Khóa luận Ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua

Lời nói đầu Lịch sử phát triển và vai trò của tỷ giá hối đoái gắn liền với qúa trình lớn mạnh không ngừng của nền kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Cũng giống như vai trò của giá cả trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá hối đoái có tác động quan trọng tới những biến đổi của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Nó có thể thay đổi vị thế và lợi ích của các nước trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tỷ giá hối đoái trực tiếp tác động đến sự thăng bằng trong cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia, mà trước hết là những thay đổi trong cán cân tài khoản vãng lai. Người ta thường nhận thấy rằng cán cân thương mại (Nội dung chủ yếu của cán cân tài khoản vãng lai) của một nước có thể xấu đi hay tốt lên khi có những biến động của tỷ giá hối đoái, nếu tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ mất giá) thì sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu như vậy cán cân thanh toán quốc tế của một nước sẽ được cải thiện và ngược lại nếu tỷ giá hối đoái giảm (đồng nội tệ lên giá) thì sẽ hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu làm cho cán cân thanh toán trở nên xấu đi. Trong điều kiện giới hạn về thời gian cũng như nhận thức, với bản khoá luận tốt nghiệp này em muốn phác họa bức tranh chung về tình hình tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Và qua việc phân tích mối quan hệ mật thiết giữa hai nhân tố này muốn phần nào thể hiện vai trò của chính sách tỷ giá trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta. Từ đó mạnh dạn đề ra những điểm còn yếu trong chính sách tỷ giá của Việt Nam hiện nay cần phải khắc phục và một số giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết vấn đề còn tồn tại đó cho phù hợp với nhịp độ phát triển và đổi mới kinh tế chính trị trong tương lai của đất nước cũng như trong khu vực và trên thế giới. Tên đề tài: Ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất nhập khẩu ở việt nam trong thời gian qua

doc98 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6471 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ phải bