Khảo sát sự biến động của cua giống và tình hình khai thác giống cua ở vùng ven biển
          
        
            
               
            
 
            
                
                    Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành trong
thời gian một năm từ 1998-1999 tại
khu vực Rạch Chèo thuộc tỉnh Cà
Mau. Đây là khu vực gần cửa sông
Bảy Háp, một trong những sông lớn
của Cà Mau đổ ra biển Tây. Khu vực
này có bãi bùn rộng và dài ven bờ
sông và là nơi khai thác cua giống
chủ yếu trong vùng. Trong nghiên
cứu này, cua giống được thu mua từ
các ngư dân hay các điểm buôn bán
địa phương. Trung bình 87 cua con
(50-100 con) được thu mỗi đợt và
mỗi tháng thu 2 đợt vào lúc nước
rong và thu tổng số cua thu được
trong thời gian nghiên cứu là 1.720.
Mẫu cua được làm chết bằng nước
đá trước khi cố định bằng formol với
nồng độ 10%. Sự biến động của các
Kết quả và thảo luận 
Kích cỡ cua giống và biến động 
của kích cỡ cua trong năm 
Trong suốt thời gian nghiên cứu với 
tổng cộng 1.720 cua con được thu 
cho thấy cua xuất hiện ở vùng Rạch 
Chèo với kích cỡ trung bình là 2,67 
cm về chiều rộng carapace, 2,04 cm 
về chiều dài và 8,49 g về trọng 
lượng. Tỷ lệ các nhóm kích cỡ cua 
con được trình bày ở Đồ thị 1. Mặc 
dù cua thu được có sự dao động lớn 
về chiều rộng carapace (0,6-9,5 cm), 
chiều dài (0,5-6,8 cm) và trọng lượng 
(0,05-167 g) nhưng nhóm cua có 
kích cỡ nhỏ (1-2 cm chiều dài và 
chiều rộng carapace) vẫn chiếm chủ 
yếu trong quần thể cua thu. Có thể 
cua lớn có thể đã vào sâu trong nội 
địa hay đã sống trong hang, không 
thể bắt được theo phương pháp đánh
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2955 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự biến động của cua giống và tình hình khai thác giống cua ở vùng ven biển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khảo Sát Sự Biến Động Cua Giống và Tình Hình Khai Thác 
Giống Cua ở Vùng Ven Biển Phía Tây-Nam 
Đồng Bằng Sông Cửu Long 
Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương và Trần Văn Việt 
Khoa Thủy Sản - Trường Đại học Cần Thơ 
(Đã được đăng trong tạp chí thủy sản số tháng 2/2003) 
Giới thiệu 
Cua biển (Scylla sp.) là một trong 
những đối tượng rất quan trọng của 
nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản 
ở các vùng nước lợ ven biển, đặc biệt 
là các nước thuộc ấn Độ - Thái Binh 
Dương (Angell, 1992). ở Việt Nam 
có Đồng Bằng Sông Cửu Long 
(ĐBSCL) với diện tích mặt nước lợ 
gần 300.000 ha được đánh giá là nơi 
quan trọng cho sự phân bố tự nhiên 
và phát triển nghề nuôi và khác thác 
của cua biển. Theo số liệu điều tra 
năm 1995 thì ĐBSCL có trên 3.000 
ha nuôi cua với sản lượng trên 1.600 
tấn/năm (Tuấn và Hải, 1997). Nghề 
nuôi cua biển hiện nay đang phát 
triển rộng rãi với nhiều hình thức 
khác nhau và điều này đã và đang 
gây ra áp lực rất lớn về cua giống 
vốn còn lệ thuộc hoàn toàn vào việc 
khai thác tự nhiên. Tuy nhiên, nghiên 
cứu về sự biến động của cua giống 
cũng như thực trạng về khai thác cua 
trong vùng vẫn chưa được tiến hành. 
