ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự phát triển của tiến bộ xã hội, tự do kết hôn đã trở thành một giá trị cơ bản
của quyền con người. Chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, trải qua 3 lần lập pháp,
đều nhất quán khẳng định mục tiêu xây dựng chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững làm nền tảng cho sự phát triển của tiến
bộ xã hội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng
toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, đời sống hôn nhân và gia đình Việt Nam đang
đứng trước sự phát sinh những hiện tượng hôn nhân không bình thường của việc lợi
dụng quyền tự do kết hôn nhằm hướng đến các quan hệ lợi ích. Trong đó, hiện tượng
kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế với những động thái rõ nét biểu hiện
trong khoảng một thập kỷ qua có thể coi là ví dụ điển hình về sự tác động tiêu cực của
mặt trái kinh tế thị trường đối với quan hệ hôn nhân. Đây thực sự là một vấn đề xã hội
phức tạp trong sự quan tâm của dư luận xã hội cũng như các cơ quan quản lý nhà
nước, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần xem xét, giải quyết từ giác độ tư pháp
quốc tế.
II. THỰC TRẠNG KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÌ MỤC ĐÍCH KINH TẾ
1. Tổng quan: Bối cảnh và tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam từ
năm 1995 đến nay
Năm 1995 được coi là dấu mốc quan trọng trong sự vận động, phát triển của các hiện
tượng hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam bởi đây là năm đầu tiên thực hiện
Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định chi tiết về thủ tục đăng
ký kết hôn, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
– văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam quy định thống nhất thủ tục pháp lý để xác
lâp các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, vốn là các quan hệ dân sự
rất nhạy cảm và có ý nghĩa chính trị – xã hội quan trọng. Văn bản này là sự cụ thể
hoá chính sách đối ngoại rộng mở và quan điểm tôn trọng, bảo hộ các quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài của Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định trong Pháp
lệnh về Hôn nhân và Gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm
1993. Trong bối cảnh thuận lợi về mặt pháp lý như vậy, từ năm 1995 đến nay các
quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài đã gia tăng nhanh
chóng và phân thành 2 nhóm như sau:
(1) Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người Việt Nam ở nước ngoài (gọi
tắt là Việt kiều) chiếm khoảng 45% tổng số, trong đó chủ yếu là với Việt kiều cư trú
tại Hoa Kỳ, Đức, Úc, Canada. Số công dân Việt Nam kết hôn với Việt kiều tại Pháp
trong giai đoạn từ 1995 đến 2002 chỉ khoảng 1.500 trường hợp.
(2) Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài chiếm khoảng
55% tổng số với hơn 40 quốc tịch khác nhau (công dân Pháp kết hôn với công dân
Việt Nam chỉ khoảng 1.000 trường hợp từ năm 1995 đến 2002).
Cùng với những biến động nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thuộc 2 nhóm trên không chỉ ngày càng tăng
nhanh về số lượng mà còn ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và bộc lộ những hiện
tượng tiêu cực. Trong đó, nếu như nhóm (1) có hiện tượng “kết hôn giả” với Việt kiều
nhằm hợp pháp hoá việc xuất cảnh và định cư ở nước ngoài thì ở nhóm (2), hiện
tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan vì mục đích kinh tế (hiện nay việc
kết hôn với người Hàn Quốc cũng có xu hướng tương tự) lại trở thành vấn đề bức xúc
trong dư luận xã hội.
7 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2888 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế - Thực trạng và những vấn đề tư pháp quốc tế cần giải quyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÌ MỤC ĐÍCH KINH TẾ - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ CẦN GIẢI QUYẾT NGUYỄN QUỐC CƯỜNG
Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp
Bộ Tư pháp Việt Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự phát triển của tiến bộ xã hội, tự do kết hôn đã trở thành một giá trị cơ bản
của quyền con người. Chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, trải qua 3 lần lập pháp,
đều nhất quán khẳng định mục tiêu xây dựng chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững làm nền tảng cho sự phát triển của tiến
bộ xã hội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng
toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, đời sống hôn nhân và gia đình Việt Nam đang
đứng trước sự phát sinh những hiện tượng hôn nhân không bình thường của việc lợi
dụng quyền tự do kết hôn nhằm hướng đến các quan hệ lợi ích. Trong đó, hiện tượng
kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế với những động thái rõ nét biểu hiện
trong khoảng một thập kỷ qua có thể coi là ví dụ điển hình về sự tác động tiêu cực của
mặt trái kinh tế thị trường đối với quan hệ hôn nhân. Đây thực sự là một vấn đề xã hội
phức tạp trong sự quan tâm của dư luận xã hội cũng như các cơ quan quản lý nhà
nước, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần xem xét, giải quyết từ giác độ tư pháp
quốc tế.
