MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Nhận xét của giáo viên Trang
Mục lục 1
Phần A: Phần chung 3
Chương I: Mở đầu 4
I: Sự cần thiết của đề tài 4
II: Mục tiêu của đề tài 4
III: Nhiệm vụ của đề tài 5
IV: Ý nghĩa khoa học – thực tiễn 5
V: Khối lượng công việc – Các phương pháp nghiên cứu. 5
Chương II: Khái quát vùng nghiên cứu. 7
I: Vị trí địa lý 7
II: Khí hậu, đặc điểm thuỷ văn 7
III: Địa hình, địa mạo 10
IV: Đặc điểm kinh tế nhân văn 11
Chương III: Lịch sử nghiên cứu địa chất – địa chất thuỷ văn 24
I. Lịch sử nghiên cứu địa chất 24
1. Trước 30-4-1975 24
2. Sau 30-4-1975 25
II. Lịch sử nghiên cứu địa chất thuỷ văn 25
1. Trước 30-4-1975 25
2. Sau 30-4-1975 26
Chương IV. Đặc điểm địa chất 27
I. Địa tầng 27
II. Kiến tạo và các hệ thống đứt gãy 36
III. Lịch sử phát triển phát triển địa chất khu vực. 38
Chương V. Đặc điểm địa chất thuỷ văn 44
I. Nước trong các trầm tích Holocen. 44
II. Nước trong các trầm tích Pleistocen. 45
III. Nước trong các trầm tích Pliocen trên. 46
IV. Nước trong các trầm tích Pliocen dưới. 47
Phần B: Phần Chuyên Đề. 50
Chương I: Hiện trạng chất lượng nước dưới đất 51
I. Kết quả 51
II. Hiện trạng 61
Chương II. Đánh giá chất lượng nước dưới đất 65
I. Đánh giá hiện trạng 65
II. Nguồn gốc 69
III. Diễn biến chất lượng theo không gian và thời gian 73
Kết luận và kiến nghị 84
Tài liệu tham khảo 90
Phụ lục 92
Chương I: MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết của đề tài:
Việc sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất và ăn uống tăng lên đáng kể ở các thành phố lớn trong những năm gần đây. Tại các thành phố lớn, đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh nơi có tốc độ phát triển kinh tế nhanh cùng với sự tập trung dân cư cao thì việc đáp ứng nhu cầu này đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Tuy nhiên cho đến nay, tại một số vùng trong thành phố cụ thể quận Bình Tân (tách ra từ huyện Bình Chánh) nước máy chỉ đáp ứng cho một bộ phận nhỏ dân cư sống trong khu vực này, do đó việc khai thác và sử dụng nước dưới đất là điều rất cần thiết và tất yếu của người dân. Hiện nay các giếng khoan khai thác tập trung chủ yếu ở hai tầng: tầng Pleistocen (QI-III) và tầng Pliocen trên(Nb2).
Việc khai thác nước dưới đất với lưu lượng quá mức, không theo quy hoạch đã làm cho khả năng bị ô nhiễm của các tầng nước dưới đất trong khu vực có thể xảy ra. Nhất là tầng Pleistocen.
Với đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ hiện trạng nước dưới đất trong khu vực, cũng như làm sáng tỏ chất lượng nước dưới đất theo thời gian và không gian tại khu vực này
II. Mục tiêu của đề tài.
Nghiên cứu các thành phần hoá học và sự thay đổi của chúng trong nước dưới đất, để từ đó có biện pháp bảo vệ và khai thác một cách hợp lý nguồn tài nguyên này.
III. Nhiệm vụ của đề tài.
Làm sáng tỏ điều kiện địa chất thuỷ văn khu vực. Nghiên cứu và hiện trạng chất lượng nước dưới đất đang khai thác. Đồng thời nêu lên nguyên nhân gây ra sự biến đổi chất lượng nước và đề xuất hướng sử dụng.
IV. Ý nghĩa khoa học – thực tiễn.
1. Ý nghĩa khoa học.
Qua kết quả nghiên cứu phân tích thành phần hoá học nước dưới đất đã góp phần làm sáng tỏ về hiện trạng chất lượng nước dưới đất tại khu vực quận Bình Tân.
2. Ý nghĩa thực tiễn.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho công tác khai thác và quản lý nguồn nước dưới đất tại khu vực.
V. Khối lượng công việc – các phương pháp nghiên cứu.
1. Khối lượng công việc.
* Thu thập tài liệu
- Các tài liệu về đặc điểm địa chất, địa chất thuỷ văn của thành phố Hồ Chí Minh.
- Các tài liệu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ở quận Bình Tân.
- Các báo cáo khoa học về nước dưới đất ở thành phố Hồ Chí Minh.
* Khối lượng đề tài thực hiện.
- Tiến hành khảo sát: đi đến từng hộ dân.
- Lấy mẫu: 9 mẫu trong ngày 22-04-2004
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng kết quả phân tích mẫu nước từ các đơn vị khác.
- Các mẫu được phân tích với các chỉ tiêu: pH, DO, Eh, EC, nhiệt độ, màu, mùi vị, độ axit, độ kiềm, sắt tổng cộng, sắt hai, độ cứng tổng cộng, độ cứng canxi, độ cứng magiê, chất rắn tổng cộng, , cation (NH4+, Ca2+, Mg2+) anion (SO42-, PO43-, NO3-, HCO3-, Cl-).
2. Phương pháp nghiên cứu.
* Thu thập và tổng hợp các tài liệu theo phương pháp tập hợp và chọn lọc.
* Phân tích thành phần hoá học của mẫu nước.
- pH; DO đo bằng máy WTW 396
- Chất rắn: xác định bằng phương pháp sấy khô ở 1050C.
- Độ kiềm, độ axit, độ cứng tổng cộng, độ cứng canxi, Cl-, xác định bằng phương pháp chuẩn độ, sắt tổng cộng, sắt hai, sunfat, photphat, NO3-, NH4+ đo bằng máy spectrophotometor hiệu secoman với các bước sóng khác nhau.
- Các chỉ tiêu còn lại xác định trên cơ sở tính toán.
- Tổng hợp phân tích kết quả bằng các phần mềm tin học chuyên môn (mapinfor 6.0 )
81 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5709 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khảo sát chất lượng nước ngầm quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Nhận xét của giáo viên Trang
Mục lục 1
Phần A: Phần chung 3
Chương I: Mở đầu 4
I: Sự cần thiết của đề tài 4
II: Mục tiêu của đề tài 4
III: Nhiệm vụ của đề tài 5
IV: Ý nghĩa khoa học – thực tiễn 5
V: Khối lượng công việc – Các phương pháp nghiên cứu. 5
Chương II: Khái quát vùng nghiên cứu. 7
I: Vị trí địa lý 7
II: Khí hậu, đặc điểm thuỷ văn 7
III: Địa hình, địa mạo 10
IV: Đặc điểm kinh tế nhân văn 11
Chương III: Lịch sử nghiên cứu địa chất – địa chất thuỷ văn 24
I. Lịch sử nghiên cứu địa chất 24
Trước 30-4-1975 24
Sau 30-4-1975 25
II. Lịch sử nghiên cứu địa chất thuỷ văn 25
Trước 30-4-1975 25
Sau 30-4-1975 26
Chương IV. Đặc điểm địa chất 27
I. Địa tầng 27
II. Kiến tạo và các hệ thống đứt gãy 36
III. Lịch sử phát triển phát triển địa chất khu vực. 38
Chương V. Đặc điểm địa chất thuỷ văn 44
I. Nước trong các trầm tích Holocen. 44
II. Nước trong các trầm tích Pleistocen. 45
III. Nước trong các trầm tích Pliocen trên. 46
IV. Nước trong các trầm tích Pliocen dưới. 47
Phần B: Phần Chuyên Đề. 50
Chương I: Hiện trạng chất lượng nước dưới đất 51
I. Kết quả 51
II. Hiện trạng 61
Chương II. Đánh giá chất lượng nước dưới đất 65
I. Đánh giá hiện trạng 65
II. Nguồn gốc 69
III. Diễn biến chất lượng theo không gian và thời gian 73
Kết luận và kiến nghị 84
Tài liệu tham khảo 90
Phụ lục 92
PHẦN A
PHẦN CHUNG
Chương I: MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết của đề tài:
Việc sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất và ăn uống tăng lên đáng kể ở các thành phố lớn trong những năm gần đây. Tại các thành phố lớn, đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh nơi có tốc độ phát triển kinh tế nhanh cùng với sự tập trung dân cư cao thì việc đáp ứng nhu cầu này đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Tuy nhiên cho đến nay, tại một số vùng trong thành phố cụ thể quận Bình Tân (tách ra từ huyện Bình Chánh) nước máy chỉ đáp ứng cho một bộ phận nhỏ dân cư sống trong khu vực này, do đó việc khai thác và sử dụng nước dưới đất là điều rất cần thiết và tất yếu của người dân. Hiện nay các giếng khoan khai thác tập trung chủ yếu ở hai tầng: tầng Pleistocen (QI-III) và tầng Pliocen trên(Nb2).