Báo cáo này trình bày những kết quả 
về sự biến động tự nhiên của cua 
giống và tình hình khai thác cua 
giống vùng ven biển phía Tây-Nam 
ĐBSCL nằm trong địa bàn tỉnh Cà 
Mau. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành trong 
thời gian một năm từ 1998-1999 tại 
khu vực Rạch Chèo thuộc tỉnh Cà 
Mau. Đây là khu vực gần cửa sông 
Bảy Háp, một trong những sông lớn 
của Cà Mau đổ ra biển Tây. Khu vực 
này có bãi bùn rộng và dài ven bờ 
sông và là nơi khai thác cua giống 
chủ yếu trong vùng. Trong nghiên 
cứu này, cua giống được thu mua từ 
các ngư dân hay các điểm buôn bán 
địa phương. Trung bình 87 cua con 
(50-100 con) được thu mỗi đợt và 
mỗi tháng thu 2 đợt vào lúc nước 
rong và thu tổng số cua thu được 
trong thời gian nghiên cứu là 1.720. 
Mẫu cua được làm chết bằng nước 
đá trước khi cố định bằng formol với 
nồng độ 10%. Sự biến động của các 
chỉ tiêu về trọng lượng, chiều dài, 
chiều rộng carapace trung bình cũng 
như mối tương quan giữa chúng đã 
được phân tích. Ngoài ra, tinh hình 
khai thác cua giống cũng được ghi 
nhận và thảo luận thông qua phỏng 
vấn trực tiếp các ngư dân hàng 
tháng. 
Kết quả và thảo luận 
Kích cỡ cua giống và biến động 
của kích cỡ cua trong năm 
Trong suốt thời gian nghiên cứu với 
tổng cộng 1.720 cua con được thu 
cho thấy cua xuất hiện ở vùng Rạch 
Chèo với kích cỡ trung bình là 2,67 
cm về chiều rộng carapace, 2,04 cm 
về chiều dài và 8,49 g về trọng 
lượng. Tỷ lệ các nhóm kích cỡ cua 
con được trình bày ở Đồ thị 1. Mặc 
dù cua thu được có sự dao động lớn 
về chiều rộng carapace (0,6-9,5 cm), 
chiều dài (0,5-6,8 cm) và trọng lượng 
(0,05-167 g) nhưng nhóm cua có 
kích cỡ nhỏ (1-2 cm chiều dài và 
chiều rộng carapace) vẫn chiếm chủ 
yếu trong quần thể cua thu. Có thể 
cua lớn có thể đã vào sâu trong nội 
địa hay đã sống trong hang, không 
thể bắt được theo phương pháp đánh 
bắt cua con. Nghiên cứu sự xuất hiện 
của cua giống vùng bãi bồi ven biển 
Tỉnh Bạc Liêu cũng cho thấy cua 
giống có kích cỡ trung bình 1-2 cm 
chiều rộng carapace và trọng lượng 
1-2g/con (Hải và ctv, 2000). 
Sự biến động về kích cỡ trung bình 
của cua thu theo các tháng trong năm 
cũng được trình bày ở Đồ thị 2. Qua 
đồ thị cho thấy cua giống hầu như 
xuất hiện quanh năm ở vùng Rạch 
Chèo. Sự thay đổi về kích cỡ của cua 
con qua các tháng thu mẫu thể hiện 
có ít nhất 3 đợt cua sinh sản rộ trong 
tự nhiên trong năm, đó là các tháng 
5-9, tháng 9-10 và tháng 10 đến 
tháng 3 năm sau. Đàn cua con mới 
xuất hiện với số lượng lớn làm kích 
cỡ trung bình quần đàn (về chiều 
rộng, chiều dài và cả trọng lượng) 
giảm rõ rệt. Cua con xuất hiện ở 
vùng Rạch Chèo có kích cỡ nhỏ nhất 
là 0,6 cm chiều rộng và 0,5 cm chiều 
dài, điều này cho biết ấu trùng cua có 
thể đã chuyển thành cua con (C1) 
khoảng 15-30 ngày trước khi được 
thu tại bãi bồi. Trong thí nghiệm 
ương nuôi cua giống với các độ mặn 
khác nhau, cua C1 (0.3 cm) đạt thành 
cua C4 (1.1 cm) sau khoảng 13-15 
ngày và thành cua C7 (1.9 cm) sau 
khoảng 33-35 ngày (Hải, 1997). So 
sánh với mùa vụ xuất hiện cua con ở 
Bạc Liêu, cua con ở đây xuất hiện 
phổ biến vào tháng 11 (Hải và ctv, 
2000). Điều này cho thấy tùy từng 
vùng khác nhau, mùa vụ xuất hiện 
cua giống cũng khác nhau. Điều này 
có thể liên quan với điều kiện tự 
nhiên đặc thù từng vùng. 