II. THỰC TRẠNG KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÌ MỤC ĐÍCH KINH TẾ
1. Tổng quan: Bối cảnh và tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam từ
năm 1995 đến nay
Năm 1995 được coi là dấu mốc quan trọng trong sự vận động, phát triển của các hiện
tượng hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam bởi đây là năm đầu tiên thực hiện
Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định chi tiết về thủ tục đăng
ký kết hôn, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
– văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam quy định thống nhất thủ tục pháp lý để xác
lâp các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, vốn là các quan hệ dân sự
rất nhạy cảm và có ý nghĩa chính trị – xã hội quan trọng. Văn bản này là sự cụ thể
hoá chính sách đối ngoại rộng mở và quan điểm tôn trọng, bảo hộ các quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài của Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định trong Pháp
lệnh về Hôn nhân và Gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm
1993. Trong bối cảnh thuận lợi về mặt pháp lý như vậy, từ năm 1995 đến nay các
quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài đã gia tăng nhanh
chóng và phân thành 2 nhóm như sau:
(1) Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người Việt Nam ở nước ngoài (gọi
tắt là Việt kiều) chiếm khoảng 45% tổng số, trong đó chủ yếu là với Việt kiều cư trú
tại Hoa Kỳ, Đức, Úc, Canada. Số công dân Việt Nam kết hôn với Việt kiều tại Pháp
trong giai đoạn từ 1995 đến 2002 chỉ khoảng 1.500 trường hợp.
(2) Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài chiếm khoảng
55% tổng số với hơn 40 quốc tịch khác nhau (công dân Pháp kết hôn với công dân
Việt Nam chỉ khoảng 1.000 trường hợp từ năm 1995 đến 2002).
Cùng với những biến động nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thuộc 2 nhóm trên không chỉ ngày càng tăng
nhanh về số lượng mà còn ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và bộc lộ những hiện
tượng tiêu cực. Trong đó, nếu như nhóm (1) có hiện tượng “kết hôn giả” với Việt kiều
nhằm hợp pháp hoá việc xuất cảnh và định cư ở nước ngoài thì ở nhóm (2), hiện
tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan vì mục đích kinh tế (hiện nay việc
kết hôn với người Hàn Quốc cũng có xu hướng tương tự) lại trở thành vấn đề bức xúc
trong dư luận xã hội.
2. Động thái và đặc điểm của hiện tượng kết hôn với người nước ngoài vì mục đích
kinh tế.
2.1 Động thái
Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài và xuất cảnh ra sinh sống ở nước ngoài vốn
dĩ được nhìn nhận như một hiện tượng tất yếu về sự chuyển dịch nhân khẩu trong xu
thế toàn cầu hoá. Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng, có thời kỳ tăng đột biến, tạo
thành “làn sóng” phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan từ năm 1995 đến nay trở thành
hiện tượng xã hội bất bình thường bởi phần lớn việc xác lập các quan hệ hôn nhân này
xuất phát từ mục đích kinh tế.
