Khác biệt giới trong hành vi tình dục trước hôn nhân

MỤC LỤC Phần mở đầu 1.Lí do chọn đề tài .2 2. Câu hỏi ban đầu .3 3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 4 4. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu .4 5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu .4 6. Phương pháp nghiên cứu .5 7. Giả thuyết nghiên cứu .5 8. Khung lí thuyết .6 Phần nội dung chính Chương1: Cơ sở lí luận và thực tiễn nghiên cứu 1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu .7 1.2. Các khái niệm công cụ 12 1.3. Lí thuyết áp dụng .15 Chương 2: Kết quả nghiên cứu 2.1. Sự khác về các yếu tố giới trong hành vi tình dục trước hôn nhân. 2.1.1 Yếu tố sinh lí .16 2.1.2. Yếu tố tâm lí- nhận thức .21 2.1.3 Yếu tố văn hóa- xã hội 27 2.2. Sự khác biệt giới về hành vi tình dục trước hôn nhân .36 Chương 3: Kết luận và khuyến nghị 3.1. Kết luận 3.2. Khuyến nghị

pdf46 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4350 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khác biệt giới trong hành vi tình dục trước hôn nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến cảm giác thú vị. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã quan sát những bé trai và bé gái đạt đến cực khoái thông qua dạng trứng nước của thủ dâm. Rõ ràng những nghiên cứu này chỉ ra rằng hoạt động tình dục đã có từ rất sớm trong cuộc đời. Đến giai đoạn đầu của tuổi thơ: những đứa trẻ không hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ nữa mà bắt đầu trên con đường dài để trở nên tinh thông hơn đối với các hoạt động trong thế giới. Theo Freud thì ở giai đoạn này thì cha mẹ phải đối mặt với nhiều thách thức mới khác khi họ bắt đầu dạy trẻ sử dụng nhà tắm. Trong suốt giai đoạn dương vật (3- 6 tuổi), trẻ em trải nghiệm sự thích thú cao độ với bộ phận sinh dục của chúng. Hầu hết các em tham gia thủ dâm ở giai đoạn này. Và đặc biệt, tình trạng thủ dâm ở giai đoạn này chủ yếu diễn ra ở những bé trai là nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là những bé trai thường năng động và nghịch ngợm hơn những đứa bé gái. Ngoài ra trong giai đoạn này thì trẻ em ở độ tuổi chưa đến trường còn tò mò về cơ thể của những đứa trẻ khác đặc bệt là những trẻ khác giới. Giai đoạn cuối và giữa tuổi thơ: Theo Erikson, nhiệm vụ phát triển chủ yếu của giai đoạn này là đạt đến kỹ nghệ hay cảm giác năng lực xã hội. Ở giai đoạn nay sự thể tình dục là phổ biến – việc mở rộng tò mò và các cảm giác thích thú hơn là sự phát triển nhanh mạnh của sự dâm dục. Hứng thú, sự đụng chạm và thử nghiệm tình dục tiếp tục và thậm chí còn tăng lên vê tần suất trong những năm tháng đi học. Đùa nghịch và tiếp xúc với những đứa trẻ cùng giới là phổ biến ở giai đoạn này. Và cũng từ đây thì chúng bắt đầu kết giao với những đứa trẻ khác giới. Những cô cậu thường đi cùng nhóm 18 với nhau. Một số cô bé, cậu bé lao vào nhau thậm chí còn hẹn hò, tuy nhiên chưa có quan hệ lãng mạn. Đến giai đoạn thanh thiếu niên, đây là giai đoạn của sự thay đổi và khám phá to lớn. Trong những năm tháng này những thay đổi về tình cảm và thể chất xuất hiện với tốc độ chóng mặt, nó đòi hỏi phải có sự thích ứng nhanh chóng với những thay đổi đó. Đặc tính tò mò trước đây bị hạn chế bởi tập tục và những kỳ vọng xã hội. Có lẽ không có khía cạnh nào của thời thanh thiếu niên lại gây xung đột như sự trưởng thành về mặt sinh học bắt đầu xuất hiện trong cơ thể người thiếu niên. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn mà một đứa trẻ còn phụ thuộc nhiều vào cha mẹ nay đã trở thành một người lớn trong xã hội. Tuổi dậy thì là giai đoạn phát triển thể chất nhanh chóng, đánh dấu sự kết thúc của thời thơ ấu và bắt đầu trưởng thành về mặt tình dục. Hay nói cách dậy thì là giai đoạn chuyển đổi giữa trẻ con và người lớn. Con gái thường dậy thì ở tuổi 9 đến 13 sớm hơn con trai vài năm. Và lúc này em gái có khả năng mang thai. Và ở nam giới thì bắt đầu trải nghiệm sự xuất hiện "mộng tinh" về đêm (những giấc mơ ẩm ướt), nó thường đi kèm với giấc mơ về tình dục và sự kích động đến cực điểm. Thời thanh thiếu niên rõ ràng là một giai đoạn chuyển đổi trở thành người lớn. Đến giai đoạn trưởng thành thì sinh hoạt tình dục thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong mỗi giai đoạn của đời người Qua mỗi một giai đoạn phát triển của một con người ta nhận thấy rằng con người luôn luôn có nhu cầu sinh lý về mặt tình dục. Đây chính là bản năng vốn có của con người từ khi sinh ra cho đến khi mất đi. Tuy nhiên mỗi một giai đoạn thì có cách thức thể hiện khác nhau. Đồng thời mỗi một giới lại có cách biểu hiện cũng như mức độ khác nhau.Và một điều cũng dễ lý giải vì sao hành vi tình dục trước hôn nhân lại tập trung vào thanh thiếu niên. Đó là vì giai đoạn này con người đã trưởng thành về mặt thể chất cũng 19 như sinh lý. Và đây cũng là giai đoạn ngưỡng cửa giữa trẻ con và người lớn nên luôn có sự khám phá về những gì mới lạ. Chính điều này dẫn tới việc các hành vi tình dục trước hôn nhân tập trung vào giới trẻ là nhiều. Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu chính độ tuổi thanh thiếu niên và khi trưởng thành. Bởi theo chúng tôi, những giai đoạn trẻ thơ thì trẻ không nhận thức được thế nào là hành vi tình dục, chỉ khi lớn lên và có nhận thức thì con người mới có những hành vi tình dục rõ rệt. Thứ nhất, con người hiện nay đang sống trong thời đại văn minh công nghiệp, được tiếp nhận nguồn vật chất, dinh dưỡng và tinh thần rất dồi dào, phong phú. Nam nữ thanh niên trong độ tuổi 13-16 không những có cơ thể phổng phao, cường tráng mà các chức năng sinh lý ở tuổi dậy thì cũng phát triển. Thêm vào đó, họ lại còn được tiếp xúc với những phim ảnh, những băng đĩa về tình dục khiến cho nhu cầu của họ ngày càng lớn hơn. Một điều thực tế là hiện nay nam giới có xu hướng lập gia đình muộn hơn so với nữ, nên để thỏa mãn nhu cầu họ thường có quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn nữ giới. Thứ hai, đặc điểm sinh lý của nam và nữ khác nhau thể hiện ở sự khác nhau cơ bản giữa tinh trùng với trứng (noãn) là ở khả năng di chuyển tiến lên nhờ cái đuôi của tinh trùng. Con trai thường tìm kiếm sự giải tỏa trên chính cơ thể mình. Xét về ham muốn tình dục (Sexual desires): Khi vào lứa tuổi dậy thì, dưới sự ảnh hưởng của kích thích tố (còn gọi là nội tiết tố, hormone), thân thể người nam và nữ thay đổi rất nhiều và rõ rệt. Ngoài sự phát triển về thể xác, nội tiết tố giới tính (sex hormone) tiết ra nhiều ở tuổi dậy thì làm cho người thanh