Việc khai thác nước dưới đất với lưu lượng quá mức, không theo quy hoạch đã làm cho khả năng bị ô nhiễm của các tầng nước dưới đất trong khu vực có thể xảy ra. Nhất là tầng Pleistocen.
Với đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ hiện trạng nước dưới đất trong khu vực, cũng như làm sáng tỏ chất lượng nước dưới đất theo thời gian và không gian tại khu vực này
II. Mục tiêu của đề tài.
Nghiên cứu các thành phần hoá học và sự thay đổi của chúng trong nước dưới đất, để từ đó có biện pháp bảo vệ và khai thác một cách hợp lý nguồn tài nguyên này.
III. Nhiệm vụ của đề tài.
Làm sáng tỏ điều kiện địa chất thuỷ văn khu vực. Nghiên cứu và hiện trạng chất lượng nước dưới đất đang khai thác. Đồng thời nêu lên nguyên nhân gây ra sự biến đổi chất lượng nước và đề xuất hướng sử dụng.
IV. Ý nghĩa khoa học – thực tiễn.
1. Ý nghĩa khoa học.
Qua kết quả nghiên cứu phân tích thành phần hoá học nước dưới đất đã góp phần làm sáng tỏ về hiện trạng chất lượng nước dưới đất tại khu vực quận Bình Tân.
2. Ý nghĩa thực tiễn.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho công tác khai thác và quản lý nguồn nước dưới đất tại khu vực.
V. Khối lượng công việc – các phương pháp nghiên cứu.
1. Khối lượng công việc.
* Thu thập tài liệu
- Các tài liệu về đặc điểm địa chất, địa chất thuỷ văn của thành phố Hồ Chí Minh.
- Các tài liệu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ở quận Bình Tân.
- Các báo cáo khoa học về nước dưới đất ở thành phố Hồ Chí Minh.
* Khối lượng đề tài thực hiện.
- Tiến hành khảo sát: đi đến từng hộ dân.
- Lấy mẫu: 9 mẫu trong ngày 22-04-2004
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng kết quả phân tích mẫu nước từ các đơn vị khác.
- Các mẫu được phân tích với các chỉ tiêu: pH, DO, Eh, EC, nhiệt độ, màu, mùi vị, độ axit, độ kiềm, sắt tổng cộng, sắt hai, độ cứng tổng cộng, độ cứng canxi, độ cứng magiê, chất rắn tổng cộng, , cation (NH4+, Ca2+, Mg2+) anion (SO42-, PO43-, NO3-, HCO3-, Cl-).
2. Phương pháp nghiên cứu.
* Thu thập và tổng hợp các tài liệu theo phương pháp tập hợp và chọn lọc.
* Phân tích thành phần hoá học của mẫu nước.
- pH; DO đo bằng máy WTW 396
- Chất rắn: xác định bằng phương pháp sấy khô ở 1050C.
- Độ kiềm, độ axit, độ cứng tổng cộng, độ cứng canxi, Cl-, xác định bằng phương pháp chuẩn độ, sắt tổng cộng, sắt hai, sunfat, photphat, NO3-, NH4+ đo bằng máy spectrophotometor hiệu secoman với các bước sóng khác nhau.
- Các chỉ tiêu còn lại xác định trên cơ sở tính toán.
- Tổng hợp phân tích kết quả bằng các phần mềm tin học chuyên môn (mapinfor 6.0 )
Chương II
KHÁI QUÁT VÙNG NGHIÊN CỨU
Quận Bình Tân là đô thị mới được thành lập bao gồm 10 phường, theo nghị định số 130/NĐ ngày 5/11/2003 của chính phủ từ thị trấn An Lac, xã Bình Hưng Hoà, xã Bình Trị Đông và xã Tân Tạo của huyện Bình Chánh trước đây. Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh, có phường hầu như không còn đất nông nghiệp (phường An Lạc A năm 2003 còn 3.5 ha, phường Bình Hưng Hoà A còn 39.5 ha).
VỊ TRÍ ĐỊA LÍ:
Quận Bình Tân là đô thị mới phát triển, gồm 3 xã và 1 thị trấn được tách ra từ huyện Bình Chánh. Quận nằm trong toạ độ địa lí từ 10027’38” đến 10045’30” vĩ độ Bắc và từ 106027’51” đến 106042’00” kinh độ Đông, tiếp giáp với:
Phía Bắc: quận 12, huyện Hóc Môn.
Phía Nam: quận 8, xã Tân Kiên, xã Tân Nhựt.
Phía Đông:quận Tân Bình, quận 6, quận 8.
Phía Tây: xã Vĩnh Lộc A, xã Vĩnh Lộc B, xã Lê Minh Xuân.
KHÍ HẬU, ĐẶC ĐIỂM THUỶ VĂN:
Bình Tân nằm trong khu vưc nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với hai mùa mưa nắng, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ không khí
Nhiệt độ cao nhất: 300C (tháng 4).
Nhiệt độ thấp nhất: 26,80C (tháng 11).
Nhiệt độ trung bình năm: 27.90c.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến năm 2010).
Độ ẩm không khí:
Độ ẩm cao nhất:82% (tháng 8).
Độ ẩm thấp nhất: 70% (tháng 2).
Độ ẩm trung bình:76%.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến năm 2010).
Lượng mưa:
Lượng mưa trung bình năm là 1983 mm, tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7, 8, 9, 10 chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Trong tháng 7 có số ngày mưa nhiều nhất là 23 ngày và tháng 2 có số ngày mưa ít nhất là 1 ngày.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến năm 2010).
Lượng bốc hơi:
Lượng bốc hơi trong năm khá lớn, tổng lượng là 1399 mm/năm, chiếm 51.3% lượng mưa trung bình năm. Trong đó các tháng nắng lượng bốc hơi là 5-6 mm/ngày, các tháng mưa là 2-3 mm/ngày. Do lượng bốc hơi khá cao vào mùa khô đã làm giảm lượng nước mặt nên phèn và độ mặn tăng ở các vùng trũng.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến năm 2010).
Các yếu tố khác:
Nắng: số giờ nắng cả năm là 1829.3 giờ, tháng 5 có số giờ nắng nhiều nhất 204 giơ (6-7 giờ/ngày), tháng 11 có số giớ nắng ít nhất là 136.3 giờ(4-5 giờ/ngày).
Gió:gió thịnh hành trong mùa khô là hướng gió đông nam và gió thịnh hành trong mùa mưa là hướng gió Tây Nam. Tốc độ gió trung bình khoảng 2-3 m/s.
Nhìn chung, khí hậu quận Bình Tân có tính ổn định cao, không xảy ra thời tiết bất thường như bão lụt, nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến năm 2010).
Nguồn nước và thuỷ văn:
Nguồn nước mặt :quận Bình Tân có hệ thống sông, rạch từ chi lưu của các sông Sài Gòn, Nhà Bè-Xoài Rập, Vàm Cỏ Đông tạo nên, có chế độ bán nhật triều không đều dễ gây ngập vào mùa mưa và mặn xâm nhập sâu nội đồng vào mùa khô. Chất lượng nước ở hệ thống sông rạch của quận rất kém do nằm ở hạ lưu của hệ thống sông nên mức độ ô nhiễm nặng, chủ yếu là các chất thảy từ thành phố theo hệ thống kênh Tàu Hủ, Tân Hoá-Lò Gốm, Kênh Đôi, rạch Nước Lên đổ về. Bên cạnh đó còn có nguồn nước thải từ các khu công nghiệp và khu dân cư của quận thải ra làm cho chất lượng nước càng kém hơn. Do chất lượng nguồn nước kém nên ảnh hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội của quận đặc biệt là ô nhiễm môi trường tác động đến đời sống của dân cư rất nhiều.
Nguồn nước ngầm :nguồn nước phần lớn đều bị nhiễm phèn trong các tháng mùa khô nên ảnh hưởng đến việc khai thác sử dụng.
ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO:
Địa hình:
Địa hình quận Bình Tân thấp dần theo hướng Đông Bắc-Tây Nam, cao trình biến dạng từ 0.5-4m so với mực nước biển, được chia làm 2 vùng:
-Vùng 1: vùng cao dạng địa hình bào mòn bồi tụ, cao độ từ 3-4m, tập trung ở các phường Bình Trị Đông, Bình Hưng Hoà.
-Vùng 2: vùng thấp, dạng địa hình tích tụ bao gồm phường Tân Tạo và An Lạc.