Từ năm 1993, do Chính phủ Đài Loan xét duyệt nghiêm ngặt việc kết hôn với người
Trung Quốc, đồng thời thực hiện “chính sách hướng Nam”, trong đó tập trung các hoạt
động đầu tư, thương mại vào Việt Nam nên xu hướng lấy vợ là người nước ngoài của
nam giới Đài Loan có sự chuyển dịch sang Việt Nam. Tuy nhiên chỉ từ năm 1995 thì
hiện tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan mới tăng nhanh tại Thành phố
Hồ Chí Minh, đồng thời lan rộng ra các tỉnh phía Nam. Thống kê theo số liệu đăng ký
kết hôn đã được giải quyết thì trong thời gian 8 năm (1995-2002) đã có 55.765
trường hợp đăng ký kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan, chiếm 86,2%
tổng số phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và 48,1% tổng số công dân
Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Số lượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người
Đài Loan tăng mạnh trong thời gian 3 năm từ năm 2000 đến năm 2002, chiếm 68%
tổng số trường hợp đã được đăng ký kết hôn trong 8 năm. Số trường hợp phụ nữ Việt
Nam kết hôn với người Đài Loan của từng năm và diễn biến tình hình 8 năm qua cụ
thể như sau:
Năm 1995: 1.365 trường hợp
Năm 1996: 2.754 trường hợp
Năm 1997: 3.248 trường hợp
Năm 1998: 4.506 trường hợp
Năm 1999 : 7.179 trường hợp
Năm 2000: 12.419 trường hợp
Năm 2001: 11.771 trường hợp
Năm 2002: 12.523 trường hợp
Số lượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan tập trung chủ yếu tại 12 tỉnh,
thành phố phía Nam: Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Tây Ninh, Đồng Nai, Đồng
Tháp, An Giang, Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Sóc Trăng. Số
lượng giải quyết tại 12 tỉnh nói trên chiếm 89% tổng số đã giải quyết trên toàn quốc
trong 8 năm qua, trong đó riêng số lượng giải quyết tại Thành phố Hồ Chí Minh chiếm
22% và tỉnh Cần Thơ chiếm 17% tổng số phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan
trên cả nước.
Từ cuối năm 2002 đến nay tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan có
xu hướng giảm mạnh tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng đồng thời vẫn tiếp tục tăng
nhanh tại một số tỉnh như Cần Thơ, Tây Ninh, Đồng Tháp, Bạc Liêu. Trong 6 tháng
đầu năm 2003, 11 tỉnh, thành phố phía Nam đã giải quyết 4.500 trường hợp, trong đó
số lượng giải quyết của Cần Thơ chiếm 24%, Tây Ninh: 22%, Đồng Tháp: 17%, còn số
lượng giải quyết tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 7%.
2.2 Một số đặc điểm nổi bật của hiện tượng kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế
Về chủ thể: Việc kết hôn với người nước ngoài vì lợi ích kinh tế có đặc thù là chỉ
diễn ra giữa phụ nữ Việt Nam với nam giới nước ngoài (mà ở đây tập trung chủ yếu là
nam giới Đài Loan, và hiện nay có xu hướng mở rộng với cả nam giới Hàn Quốc).
a. Một số đặc điểm nhân thân của phụ nữ kết hôn với người Đài Loan vì mục đích
kinh tế:
o Đại đa số các cô gái lấy chồng Đài Loan đều có trình độ văn hoá thấp, không
có khả năng sử dụng ngoại ngữ (tiếng Hoa, hoặc tiếng Anh) để giao tiếp với
người nước ngoài; cư trú ở khu vực nông thôn thuộc các tỉnh, thành phố phía
Nam.
o Hầu hết chị em kết hôn với người Đài Loan ở độ tuổi rất trẻ (từ 18 đến 20 tuổi) và là kết hôn lần thứ nhất.
o Có hình thức ưa nhìn.
o Phần lớn không có việc làm, hoặc công việc không ổn định để có thu nhập nuôi sống bản thân.
Yếu tố “kết hôn vì mục đích kinh tế” trong quan hệ giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan được nhìn nhận với tính chất 2 chiêù như sau:
b. Về phía phụ nữ Việt Nam: Lợi ích kinh tế cụ thể mà chị em hướng đến khi quyết
định kết hôn với người Đài Loan là:
o Có ngay một khoản tiền nhận được từ người phối ngẫu để hỗ trợ gia đình (khoản tiền này thường nằm trong toàn bộ chi phí kết hôn mà chú rể phải gánh chịu);
o Được xuất cảnh cùng chồng ra nước ngoài và có một cuộc sống sung túc
hơn, đỡ thiếu thốn, vất vả hơn;
o Có tiền để gửi về giúp đỡ cha mẹ.
Một bộ phận không nhỏ phụ nữ sống trong hoàn cảnh kinh tế gia đình nghèo khó, dẫn
đến tâm lý phổ biến là hy vọng việc kết hôn với người Đài Loan sẽ giúp thay đổi hoàn
cảnh sống và tạo điều kiện giúp đỡ gia đình bớt khó khăn về kinh tế. Không ít chị em
quyết định kết hôn với người nước ngoài trong tình trạng gia đình đang túng quẫn,
thiếu nợ. Trong tình trạng ấy, viẹc kết hôn với người nước ngoài để có ngay một khoản
tiền là biện pháp duy nhất được chọn lựa để giúp gia đình giải quyết ngay những khó
khăn trước mắt.
Vì sự hứa hẹn của những lợi ích kinh tế nên cũng có không ít những trường hợp phụ
nữ tuy hoàn cảnh sống không khó khăn, thậm chí khá giả nhưng vẫn lựa chọn việc kết
hôn với người Đài Loan. Kết quả nghiên cứu chọn mẫu về hoàn cảnh sống của phụ nữ
lấy chồng Đài Loan tại một số xã nơi bùng phát “làn sóng” kết hôn với người Đài Loan
những năm gần đây như sau:
o Tại xã Bàu Đồn, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh có tổng số 122 phụ nữ kết hôn
với người Đài Loan, trong đó: 34% xuất thân nghèo (42/122), 16% xuất thân
hoàn cảnh sống trung bình (19/122), 43% xuất thân hoàn cảnh sống khá giả
(53/122), 7% xuất thân từ các hộ giàu (8/122);
o Tại xã An Hoà (huyện Trảng Bàng) có 60 trường hợp phụ nữ kết hôn với
người Đài Loan, trong đó: 38% xuất thân nghèo (23/60), 37% xuất thân hoàn
cảnh sống trung bình (22/60), 12% xuất thân hoàn cảnh sống khá giả (7/60),
3% xuất thân từ các hộ giàu (2/60).
c. Về phía nam giới Đài Loan: Việc kết hôn với phụ nữ Việt Nam không tốn nhiều
chi phí, phù hợp với khả năng tài chính của số đông chàng rể Đài Loan thuộc tầng
lớp công nhân, nông dân hoặc thị dân nghèo. Chi phí trung bình để kết hôn với phụ
nữ Việt Nam chỉ tốn từ 7.000 đến 8.000 USD, trong khi để kết hôn với phụ nữ Đài
Loan hoặc phụ nữ Trung Quốc đại lục chi phí này tốn gấp nhiều lần. Mức thu nhập
khiêm tốn của bộ phận nam giới Đài Loan thuộc tầng lớp công nhân, nông dân hoặc
thị dân nghèo khiến họ rất khó khăn để tìm được bạn đời bản xứ, trong khi chỉ với
một khoản chi phí không quá tốn kém (so với mức thu nhập tại Đài Loan) thì nếu
tới Việt Nam họ có thể dễ dàng kết hôn với một phụ nữ có nhiều ưu điểm thu hút sự
lựa chọn của nam giới Đài Loan như: hình thức ưa nhìn, khoẻ mạnh, có khả năng
sinh con duy trì nòi giống, chịu khó lao động, không đòi hỏi nhiều về vật chất.
Việc kết hôn thông qua môi giới, đa số cô dâu Việt Nam không có điều kiện tìm
hiểu về người chồng Đài Loan:
Hầu hết các quan hệ hôn nhân Đài – Việt được xác lập thông qua hoạt động môi giới
của các cá nhân, tổ chức. Hoạt động môi giới hôn nhân bất hợp pháp là nguyên nhân
trực tiếp tạo nên sự “thương mại hoá” và những hiện tượng tiêu cực trong quan hệ
hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan. Các cá nhân, tổ chức môi giới
hoạt động chuyên nghiệp thu được lợi nhuận rất cao từ việc trục lợi đối với cả người
Đài Loan và phụ nữ Việt Nam. Để tận thu lợi nhuận từ hoạt động môi giới hôn nhân,
một số cá nhân, tổ chức đã thiết lập những đường dây làm dịch vụ khép kín có sự
tham gia của cả người Việt và người Đài Loan để thực hiện từ việc tuyển chọn, tập hợp
chị em phụ nữ từ các vùng nông thôn về Thành phố Hồ Chí Minh, nuôi ăn ở, giới thiệu,
quảng cáo hình ảnh cho nam giới Đài Loan xem mặt, tổ chức đưa người có nhu cầu
sang Việt Nam theo đường du lịch để chọn vợ và lo luôn thủ tục đăng ký kết hôn. Để
đáp ứng nhu cầu chọn vợ của người Đài Loan, các đường dây này hướng vào đối tượng
chị em phụ nữ trẻ ở vùng nông thôn, có nhan sắc, hoàn cảnh khó khăn, không có việc
làm, dụ dỗ, hứa hẹn và ràng buộc chị em phải kết hôn với người Đài Loan bằng các
thủ đoạn như: ứng trước các loại chi phí; cho cha mẹ vay trước một khoản tiền để giải
quyết công việc cấp bách để có cớ o ép cha mẹ phải gả con cho người Đài Loan...
Trong những trường hợp này phẩm giá của chị em phụ nữ bị xâm phạm nghiêm trọng
vì bị các cá nhân, tổ chức biến thành món hàng mà người Đài Loan được quyền lựa
chọn. Hoạt động bất hợp pháp của các đường dây này vừa xâm hại mục tiêu xây dựng
chế độ hôn nhân tốt đẹp của Nhà nước ta, vừa gây mất trật tự an ninh, xã hội.
Bên cạnh hình thức môi giới có tổ chức như trên, trong những năm gần đây hoạt động
môi giới có tính chất đơn lẻ, tự phát của cá nhân phát triển rất mạnh. Người thực hiện
hình thức môi giới này chủ yếu là các cô gái đã lấy chồng Đài Loan giới thiệu họ hàng
thân thích, bạn bè hoặc các chú rể Đài Loan giới thiệu cho bạn bè mình sang Việt Nam
kiếm vợ. Hình thức môi giới này hiện đang chiếm ưu thế do tạo được niềm tin đối với
cả phía người Đài Loan và phụ nữ Việt Nam. Đây chính là nguyên nhân cơ bản đưa
đến hiện tượng giảm cục bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh và tăng đột biến tại một số
tỉnh từ năm 2002 đến nay.
Việc kết hôn diễn ra vội vã, chóng vánh:
Chỉ một bộ phận nhỏ phụ nữ Việt Nam có điều kiện trực tiếp quen biết, có thời gian
tìm hiểu trước khi đi đến quyết định kết hôn với người Đài Loan. Phần lớn các trường
hợp kết hôn với người Đài Loan, thời gian từ khi nam giới Đài Loan lần đầu tiên gặp
mặt và đồng ý chọn người phối ngẫu cho đến khi làm đám cưới và hoàn thành thủ tục
đăng ký kết hôn rất ngắn, trong khoảng thời gian đó cô dâu chỉ gặp được chú rể vài
lần. Thông qua hoạt động môi giới, chú rể Đài Loan chủ động lựa chọn cô dâu Việt
Nam còn cô dâu Việt Nam không có điều kiện tìm hiểu về người sẽ kết hôn với mình.
Kết quả phỏng vấn 44 phụ nữ đang làm thủ tục đăng ký kết hôn với người Đài Loan
cho thấy tính đến thời điểm làm thủ tục đăng ký kết hôn 60% cô dâu Việt Nam mới chỉ
gặp mặt người chồng Đài Loan được 2 lần (chủ yếu là một lần gặp mặt làm quen và
một lần đến nhận làm lễ đăng ký kết hôn), 14% chỉ mới gặp nhau một lần, 12% gặp
nhau ba lần và 14% gặp nhau nhiều lần.
Về tính tự nguyện trong việc xác lập quan hệ hôn nhân:
Do sự thúc đẩy của lợi ích kinh tế nên khi quyết định kết hôn với người Đài Loan, mặc
dù ý thức rõ là cuộc hôn nhân đó không xuất phát từ tình yêu thực sự nhưng nhiều
phụ nữ vẫn khẳng định sự tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân đó trước cơ quan đăng
ký kết hôn. Ngay cả khi được tuyên truyền, giải thích về những khó khăn và hậu quả
bất lợi có thể xảy đến với một cuộc hôn nhân vội vã, thiếu hiểu biết, sự chênh lệch về
độ tuổi rất cao giữa người vợ và người chồng nhưng chị em vẫn khẳng định sự tự
nguyện kết hôn của mình để cơ quan đăng ký kết hôn không có cơ sở từ chối việc
đăng ký quan hệ hôn nhân đó.
Về độ bền của quan hệ hôn nhân
Do kết hôn vội vã, thiếu hiểu biết vì mục đích kinh tế nên một bộ phận cô dâu Việt
Nam sau khi sang Đài Loan sống không hoà hợp với chồng đưa đến tình trạng nhiều
cặp vợ chồng Đài – Việt nhanh chóng ly hôn chỉ sau một thời gian ngắn chung sống.