niên, thiếu nữ có những cảm giác rạo rực trong cơ thể. Họ bắt đầu chú ý đến thân thể mình nhiều hơn và có những thích thú hay kích tích tình dục khi nhìn thân thể người khác phái. Sự vô tình đụng chạm thân thể người khác phái tạo nên cảm giác tình dục thích thú và có thể 20 làm cho đứa trẻ vị thành niên (chưa đến 21 tuổi) đỏ mặt bối rối. Sự ham muốn tình dục của nam giới có tính độc lập không nhất thiết phải có sự tác động của giới đối lập là phụ nữ. Ham muốn tình dục ở nam giới bộc lộ sớm và mạnh hơn nữ giới. Ham muốn tình dục ở phái nam thường nghiêng về vóc dáng cơ thể hơn là tính tình của người con gái. Con trai ở tuổi dậy thì thích nhìn thân thể người con gái và đặc biệt, chúng thích những bức ảnh phụ nữ khiêu dâm và có ảo tưởng chiếm đoạt cơ thể người phụ nữ đó. Đối với con trai, tình yêu thường đồng nghĩa với tình dục. Ham muốn tình dục ở phái nữ khác hơn. Người thiếu nữ dậy thì không bị kích thích tình dục với ý nghĩ đụng chạm xác thân mà không có tình yêu. Thân thể bị đụng chạm bởi người nam giới họ không quen biết sẽ khiến họ sợ hãi hơn là thích thú. Sự khác nhau về ham muốn tình dục giữa hai giới cho thấy ở lứa tuổi dậy thì, trước hôn nhân, nam giới có những hành vi tình dục sớm, bộc lộ mạnh mẽ và nhiều hơn ở nữ giới. Thứ ba, các chuyên gia nói rằng đàn ông có khuynh hướng tình dục dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu sinh lý còn phụ nữ thì đa dạng hơn. Các nghiên cứu cho thấy đàn ông không chỉ có xu hướng tình dục mạnh mẽ hơn phụ nữ mà còn thẳng thắn hơn rất nhiều. Trái lại, nguồn cảm hứng tình dục của phái nữ lại rất khó bị ràng buộc. Nguyên nhân chính là phụ nữ đặt nhiều giá trị vào mọi ràng buộc tình cảm hơn là thỏa mãn tình dục đơn thuần. Theo Lauman tổng kết, đàn ông nghĩ đến tình dục sẽ nhiều hơn. Đa số đàn ông trưởng thành dưỡi 60 tuổi nghĩ đến sẽ ít nhất một lần một ngày. Trong khi đó chỉ ¼ phụ nữ đạt tần suất này. Tuy nhiên theo tuổi tác của hai giới mà họ giảm dần mơ mộng về tình dục, nhưng đàn ông vẫn mơ mộng nhiều hơn phụ nữ gấp đôi. Trong một nghiên cứu so sánh khuynh hướng tình dục giữa nam và nữ, Roy Baumeister, nhà tâm lý học xã hội của đại học Florida đã tìm ra rằng đàn ông dễ bị kích thích tình dục nhất thời với tần suất và độ phong phú 21 về mơ mộng tình dục nhiều hơn phụ nữ. Điều này dẫn đến, nam giới sẽ có các hành vi tình dục nhiều hơn nữ giới. Theo ông, thì nhu cầu sinh lý của nam giới cao hơn phụ nữ rất nhiều. Đàn ông thèm muốn sex thường xuyên hơn phụ nữ rất nhiều. Điều này không chỉ đúng với những người quan hệ tình dục khác giới, ông cho biết những người đàn ông quan hệ đồng giới cũng có tần suất nhiều hơn những người đồng giới nữ. Và đàn ông không chỉ có một người yêu duy nhất mà họ muốn nhiều bạn tình trong đời hơn và cũng quan tâm đến những cuộc tình thoảng qua nhiều hơn. Đàn ông thích thú tìm kiếm sex nhiều hơn ngay cả khi mối quan hệ đó không được tán thành hay thậm chí ngoài vòng pháp luật tức có hành vi tình dục trước hôn nhân nhiều hơn nữ giới. 2.1.2. Yêú tố nhận thức- tâm lý Một yếu tố khác cũng không kém phần quan trọng như yếu tố sinh lý giữa các giới là yếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý không tách rời mà phát triển song song với quá trình phát triển sinh lý theo từng giai đoạn, theo đó dẫn tới các hành vi tình dục cũng thay đổi và có sự khác biệt giữa các giới. Theo quan điểm của J.P.Masolova được trích ở “Giới tính tuổi hoa”: yếu tố nhận thức – tâm lí khác nhau theo từng giai đoạn: 1-2 tuổi, 3-4 tuổi;5-6 tuổi; 7-8 tuổi; 9-10 tuổi; 11-12 tuổi, 13-15 tuổi; 15- 18 tuổi… Tuy nhiên, khi xét đến hành vi tình dục có sự nhận thức đầy đủ thì chúng tôi chỉ bắt đầu xét từ giai đoạn trẻ bắt đầu dậy thì (từ 9 tuổi trở lên) Từ 9 đến 10 tuổi: Thời kì bộc lộ những thiên hướng giới tính. Một số các em trai đã thủ dâm, nhưng thường là làm theo sự hướng dẫn của các cậu bé nhiều tuổi hơn đầu têu. Còn các em nữ bắt đầu có sự thay đổi về cơ thể (đối với những em dậy thì sớm). Từ 11 đến 12 tuổi: Một số các em nam có sự phát triển vượt mức bình thường. Cả các em nam và nữ đều quan tâm đến vai trò của bố trong 22 chuyện chửa đẻ của các bà mẹ, thích sách có nội dung tình dục. Các em bắt đầu để ý một bạn nam/ nữ trong lớp. Ở một số em nữ đã xuất hiện kinh nguyệt, tâm trạng của các em trước những hiện tượng đó phụ thuộc vào hiểu biết của các em và sự quan tâm của mẹ. Các em nữ quan tâm đến ngực của mình, xấu hổ khi thấy mình lớn sớm và có những hành động che dấu. Một số em nam có những giọt tinh trùng đầu tiên trong những giấc mơ hoặc thủ dâm. Các em nam thương quan tâm đến cơ thể của mình và bạn khác giới. Từ 13 đến 15 tuổi: Đã xuất hiện tình cảm yêu đương, nhưng thường là đơn phương và yêu thầm. Các em nữ say mê những chàng trai nhiêu tuổi hơn mình, còn các em nam lại thích những cô gái đoan trang, chững chạc hơn mình. Thích sưu tầm tranh ảnh khỏa thân, thường hay thủ dâm. Các em nữ thích nghe những chuyện tình lãng mạn. Cả hai giới ở tuổi này đều quan tâm tới chuyện tránh thai, phá thai… Bắt đầu từ lứa tuổi này nảy sinh nhiều hành vi tình dục (quan hệ tình dục, thủ dâm…) nếu không được giáo dục kĩ càng thì các em sẽ có những hành vi lệch lạc khó kiểm soát. Dẫn đến nhiều tệ nạn, các hiện tượng xã hội… Từ 15 đến 18 tuổi: Bắt đầu xuất hiện những mối tình và những giao tiếp tình dục. Cả hai giới đều củng cố kiến thức hiểu biết trong lĩnh vực tình dục, quan tâm đến các tư thế giao hợp, kĩ thuật kích thích dạo đầu và các hiện tượng cực đoan trong tình dục. Ở tuổi này có sự thay đổi toàn diện đời sống tâm lí- sinh lí, tình cảm thể hiện ở 3 đặc điểm sau: Thứ nhất, sự thay đổi hành vi tình dục. Nếu ham muốn tình dục trước đây mới tồn tại ở dạng tiềm năng thì nay nó đã trở thành một động lực thật sự và được biểu hiện ra trong các hành vi chủa chủ thể; Thứ hai, sự thay đổi hành vi tâm lí. Đó là sự biểu hiện của cá tính, sự 23 hiện diện các kiểu dạng tâm lí- thần kinh của cá thể. Thứ ba, sự thay đổi tình cảm. Những biến đổi của năng lực tình dục và tâm lí được thể hiện ra thành các sắc thái khác nhau. Các em ở giai đoạn này dường như bị rơi vào sự đảo lộn cá giá trị, chuẩn mực, đạo đức, thẩm mỹ nên nghiên cứu về tình bạn, tình yêu, tình dục và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe sinh sản trong lứa tuổi nhạy cảm này có y nghĩa khá quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Từ 18 đến 30 tuổi: Đây là giai đoạn của tuổi thanh niên. Lúc này thì cơ thể của hai giới đã phát triển toàn diện, là độ tuổi dễ dẫn đến hôn nhân. Cũng là độ tuổi mà các hành vi tình dục được diễn ra nhiều hơn. Trong các giai đoạn phát triển của những hành vi tình dục của trẻ em và thanh thiếu niên thì ta nhận thấy lứa tuổi thanh thiếu niên có những nhận thức và hành vi tình dục bắt đầu rõ ràng hơn. Họ tò mò hơn và có những biểu hiện hành vi tinh dục (khẩu dâm, thị dâm…). Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào yếu tố tâm lý của mỗi giới lại có sự khác nhau trong về hành vi tình dục trước hôn nhân. Yếu tố tâm lý ở đây tác động mạnh đến cá nhân thông qua các trạng thái tình cảm mang tính chất cảm xúc như yêu, thích, ghét v..v.. hay những suy nghĩ, thái độ, tình cảm và hành vi được tích luỹ từ những trải nghiệm trong cuộc sống có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi trong các hành vi tình dục của nam và nữ trước hôn nhân. Yếu tố tâm lý không phải là một yếu tố riêng lẻ, độc lập và bất biến, nó được hình thành và phát triển đồng thời với quá trình phát triển sinh lý, nhận thức và sự tác động của các yếu tố văn hoá - xã hội. Bởi vậy, chúng tôi xin trình bày rõ hơn yếu tố này ở phần sự khác biệt giới về yếu tố văn hoá - xã hội trong hành vi tình dục trước hôn nhân. Sự khác biệt giữa nam và nữ trong động cơ tâm lý xã hội dẫn đến hành vi tình dục trước hôn nhân được thể hiện qua những tiêu chí sau: 24 Thứ nhất, Sự khác biệt giới trong động cơ có liên quan đến vấn đề tình cảm dẫn đến hành vi tình dục trứơc hôn nhân. Hành vi tình dục không chỉ là hành vi có tính bản năng mà còn là một hành vi có sự tác động rất lớn bởi nhận thức tình cảm của con người. Có rất nhiều vấn đề tình cảm khác nhau trong quan hệ giữa hai giới. Chúng ta có thể đề cập đến một số khía cạnh những tâm lý-xã hội dẫn tới hành vi tình dục trước hôn nhân là: Động cơ muốn tạo mối quan hệ tình cảm lâu dài, bễn vững với đối phương. Thực tế, việc chập nhận quan hệ tình dục để khẳng định quan hệ với người mình yêu và tạo ra một mối quan hệ ràng buộc giữa hai người không phải là ít. Có rất nhiều nhận định rằng trong mối quan hệ tình cảm, giới nữ thường có những băn khoăn, lo ngại trong quan hệ của mình bởi bất kể một hành vi nào của hai giới trong quan hệ tình cảm, người ta vẫn cho rẵng con gái thưòng dễ là ngưòi chịu nhiều thiệt thòi, con gái gắn với đức tính thuỷ chung còn con trai gắn với bản tính chinh phục. Như một câu chuyện của cuộc sống chúng ta thường nói rằng: "con trai luôn muốn con gái là người đầu tiên của con gái còn con gái luôn muốn là người cuối cùng của con trai". Theo nhận thức của giới trẻ, cuộc sống hiện đại cũng liên quan đến những thách thức thường trực về đinh hình tính cách thực và những dự tính, đặc biệt là bạn tình trong tương lai. Những yếu tố tâm lý này thường xảy ra ở giới nữ nhiều hơn ở giới nam. Từ những tâm lý, những dự cảm về sự thay đổi mô hình tình cảm hiện tại của đối phương mà không ít giới trẻ tìm đến hành vi tình dục trước hôn nhân như một giải pháp tìm nhu cầu an toàn về mặt tình cảm hay dù chỉ là muốn tạo ra một phép thử tình cảm đối với đối phương. Một phỏng vấn sâu từ nghiên cứu "Vấn đề tình dục tại đô thi đương đại" của tác giả Tine Gammeltoft trong tạp chí Giới- tình dục và sức khoẻ số 11/2006, khi được hỏi về các thử nghiệm và tình dục đã trả lời: "Khi bạn thực sự yêu ai, bạn phải biết anh ta có thực sự yêu bạn không. Lúc đầu bạn 25 không thể biết nhưng có rất nhiều cách để tìm hiểu điều đó (Thử thách). Ví dụ như vấn đề chúng em vừa trải qua (có thai và nạo phá thai)". Trong số những động cơ của cá nhan muốn tao lập một mối quan hệ lâu dài với đối phương không ít có nhưng trưòng hợp mong muốn có con để tạo ra một sự gắn kết nhất định nào đó với người mình yêu. Động cơ tâm lý này thường xuất phát và diễn biến ở Phụ nữ. Một nghiên cứu của GS.TS Nguyển Quý Thanh về "Hiện tượng mang thai ngoài hôn nhân" đã chỉ ra số phụ nữ muốn có con với hy vọng rằng bạn tình, người yêu sẽ cưới họ chủ yếu ở nhóm chưa từng co chồng và mong muốn có chồng. Chị L. công nhân 30 tuổi nói: "Em với anh ấy yêu nhau có đến hơn hai năm, cứ mỗi lần em giục cưới là anh ấy nói từ từ, chưa đủ tiền...Em cũng sợ anh ấy thôi hẳn nên em liều có con. Lúc em nói em nghĩ là em có con, anh ấy phải bàn làm lễ cưới ngay...". Giới trẻ là đô tuổi đang trải qua hay trong quá trình xác lập cuộc sống xã hội và tình dục, họ có những lo lắng nhất định về chất lượng và ý nghĩa các mối quan hệ mà họ đang tham gia với cá nhân khác, trong hướng tiếp cận này phụ nữ thể hiện nhiều sự lo ngại đối với tính bền vững của đối phương nhiều hơn ở nam giới. Động cơ muốn thực hiện hành vi tình dục chỉ để tìm hiểu về nhau trước khi tiến tới cuộc sống hôn nhân hoặc đóng vai trò như một phép thử thực tế để kiểm tra tính bền vững mối quan hệ với người bạn tình tương lai. Hành vi tình dục trước hôn nhân có thể là phép thử để kiểm tra khả năng sinh sản của hai người. Động cơ này thường trở thành nhu cầu của giới nam nhiều hơn ở giới nữ. Nhìn từ góc độ đàn ông, "kiểm tra" khả năng sinh sản của người con gái trước khi đi đến hôn nhân là đặc biệt quan trọng. Nhìn từ góc độ phụ nữ, "kiểm tra" không chỉ liên quan đến khả năng sinh sản mà còn cả sự đáng tin cậy và cam kết của người con trai. Như vậy quan hệ tình dục trước hôn nhân dẫn tới sự biến đổi một cách sâu sắc cảm nhận của hai giới và ít nhiều nó 26 đóng vai trò là một nhân tố khẳng định độ sâu sắc và tính bền lâu của mối quan hệ tình dục. Bên cạnh đó trong vấn đề tình cảm nam và nữ cũng có những động cơ khác đẫn đến hành vi tình dục trước hôn nhân. Trong một số trường hợp, có thai trước hôn nhân là một chiến lược, một động cơ xuất phát cả từ nam và nữ, chỉ phía nam hay phía nữ một cách có chủ tâm để được sự đồng tình cưới của cha mẹ. Một số trường hợp khác lại do tác động từ sự thất bại trong tình cảm trước đó với một ai đó hay do những tổn thương tâm lí do sự đổ vỡ của hạnh phúc gia đình. Thường trong những trường hợp này, các em gái dễ bị sa vào các tệ nạn xã hội hoặc sống buông thả, bất cần, chính những điều này khiến các em thiếu suy nghĩ chín chắn khi chấp nhận hành vi tình dục hoặc bản thân bị ép buộc làm như vậy. Trong những trường hợp đó, các em thường không ý thức được về động cơ của hành vi của mình hay đơn giản coi đó như một sự bù đắp tình cảm. Thứ hai, Sự khác biệt giới trong động cơ tâm lý- xã hội có liên quan đến những vấn đề ngoài tình cảm dẫn đến hành vi tình dục trước hôn nhân. Hành vi tình dục không phải lúc nào cũng gắn chặt với khát vọng tình yêu và hôn nhân và tập