Sự di cư sinh sản của cua thành thục 
ra vùng ven biển để sinh sản đã được 
nghiên cứu bởi nhiều tác giả trên thế 
giới (Ong, 1966; Brick, 1974; Hill, 
1975). Hill (1975) cho rằng, sự di cư 
sinh sản của cua mẹ có liên quan đến 
chu kỳ trăng và sự thay đổi của độ 
mặn. Hill (1982) cho rằng, cua con 
sinh sống chủ yếu ở vùng rừng ngập 
mặn và ẩn trú ở đó khi triều xuống; 
cua lớn di cư vào vùng trung triều 
tìm thức ăn khi triều lên và trở xuống 
vùng hạ triều khi triều xuống, cua 
trưởng thành sống chủ yếu vùng hạ 
triều. Sự di cư giữa các vùng sinh 
thái và trong cùng vùng sinh thái của 
cua cũng đã được nghiên cứu bởi 
Hyland và ctv. (1984). 
Tuy nhiên, các nghiên cứu về sự biến 
động và di cư của cua nói chung và 
cua giống nói riêng ở vùng ven biển 
ĐBSCL đến nay còn rất hạn chế. 
Tương quan giữa trọng lượng và 
kích cỡ của cua 
Kết quả phân tích cho thấy rằng, 
mối tương quan giữa chiều rộng 
(CW) với trọng lượng (BW), chiều 
dài (CL) với trọng lượng và giữa 
chiều dài với chiều rộng của cua 
được biểu hiện mối tương quan rất 
chặc chẽ thông qua các phương trình 
y=0,3077x2,7001 (r2=0,9578); 
y=0,5973x2,9052 (r2=0,9658); và 
y=1,4226x-0,1324 (r2=0,9786) (Đồ thị 3). Kết quả 
này cho thấy trong giai đoạn này cua đang tăng 
nhanh về kích cỡ hơn về trọng lượng. 
Đặc biệt, cua cũng tăng nhanh về 
chiều rộng so với chiều dài và điều 
này làm cho cua có hình quạt. Tương 
tự, kết quả nghiên cứu ở Bac Liêu 
cũng cho thấy mối tương quan giữa 
chiều rộng carapace và trọng lượng 
cua thông qua phương trình y = 
0,25x2.733 (r2 = 0.9737) (Hải và ctv, 
2000). 
Khai thác cua con 
Tình hình khai thác cua giống ở 
Rạch Chèo được trình bày qua bảng 
1. Kết quả cho thấy rằng, cùng với sự 
xuất hiện quanh năm của nguồn cua 
giống, việc khai thác cua cũng xảy ra 
hầu như quanh năm để cung cấp 
giống cho nghề nuôi. Tuy nhiên, mùa 
khai thác cao điểm nhất là vào 
khoảng tháng 9-10 với số lượng đến 
140 lượt người bắt cua mỗi ngày. 
