Việt Nam". "Yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử và quyền đối với hầu hết Biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại và không thể được coi là một vấn đề luật pháp nghiêm chỉnh". Chúng ta đang cố gắng cùng Trung Quốc thực hiện "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ" giữa hai nước, thực hiện quyết tâm của lãnh đạo hai nước là đẩy nhanh tiên tnnh đàm phán nhằm sớm đi đến ký Hiệp ước về biên giới trên bộ và Hiệp ước phân định Vịnh Bắc bộ để khi bước sang thế kỷ 21 hai nước Việt Nam và Trung Hoa đã có biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu aài trên đất llền và ở Vịnh Bắc bộ, đồng thời kiên trì đàm phán về các vấn đề trên Biển Đông để đi đến một giải pháp cơ bản, lâu dài. chúng ta cững chân thành và kiên trì thực hiện thoả thuận "Trong khi đàm phán giải quyết vấn đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực". Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, giữ vững vị trí của nước Việt Nam trên Biển Đông là một cuộc đấu tranh kết hợp các hoạt động của tất cả các ngành trong đó mặt pháp lý là rất quan trọng, một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài nhưng vô cùng quan trọng và thiêng liêng của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc. Các ngành trong nước đang cùng nhau thực hiện ý kiến thống nhất trong Hội nghị biển toàn quốc tháng 2/1995 là: "Chúng ta phải thức tỉnh ý thức về biển của cả dân tộc, làm chủ được biển của mình, phát triển mạnh mẽ kinh tế biển gắn liền với bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi của nước ta trên biển, một lần nữa vươn lên trở thành một quốc gia mạnh về biển ở Đông Nam Á " . 3. Kế thừa về tài sản: 3.1. Năm 1945: Kế thừa toàn bộ tài sản trong phạm vi lãnh thổ khi giành độc lập, và tài sản ở nước ngoài có nguồn gốc từ Việt Nam. Khi đánh đuổi được thực dân đô hộ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kế thừa toàn bộ tài sản còn lại trong phạm vi lãnh thổ là thuộc địa mà không được đòi Pháp phải trả lại những gì mà Pháp đã khai thác, lấy đi của Việt Nam trong thời gian đô hộ. Đồng thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kế thừa toàn bộ tài sản trong phạm vi lãnh thổ thuộc chủ quyền của triều đình phong kiến và tài sản ở nước ngoài có nguồn gốc từ lãnh thổ này. Vấn đề tài sản được nói đến trong Sắc lệnh của chủ tịch nước số ngày 3 tháng 10 năm 1945- Chủ tịch lâm thời chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam: “Nay bãi bỏ tất cả các công sở và các cơ quan trước thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương (các Sở lớn chung cho toàn hạt Đông Dương và các Sở phụ thuộc Phủ Toàn quyền) đã thiết lập hoặc ở Hà Nội, hoặc ở Sài Gòn, hoặc ở Đà Lạt, hoặc ở các nơi khác thuộc địa hạt Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ nước Việt Nam. Những bất động sản và động sản (dinh thự, nhà cửa, của cải, đồ đạc, hàng hoá, khí cụ, tài liệu, đồ dùng phòng giấy, v.v...) của tất cả những công sở kể trên đều phải giữ nguyên vẹn và chuyển giao, cùng với những nhân viên hiện tòng sự tại đấy, sang các Bộ của Chính phủ lâm thời Việt Nam…” Trên thực tế, khi rút quân khỏi Việt Nam quân Pháp đã phá hoại nhiều công trình, tài sản quan trọng. Chẳng hạn, khi lực lượng cách mạng vào tiếp quản Ngân hàng thì chỉ còn 1 triệu đồng tiền Đông Dương rách nát. 3.2. Năm 1975: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được kế thừa toàn bộ lãnh thổ từ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Trước hết chúng ta hãy xem xét việc giải quyết quyền kế thừa sau khi giải phóng miền Nam Việt Nam, vấn đề này được ghi nhận trong một số văn bản pháp lý của Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.Ví dụ: Tuyên bố ngày 30-4-1975 của Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về quyền thu hồi tất cả tài sản của nhân dân miền Nam Việt Nam ở nước ngoài có ghi: “Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố tất cả tài sản ở miền Nam Việt Nam cũng như ở nước ngoài, những bất động sản, tiền tệ, vàng bạc, các phương tiện giao thông v.v… trước thuộc chính quyền Sài Gòn từ nay thuộc về nhân dân miền Nam Việt Nam và do Chính phủ lâm cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý. Đây là quyền kế thừa về tài sản bất khả xâm phạm của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được pháp luật quốc tế công nhận”. Hoặc trong tuyên bố ngày 1-5-1975 về vấn đề các cơ quan đại diện của chính quyền Sài Gòn cũ ở nước ngoài có ghi: “Toàn bộ tài sản của các cơ quan đó, kể cả hồ sơ, tài khoản ngân hàng, nhà cửa, phương tiện vận chuyển v.v… là tài sản của nhân dân miền Nam Việt Nam. Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý tất cả hồ sơ, tư liệu và tài sản đó”. 4.Kế thừa quy chế thành viên: Khi các nước Đồng minh thành lập LHQ với khoá họp đầu tiên ngày 10 tháng 1 năm 1946 tại London, ngày 14 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhân danh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nộp đơn xin gia nhập LHQ. Do tương quan lực lượng tại LHQ và trên thực tế khi đó Việt Nam chưa được nước nào trên thế giới công nhận nên việc gia nhập LHQ chưa thể thực hiện được. Việt Nam tiếp tục đấu tranh tự giải phóng. Với “thắng lợi Điện Biên chấn động địa cầu”, Việt Nam đã giành được độc lập, giải phóng một nửa đất nước, đồng thời góp phần làm tan rã chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới, tạo điều kiện cho hàng loạt các nước khác được “trao trả độc lập” theo Nghị quyết 1514 của Đại Hội đồng LHQ. Năm 1960 được gọi là “Năm Châu Phi” với 16 nước châu Phi được trao trả độc lập và tham gia LHQ . Trong khi đó Việt Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường với sách lược sáng suốt “đánh cho Mỹ cút, Nguỵ nhào”, hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và chính thức gia nhập LHQ, điều mà Bác Hồ từ rất sớm đã mong muốn “đưa Việt Nam sánh vai cùng cường quốc 5 châu”. 9 giờ sáng ngày 20 tháng 9 năm 1977, lễ thượng cờ Việt Nam được chính thức tổ chức tại cửa chính trụ sở LHQ. Chủ tịch Đại Hội đồng, Tổng Thư ký LHQ, đoàn đại biểu Việt Nam do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh dẫn đầu cùng đại diện Việt kiều và bạn bè Mỹ đã dự buổi lễ. Đúng như dư luận quốc tế đã thừa nhận, Việt Nam đã vào LHQ “bằng cổng trước” ,trở thành thành viên thứ 149 của Liên Hợp Quốc và cho đến ngày nay Việt Nam vẫn là thành viên. Ngày 8 – 9 – 1954, 8 nước Australia, Pháp, Anh, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thái Lan và Mĩ đã kí kết tại Manila (thủ đô Philippin) cái gọi là “Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á” và thành lập “Tổ chức hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á” (viết tắt theo tiếng Anh là SEATO). SEATO là một liên minh chính trị - quân sự do đế quốc Mĩ cầm đầu, được lập ra sau thất bại của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược ba nước Đông Dương năm 1954, nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc đang ngày càng dâng cao ở Đông Nam Á, đặc biệt là chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội đang ngày càng lan rộng ở khu vực này. Trong cuộc chiến tranh xâm lược ba nước Đông Dương (1954 – 1975) SEATO đã trở thành chỗ dựa cho việc thực hiện những ý đồ chiến lược chính trị, quân sự của đế quốc Mĩ. Mĩ đã đưa Việt Nam Cộng Hòa vào làm thành viên của khối SEATO. Năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam lên tiếp quản miền Nam, từ bỏ tư cách thành viên và rút khỏi tổ chức này. 5. Kế thừa điều ước quốc tế: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là một sự kiện lịch sử trọng đại, một biến cố vĩ đại. Dân tộc Việt Nam một lúc thực hiện 2 sứ mệnh lịch sử đó là đấu tranh giải phóng dân tộc; đồng thời là cuộc cách mạng xã hội lật đổ chế độ phong kiến đã tồn tại hơn 1000 năm. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Ðình (Hà Nội), khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có quyền kế thừa quốc gia theo những quy chế pháp lý quốc tế. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nêu quan điểm chính thức của mình về các điều ước đang có hiệu lực vào thời điểm kế thừa với tư cách là một quốc gia vừa mới dành độc lập, đó là trong Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, có ghi: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng từ chối các quyền và nghĩa vụ của nhà nước phông kiến trước đó vì nó mâu thuẫn với bản chất của nhà nước mới. Tuy nhiên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn tôn trong các qui định trong các điều ước về lãnh thổ. Lực lượng cách mạng Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ cách mạng lâm thời Miên Nam Việt Nam và sự chi viện của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Miên Bắc đã tiến hành thành công cuộc cách mạng xã hội, thay thế chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lên nắm chính quyền ở Miền Nam Việt Nam. Sau đó ngày 2 tháng 7 năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tự giải tán và chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của một quốc gia Việt Nam thống nhất. Lúc này vấn đề kế thừa cũng được đặt ra cho Việt Nam. Tính đến năm 1974 thì Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập bang giao với 86 quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức. Lập trường ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa là không chấp nhận bang giao với chính phủ nào muốn công nhận chính phủ của Mặt trận Giải phóng miền Nam. Các mối quan hệ chủ yếu xoay quanh vấn đề Chiến tranh Việt Nam, và quốc gia thân thiết với Việt Nam Cộng hòa phải kể đến Mĩ. Hỗ trợ tài chính của Mĩ cho Việt Nam Cộng hòa chính là các khoản viện trợ kinh tế bao gồm viện trợ thương mại (nhằm hỗ trợ nhập khẩu và hỗ trợ ngân sách nhà nước), viện trợ nông phẩm (dưới hình thưc hiện vật là các lương thực và thực phẩm), viện trợ theo dự án (có thể bằng tiền hoặc hiện vật cho từng dự án cụ thể trong các lĩnh vực hành chính, xã hội, kinh tế-văn hóa). Nếu xét theo tính chất cho vay hoặc cho không, thì phần lớn viện trợ kinh tế của Mỹ cho VNCH là viện trợ cho không (không hoàn lại), viện trợ cho vay trong 20 năm từ 1955 đến 1975 chỉ chưa đến 200 triệu USD. Các khoản cho vay lớn của Mỹ giúp VNCH đóng tiền gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế (4 triệu USD năm 1956), đổi mới hệ thống viễn thông (6,8 triệu USD năm 1958-1959), phát triển đội tàu hỏa (9,7 triệu USD năm 1959, 9,7 triệu USD năm 1961), mở rộng hệ thống dẫn nước từ sông Đồng Nai về Sài Gòn (17,5 triệu USD năm 1960), xây dựng một nhà máy nhiệt điện ở Thủ Đức (12,7 triệu USD năm 1961), hỗ trợ chương trình Người cày có ruộng (5 triệu USD năm 1970). Cho đến khi sụp đổ, Việt Nam Cộng hòa còn nợ Hoa Kỳ 145 triệu USD. Với sự kiện 30/4/1975, miền Nam Việt Nam được tiếp quản bởi chính quyền lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Miền Nam và miền Bắc hợp lại ngày 2 tháng 7 năm 1976 thành một đất nước thống nhất: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Sau năm 75, các mối quan hệ ngoại giao trước đó của Việt Nam Cộng Hòa bị cắt đứt hoàn toàn, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thời gian này chỉ đặt mối quan hệ với các nước theo Xã hội Chủ nghĩa. Các Điều ước quốc tế do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ký kết trước đó đều xem như vô hiệu (trừ các ĐƯQT về biên giới lãnh thổ). 6. Những kết quả đạt được sau kế thừa quốc gia: Như vậy, nhà nước ta đã có sự chọn lọc trong quá trình thừa kes quốc gia, đã kiên quyết đoạn tuyệt với tất cả những quyền và nghĩa vụ mâu thuẫn với bản chất Xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới để xây dựng đất nước phát triển vững mạnh. Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta vẫn luôn tôn trọng các quy định trong những điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ, kế thừa toàn bộ dân cư, tài sản và một số quy chế thành viên vì chúng phù hợp và cần thiết để xây dựng đất nước phát triển, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, không có tên trên bản đồ thế giới, ngày nay đã trở thành một nước độc lập có chủ quyền, có quyền dân tộc tự quyết, quyền lựa chọn, quyết định thể chế chính trị của mình. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã gia nhập vào nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như: Liên Hợp Quốc, APEC, ASEAN, đặc biệt là trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO, trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kì 2008 – 2009,… Về kinh tế: Sau ba năm gia nhập WTO, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong lĩnh vực kinh tế được nâng cao. Việt nam được đánh giá như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Đông Nam Á. Nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới đều đánh giá Việt Nam là nền kinh tế mới, năng động và phát triển nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Chẳng hạn, nhịp độ tăng trưởng chưa tương xứng với khả năng, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, cơ chế quản lý quản lý kinh tế còn nhiều bất cập… Đẩy lùi được những vấn đề còn tồn tại này sẽ giúp quá trình phát triển của đất nước ta tiến nhanh hơn nữa trong bước đường hội nhập. Về chính trị: Việt Nam được xem là một trong những quốc gia có nên chính trị ổn định nhất trên thế giới, trong bối cảnh có rất nhiều thế lực thù địch trong và ngoài nước tìm mọi cách chống phá Đảng và Nhà Nước ta. Về văn hóa – xã hội: Trong tiến trình hội nhập toàn cầu, chúng ta chủ trương tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Về đối ngoại: Đảng và Nhà nước ta chủ trương chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả các nước trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỉ XX và những kế thừa từ sau thắng lợi đó, Việt Nam đã trở thành một nước độc lâp, tự do, phát triển theo con đường Xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta đã thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Đất nước ta đã bước vào thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa và đạt được nhiều thành tựu to lớn. KẾT LUẬN Vấn đề kế thừa quốc gia là một trong những lĩnh vực gây tranh cãi nhất trong luật quốc tế và ngày càng trở nên quan trọng vì hơn bao giờ hết nó ảnh hưởng đến nhiều nước và các mối quan hệ pháp lý. Chính vì thế, với đề tài nghiên cứu “Kế thừa quốc gia và vấn đề kế thừa quốc gia của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay”, chúng tôi mong muốn tìm hiều sâu hơn về vấn đề kế thừa quốc gia, trang bị cho mình nền tảng kiến thức về các vấn đề kế thừa quốc gia nói riêng và luật quốc tế nói chung. Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu này có thể giúp các bạn sinh viên quan tâm tìm hiểu về “Kế thừa quốc gia” có một cái nhìn khái quát nhất và có nhìn nhận khách quan hơn về “Kế thừa quốc gia” trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay. Với kiến thức còn hạn chế và thời gian không cho phép cũng như khó khăn trong việc tìm kiếm những tài liệu liên quan, đề tài của chúng tôi vẫn còn gặp nhiều thiếu sót, nhưng với sự nỗ lực làm việc của cả nhóm, chúng tôi mong muốn nhận đuợc những đánh giá, nhận xét của Giảng viên hướng dẫn và góp ý của các bạn sinh viên để nhằm hoàn thiện đề tài. Danh mục tài liệu tham khảo: Văn bản pháp luật: Công ước Viên 1978 Sách tham khảo: Trường ĐH Luật Hà Nội, “Giáo trình Luật quốc tế”, NXB Công An Nhân Dân 2008 Viện Nhà nước & Pháp luật, “Những vấn đề lý luận cơ bản về Luật quốc tế”, NXB Chính trị quốc gia 1994 Các trang web: www.sinhvienluat.vn/diendan/archive/index.php/f-109.htm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKế thừa quốc gia trong luật quốc tế.doc
Luận văn liên quan