trung vào các kỳ vọng về chiều sâu tình cảm. Khi xã hội phát triển gắn với nó là mọt loạt những biến đổi trong nhận thức của giới trẻ do mặt trái của nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá và lợi nhuận tạo ra, nhiều mối quan hệ khác giới trong xã hội đã thoái hoá bởi những động cơ kinh tế, động cơ muốn vươn lên những địa vị xã hộ cao hơn, ở đó họ đặ ra những câu hỏi rằng sau hành vi tình dục với đối phương họ sẽ nhận được những gì. Động cơ này còn là biểu hiện ở nhóm phụ nữ có hoạt động mãi dâm mà còn là động cơ theo đuổi của rất nhiều phụ nữ khi mong muốn một sự trao đổi tình dục và những lợi ích kinh tế có được từ đối phương. Thực tế, nữ giới bị ảnh hưởng bởi động cơ này nhiều hơn nam giới. 27 Như vậy chúng ta có thể thấy rằng yếu tố tâm lý xã hội có tác động rất lớn và đồng thời những biểu hiện tâm lý xã hội cũng có sự khác biệt rõ nét giữa nam và nữ dẫn đến những động cơ và biểu hiện về hành vi tình dục trước hôn nhân của hai giới. Trong quan hệ tình dục trước hôn nhân, yếu tố tâm lý có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự chủ động hay bị động trong quan hệ. Xét về tương phản quan niệm tình dục và đòi hỏi tình dục của nam và nữ thì nam thường có quan niệm khá cởi mở, họ thoải mái trong quan hệ bởi tâm lý thích chinh phục, không bị trói buộc bởi những quan điểm về đạo đức, luân lý. Nhưng người con gái thì ngược lại, xuất phát từ bản tính bảo thủ, kín đáo, e thẹn, ngượng ngùng, giữ ý, hay xấu hổ... cộng với tâm lý cho rằng trong mô thức sinh hoạt tình dục thì "lấy đàn ông làm trung tâm", mọi cái đều phục vụ nam giới, còn nữ giới là phái yếu, không được phép chủ động. Bởi vậy, họ luôn bị giam cầm, trói bụôc, ức chế, giày vò và có tâm lý lo sợ, hoang mang, cảm giác mất mát. Sự khác biệt về tâm lý này rất bất lợi cho nữ giới, ảnh hưởng đên sức khoẻ và quan niệm sống, lối sống của họ. 2.1.3. Yếu tố văn hoá - xã hội Văn hoá là một khái niệm rộng, bao quát, nó bao gồm văn hoá cá nhân, tiểu văn hoá (gia đình, nhóm xã hội), và rộng hơn là văn hoá dân tộc... Dưới môi trường xã hội, các hành vi của con người trong đó có hành vi tình dục bị quy định chặt chẽ bởi các quy tắc, chuẩn mực, khuôn phép của loài người. Ở độ tuổi thanh niên là độ tuổi mà con người có những hoạt động khám phá xã hội nhiều nhất, những thay đổi về thể chất, tìn cảm, nhận thức xuất hiện với tần suất cao. Đặc biệt, con người thay đổi hệ thống cách quan niệm của mình rất dễ dàng vì họ đang trong quá trình hình thành cá tính xã hội và mở rộng quan điểm về thế giới. Theo đó, các cá nhân sẽ tiếp xúc với xã hội, củng cố những quan điểm của mình về giới tính, tình yêu, hôn nhân, 28 và tình dục, đưa tới tâm lý lựa chọn các hành vi tình dục trước hôn nhân, quan niệm về hành vi tình dục trước hôn nhân có sự khác nhau. Bởi vậy, ta cần xem xét sự tiếp xúc giữa các giới với văn hoá - xã hội, với các giá trị, chuẩn mực ra sao. Ảnh hưởng của văn hoá - xã hội tới hành vi tình dục trước hôn nhân của mỗi giới thế nào? Thực tế cho thấy, xuất phát từ những quan niệm, định kiến, quy định, phép tắc trong xã hội mà ở nam và nữ có những tâm lý lựa chọn hành vi đi tới hành vi tình dục trước hôn nhân khác nhau. Tình dục trước hôn nhân được xem là hiện tượng mới nảy sinh trong xã hội hiện đại. Quá trình hiện đại hóa đã dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quan điểm và hành vi tình dục, tình yêu, hôn nhân, gia đình. Trong quá trình hiện đại hóa, tuổi kết hôn tăng lên nhưng độ tuổi có hoạt động tình dục lần đầu dường như không tăng, thậm chí giảm, dẫn đến sự gia tăng hoạt động tình dục trước hôn nhân. Những nghiên cứu về tình dục thường dựa trên giải thuyết rằng những người bị ảnh hưởng nhiều bởi các giá trị mới do hiện đại hóa đem lại thường có xu hướng hoạt độngt ình dục nhiều hơn. Đã có nhiều tranh luận tại Việt Nam và trên thế giới về tác động của hiện đại hóa đến việc định hình phong cách sống của thế hệ trẻ. Điều này đặc biệt đúng ở Việt Nam trong bối cảnh gia tăng hội nhập về kinh tế, xã hội, văn hóa trong khu vực và thế giới. Nhiều người cho rằng hiện đại hóa thúc đẩy tự do cá nhân nhiều hơn, tăng tính di dộng về địa lí và nghề nghiệp, cải thiện việc tiếp cận thông tin qua nhiều nguồn thông tin, khiến cho các mối quan hệ gia đình thêm dân chủ…Kết quả là thanh thiếu niên ngày nay có nhiều tự do trong hẹn hò, yêu đương, tình dục, và lựa chọn hôn nhân hơn các thế hệ cũ. Hiện đại hóa làm làm giảm mức độ kiểm soát xã hội đối với hành vi riêng tư của các cá nhân và dẫn đến sự gia tăng tình dục trước hôn nhân. Gần đây ở Việt Nam các phương tiện truyền thông và các nghiên cứu gia đình đã đề cập nhiều đến các vấn đề có liên quan đến thay đổi trong thực 29 tế việc hẹn hò, tình dục, và hôn nhân của giới trẻ. Những thay đổi này dường như dẫn đến các hậu quả xã hội khong mong muốn như tình dục trước hôn nhân hay tỷ lệ nạo phá thai cao ở thanh thiếu niên cao. Chúng ta đều nhận biết những gì được mô tả theo truyền thống trong văn hóa về mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới như là “chuẩn mực kép”, nghĩa là cùng một hiện tượng nhưng được đánh giá theo hai chiều đói lập nhau, mà sự đối lập này mang đặc trưng: nghiêm ngặt, khắt khe với phụ nữ nhưng lại khoan dung, độ lượng với nam giới. Ví như quan hệ tình dục nam nữ thì sự kiểm soát xã hội đối với quan hệ khác giới thường có xu hướng sát nhập tiêu chuẩn kép về đạo đức : Theo quan điểm của T. Bilton và các cộng sự: “Sự thừa nhận rằng việc giao hợp tính dục là điều kiện tự nhiên và thậm chí dáng tán dương ở con trai, đàn ông nhưng lại đáng xấu hổ, phá hoại trật tự xã hội ở con gái, đàn bà.” (Hoàng Bá Thịnh, Giáo trình Xã hội học giới, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 140) Theo các nhà xã hội học, sự kiểm soát xã hội theo tiêu chí kép như vậy trong quan hệ giới đã tác động đến hai cấp độ: Thứ nhất, quá trình nhóm không chính thức: bao gồm các áp lực xã hội (gia đình, nhà trường, nhóm bạn cùng trang lứa) đối với nam và nữ đang tỏ ra đi chệch khỏi những vai trò thông thường của nữ giới. Thứ hai, ở mức độ chính thức hơn của sự kiểm soát xã hội với tính dục, những thừa nhận về sự khác biệt nam nữ trong tính dục được củng cố. Với chế độ phụ quyền hình thành lâu đời, thì tâm thế trong quan hệ tình dục của nam và nữ cũng bị ảnh hưởng. Từ đó, động cơ quan hệ tình dục trước hôn nhân của nam và nữ cũng khác nhau. Đàn ông có thể quan hệ tình dục với người mà mình không yêu, còn phụ nữ thì thường chỉ có quan hệ tình dục với người mình yêu. Đây là hệ quả của quan niệm Á Đông về vị thế của người đàn ông và người phụ nữ. Trong xã hội Việt Nam truyền thống, 30 khi đề cập đến mối quan hệ nam nữ trong quan hệ tình yêu bao giờ cũng nhấn mạnh vai trò chủ động của nam và nữ qua câu: “Trâu đi tìm cọc chứ đời nào cọc đi tìm trâu”. Ngay cả chuyện chăn gối trong đời sống vợ chồng thì người phụ nữ cũng thụ động, xã hội đòi hỏi người phụ nữ phải chung thủy còn nam giới thì không “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Trong hành vi tình dục phụ nữ quan tâm tới yếu tố tình cảm nhiều hơn, còn đàn ông coi tình dục là tiêu chí để thể hiện sức mạnh Đồng thời đứng từ quan điểm tâm lý xã hội, thì từ xa xưa, trong quan niệm của Á Đông, phụ nữ sẽ là lăng loàn nếu như nhu cầu tình dục cao hơn bạn tình, hoặc phụ nữ sẽ bị nghĩ là xấu khi yêu cầu nam giới đáp ứng nhu cầu tình dục của mình. Vì thế, có thể nói, việc quan hệ tình dục trước hôn nhân chủ yếu là nữ giới là người bị động chứ không phải là nam giới. Chuẩn mực kép trong quan hệ giới, còn được thể hiện trong sự phán xét của luật pháp. Như các nhà xã hội học đã chỉ ra, trong khi nhà trường truyền bá một số thái độ đối với tình dục, và các nhà chức trách tòa án có phần trực tiếp hơn khi bắt tôn trọng những điều xác định về tình dục nam và nữ. Chính chuẩn mực kép đã góp phần làm tăng thêm những hành vi sai lệch chuẩn xã hội, nhất là những hành vi liên quan đến tình dục và sức khỏe sinh sản, bởi “các hình thái xã hội" khuyến khích một “ý tưởng” về nam tính có thể thúc đẩy nam giới và nam thanh niên tham gia vào các hành vi có nguy cơ cao làm tổn hại cho chính họ và những người khác” (UNFPA, 2005). Trong xã hội hiện đại, có thể xem đây là một vấn đề có tính toàn cầu khi mà các nền văn hóa đều cho phép nam giới có nhiều bạn tình trong khi phụ nữ bắt buộc phải chung thủy hoặc không được quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân. Điều này làm tăng lên những nguy cơ về các bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả HIV/AIDS mà nạn nhân là phụ nữ 31 đang có xu hướng tăng nhanh, như số liệu cho thấy: “Trên toàn cầu có 17 triệu phụ nữ và 18,7 triệu nam giới trong độ tuổi 15- 49 đang sống với HIV/AIDS. Vấn đề quan tâm là sự tăng nhanh chóng số nhiễm HIV/AIDS trong nữ thanh niên, hiện nay nhóm này chiếm hơn 60% só người trong độ tuổi 15-24 đang sống với HIV. Trên toàn cầu, nữ thanh niên có nguy cơ nhiễm HIV cao gấp nam thanh niên 1.6 lần”. (UNAIDS/ UNFPA/UNIFEM 2004) (Hoàng Bá Thịnh, Giáo trình xã hội học giới, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, trang 142) Thậm chí chuẩn mực kép còn tăng thêm tội phạm hiếp dâm bởi vì “Khả năng cưỡng hiếp có thể được tăng lên bởi những áp lực xã hội đối với đàn ông để tự chứng tỏ bản thân và chấp nhận một thái độ kẻ mạnh – hùng hổ trong những cuộc gặp gỡ với phụ nữ”. (T. Bilton và cộng sự, 1993, trang177) được trích từ Hoàng Bá Thịnh, giáo trình Xã hội học Giới, NXB đại hocjc Quốc gia Hà Nội, trang 142) Chuẩn mực kép trong quan hệ giới có nguồn gốc từ quan niệm của xã hội về nam tính và nữ tính. Với những đặc điểm hoàn toàn tương phản giữa nam tính (khỏe mạnh, dũng cảm, quyết đoán, cứng rắn, duy lí, độc lập, gây hấn…) và nữ tính (yếu đuối, nhạy cảm, dịu dàng, vị tha, phụ thuộc…), không chỉ tạo về vai trò với nam giới và người phụ nữ đáp ứng những mong đợi của xã hội mà họ là thành viên, mà còn khuyến khích nam giới hành động chứng tỏ “bản lĩnh đàn ông”, kể cả những hành vi bạo lực. Nghiên cứu cho thấy, tính cách hay gây hấn, hành hung của nam giới là nguyên nhân của phần lớn những vụ bạo lực trong cộng đồng. Yếu tố văn hoá - xã hội đến sự khác biệt về quan niệm tình dục trước hôn nhân của hai giới. Có thê lấy ví dụ từ nghiên cứu: "Internet và định hướng giá trị của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân" của Ngyễn Quý Thanh để làm rõ điều này: 32 Tương quan giữa định hướng giá trị về tình dục trước hôn nhân với một số đặc điểm nhân khẩu xã hội Định hướng giá trị về tình dục Bạn không qua coi trọng sự “trinh tiết” Bạn coi quan hệ tình dục trước hôn nhân là bình thường, có thể chấp nhận được Giới tính (nam=1, nữ=2) r Mức y nghĩa thống kê (P) N 0.206 (**) 0.000 635 0.344 (**) 0.000 637 Nơi cư trú trước khi vào ĐH r Mức y nghĩa thống kê (P) N - 0.069 0.086 630 - 0.071 0.073 632 Nơi sống hiện tại (kí túc xá=1, nhà trọ=2, nhà mình/họ hàng=3 r Mức y nghĩa thông kê (P) N -0.003 0.939 634 -0.055 0.164 636 Sinh viên năm thứ mấy? (Năm thứ nhất=1) r Mức y nghĩa thống kê (P) N 0.015 0.707 634 -0.093 (*) 0.020 636 Chi tiêu trung bình hàng tháng r Mức y nghĩa thống kê (P) N -0.009 0.830 618 -0.096 (*) 0.017 620 ** Hệ số tương quan có y nghĩa thông kê ở mức 0.01 (2 phía) * Hệ số tương quan có y nghĩa thống kê ở mức 0.05(2 phía) 33 Số liệu trên cho thấy rõ là nữ sinh viên phản đối mạnh mẽ bạn không coi trọng trinh tiết, đồng thời cũng phản đối quan điểm cho rằng quan hệ tình dục trước hôn nhân là điều bình thường. Nói cách khác, nữ sinh viên có xu hướng thiên về quan điểm truyền thống hơn nam giới. Số liệu cũng cho thấy rằng càng học lên năm trên, tức là càng lớn tuổi sinh viên lại có xu hướng thiên về quan niêm truyền thống hơn khi đề cập đến quan hệ tình dục trước hôn nhân. Điều này có vẻ như ngược lại với cảm nhận thông thường của chúng ta, nhưng lại phù hợp với các nghiên cứu về sự bảo tồn giá trị trong các nhóm dân cư theo đó khi các cá nhân càng cao tuổi họ càng có xu hướng quay về các giá trị mà họ từng bác bỏ khi còn trẻ. Kết quả cũng cho thấy sinh viên càng có mức sống cao (mức chi tiêu hàng tháng), càng có xu hướng “tự do” trong quan niệm về tình dục trước hôn nhân. Định hướng giá trị là yếu tố dẫn dắt hành vi. Vì thế về mặt logic, nếu sinh viên có quan điểm “xem nhẹ trinh tiết” hay “coi tình dục trước hôn nhân là bình thường” họ sẽ dễ thực hiện những hành vi đó trên thực tế hơn. Các yếu tố giới tính, quê quán và ăn học là những yếu tố có mối liên hệ với hành vi trước hôn nhân. Nam giới có xu hướng có quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn so với nữ, sinh viên quê ở vùng thành thị có xu hướng có quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn sinh viên xuất thân ở nông thôn. Sinh viên học năm trên cũng là nhưng người từng có quan hệ tình dục nhiều hơn năm dưới. Bởi vì, đối với hành vi tình dục trước hôn nhân, đó thường là hành vi tích lũy tính từ trước thời điểm được hỏi, cho nên người càng lớn tuổi càng chắc chắn có hành vi quan hệ tình dục nhiều hơn. * So sánh hành vi tình dục giữ nam, nữ ở nông thôn và thành thị: Tình trạng tình dục trước hôn nhân ngày càng trở thành một vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Tình trạng này không chỉ có sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới mà nó còn có sự khác biệt giữa các khu vực với nhau. 34 Thứ nhất, khu vực nông thôn có tỉ lệ tình dục trước hôn nhân thấp hơn thành thị. Theo kết quả điều tra của SAVY cho thấy: Có hành vi tình dục trước hôn nhân Không có hành vi tình dục trước hôn nhân Số người % Số người % Thành thị 165 9 1663 91 Nông thôn 411 7,1 5345 92,9 Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy ở khu vực thành thị có tỷ lệ người có hành vi tình dục trước hôn nhân là 9%, còn ở nông thôn chỉ có 7,1%. Con số này cho thấy khu vực thành thị có số tỷ lệ tình dục trước hôn nhân cao hơn khu vực nông thôn. Đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…..Ở các khu đô thị này thì hành vi tình dục trước hôn nhân biểu hiện rất phong phú không chỉ có hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân mà còn có nhiều biểu hiện tình dục gợi cảm khác. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Đầu tiên, khu vực thành phố đặc biệt là các khu đô thị thì có nền kinh tế phát triển, có nền văn hóa đa dạng với việc giao lưu với các nền văn hóa phương Tây. Ở đây, họ có cơ hội tiếp xúc với nhiều phương tiện truyền thông, với nhiều sách vở và ấn phẩm tình dục, khiêu dâm. Và khi tiếp xúc nhiều đến tài liệu, phim ảnh khiêu dâm sẽ kích thích đến nhu cầu tâm sinh lý của họ. Và đây cũng chính là một trong những động cơ dẫn đến tình trạng có hnàh vi tình dục trước hôn nhân xảy ra nhiều hơn ở thành thị. Thứ hai, tình dục trước hôn nhân là xu hướng mới nảy sinh trong xã hội hiện đại. Quá trình hiện đại hóa dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ về hành vi tình dục, tình yêu, hôn nhân, gia đình. Trong quá trình hiện đại hóa, tuổi kết hôn tăng lên nhưng tuổi có hoạt động tình dục lần đầu 35 dường như không tăng, thậm chí giảm, dẫn tới sự gia tăng hoạt động tình dục trước hôn nhân gia tăng. Thứ ba, thành thị là khu vực tập trung nhiều người đặc biệt là số lượng sinh viên khá lớn. Mà sinh viên là những người chưa có hiểu biết và kinh nghiệm đày đủ về cuộc sống. Trong khi đó họ lại phải sống xa bố mẹ, gia đình nên dễ mắc phải những hành vi không tốt. Và một trong số đó là hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân. Như vậy, yếu tố gia đình cũng là một trong những nhân tố quan trọng dẫn tới hành vi tình dục trước hôn nhân của con cái mình. Theo kết quả điều tra của SAVY cho thấy: Tỷ lệ quan hệ tình dục trước hôn nhân Chưa từng sống với gia đình(%) Đã từng sống xa gia đình (%) Nam 7.3 19.2 Nữ 3.5 5.4 Qua phân tích trên cho thấy, những người sống xa gia đình để lên thành phố học tập và làm việc gồm cả nam và nữ đều có tỷ lệ quan hệ tình dục trước hôn nhân cao hơn những người không sống xa gia đình. Cụ thể là ở nam có 19.2% có quan hệ tình dục trước hôn nhân trong khi sống xa gia đình, còn những người không sống xa gia đình thì chỉ có 7.3%. Còn ở nữ giới thì có 5.4% quan hệ tình dục trước hôn nhân khi sống xa gia đình còn chỉ có 3.5% cso quan hệ tình dục trước hôn nhân khi sống cùng với gia đình. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng khu vực thành thị sẽ có nhiều hành vi tình dục trước hôn nhân hơn ở khu vực nông thôn. (Nguồn: Đào Hoàng Bách, La Thành Nhân, Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân ở thanh 36 thiếu niên trong độ tuổi 14-25 dựa trên số liệu điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam 2003) Như vậy, thực trạng tình dục trước hôn nhân ngày càng gia tăng ở khu vực thành thị và nông thôn. Dù có sự khác biệt giữa nam và nữ trong hành vi tình dục trước hôn nhân nhưng nam giới thường có quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn nữ giới kể cả ở nông thôn và thành thị. 2.2. Sự khác biệt giới trong các hành vi tình dục trước hôn nhân Tình dục về bản chất là một bản năng của con người. Nhưng con người dù là một sinh vật- xã hội thì trong đời sống xã hội con người thường hiện ra là một nhân cách văn hóa. Nghĩa là con người thường hiện ra với tư cách là đặc trưng (giới) chứ không phải là đặc trưng giống (giới tính). Phần này chỉ là để làm rõ hơn cho những phần trên (khác biệt về sinh lí – tâm lí – văn hóa) để thấy được hành vi tình dục trước hôn nhân và những biểu hiện của hai giới ra sao. Khi tìm hiểu vế hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân, bản thân phụ nữ và đàn ông đều có những điểm khác nhau khi bàn về vấn đề này và có sự khác nhau ngay trong quan điểm bản thân của mỗi giới. Hầu như những hành vi tình dục của nam giới và nữ giới đều có và giống nhau, nhưng cách thực hiện những hành vi ấy, số lần thực hiện, tần suất thực hiện của hai giới có sự chênh lệch đáng kể. Có những hành vi tình dục chỉ dành cho nam giới hay nữ giới là chủ yếu. Chúng tôi không đưa ra hết tất cả những hành vi tình dục, mà chúng tôi chỉ tập trung đưa ra những hành vi tình dục thường được xã hội quan tâm hơn . Trong những hành vi tình dục sẽ gắn với đời sống tình dục của mỗi giới chứ không thể tách biệt ra được. 37 2.2.1. Hành vi tình dục của nam giới trước hôn nhân Để nói về hành vi và đời sống tình dục của nam giới thì ta thấy rằng chủ động là đặc tính của nam giới. Do cấu tạo về tâm sinh lí nên ham muốn tình dục ở nam giới bộc lộ sớm hơn nữ giới. Nam giới thường tìm kiếm sự giải tỏa trên chính cơ thể mình. Sự ham muốn tình dục ở nam giới có tính độc lập, không nhất thiết phải có sự tác động của giới đối lập là phụ nữ. Cách thứ hai có lẽ chỉ xảy ra ở một số nam giới có xu hướng lưỡng tính dục, còn những người có xu hướng tính dục khác giới thì chỉ lựa chọn sự giải tỏa bằng thủ dâm. Tình dục nam không tập trung, thường hướng vào nhiều phụ nữ, rất hiếm khi vào một phụ nữ duy nhất. Đặc thù tình dục ở nam giới: Đàn ông dù không yêu nhưng vẫn có thể quan hệ tình dục Sự ham muốn tình dục ở nam giới có tính độc lập, không nhất thiết phải có sự hiện diện của giới đối lập (phụ nữ) và năng lượng tình dục ấy bộc lộ ra bằng hành vi tự kích dục (tìm kiếm sự giải tỏa dục năng thôi thúc trên chính cơ thể mình). - Thủ dâm: Vào tuổi dậy thì, trên cơ thê nảy sinh những vùng nhạy cảm sinh lý gọi là "vùng kích dục". Khi vô tình đụng vào đó thì người thanh niên, thiếu nữ cảm nhận được khoái lạc của tình dục. Nam giới chủ động hơn về mặt tình dục và chú trọng đến nhiều hình thức thủ dâm khác nhau. Đó là thủ dâm theo nhóm và thủ dâm lẫn nhau. Nam giới khi thủ dâm thường tưởng tượng ra những hình ảnh về tình dục. Nam giới có thể dễ dàng thủ dâm khi có những phim và hình ảnh kích động. Phim ảnh càng lộ liễu thì càng kích thích tình dục cho phái nam. Tần suất thủ dâm của nam giới nhiều hơn nữ giới và xuất hiệ thủ dâm sớm hơn nữ giới. - Các mẫu hành vi tình dục của nam giới trong đề tài “ Một phân tích về hành vi tình dục trong nhóm nam giới có nguy cơ ở khu vực thành thị Hà 38 Nôi, Hải Phòng, TP. HCM” của tổ chức FHI/Vietnam và sự hỗ trợ của tổ chức USAID. + Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, nam giới cho rằng phần lớn (70- 90%) đàn ông mà họ biết có nhiều hơn một bạn tình. + Nam giới thường là người có hành vi mua dâm nhiều hơn nữ giới. + Nam giới thường đi tìm gái mại dâm với “bạn chơi”, ít hơn với sếp, đối tác làm ăn và đồng nghiệp. Theo nghiên cứu trên cho biết thì hầu hết (90%) các lần tìm đến gái mại dâm đều khởi đầu bằng một cuộc nhậu. Rượu bia làm tăng nguy cơ nam giới tìm đến gái mại dâm (kích thích nhu cầu tình dục, giảm khả năng kiểm soát bản thân), nhưng nhiều khi cũng là một cái cớ để nam giới biện hộ cho việc làm của mình. Phần lớn nam giới mô tả sự lôi kéo, rủ rê của bạn bè hơn là “áp lực”. Ngược lại việc tách ra khỏi nhóm có vẻ như rất kỳ quặc và được diễn đạt một cách tiêu cực. Khi nam giới tìm đến gái mại dâm trước hôn nhân họ đưa ra các lí do: tìm của lạ, thắt chặt mối quan hệ với đối tác, người yêu không cho quan hệ… - Hành vi quan hệ tình dục của nam giới với bạn tình và nhận thức của nam giới trước hôn nhân (Tất cả các cuộc phỏng vấn sâu, số liệu trong phần này được lấy từ đề tài “Về hiện tượng mang thai ngoài hôn nhân”, Nguyễn Quí Thanh, tạp chí Khoa học phụ nữ, số 4,1994 (trang 49-55) Đa phần nam giới thiếu trách nhiệm trong hành vi tình dục trước hôn nhân. Một hành vi tình dục được coi là có trách nhiệm nếu những người có hành vi đó xem xét và cân nhắc thận trọng hậu quả có thể xảy ra khi thực hiện hành vi tình dục. Chỉ có một số ít tán đồng không nên quan hệ tình dục trước hôn nhân: “Theo tôi, có quan hệ trước như thế là không hay. Dù có yêu nhau quá một mức nào thì cũng không được làm thế”. (Nam, 19 tuổi, Quảng Ninh). 39 Còn hành vi tình dục thiếu trách nhiệm của nam giới là khi họ quan hệ tình dục chỉ nhằm mục đích thỏa mãn cho bản thân họ bất chấp khả năng người phụ nữ có thể bị có thai hay không, có thê bị lây nhiễm các bệnh tật hay không Sự thiếu trách nhiệm của nam giới trước hôn nhân được thể hiện trên một số khía cạnh sau: + Coi phụ nữ chỉ như công cụ thỏa mãn nhu cầu sinh lí của mình. + Không muốn sử dụng các biện pháp tránh thai hoặc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Chúng tôi thấy rằng đa số nam giới-81% trong quan hệ tình dục ngoài hôn nhân không chịu chấp nhận dùng bao cao su để tránh thai. Thậm chí họ còn coi việc bạn gái đề nghị họ dùng bao cao su là một hành động không thể chấp nhận được. Một nam sinh viên nói: “ Một đứa con gái mà lại biết về bao cao su thì sẽ không phải là người yêu của tao”; “ Đàn bà mà biết những điều đấy thì cũng coi như gái điếm rồi còn gì. Tao không bao giờ chấp nhận những thứ ấy làm bồ.” Trong một phỏng vấn sâu khác, một nữ sinh viên năm thứ tư 21 tuổi đến nạo thai lần thứ 5 đã vừa trả lời vừa khóc: “Tại sao tháng trước nạo về lại không kế hoạch? Anh ấy không chịu dùng biện pháp tránh thai nào cả” (khóc). Nghiên cứu Care quốc tế 1993 đã rút ra kết luận quan trọng là có nhiếu yếu tố làm cho đàn ông không thích dùng bao cao su. Ví dụ họ cho rằng bao cao su chỉ có lợi cho tình dục chứ không có lợi cho tình yêu cho nên với gái mại dâm nếu họ đã phải trả tiền thì phải được hưởng, hoặc cho rằng phụ nữ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân với họ không phải là những người vợ những người vợ chính thức cho nên họ không cần phải giữ gìn, bảo vệ. 40 Men rượu cũng là một yếu tố gây ra thái độ thiếu trách nhiệm trong hành vi tình dục của nam giới. Một nam sinh viên nói: “Khi có tí men vào thì mình bạo hẳn nên chẳng thấy ngượng ngùng nữa. Mình đến thẳng chỗ con đó để làm việc. Bây giờ tỉnh táo gặp lại nó chưa chắc đã nhớ mặt vì lúc đó lơ mơ, nửa tỉnh, nửa say”. Như vậy sự thiếu trách nhiệm của đàn ông trong hành vi tình dục của mình được thể hiện nhiều khía cạnh. Và một trong những hậu quả của nó là việc phụ nữ mang thai, nạo thai ngoài hôn nhân. Trong trường hợp này nếu chỉ xem xét để giải quyết vấn đè từ phía phụ nữ chưa đủ, mà cần đặt trách nhiệm của nam giới trong hành vi tình dục trước hôn nhân. 2.2.2 Hành vi tình dục của nữ giới trước hôn nhân - Thủ dâm: Phụ nữ thủ dâm thường nghĩ tới người mình thích, người mình thấy có nhiều tình cảm chứ không phải bất kỳ ai. Điều này cho thấy phụ nữ muốn thõa mãn nhu cầu tình dục với người họ có tình cảm, còn đàn ông thì đơn giản chỉ là nhu cầu bản năng thôi thúc. Thông thường thủ dâm đến với phái nữ trễ hơn so với nam giới. Một số biết thủ dâm qua trao đổi với bạn bè hay đọc sách báo. Các cô thiếu nữ thích thủ dâm sau khi xem các phim lãng mạn và tưởng tượng làm tình với một nam diễn viên mà họ yêu thích. Một số thì không bị kích thích tình dục khi xem loại phim kích dục với cảnh làm tình trắng trợn và mạnh bạo, ngược lại họ lại cảm thấy ghê tởm. Những cảnh lãng mạn, âu yếm nhẹ nhàng lại tạo sự hưng phấn nhiều hơn cho phụ nữ. - Hành vi bán dâm: Nữ giới có kinh tế thấp, lại không có kiến thức thì sẽ dễ dẫn đến hành vi bán dâm. Khác với nam giới là tỷ lệ mua dâm của nam giới nhiều hơn nữ giới. 41 - Về quan hệ tình dục: Phụ nữ thường chỉ quan hệ tình dục khi yêu. Nữ giới bước vào quan hệ tình dục ít khi do ham muốn mạnh mẽ thúc đẩy mà thường do tò mò, nể nang, thương hại hay cả tin; và thường gặp hơn là do muốn chứng tỏ tình yêu, đôi khi do thiếu ý chí và quyết tâm chống lại sự đòi hỏi quá dai dẳng của nam giới. Dù trong trường hợp nào thì ham muốn tình dục cũng không phải là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, nhiều tác giả nghiên cứu về tình dục nữ không chia sẻ quan điểm này như đặc thù đầu tiên của tình dục nữ. Ngoài tính thụ động, tình dục nữ còn có đặc thù là ham muốn không phát sinh một cách tự nhiên. Nhiều người không chấp nhận quan điểm này vì cho rằng con người không thể trốn tránh xung năng tình dục vì nó có thể đến với người ta ngay trong giấc ngủ và đem lại khoái cảm. Với đa số phụ nữ thì cảm xúc tình dục phụ thuộc nhiều vào tính cách riêng của bạn tình chứ không phải là nam giới