Địa mạo:
Vùng nghiên cứu nằm ở phía Tây của thành phố Hồ Chí Minh – thuộc đới địa hình chuyển tiếp giữa vùng đồi núi nâng cao ở phía Bắc -Đông Bắc và vùng đồng bằng tích tụ rộng lớn Tây Nam bộ – địa hình có dạng bậc thềm và đồng bằng đầm lầy, sông-biển.
Địa hình đồng bằng thềm bậc II cao 3m – 3,5m phân bố ở phía Tây nội thành là chủ yếu. Thềm được cấu tạo từ trầm tích sét, bột có nguồn gốc hỗn hợp sông – biển tuổi Holocen sớm.
Địa hình tích tụ đồng bằng thềm bậc I phân bố rộng rãi ở Bình Chánh, đông Hóc Môn, nam Củ Chi,…Độ cao trung bình là 1m. Cấu tạo nên thềm này là các trầm tích hổn hợp sông – biển tuổi Holocen giữa muộn (QIV2-3).
Ngoài ra còn có các trũng lòng sông cổ trong khu vực.
3. Thổ nhưỡng:
Quận Bình Tân có 3 loại đất chính:
-Đất xám: nằm ở phía Bắc thuộc các phường Bình Hưng Hoà, Bình Trị Đông khoảng 2516 ha, thành phần cơ học là đất pha, kết cấu rời rạc.
-Đất phù sa có diện tích khoảng 1491 ha thuộc các phường Tân Tạo và một phần của phường Bình Trị Đông.
-Đất phèn có diện tích khoảng 1094 ha phân bố ở An Lạc và một phần phường Tân Tạo.
ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NHÂN VĂN:
Đặc điểm đất đai:
Tổng diện tích tự nhiên quận Bình Tân là 5188.7 ha. Tình hình sử dụng đất các ngành năm 2003 được phân theo mục dích sử dụng như sau:
-Đất nông nghiệp :1578.8 ha chiếm 30.3% đất tự nhiên.
-Đất chuyên dùng: 1752.7 ha, chiếm 33.8% đất tự nhiên.
-Đất ở: 1782.7 ha, chiếm 34.4% đất tự nhiên.
-Đất chưa sử dụng và sông suối: 81.4 ha, chiếm 1.6%, đất tự nhiên (trong đó sông suối chiếm 99.1%).
Trong những năm qua xu thế đô thị hoá, phát triển đô thị trên phương diện sử dụng quỷ đất các ngành diễn ra đặc biệt nhanh, có sự chuyển dịch mạnh cơ cấu đất ở tăng nhanh, đất nông nghiệp giảm mạnh, giảm bình quân năm những năm 2000-2003 là 434 ha. Cụ thể:
-Đất nông nghiệp năm 2000 là 2882.5 ha, chiếm 55.6% đất tự nhiên, năm 2003 giảm mạnh cò 1571.7 ha, chiếm 30.3% đất tự nhiên. Năm 2003 so với năm 200-2003 là 434 ha, được sử dụng 56% cho đất ở, 34% cho phát triển giao thông và 10% cho các mục đích khác.
Đất chuyên dùng năm 2000 tăng lên là 1162.1 ha chiếm gần 22.4% đất tự nhiên. Năm 2003 tăng lên 1752.7 ha, chiếm khoảng 33.8% đất tự nhiên. Năm 2003 so với năm 2000 tăng 590.6 ha, tăng bình quân năm những năm 2000-2003 là 196.8 ha được sử dụng 70% cho phát triển giao thông. Chính việc này phát triển mạnh giao thông là nhân tố tiên quyết cho phát triển mặt kinh tế xã hội và hình thành quân mới Bình Tân .
Đất ở năm 2000 là 1056.9 ha, chiếm 20.4% đất tự nhiên, năm 2003 tăng lên 1782.7 ha, chiếm 34.4% đất tự nhiên. Năm 2003 so với năm 2000 tăng 725.8 ha, tăng bình quân năm những năm 2000-20003 là 242 ha. Đất ở tăng lên đại đa số là đất ở đô thị được xây dựng không đồng đều và một số dự án dân cư tập trung. Điều này quan trọng là nhiều khu dân cư mới ở các phường Bình Hưng Hoà, Bình Hưng Hoà B, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Tân Tạo, Tân Tạo A không được xây dựng đồng bộ với hệ thống thoát nước, hệ thống giao thông… gây ngập nước nhiều nơi đang là trở ngại cho việc phát triển đô thị.
BẢNG 1: CƠ CẤU SỬ DỤNG ĐẤT
Loại đất
2000
2001
2003
2001 so với 2.000
2003 so với 2.001
Trị số
Cơ cấu (%)
Trị số
Cơ cấu (%)
Trị số
Cơ cấu (%)
Diện tích tự nhiên
5.188,7
100,0
5.188,7
100,0
5.188,7
100,0
I-Đất nông nghiệp
2.882,5
55,6
2.390,5
46,1
1.571,8
30,3
492,0
-818,7
1-Đất cây hàng năm
2.317,7
1.852,0
1.125,8
-465,7
-726,2
1.1. Lúa-lúa màu
2.256,2
1.807,2
1.096,2
-449,0
-711,0
1.2 Cây hàng năm
61,5
44,8
29,7
-16,7
-15,1
2-Đất vườn tạp
323,9
310,3
242,8
-13,6
-67,5
3- -Đất cây lâu năm
44,0
40,6
68,7
-3,4
28,1
4- Đất cỏ cho chăn nuôi
2,4
5- Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
196,8
187,5
132,08
-9,3
-55,4
II-Đất chuyên dùng
1.162,1
22,4
1.450,3
28,0
1.752,7
33,8
288,2
302,4
1- Đất xây dựng
778,4
1.022,5
898,3
244,1
-124,2
2- Đất giao thông
173,1
179,6
585,0
6,5
405,4
3- Đất thuỷ lợi và mặt nước CD
64.6
102.1
66.8
37.5
35.3
4- Đất di tích lịch sử văn hoá
3,1
5- Đất an ninh quốc phòng
1,8
18,5
11,9
16,7
6,6
6- Đất nghĩa trang
93,1
93,1
81,8
0,0
-11,3
7- Đất chuyên dùng khác
34,6
34,5
105,8
-0,1
71,3
III Đất ở:
1.056,9
20,4
1.278,6
24,6
1.782,7
34,4
221,7
504,1
1- Đất đô thị
192,1
552,4
1.782,7
360,3
1.230,3
2- Đất ở nông thôn
864,8
726,2
0,0
138,6
726,2
IV-Đất chưa sử dụng:
87,2
1,7
69,3
1,3
81,4
1,6
-17,9
12,1
1- Đất bằng chưa sử dụng
3,1
3,1
0,8
0,0
2,3
2-Sông suối
66,5
66,2
80,7
-0,3
14,5
( nguồn :phòng quản lí đô thị quận Bình Tân )
( Tình hình sử dụng đất nông nghiệp:
Mấy năm gần đây quận Bình Tân có tốc độ đô thị hoá rất nhanh do sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung, các khu dân cư mới và các khu tái định cư cho dân từ nội thành ra đã làm cho đất nông nghiêp giảm mạnh, nếu tính giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2003 đất nông nghiệp toàn quận giảm khoảng 820 ha, tương ứng tốc độ giảm là 18.9 %/năm, đất nông nghiệp từ chổ chiếm tỷ trọng 46.1% tổng diện tích tự nhiên toàn quận năm 2001, đến năm 2003 đất nông nghiệp còn 1572 ha, chiếm khoảng 3.3%. Việc giảm đất nông nghiệp để ưu tiên cho phát triển các khu công nghiệp, các khu dân cư và các công trình công cộng là điều tất yếu và hợp lí.
Nhìn chung trong mấy năm gần đây (giai đoạn từ 2001-2003) tất cả các loại đất nông nghiệp đều giảm tương đối nhanh, trong đó đất thuộc nhóm trồng hàng năm giảm với tốc độ nhanh nhất 22.0 %/năm, đất vườn tạp gỉam 11.5%, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản giảm 16.1% riêng cây lâu năm tăng 30%.
Tóm lại, sử dụng quỹ đất, biến động quỹ đất, xu hướng dịch chuyển quỹ đất của quận thời gian qua khá mạnh thể hiện sự hình thành, phát triển một đô thị. Tuy nhiên công tác quản lí nhà nước về xây dựng, quy hoạch không gian đô thị còn bất cập trước yêu cầu phát triển.
Dân số:
Dân số quận Bình Tân năm 2003 là 265.411 người, trong đó nam chiếm 47,45%, nữ chiếm 52,55%. Do tác động của quá trình đô thị hoá, dân số quận Bình Tân tăng rất nhanh trong thời gian qua, tốc độ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 1999 - 2003 là 16,17%.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm dần qua các năm từ 1,51% năm 1999 xuống còn 1,3% năm 2003, tuy nhiên so với tỷ lệ tăng tự nhiên của thành phố(1,27% năm 2002) thì tỷ lệ này vẫn còn cao, do đó công tác kế hoạch hoá gia đình phải được quan tâm.
Tỷ lệ tăng cơ học thời gian qua luôn ở mức cao, năm 2001 là 19,84%, năm 2002 tăng 17,65% và đến năm 2003 tăng là 17,31%. phần lớn dân nhập cư là do giản dân từ nội thành, số lao động từ các quận, huyện và các tỉnh khác đến tìm kiếm việc làm. Dân nhập cư chủ yếu tập trung ở các phường có mức đô độ thị hoá cao và các phường có xí nghiệp sản xuất. Vì vậy bên cạnh việc tích cực là tăng thêm nguồn lao động, lực lượng dân nhập cư đang là một áp lực lớn cho quận trong việc quản lí con người, giải quyết việc làm và tăng thêm sự quá tải cho các công trình hạ tầng như giáo dục, y tế đồng thời cũng gây nên nhiều hậu quả phức tạp về kinh tế và an ninh trật tự an toàn xã hội.
BẢNG 2: MỘT SỐ CHỈ TIÊU VỀ DÂN SỐ QUẬN BÌNH TÂN 1999-2003
Chỉ tiêu
ĐVT
1999
2000
2001
2002
2003
TĐTBQ 1999-2003 (%)
1. Quy mô dân số
Người
145.746
155.220
188.053
223.767
265.411
16,17
- Nam
“
71.109
75.406
91.262
108.571
125.949
15,36
- Nữ
“
74.637
79.814
96.791
115.196
139.462
16,92
2. Tỉ lệ tăng dân số
%
6,51
6,50
21,15
18,99
18,61
- Tăng tự nhiên
%
1,51
1,50
1,31
1,34
1,30
- Tăng cơ học
%
5,00
5,00
19,84
17,65
17,31
3. Mật độ dân cư
Người/km2
2.809
2.992
3.624
4.313
5.115
- Mật độ cao nhất
“
6.375
6.789
6.700
6.915
16.680
- Mật độ thấp nhất
“
1.278
1.361
1.682
2.016
1.592
( nguồn: Niên giám thống kê huyện Bình Chánh cũ. Phòng thống kê quận Bình Tân )
Mật độ dân cư quận Bình Tân năm 2003 là 5.115 người/km2, nơi có mật độ dân đông nhất là phường An Lạc A 16.680 người/km2 và thấp nhất là phường Tân Tạo A 1.592 người/km2. Dân cư phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào các phường có tốc độ đô thị hoá mạnh như An Lạc A, Bình Hưng Hoà, Bình Trị Đông.
Mặc dù có tỷ lệ tăng dân số cao nhưng mật độ dân cư bình quân của quận Bình Tân đến năm 2003 vẫn còn ở mức thấp so với mật độ bình quân của các quận trong thành phố (10.076 người/km2). Điều này cho thấy khả năng thu hút dân cư của quận Bình Tân rất lớn cũng như có điều kiện thuận lợi trong việc bố trí khu dân cư mới, các khu cụm công nghiệp, các khu thương mại- dịch vụ và phát triển cơ sở hạ tầng.
BẢNG 3: DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN, DÂN SỐ, MẬT ĐỘ DÂN SỐ NĂM 2003
STT
Tên phường
Diện tích tự nhiên (km2)
Dân số (người)
Mật độ(người/km2)
Tổng số
51,8867
265.411
5.115
1
An Lạc
4,59
20.774
4.526
2
An Lạc A
1,4065
23.461
16.680
3
Bình Trị Đông
3,462
41.677
12,38
4
Bình Trị Đông A
3,9505
22.173
5.613
5
Bình Trị Đông B
4,6241
18.390
3.977
6
Bình Hưng Hoà
4,7023
24.436
5.197
7
Bình Hưng Hoà A
4,2449
49.157
11.580
8
Bình Hưng Hoà B
7,5247
19.955
2.622
9
Tân Tạo
5,6617
26.955
4.761
10
Tân Tạo A
1,172
18.661
1.592
( nguồn: phong thống kê quận Bình Tân )
Trên địa bàn quận Bình Tân có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm 91.27% so với tổng dân số, dân tộc Hoa chiếm 8,45% còn lại là các dân Tộc Khơme, Chăm, Tày, Thái, Mường, người nước ngoài.
Tôn giáo có Phật Giáo, Công Giáo, Tinh Lành, Cao Đài, Hoà Hảo, Hồi Giáo…trong đó Phật Giáo, Công Giáo chiếm 27,26% trong tổng số dân cư theo đạo.
Hoạt động kinh tế:
Tăng trưởng và cơ cấu:
Tổng giá trị sản xuất (GTSX) các ngành kinh tế trên địa bàn quận năm 2003 đạt 6034.6 tỷ đồng so với năm 2002 tăng 39.2%. Tính chung giai đoan 2001-2003, GTSX trên địa bàn quận Bình Tân tăng so với tốc độ bình quân là 49.4% năm. Đây là một tăng trưởng rất cao so với các quận, huyện khác trên địa bàn thành phố .
BẢNG 4: TỔNG GIÁ TRỊ SẢN XUẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN
(giá so sánh 1994)
Chủ tiêu
2001
2002
2003
Tốc độ tăng bình quân 2001-2003(%)
Tổng GTSX trên địa bàn
2.702,1
436,2
6.034,6
49,4
I. Phân theo khu vực
1. Nông nghiệp, thuỷ sản
38,1
36,2
35,7
-3,2
2. Công nghiệp- xây dựng
2.474
4.020
5.578,9
50,2
3. Thương mại- dịch vụ
190
280
420
48,7
II. Phân theo thành phần kinh tế
1. Kinh tế nhà nước
179,3
241,8
330,8
35,8
2. Kinh tế tư nhân
942,8
1.354,4
2.083
48,6
3. Có vốn đầu tư nước ngoài
1.580
2.740
3.621
51,4
(nguồn: tính toán từ niên giám thống kê huyện Bình Chánh cũ và số liệu các ngành )
Sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp:
BẢNG 5: GÍA TRỊ SẢN XUẤT CN-TTCN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN
( giá cố định 1994)
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Bình quân GĐ 2001-2003(%)
I. Giá trị
Tổng số
(triệu đồng)
2.131.378
3.438.020
4.560.452
Chia theo cấp quản lí
1. Nhà nước
70.000
90.000
133.110
2.Ngoài nhà nước
549.378
716.020
966.552
3.Có vốn đầu tư nước ngoài
1.512.000
2.632.000
3.460.800
Chia theo thành phần kinh tế
1.Doanh nghiệp nhà nước
70.000
90.000
133.110
2.Công ty cổ phần
879
32.006
35.548
3.Công ty trách nhiệm hữu hạn
301.609
360.588
498.548
4.Doanh nghiệp tư nhân
45.653
49.477
71.235
5.Hộ cá thể
201.237
273.949
361.200
6.Có vốn đầu tư nước ngoài
1.512.000
2.632.000
3.460.800
II.Tốc độ tăng
Tổng số (%)
61,31
32,65
46,28
Chia theo cấp quản lí
1.Nhà nước
28,57
47,90
37,90
2.Ngoài nhà nước
30,33
34,99
32,64
3.Có vốn đầu tư nước ngoài
74,07
31,49
51,29
Chia theo thành phần kinh tế
1.Doanh nghiệp nhà nước
28,57
47,90
37,90
2.Công ty cổ phần
3.541,18
11,13
536,12
3.Công ty trách nhiệm hữu hạn
19,55
38,26
28,57
4.Doanh nghiệp tư nhân
8,38
43,98
24,91
5.Hộ cá thể
36,13
31,85
33,97
6.Có vốn đầu tư nước ngoài
74,07
31,49
51,29
Khu công nghiệp do thành phố quản lí:
Khu công nghiệp Tân Tạo.
Khu công nghiệp Vĩnh Lộc ( phường Bình Hưng Hoà) và xã Vĩnh Lộc A- Huyện Bình Chánh.
Cụm công nghiệp do quận quản lí:
Cụm công nghiệp DNTN Thiên Tuế:D6/29 tỉnh lộ 10. Phường Tân Tạo.
Cụm công nghiệp công ty TNHH Hợp Thành Hưng: 158A An Dương Vương-An Lạc.
Cụm công nghiệp công ty TNHH Việt Tài:152 Hồ Ngọc Lãm- An Lạc.
Cụm công nghiệp công ty TNHH Hai Thành: E4/48 ấp 5 Bình Trị Đông.
Thương mại- dịch vụ:
Cơ sở kinh doanh, thương mại- dịch vụ:
Hiện nay trên địa bàn quận có 6 chợ ổn định, trong đó có 2 chợ mới vừa được xây dựng tại phường Bình Hưng Hoà số chợ và nhóm tự phát là 15, trong đó quan trọng là chợ đầu mối An Lạc.