Thành phần ngư dân chủ yếu là trẻ 
em và phụ nữ. Phương tiện đánh bắt 
là dùng lưới kéo vào lúc nước lớn 
đầy hay sắp ròng. Số lượng người bắt 
cua nhiều nhưng số cua mỗi người 
bắt không quá 20 con/ngày. Với giá 
500-1.000 đồng/con cua cũng mang 
lại nguồn thu cần thiết cho cư dân 
trong vùng. Tuy nhiên, bên cạnh lợi 
ích nhỏ từ việc khai thác cua, vấn đề 
này cũng gây ra nhiều trở ngại 
nghiêm trọng, làm cạn kiệt nguồn lợi 
cua con và cả cua thịt. Nhìn chung, 
sản lượng cua giống khai thác được ở 
vùng Rạch Chèo kém hơn so với 
vùng bãi bồi Bạc Liêu với số lượng 
khai thác có thể đến 140 con 
/người/ngày. Số lượng người bắt cua 
ở Bạc Liêu cũng nhiều hơn so với ở 
Rạch Chèo Điều này cũng có thể do 
bãi bồi ven biển Bạc Liêu rộng hơn 
nhiều so với bãi bồi ven sông ở 
Rạch Chèo (Hải và ctv, 2000). 
Không giống như ở Rạch Chèo, 
người dân vùng ven biển Bạc Liêu 
bắt cua con chủ yếu bằng vợt có lưới 
mịn. Khi triều xuống, nhiều hố nước 
nhỏ ven rừng ngập mặn sẽ là nơi tìm 
bắt cua con. Hiện nay, phong trào 
nuôi cua con trong vuông tôm - rừng 
rất phát triển, nhất là ở tỉnh Cà Mau. 
Mật độ thả cua khoảng 500 con/ha, 
không cần phải chăm sóc hay cho ăn 
và vuông nuôi cũng không cần phải 
rào xung quanh do có rừng làm nơi 
sinh sống lý tưởng cho cua. Cua sau 
đó được thu tỉa liên tục (Khoa Thuỷ 
sản, 2000; Minh và ctv., 2001). Do 
lợi ích của việc nuôi cua trong vuông 
tôm - rừng mà nhu cầu con giống 
ngày càng tăng. Điều này đã gây áp 
lực lớn đối với nguồn lợi cua con 
trong vùng do khai thác quá mức. 
Hiện tại, nhiều nơi đã ngăn cấm khai 
thác cua con trong đó có vùng Rạch 
Chèo, song, việc khai thác trái phép 
vẫn còn tồn tại. 
Kết luận 
Những kết quả thu được đã cho phép 
rút ra những vấn đề quan trọng là (i) 
cua giống xuất hiện hầu như quanh 
năm ở vùng Rạch Chèo; (ii) sự xuất 
hiện của cua con theo từng đợt cho 
biết rằng cua đẻ tập trung nhiều đợt 
trong năm; (iii) việc khai thác cua 
giống bước đầu đã góp phần cung 
cấp giống cho nghề nuôi, song, cần 
phải được quản lý chặc chẽ; và (iv) 
cần nhanh chóng nghiên cứu phát 
triển sản xuất giống nhân tạo cua 
biển để đáp ứng nhu cầu của nghề 
nuôi. 
Summary 
Study on recruitment and fishing of 
mud crab seedlings in the Southern 
West Cast of the Mekong delta, Viet 
Nam was conducted during 1998 and 
1999 at Rach Cheo area of Ca Mau 
province. After one year of sampling 
with a total number of 1,720 crabs, 
the analysis shows that crab seed 
appears almost year round in the 
region with the peaks on March, May 
and September of the year. Small 
crabs of 1-2 cm in BW (body weight 
) were found dominated in the 
population. Regression beetween the 
BW, CW (Carapace width) and CL 
(Carapace lenght) of crabs were also 
analyzed. Throught interviewing the 
fishermen and middle men, some 
aspects on fishing of the crab were 
also presented and discussed. 
Tài liệu tham khảo 
Agell C.A. (1992). The mud crab. A 
report of the mud crab culture and 
trade, held at Surat Thani, 
Thailand, November 5--8, 1991. 