nói chung. Phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân là đặc điểm riêng của tình dục nữ. Đặc thù thứ tư là chị em xu hướng rõ rệt hướng vào mối quan hệ một vợ một chồng trong khi nam giới lại có “bản chất” thích đa thê. - Phụ nữ gặp khó khăn trong việc thuyết phục bạn tình có quan hệ tình dục an toàn. Khi người nữ thực hiện hành vi tình dục, nếu họ có thai hặc sợ có thai thì họ sẽ tìm các phòng chống theo kiểu của họ hoặc đề nghị người nam sử dụng một biện pháp nào đó. Khi không thể thực hiện thực hiện được biện pháp nào từ hai phía cũng sợ hãi có thai. Nhưng người phụ nữ không thể đề nghị người đàn ông không dừng lại (vì sự ép buộc). Do đó họ phải tìm một lí do để tự an ủi cho hành vi tình dục của mình. Lí do đó có thể là ngày hôm đó sẽ không phải ngày “nguy hiểm”, hay nếu có thai thì đi nạo vì các dịch vụ nạo thai an toàn hoặc thuận lợi, hoặc vì nạo thai cũng chưa chắc đã nguy hiểm như người ta tưởng… Như vậy hành vi tình dục đã có lí do và sẽ 42 được tiếp tục. Đoạn phỏng vấn một cô gái 22 tuổi chưa chồng sẽ minh họa thêm điều đó: “- H: Hai bạn có dùng biện pháp tránh thai không? - Đ:Bọn em tính vòng kinh. - H: Sao không dùng bao cao su? - Đ: Anh ấy không muốn dùng. - H: Sao lần này lại có thai? - Đ: Lần này bọn em quan hệ sau sạch kinh 8 ngày. Anh ấy không chịu dùng biện pháp tránh thai mặc dù đã biết nếu không dùng sẽ có thai. - H: Khi biết có thai em có sợ không? - Đ: Em thấy bình thường, không sợ lắm. - H: Tại sao? -Đ: Vì em sẽ đi nạo thai...” - Sau hành vi quan hệ tình dục, ngược lại với nam giới, nữ giới thường có hành vi khám thai, nạo phá thai (nếu có), và thường mang nhiều tâm lý khác nhau như lo lắng, sợ hãi, xấu hổ... (điều này trái ngược với người nam giới). 43 Chương 3: Kết luận và khuyến nghị 3.1. Kết luận - Sự khác biệt trong hành vi và đời sống tình dục của hai giới là do nhiều nguyên nhân: do sinh lí, tâm lí, hoàn cảnh sống, những giá trị của xã hội, những chuẩn mực của xã hội đem lại. + Nam giới thường được nhắc đến với tính chủ động trong các hành vi tình dục và gây ra các vấn đề xung quanh hành vi tình dục: quấy rối tình dục, mua dâm, đòi hỏi quan hệ với bạn gái… + Nữ giới thường là người bị động trong tình dục. Họ thường dễ bị nam giới đưa vào các hành vi tình dục, và hầu như là nạn nhân của các hành vi tình dục của nam giới. Nữ giới là người phải chịu hậu quả khi quan hệ tình dục mà thiếu trách nhiệm của nam giới: có thai, phá thai trước hôn nhân. - Hiện nay hành vi và đời sống tình dục của hai giới trước hôn nhân chủ yếu được nhắc đến là quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đây là một hiện tượng xã hội đang được các nhà xã hội học, tình dục nghiên cứu. - Thực trạng tình dục trước hôn nhân ngày càng gia tăng ở khu vực thành thị và nông thôn. Dù có sự khác biệt giữa nam và nữ trong hành vi tình dục trước hôn nhân nhưng nam giới thường có quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn nữ giới kể cả ở nông thôn và thành thị. - Cũng như nhiều giá trị vật chất và tinh thần khác, hành vi tình dục người cũng biến đổi theo thời gian và các nền văn hóa khác nhau. Ngày nay, trong thời đại của đại dịch HIV/AIDS, hành vi tình dục của cả 2 giới đều hướng đến sự an toàn và lành mạnh. 44 3.2. Khuyến nghị 3.2.1. Đối với nam giới - Tìm hiểu về các biện pháp phòng tránh thai và các bệnh lây lan qua đường tình dục. - Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục đê đảm bảo an toàn cho bản thân và người phụ nữ. - Có ý thức và trách nhiệm đối với bạn tình của mình; không đòi hỏi quá mức. - Hạn chế uống bia rượu và sử dụng các chất kích thích, ma túy vì những loại này làm suy giảm chức năng suy xét của trí não, làm cho bản thân khó kiểm soát khi sử dụng chúng. - Xác định những mục tiêu của cuộc đời. - Kết bạn với những người cùng chí hướng nhất là những người cũng lựa chọn hành vi kiềm chế như mình. - Lựa chọn những phương tiên giải trí có tính giáo dục. 3.2.2. Đối với nữ giới - Trang bị cho mình những kiến thức đầy đủ về sức khỏe sinh sản. - Có thái độ rõ ràng và cương quyết khi bạn tình đòi hỏi. - Hạn chế sử dụng các chất kích thích khi đi cùng bạn trai. -Tránh những hoàn cảnh cám dỗ: tiếp xúc với bạn khác giới trong phòng riêng, xem phim kích dục. - Nên hệ hò, gặp gỡ với những người đã lựa chọn hành vi kiềm chế. - Tham gia các hoạt động dành cho bạn gái để có thêm kiến thức xã hội. 3.2.3. Đối với gia đình, xã hội 45 - Xây dựng một gia đình hòa thuận. Gia đình với vai trò tích cự của cha mẹ trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái sẽ cung cấp cho con cái những hiểu biết về bản thân và về người khác giới. - Có những nghiên cứu, phong trào cách giải quyết nhằm hạn chế quan hệ tình dục trước hôn nhân với từng giới. 3.2.4. Đối với các phương tiện truyền thông đại chúng - Kiếm soát các sách báo, văn hóa phẩm đồi trụy. - Cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác nhất đến với cha mẹ, các thanh thiếu niên về nội dung sức khỏe sinh sản. - Đưa ra các hình thức tuyên truyền phong phú và đa dạng về các cách phòng tránh HIV, bệnh lây lan qua đường tình dục… 46 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Đào Hoàng Bách, La Thành Nhân, “Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân ở thanh thiếu niên trong độ tuổi 14-25 dựa trên số lượng điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam 2003”, Tạp chí y học thực hành, số 557, 9/2007 2 Khương Văn Duy, “Nghiên cứu về kiến thức, thái độ, hành vi liên quan đến HIV/AISD và 1 số bệnh lây truyền qua đường tình dục của học sinh ở các trường trung học ở Hải Phòng” 3 Nguyễn Linh Khiếu, “Tình bạn, tình yêu và tình dục tuổi vị thành niên”, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ 4 Nguyễn Quy Thanh, “Về hiện tượng mang thai ngoài hôn nhân”Tạp chí Khoa học và phụ nữ số 4,5/1994; “Internet và định hướng giá trị của sinh viên về tình dục trước hôn nhân” , Tạp chí xã hội học, số2 (94), 2006 5 Luật hôn nhân và Gia đình(năm 2000), NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 6 Vũ Hồng Phong, “Ép buộc tình dục trong hôn nhân từ quan điểm của nam giới”. 7 Hoàng Bá Thịnh, Giáo trình xã hội học giới, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 8 Tine Gammeltoft, “Vấn đề tình dục tại đô thị đương đại”, Tạp chí giới, tình dục và sức khỏe, số 11/2006 9. Từ điển điện tử, Ngày truy cập 19/03/2010 10. ệ_tình_dục 11.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfKhác biệt giới trong hành vi tình dục trước hôn nhân.pdf