Trung tâm thương mại Kiến Đức thuộc phường Bình Trị Đông.
Siêu thị Cora.
Hiện trạng các chợ, siêu thị và các trung tâm thương mại:
Sản xuất nông nghiệp thuỷ sản(NNTS):
Diện tích nông nghiệp giảm mạnh do tác động của đô thị hoá và phát triển các công trình hạ tầng, nên giá trị sản xuất ngành NNTS có xu hướng giảm dần hằng năm. Nếu xét giai đoạn 2001-2003 cho thấy GTSX ngành NNTS năm 2001 đạt 38133 triệu đồng (giá cố định 1994) đến năm 2003 còn 35133 triệu đồng. Như vậy so với năm 2001, giảm 2418 triệu đồng tương ứng tốc độ giảm bình quân giai đoạn 2001-2003 là 3.2 %/năm. Trong đó GTSX ngành nông nghiệp tốc độ bình quân là 3.3%/năm. Riêng ngành thuỷ sản tăng 1.7%. Nếu xét nội bộ ngành nông nghiệp thì GTSX ngành chăn nuôi tăng với tốc độ bình quân là 3.0 %/năm, trong khi đó ngành trồng trọt giảm đến 17.9 %/năm.
Giao thông vận tải:
Trên địa bàn quận Bình Tân có một hệ thống giao thông thuỷ và bộ khá thuận tiện, nhiều trục lộ chính nối liền giữa quận Bình Tân nói riêng và thành phố Hồ Chí Minh nói chung với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Mạng lưới giao thông quốc gia- nội quận có các trục chính sau:
Quốc lộ 1A theo hướng Bắc- Nam.
Tỉnh lộ 10 theo hướng Đông- Tây.
Ngoài ra quận Bình Tân còn có những đường liên khu vực, khu vưc và đường nội bộ.
Đường bộ:
Tổng số tuyến đường trên địa bàn quận Bình Tân là 228 tuyến đường, tổng chiều dài 177,121 km và tổng số hẻm là 186 hẻm, tổng chiều dài là 40,950 km.
Mật độ mạng lưới đường bộ quận Bình Tân là 3.14 km/km2.
Nhìn chung: mạng lưới giao thông trên địa bàn quận Bình Tân còn yếu. Phần lớn các tuyến đường đang xuống cấp, nhất là vào mùa mưa, tình trạng ngập nước trên đường giao thông xảy ra thường xuyên. Đường quốc lộ 1A ngang qua khu công nghiệp Tân Tạo Và Pou-Chen là một ví dụ, hầu hết quãng đường này đều có những “ổ gà” rất lớn, gây trở ngại không chỉ cho người dân tham gia giao thông trên đường mà còn ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn. Tỉnh lộ 10, đường Tên lửa, Hương lộ 2… cũng có tình trạng tương tự.
Những đường giao thông do quận và phường quản lí cũng đang xuống cấp nhất là đường hẻm trong khu dân cư hiện hữu. Phần lớn các đường hẻm này có chiều rộng hẹp và cũng thường xuyên bị ngập nước vào mùa mưa. Việc xây dựng tràn lan không theo quy hoạch đã ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng mạng lưới giao thông đường bộ trên địa bàn quận. Ngay trên phường An Lạc chỉ có 22.4% các đường hẻm do quận và phường quản lí được đánh giá là tốt, còn lại là 77.6% có chất lượng rất xấu, đang xuống cấp và cần phải sửa chữa.
Đường sông, cầu:
Mạng lưới sông rạch quận Bình Tân không nhiều. Các ao hồ tập trung nhiều ở phường Bình Trị Đông, còn sông, kênh rạch ở phường Tân Tạo: như rạch Nước Lên, rạch Phượng, sông Chùa, sông Dập… mạng lưới đường thuỷ trên toàn quận khoảng gần 15 km, diện tích sông rạch trên địa bàn là 0.66 km2, chiếm khoảng 1,28% tổng diện tích sử dụng của quận.
Trên địa bàn quận Bình Tân hiện có tất cả 31 cầu các loại được phân bố chủ yếu trên các phường An Lạc, Tân Tạo và Bình Hưng Hoà. Trong 31 cầu có 17 cầu do trung ương và thành phố quản lí. Quận quản lí 12 cầu và 2 cầu khác do phường quản lí. Chiều rộng các cầu còn hạn chế. Phần lớn số cầu có chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng đường nên lưu lượng lưu thông xe không cao.
Phương tiện vận tải:
Theo báo cáo trên địa bàn quận Bình Tân năm 2003 có 53 xe ôtô chở khách từ 15 ghế trở lên, 25 xe ôtô chở khách từ 15 chổ trở xuống, 725 ôtô tải các loại từ 1 tấn trở lên và ôtô chuyên dùng.
Cấp thoát nước:
Hầu hết trên địa bàn quận Bình Tân đều sử dụng nước giếng khoan để phục vụ sinh hoạt và sản xuất, riêng các khu công nghiệp Tân Tạo, Pouchen có hệ thống xử lí nước riêng để phục vụ sản xuất, một phần quận giáp với Quận 6 và Quận 8 có một số dân cư sử dụng nước do sông Sài Gòn- Đồng Nai cung cấp.
Theo quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước bẩn thành phố Hồ Chí Minh do JICA thực hiện vào tháng 3 năm 2000 và đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt vào tháng 6 năm 2001, huyện Bình Chánh nằm trong khu vực xây dựng mới và sử dụng hệ thống thoát nước bẩn riêng để thu gom và xử lí nước thải theo hệ thống thoát nước mưa hoặc thoát ra kênh rạch gần nhất. Hiện nay, phát triển dưới dạng một quận mới, quận Bình Tân có mật độ dân số cao hơn do đó theo định hướng lâu dài sẽ được xử lí tập trung.
CHƯƠNG III
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT ĐỊA CHẤT THUỶ VĂN
I . LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT:
1. Trước năm 1975:
Năm 1883, Pháp thành lập sở địa chất Đông Dương nhưng đến năm 1895-1960 Pháp bắt đầu nghiên cứu đồng bằng sông Cửu Long (với hai tác giả lỗi lạc là J.Fromaget và E. Saurin) và cho ra đời một số mặt cắt dọc sông Đà, sông Mã, sông Mêkông… đồng thời cho ra đời bộ bản đồ địa chất Đông Dương tỷ lệ 1:1.000.000 và 1:500.000 và được ấn hành năm 1950.
Năm 1960, bắt đầu có sự đóng góp của các nhà địa chất Việt Nam.
Năm 1962, E.Saurin và Tạ Trần Tấn đã lập cột địa tầng vùng Châu Thới – Biên Hòa – Sài Gòn.
Năm 1965, Nguyễn Văn Vân đã nghiên cứu và cho ra đời bài “Thềm phù sa Sài Gòn – Chợ Lớn”.
Năm 1966, Trần Kim Thạch phát họa nét kiến tạo ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai và Lê Quang Tiếp xác định nét cơ bản địa tầng kiến tạo và mô tả trầm tích, kiến trúc của trầm tích hạ lưu sông Đồng Nai.
Năm 1971, H.Fontane và Hoàng Thị Thân vẽ tờ bản đồ Sài Gòn – Thủ Đức - Biên Hòa – Phú Cường – Nhà Bè, tỷ lệ 1:25.000 kèm theo thuyết minh.
Năm 1974, H.Fontane phát họa sơ lược về đứt gãy và lịch sử phát triển địa chất vùng Biên Hòa.
1. Sau năm 1975:
Năm 1975, Trần Kim Thạch cho sản xuất bản đồ địa chất Miền Nam tỷ lệ 1:2.000.000 nhưng chưa chi tiết và hệ thống. Cùng năm này Hồ Chín, Võ Đình Ngộ với báo cáo “ Những kết quả nghiên cứu mới về địa chất kỉ thứ tư của đồng bằng sông Cửu Long”.
Năm 1977, Trần Kim Thạch hoàn thành tờ bản đồ địa chất kỉ thứ tư của đồng bằng sông Cửu Long tỉ lệ 1:250.000. Nguyễn Hữu Phước “Trầm tích phù sa ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai”, Phạm Hùng “ Các trầm tích trẻ đồng bằng Tây Nam Bộ”, Lê Đức An “Kiến tạo và địa mạo Miền Nam”.
Năm 1982-1983, Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao với công trìng địa chất khoáng sản Việt Nam đã nêu lên những nét khái quát về địa tầng, cấu trúc, địa mạo thành phố.
Năm 1983 -1985, Hà Quang Hải, Ma Công Cọ với công trình bản đồ địa chất thành phố và khoáng sản tỷ lệ 1:50.000.