Brich R.W (1974). Effect of water 
quality, antibiotic, phytoplankton 
and food on survival and 
development of larvae of Scylla 
serrata. In Mud Crab abtract. 
SEAFDEC, 1989. pp 11-12. 
Hill, B.J. (1975) Abundance, 
breeding and growth of the crab 
Scylla serrata in two South 
African Estuaries. Marine 
Biology. 32: 119--126 
Hyland, J.; Hill, B.J.; and Lee, C.P. 
(1984). Moverment within and 
between diffeerent habitats by the 
Portunus Crab Scylla serrata. 
Marine Biology. 80:57--61 
Phú, T.Q, N.T. Toàn, N.V. Văn aand 
N.T. Phương (2002). Hiện trạng 
sản xuất lân-ngư kết hợp ở Huyện 
Ngọc Hiển và Đầm Dơi – Cà 
Mau. Tạp chí Khoa học và Công 
nghệ Biển, p: 161-173. 
Tuan, N.A. and Tran Ngoc Hai 
(1997). The Status of Mud Crab 
Culture in the Mekong Delta, 
Vietnam. Paper presented at the 
First International Conference on 
Marine Science, Kuala 
Terengganu, Malaysia, August 
1997. 
Ong K.S. (1966). Observation on 
Postlarval life history of Scylla 
serrata reared in the laboratory. 
The Malaysian Agricultural 
Journal. 45 (4): 429-443. 
Hai, T.N. (1997). Studies on some 
aspects of the reproduction of mud 
crabs. Master Thesis. UPM, 1997. 
Hải, T.N., N.T. Phương và T.V. Việt 
(2000). Nghiên cứu sự biến động 
của cua giống và khai thác giống 
cua ở ĐBSCL. Báo cáo tạo hội 
nghị “Nghiên cứu các chỉ thị môi 
trường vùng ven biển ĐBSCL” tổ 
chức tại Đại học Cần Thơ, tháng 
1-2000. 
Minh, T.H. , A. Yakupitiyage and 
D.J. Macintosh (2001). 
Management of the integrated 
mangrove - aquaculture farming 
systems in the Mekong Delta. 
ITCZM Monograph. AIT. 
Bảng 1: Tình hình khai thác cua con ở Rạch Chèo 
 Số người bắt 
cua/ngày 
Số cua mỗi người 
bắt được / ngày 
Tổng số cua bắt 
được / ngày 
Tháng 9/98 140 12 1680 
Tháng 10/98 29 10 290 
Tháng 11/98 46 8 368 
Tháng 12/98 5 9 45 
Tháng 1/99 9 9 81 
Tháng 2/99 4 10 40 
Tháng 3/99 3 8 24 
Tháng 5/99 4 7 28 
Tháng 6/99 11 8 88 
Tháng 7/99 12 10 120 
Tháng 8/99 18 13 234 
Vuìng 
nghiãn 
cæìu
 Baín âäö Âäöng Bàòng Säng Cæíu Long 
Đồ thị 1: Phân bố kích cỡ cua con 
 y = 1707 * 1 * normal (x, 2.7638547, 1.396722)
CW (cm)
N
o 
of
 o
bs
0
39
78
117
156
195
234
273
312
351
390
429
468
507
546
585
 10
 y = 1707 * 1 * normal (x, 2.035911, 0.9712903)
CL (cm)
N
o 
of
 o
bs
0
56
112
168
224
280
336
392
448
504
560
616
672
728
784
840
 7
 y = 1707 * 20 * normal (x, 8.490691, 15.057125)