Vấn đề bất bình thường nổi lên là hầu hết các cuộc hôn nhân Đài – Việt không thành
công có độ bền rất ngắn và đa số giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng hình
thức thoả thuận ly hôn tại cơ quan hộ tịch. Kết quả thống kê ngẫu nhiên về độ bền
của 188 trường hợp ly hôn bằng phương thức “đăng ký ly hôn” (theo pháp luật Đài
Loan) như sau:
Thời gian chung sống từ khi kết hôn đến khi ly hôn
Sốlượng
Tỷ lệ
Dưới 2 tháng
2
1%
Từ trên 2 tháng đến đủ 3 tháng
26
13,8%
Từ trên 3 tháng đến đủ 6 tháng
37
19,7%
Từ trên 6 tháng đến đủ 1 năm
42
22%
Từ trên 1 năm đến đủ 2 năm
31
16,5%
Từ 2 năm đến dưới 5 năm
37
19,7%
Từ 5 năm trở lên
13
6,9%
III. NHỮNG VẤN ĐỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ NẢY SINH TỪ HIỆN TƯỢNG KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÌ MỤC ĐÍCH KINH TẾ
Xung đột pháp luật về giải quyết ly hôn giữa pháp luật Việt Nam và Đài Loan; vấn đề
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân trong điều kiện
Việt Nam và Đài Loan chưa có thoả thuận tương trợ tư pháp; việc cư trú và quốc tịch
của một số cô dâu Việt Nam đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa nhập quốc tịch
Trung Quốc (Đài Loan) sau khi ly hôn; vấn đề khai sinh và quốc tịch của trẻ em đã
khai sinh tại Đài Loan được mẹ (đã ly hôn) đưa về sinh sống tại Việt Nam... Đây là
những vấn đề pháp lý đang đặt ra từ thực tiễn các quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt
Nam và người Đài Loan
1. Vấn đề quốc tịch:
Khó khăn lớn nhất của các cô dâu Việt Nam là vấn đề quốc tịch. Khi chưa được nhập
quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan), địa vị pháp lý và các bảo đảm xã hội đối với cô dâu
Việt Nam rất bấp bênh. Hiện nay, theo thống kê của Bộ Tư pháp mới chỉ có khoảng
7.000 cô dâu Việt Nam đã xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch Trung Quốc
(Đài Loan), trong đó có khoảng 6.000 cô dâu đã được nhập quốc tịch Trung Quốc (Đài
Loan), chiếm 10% tổng số cô dâu Việt Nam đang cư trú tại Đài Loan;
Hiện nay có một số cô dâu Việt Nam rơi vào tình trạng không quốc tịch do họ đã được
thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa được nhập nhưng chưa được nhập quốc tịch Trung
Quốc (Đài Loan) thì ly hôn hoặc chồng chết. Theo pháp luật Đài Loan thì những trường
hợp này các cô dâu Việt Nam sẽ không còn lý do để tiếp tục xin nhập quốc tịch Trung
Quốc (Đài Loan).
Bên cạnh đó, trên thực tế cũng phát sinh khó khăn liên quan đến vấn đề quốc tịch của
những trẻ em là con lai Đài – Việt hiện đang cư trú tại một số tỉnh, thành phố phía
Nam. Đây là số trẻ em đã có quốc tịch Đài Loan hoặc chưa được xác định quốc tịch
Trung Quốc (Đài Loan) hay Việt Nam nhưng theo mẹ (đã ly hôn) hoặc được người mẹ
gửi cho ông bà ngoại nuôi tại Việt Nam. Do vấn đề quốc tịch nên việc giải quyết đăng
ký khai sinh, đăng ký hộ khẩu cũng như việc thực hiện các chính sách giáo dục, y tế…
đối với các trẻ em này gặp khó khăn, vướng mắc hiện chưa có hướng giải quyết.
2. Vấn đề ly hôn:
Xuất phát từ quan niệm “hôn nhân khế ước” nên pháp luật Đài Loan công nhận hình
thức “đăng ký thoả thuận ly hôn” – một hình thức giải quyết ly hôn rất đơn giản mà
trong thực tiễn, khi phải chấp nhận hình thức ly hôn này, cô dâu Việt Nam luôn phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi cả về con cái và tài sản. Đặc biệt là những trường
hợp cô dâu Việt Nam chưa có quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan) nhưng ly hôn hoặc
chồng chết thì phải gánh chịu nhiều thiệt thòi, thường rơi vào cảnh trắng tay khi về
nước, không được nuôi con, không được chia tài sản vì pháp luật Đài Loan không bảo
hộ những quyền lợi của phụ nữ trong những trường hợp này./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế thực trạng và những vấn đề tư pháp quốc tế cần giải quyết.doc