Năm 1985 – 1990, Đoàn Văn Tín và Liên đoàn địa chất thành phố Hồ Chí Minh đã lập báo cáo thành lập tờ bản đồ địa chất công trình, Địa chất thủy văn thành phố tỷ lệ 1:50.000.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT THỦY VĂN:
1. Trước năm 1975:
Năm 1936 Brenil và Molleret cho xuất bản “Lịch sử cấp nước thành phố Sài Gòn”. Cùng thời gian này có các tác giả Richard, Viclard, Godon, Brashears với những bài viết : “Tiềm năng cung cấp nước Sài Gòn – Chợ Lớn”, “Vấn đề nước uống, sự kiểm tra các hệ thống phân phối của nước mưa Sài Gòn”.
Năm 1969 – 1975 Nguyễn Đình Viễn, Trịnh Thanh Phúc đã phát hiện nước ngọt vùng rừng sác –duyên hải.
Năm 1970, J.A.Burgh, Đào Duy, Rassan viết về kết quả khảo sát và bơm hút nước thí nghiệm tại trung tâm huấn luyện Quang Trung – Gò Vấp.
Năm 1970 -1973 cuộc khảo sát nước ngầm ở Hóc Môn để cung cấp nước cho toàn thành phố Sài Gòn, do công ty của Nhật tiến hành dưới sự hướng dẫn của tiến sĩ Hyromn Tana.
2.. Sau năm 1975:
Tiến hành triển khai kế hoạch điều tra thăm dò nguồn nước dưới đất để khai thác và sử dụng hợp lý.
Năm 1979 Võ Ngọc Tùng gợi năm vỉa nước ngọt trong thành phố( vỉa 20m, 50m, 90m, 120m) đã được khai thác.
Năm 1983 Trần Hồng Phú, Đoàn Văn Tín và các chuyên gia Liên Xô đã lập bản đồ địa chất thủy văn toàn quốc tỷ lệ 1:500.000.
Năm 1982 Nguyễn Hoàng Bỉnh và Lê Văn Tốt (Sở thủy lợi) đã báo cáo về đặc điểm nguồn nước ngầm khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Trần Kim Thạch, Võ Ngọc Tùng và Đoàn 500N tham gia nghiên cứu, đánh giá trữ lượng, chất lượng, nguồn cung cấp, hướng vận động và sự phân bố nước ngầm thành phố Hồ Chí Minh.
Chương IV: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT
Khu vực Quận Bình Tân (Thành Phố Hồ Chí Minh) nằm ở phạm vi chuyển tiếp giữa đới hoạt hoá Mezozoi (MZ) Đà Lạt ở phía Bắc và đới sụt võng Kainozoi (KZ) Nam Bộ.
Tuy nhiên, vùng nghiên cứu chủ yếu nằm ở đới sụt võng Kainozoi nên cấu trúc Kainozoi được thể hiện rõ hơn, các cấu trúc Mezozoi chỉ được phát hiện ở một số công trình khoan đơn lẻ. Lịch sử nghiên cứu và cấu trúc địa chất khu vực đã được thể hiện ở báo cáo Bản đồ Địa chất thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ 1/50.000 (Ma Công Cọ - 1987) và Báo cáo lập bản đồ địa chất thuỷ văn – công trình vùng thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ 1/50.000 (Đoàn Văn Tín – 1988).
I. ĐỊA TẦNG KHU VỰC
1.Giới Kainozoi (KZ):
1.1 Hệ Neogen (N):
Trầm tích Neogen lộ ra rất ít ở ấp Hàm Luông (Thủ Đức) còn hầu như chỉ gặp trong một số lỗ khoan.
a) Thống Miocene - bậc trên. Hệ tầng Bình Trưng (N13bt)
Các thành tạo của hệ tầng này gặp tại lõi khoan 820, phường Bình Trưng, Quận 02. Mặt cắt lõi khoan từ dưới lên có thể chia thành ba tập như sau:
Tập 1: cát, sạn sỏi chứa các mảnh dăm gắn kết yếu bởi bột sét màu lục, phủ bất chỉnh hợp lên đá andesitobasalt của hệ tầng Long Bình, dày 3,3 mét; phía trên là sét bột kết có màu nâu, dày 0,5 mét.
Tập 2: cát bột kết màu xám, dày 7,6 mét.
Tập 3: sét bột kết màu xám, phân lớp mỏng (phân lớp từ 0,5 đến 4,0 cm) dày 8 mét, trên mặt lớp có thực vật hóa than màu đen, bị các trầm tích Pliocene thượng hệ tầng Bà Miêu phủ bất chỉnh hợp bên trên. Tập này có chứa hóa thạch bào tử phấn hoa vơí các dạng đặc trưng như: Microlepia sp., Schizea sp., Anemia sp., Ginkgo sp., Plicea sp., Tsuga sp., Quercus sp., Castanopsis sp., Alaria sp., Fragus sp., Alnus sp., Juglans sp., được Nguyễn Đức Tùng xếp vào tuổi Miocene muộn.
b) Thống Pliocen – bậc dưới. Hệ tầng Nhà Bè (N21nb):
Chỉ xuất lộ ra một phần diện tích quận 9, phần đông bắc quận Thủ Đức, nhưng gặp hệ tầng trong hầu hết các lỗ khoan sâu trên diện tích của Thành phố.
Khu vực nghiên cứu gặp hệ tầng này ở độ sâu từ 133,5m đến 320m (LK.808) và từ 211,9m đến 330m (LK.812). Tại lõi khoan 812, từ dưới lên có các tập :
Tập 1: Cát sạn sỏi, cát pha bột sét chứa sạn, cát pha bột sét xen kẹp ít lớp mỏng sét bột màu xám, cuội sỏi xen các lớp sét cát màu xám lục chứa bào tử, phấn hoa và tảo nước mặn. Bề dày khoảng 26-50m, phủ bất chỉnh hợp lên cát kết màu đỏ của hệ tầng Long Bình. Dựa vào cấp hạt, đường kính trung bình, các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích có độ chọn lọc trung bình, lệch về phía cấp hạt nhỏ. Phần bên dưới cát sạn sỏi chiếm chủ yếu, phần trên trầm tích mịn hơn. Các trầm tích thuộc cụm tướng tiền châu thổ lắng đọng trong chế độ thủy động lực trung bình nhưng thay đổi nhanh, dạng đồ thị đường cong hạt có 1-3 đỉnh.
Tập 2: Bột sét pha cát màu xám loang lổ nhẹ, sét bột cấu tạo khối chứa thân cây hóa than màu xám tro, phớt tím, chứa bào tử phấn hoa và tảo nước mặn, dày khoảng 9 mét (LK812).
Tập 3: Cát, cát chứa sạn-sỏi màu xám xanh, xen ít lớp mỏng bột sét pha cát chứa di tích thực vật hóa than, bào tử phấn hoa, tảo nước mặn, trùng lỗ, dày khoảng 80 - 90m. Thành phần cấp hạt: cát sạn sỏi chiếm 60 - 68%, bột 6 -16%, sét 25 - 31%; các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích có độ chọn lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt lớn. Trầm tích thuộc cụm tướng tiền châu thổ, có chế độ thủy động lực trung bình, biến động phức tạp, đồ thị đường cong phân bố hạt có 2-3 đỉnh.
Tập 4: Bột sét pha cát màu xanh, sét bột phân lớp mỏng màu vàng nghệ, loang lổ nâu đỏ, bề dày khoảng 2,6 - 7m. Thành phần cấp hạt cát sạn =20%, bột=47%, sét =33%. Các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, phân bố lệch về phía hạt nhỏ, có chế độ thủy động lực kém nhưng xáo động, đồ thị đường cong phân bố hạt có 4 đỉnh. Tập này bị hệ tầng Bà Miêu tuổi Pliocen muộn phủ bất chỉnh hợp lên.
Bào tử phấn hoa thu thập được bao gồm các dạng như Polypodiacae gen. sp., Rhus sp., Phorbiaceae gen. sp., Betula sp., Cystopteris sp., Quercus sp., Ginkgo sp., Lygodium sp., Palmae gen. sp., Podocarpus sp. được Nguyễn Đức Tùng xác định có tuổi Pliocen sớm. Tảo nước mặn gồm có các giống loài như Cyclotella striata, Paralia sulcata, Schuettia annulata, Coscinodiscus sp., Thalassiosira sp., Thalassionema nitzschioides, Nitzschia cocconeiformis, Coscinodiscus lineatus, Actinocyclus ohrenbergii, Hantzschia amphioxys Được Đào Thị Miên xác định tuổi Pliocen. Tập 3 chứa các bào tử phấn hoa như Picea, Pinus, Florschuetzia meridionalis cho tuổi Pliocen (Nguyễn Đức Tùng); di tích trùng lỗ gồm các giống loài như Lagena aff. laevis, Asterorotalia pulchella.