BW (g)
N
o 
of
 o
bs
0
103
206
309
412
515
618
721
824
927
1030
1133
1236
1339
1442
1545
<= 0
(0,20]
(20,40]
(40,60]
(60,80]
(80,100]
(100,120]
(120,140]
(140,160]
(160,180]
> 180
Sè
 c
ua
Sè
 c
ua
Sè
 c
ua
Réng carapace 
Träng l-îng (g)
Dµi carapace (cm)
Đồ thị 2: Biến động về kích cỡ và trọng lượng trung bình của cua thu trong năm 
Max
Min
Mean+SD
Mean-SD
Mean
Outliers
Sampling time
C
ar
ap
ac
e 
W
id
th
 (c
m
)
-1
1
3
5
7
9
11
7 
S
ep
 9
8
22
 S
ep
 9
8
7 
O
ct
 9
8
22
 O
ct
 9
8
6 
N
ov
 9
8
22
 N
ov
 9
8
7 
D
ec
 9
8
23
 D
ec
 9
8
7 
Ja
n 
99
22
 J
an
 9
9
8 
Fe
b 
99
22
 F
eb
 9
9
7 
M
ar
ch
 9
9
27
 M
ay
 9
9
12
 J
un
 9
9
27
 J
un
 9
9
16
 J
ul
y 
99
4 
A
ug
 9
9
24
 A
ug
 9
9
30
 S
ep
 9
9
Max
Min
Mean+SD
Mean-SD
Mean
Outliers
Sampling time
C
ar
ap
ac
e 
Le
ng
th
 (c
m
)
0
1
2
3
4
5
6
7
8
7 
S
ep
 9
8
22
 S
ep
 9
8
7 
O
ct
 9
8
22
 O
ct
 9
8
6 
N
ov
 9
8
22
 N
ov
 9
8
7 
D
ec
 9
8
23
 D
ec
 9
8
7 
Ja
n 
99
22
 J
an
 9
9
8 
Fe
b 
99
22
 F
eb
 9
9
7 
M
ar
ch
 9
9
27
 M
ay
 9
9
12
 J
un
 9
9
27
 J
un
 9
9
16
 J
ul
y 
99
4 
A
ug
 9
9
24
 A
ug
 9
9
30
 S
ep
 9
9
Max
Min
Mean+SD
Mean-SD
Mean
Outliers
Extremes
Sampling time
B
od
y 
w
ei
gh
t (
g)
-40
0
40
80
120
160
200
7 
S
ep
 9
8
22
 S
ep
 9
8
7 
O
ct
 9
8
22
 O
ct
 9
8
6 
N
ov
 9
8
22
 N
ov
 9
8
7 
D
ec
 9
8
23
 D
ec
 9
8
7 
Ja
n 
99
22
 J
an
 9
9
8 
Fe
b 
99
22
 F
eb
 9
9
7 
M
ar
ch
 9
9
27
 M
ay
 9
9
12
 J
un
 9
9
27
 J
un
 9
9
16
 J
ul
y 
99
4 
A
ug
 9
9
24
 A
ug
 9
9
30
 S
ep
 9
9
Ré
ng
 c
ar
ap
ac
e 
(
)
 D
µi
 c
ar
ap
ac
e 
(
)
Tr
än
g 
l-
în
g 
Ngµy thu mÉu
Ngµy thu mÉu
Ngµy thu mÉu
Đồ thị 3: Tương quan giữa trọng lượng với chiều dài và chiêu rộng carapace của 
cua giống 
y = 0.3077x2.7001
R2 = 0.9578
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
0 2 4 6 8 10
CW(cm)
BW
 (g
)
y = 0.5973x2.9052
R2 = 0.9658
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
0 2 4 6 8
CL(cm)
BW
 (g
)
y = 1.4226x - 0.1324
R2 = 0.9786
0
2
4
6
8
10
12
0 2 4 6 8
CL (cm)
C
W
 (c
m
)
Tr
än
g 
l-
în
g 
Tr
än
g 
l-
în
g 
Ré
ng
 c
ar
ap
ac
e 
Réng carapace 
(cm)
Dµi carapace 
(cm)
Réng carapace 
(cm)
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Khảo sát sự biến động của cua giống và tình hình khai thác giống cua ở vùng ven biển.PDF Khảo sát sự biến động của cua giống và tình hình khai thác giống cua ở vùng ven biển.PDF