Theo hướng Đông Bắc-Tây Nam (từ Thủ Đức đến Bình Chánh), bề mặt nóc của tầng Pliocene hạ chìm dần với dạng bậc thang từ độ sâu 80-86 mét ở khu vực Bình Thạnh, Quận 9, 136-144 m ở khu vực nội thành, 140-142 mét ở khu vực Bình Chánh, với chiều dày của loạt trầm tích này cũng thay đổi một cách tương ứng là 43-68 mét, 100-128 mét và 118-180 mét. Trầm tích chuyển dần từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu sang cụm tướng tiền tam giác châu và biển nông, tương ứng với kỳ biển tiến thời này.
c) Thống Pliocen – bậc trên. Hệ tầng Bà Miêu (N22bm):
Phân bố rộng rãi ở các khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, hệ tầng thường bắt đầu bằng các trầm tích hạt thô cát sạn pha bột, và kết thúc bằng các trầm tích hạt mịn sét bột phân lớp.
Trong vùng nghiên cứu hệ tầng này gặp ở độ sâu từ 74,5m đến 133,5m (LK.808) và từ 129 m đến 211,9 m (LK.812) được chia làm hai tập:
Tập dưới: Cát pha bột chứa sạn sỏi màu xám vàng, nâu vàng dạng bở rời , dày khoảng 35-40m.
Tập trên: Sét bột màu trắng xám bị phong hoá loang lổ nâu vàng, nâu đỏ, dày khoảng 20-25m. Hệ tầng bị các trầm tích Pleistocen phủ bên trên.
Theo hướng Theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bề mặt nóc của hệ tầng chìm sâu dần từ một vài mét ở khu vực tây bắc Củ Chi, 20-45 mét ở khu vực Hóc Môn và khu vực nội thành, 34 đến 84 mét ở khu vực Cần Giờ. Sự biến đổi theo hướng này kém rõ.
Theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, do ảnh hưởng của đứt gãy kiến tạo phương Tây Bắc – Đông Nam, độ sâu bề mặt nóc, chiều dày và tướng trầm tích thay đổi nhanh hơn. Bề mặt nóc của tầng có độ cao từ 27 mét ở Thủ Đức, đến sâu 25 mét và 37 mét ở Bình Thạnh – Tân Bình và sâu 72,5 mét ở Bình Chánh. Tướng trầm tích chuyển từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu sang tiền tam giác châu. Cụm tướng đồng bằng tam giác châu (dày 40 đến 70 mét) ở Thủ Đức, Bình Trưng (quận 2) chuyển qua cụm tướng tiền tam giác châu có chiều dày thay đổi từ 90 đến 120 mét (khu vực nội thành) và 100 đến 136 mét ở khu vực Tây Nam Bình Chánh.
Về thành phần khoáng vật cũng cho thấy hoạt động biển tiến. Phần bên dưới gặp các khoáng vật tích tụ trong vùng đồng bằng tam giác châu như: mảnh đá, ilmenit, turmalin, andalusit, zircon; tập trên có các khoáng vật hình thành trong điều kiện tiền tam giác châu hay biển nông như: siderit, nhóm carbonat.
1.2. Hệ Đệ Tứ (Q):
a) Thống Pleistocen- bậc dưới. Hệ tầng Trảng Bom (QI3tb)
Các thành tạo của hệ tầng này không lộ ra trên bề mặt địa hình, bề dày của hệ tầng này thay đổi từ 25 mét đến 50 mét. Trong lõi khoan 812 tại Bình Chánh, các trầm tích của hệ tầng này gặp ở độ sâu từ 72 m đến 129 m, mặt cắt lõi khoan từ dưới lên:
Tập 1: Cát hạt trung đến thô, có màu xám nâu. Dày 9 mét.
Tập 2: cát thô, sạn sỏi màu xám có tảo nước mặn ở độ sâu 98 mét, 101 mét, 109 mét và bào tử phấn ở độ sâu 90 mét, 100 mét, 114 mét. Dày 37 mét.
Tập 3: sét bột màu tím, gắn kết rắn chắc, bào từ phấn hoa được nghiên cứu ở mẫu độ sâu 81 mét. Dày 11 mét.
Trong các lõi khoan, chỉ có một số lõi khoan là gặp trầm tích của hệ tầng này, nhưng cũng cho thấy được chiều dày trầm tích của hệ tầng tăng dần khi đi về hướng Đông Nam và Tây Nam.
b) Thống Pleistocen- bậc giữa-trên. Hệ tầng Thủ Đức (QII2-3tđ):
Thường lộ ra ở những nơi có địa hình cao 20-40m ở Thủ Đức, quận 9; 10-20m ở Củ Chi.
Khu vực Bình Chánh gặp hệ tầng ở độ sâu từ 39m đến 74,5m (LK.808) và 36,7m đến 75,5m (LK.812). Với thạch học chủ yếu là cát pha bột sét chứa sạn màu xám phớt hồng chuyển lên sét bột màu nâu vàng loang lổ trắng.
Theo hướng Đông Bắc -Tây Nam, trầm tích thuộc hệ tầng này thay đổi về thành phần, tướng và bề dày đáng kể. Trầm tích chuyển từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu với bề dày 27m tại Linh Xuân, Thủ Đức qua cụm tướng tiền tam giác châu với bề dày 12m ở quận Tân Bình đến cụm tướng biển nông với bề dày 14m ở Tân Túc, Bình Chánh.
Theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam thì độ sâu và chiều dày của trầm tích hệ tầng này cũng lớn dần. Tướng trầm tích cũng thay đổi từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu ở Tây Bắc Củ Chi sang cụm tướng tiền tam giác châu ở Hóc Môn và tướng biển ven bờ – biển nông ở Nhà Bè- Cần Giờ.
c) Thống Pleistocen- bậc trên. Hệ tầng Củ Chi (QIII3cc):
Hệ tầng lộ ra trên các thềm bậc II có địa hình cao trung bình từ 5-10m. Hệ tầng gồm hai tập trầm tích: tập trên là cát bột, sạn màu xám bị phong hóa yếu loang lổ, nâu vàng; tập dưới là cuội sỏi thạch anh có kích thước từ 1cm đến 3cm.
Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng nằm ở độ sâu từ 29 đến 39m (LK.808), độ sâu từ 27 mét đến 53 mét LK. 813). Thành phần chủ yếu của hệ tầng là cát pha bột chứa sạn màu xám vàng, nâu vàng chuyển lên sét bột màu nâu đỏ, lẫn mùn thực vật. Phủ bên trên hệ tầng này là các thành tạo trầm tích Holocen.
Mặt cắt tại lõi khoan 813 (xã An Lạc, Bình Chánh), từ dưới lên gồm 2 tập:
Tập 1: từ độ sâu 42 mét đến 53 mét, gồm cát sét có màu xám vàng, lớp đáy có ít sạn sỏi. Dày 11 mét, phủ bất chỉnh hợp lên lớp cát vàng tím của hệ tầng Thủ Đức.
Tập 2: từ độ sâu 27 mét đến độ sâu 42 mét, gồm cát sạn sét màu xám xanh chứa tảo nước mặn và bào tử phấn hoa. Dày 15 mét.
Theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam (từ Củ Chi đến Cần Giờ) bề mặt nóc của hệ tầng hạ thấp dần, trầm tích chuyển từ môi trường đồng bằng tam giác châu – tiền tam giác châu sang môi trường biển nông ven bờ.
Theo hướng Đông Bắc xuống Tây Nam (từ Thủ Đức đến Bình Chánh), độ cao bề mặt nóc của hệ tầng cũng giảm dần từ độ cao 5 – 15 mét tại vùng Thủ Đức, 4 – 10 mét ở vùng nội thành thuộc môi trường đồng bằng tam giác châu – tiền tam giác châu, và sâu từ 22 mét đến 25 mét ở Tây Nam Bình Chánh với các trầm tích thuộc môi trường tiền tam giác châu – sườn tam giác châu.
Bề dày trầm tích của hệ tầng thay đổi không ổn định, sự thay đổi này có thể liên quan đến hoạt động của đứt gãy sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ (Vũ Văn Vĩnh và Trịnh Nguyên Tính, 2002), điều này cũng phù hợp với sự xuất hiện các trầm tích của sông Sài Gòn vào Holocen sớm (Phạm Thế Hiển, Mai Công Cọ, Lê Văn Lớn, 1995).
d) Thống Holocen- bậc dưới-giữa. Hệ tầng Bình Chánh (QIV1-2bc):
Được hình thành trong thời kì biển tiến Flandri, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh phân bố rộng rãi ở các phần đồng bằng, thềm thấp và lộ ra trên địa hình thềm cao 2-5m chủ yếu ở huyện Bình Chánh, Nam Hóc Môn. Thành phần chủ yếu của hệ tầng là bột-sét, bột-sét pha cát, thỉnh thoảng có cát chứa sạn pha bột-sét. Tầng bột-sét có màu xám xanh chứa di tích thân mềm, trùng lỗ và bào tử phấn hoa của thực vật đầm lầy mặn. Trầm tích được thành tạo trong điều kiện biển nông, vũng vịnh và tiền châu thổ.
Mặt cắt lõi khoan 812 trong khu vực nghiên cứu, hệ tầng Bình Chánh được chia làm hai tập:
Tập dưới: Gồm sét bột pha cát màu xám đen chứa di tích thực vật và vỏ thân mềm, dày 7m. Thành phần cấp hạt cát=11-17%, bột=28-30%, sét=53-61%. Đường kính trung bình 0,01-0,014mm. Các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt nhỏ. Trầm tích hình thành trong môi trường vũng vịnh hở với chế độ thủy động lực yếu nhưng xáo động, đồ thị đường cong phân bố hạt có 3 đỉnh.
Tập trên: Gồm bột sét màu xám đen chứa vỏ sò ốc, dày 15m. Bột-sét= 92-98%, lượng sét tăng về phía trên. Đường kính trung bình 0,005-0,026mm. Các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt lớn. Trầm tích hình thành trong môi trường vũng vịnh nửa hở - đầm lầy ngập mặn, chế độ thủy động lực yếu, đồ thị đường cong phân bố có 2 đỉnh.
Cả hai tập đều xuất hiện phong phú tập hợp tảo nước mặn, thuộc môi trường biển nông được Đào Thị Miên xác định như Cyclotella striata, C. stylorum, Paralia sulcata, Thalassiosira decipiens, Coscinodiscus nodulifer, C. lineatus, Actinocyclus ellipticus, Schuettia annulata, Thalassionema nitzschioides, Aulacosira sp., Thalassiosira lineatus, Actinocyclus sp., A. ohrenbergii, Diploneis interrupta, Planktonielea Sol. . Phức hệ trùng lỗ được Ma Văn Lạc xác định gồm những giống loài thuộc biển ven bờ và biển nông Asterorotalia pulchel1a, Ammonia japonica, Ammonia beccarii, Elphidium crispum, El.phidium adventur. Phức hệ bào tử phấn hoa được Nguyễn Đức Tùng xác định gồm có Rhizophoraceae, Sonneratiaceae, Acrostichum aureum,…v.v. thuộc môi trường đầm lầy ven biển.
e) Thống Holocen- bậc giữa-trên. Hệ tầng Cần Giờ (QIV2-3cg):
Được hình thành trong thời kì biển lùi, tiếp theo sau kì biển tiến Flandri. Chúng lộ ra gần hoàn toàn trên địa hình đồng bằng thấp với nhiều cụm tướng khác nhau.
Khu vực Bình Tân các thành tạo trầm tích của hệ tầng thuộc cụm tướng tiền châu thổ. Mặt cắt lõi khoan 813 tại thị trấn An Lạc, các trầm tích thuộc hệ tầng Cần Giờ gặp ở độ sâu 0-5m, gồm 2 tập:
Tập dưới: Sét màu xám đen chứa mùn thực vật, dày 1m. Tập này phủ trực tiếp trên lớp sét màu xám xanh thuộc hệ tầng Bình Chánh. Tỉ lệ phân bố hạt bột-sét chiếm 99% còn lại là cát. Đường kính trung bình 0,004mm. Trầm tích thuộc tướng bùn lầy ngập mặn ven biển, có chế độ thủy động lực yếu và ổn định. Các thông số trầm tích khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, lệch về phía cấp hạt nhỏ. Trong trầm tích có chứa di tích tảo nước mặn khá phong phú.
Tập trên: Bột, sét, bột-sét pha cát màu xám đen, xám nhạt chứa thực vật phân hủy yếu, dày 4m. Trong tập này chứa tảo nước ngọt, nước lợ và thân mềm nước lợ và nước mặn ven bờ.
Trong các trầm tích kể trên gặp những lớp than bùn dạng thấu kính có chứa bào tử phấn hoa điển hình cho các vùng đồng bằng ngập mặn ven biển.
Khu vực nghiên cứu thuộc phía Tây Nam của Thành phố, là địa hình trũng thấp nên phần lớn bị phủ bởi trầm tích bở rời thuộc hệ tầng Cần Giờ, hệ tầng Bình Chánh và hệ tầng Củ Chi.
V. KIẾN TẠO VÀ CÁC HỆ THỐNG ĐỨT GÃY.
1/. Các hệ thống đứt gãy:
Khu vực nghiên cứu có hai hệ thống đứt gãy chính: Tây Bắc – Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam. Hai hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam của sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ Đông là hai hệ thống đứt gãy cấp I của khu vực, phân định miền cấu trúc.
( Hệ thống Tây Bắc – Đông Nam:
Hệ thống đứt gãy sông Sài Gòn được xem là hệ thống đứt gãy cấp II nằm song song với hai hệ thống đứt gãy sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ Đông, có tác dụng phân định miền cấu trúc ở hai bên của đứt gãy này, cùng với hệ thống sông đứt gãy sông Vàm Cỏ Đông và sông Đồng Nai tạo cấu trúc bậc thang của móng với biên độ sụt lún theo phương Tây Nam hướng về đới sụt Cửu Long. Đứt gãy sông Sài Gòn kéo dài dọc theo sông Lái Thiêu – Rạch Gò Dưa – Cát Lái, các tài liệu dị thường Bouger chứng minh đây là đứt gãy thuận, có độ sâu 40 km, mặt trượt cắm về phía Tây Nam với góc 600 – 800 ở gần mặt và thoải dần 400 – 500 ở độ sâu 40 km, cự li dịch chuyển trong Neogen là 100 mét. Cánh Đông Bắc được nâng lên với dịch chuyển đá móng trước Pliocen là 60 mét, Pliocen thượng là 22 mét. Cùng phương với đứt gãy sông Sài Gòn còn có đứt gãy Bình Chánh - Cần Giuộc, đứt gãy Hóc Môn – Bình Thạnh
( Hệ thống Đông Bắc – Tây Nam:
Hệ thống đứt gãy này gần như thẳng góc với hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam. Phần lớn chúng bị mờ đi. Tuy nhiên cũng có hệ thống thể hiện rõ như hệ thống Bình Chánh – Nhà Bè – Thủ Đức. Hệ thống này và còn một vài đứt gãy.
2/.Kiến tạo
Các nhà nghiên cứu(Trần Kim Thạch, Hứa Văn Hoàng, Nguyễn Trường Tri, Tạ Hoàng Tinh, Lê Đức An, Nguyễn Kinh Quốc, Nguyễn Văn Vân…)đã phát hoạ lại các hoạt động kiến tạo của khu vực TP.Hồ Chí Minh và các vùng lân cận bằng cách kết hợp nhiều phương pháp như: giải đoán không ảnh, phân tích thạch học, nguồn gốc địa mạo và các phương pháp khác
a. Cổ kiến tạo(trước kỉ thứ tư)
Bắt đầu từ cuối Jura đến đầu Kreta một chuyển động có tính chất toàn cầu, đó là chuyển động Cimeri (Trần Kim Thạch, Hứa Văn Hoàng_1997) và một vài chuyển động phụ của nó trước đó. Vào cuối Triat để lại nhiều dấu vết ở Nam Bộ. Sang Kreta các hoạt động magma đã hình thành nên các thành tạo andesit ở dạng mạch cắt qua đá dacit hay ở dạng chảy tràn mà ngày nay bị các trầm tích Pleistocen che phủ ở Biên Hoà. Sau đó các mạch ryolit lại được thành tạo cắt ngang qua dacit và andesit thành tạo trước đó
b. Tân kiến tạo
Các hoạt động tân kiến tạo có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với cổ kiến tạo trong việc tạo nên bề mặt địa hình của khu vực nghiên cứu cũng như trong sự trầm tích của vật liệu ở khu vực này.
Kainozoi(KZ) các hoạt động kiến tạo được đặc trưng bởi sự ảnh hưởng mạnh mẽ của sự chuyển động Hymalaya(Trần Kim Thạch, Nguyễn Văn Vân_1964)
Vào đầu Holocen một đợt biển tiến vào đất liền ở đồng bằng Sông Cửu Long, ở Hà Tiên người ta ghi nhận hai thềm biển có độ cao 5m và 2m ghi dấu trên đá vôi.
III. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT KHU VỰC:
Khu vực TP.HCM nằm ở rìa đồng bằng trũng Kainozoi Cửu Long có móng là các đá Mezozoi(MZ) mang tính chất là đá phủ hoạt hoá trên nền biến chất tiền Cambri. Các hoạt động kiến tạo nâng cao cùng các hoạt động xâm thực, bóc mòn vào giai đoạn Kreta muộn và Paleogen cũng như các hoạt động tân kiến tạo vào đầu Kainozoi với tính chất hoạt động khối tảng, đã tạo nên bề mặt móng của vùng nghiên cứu có dạng bậc thang thấp từ Đông Bắc sang Tây Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khảo sát chất lượng nước ngầm quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh.doc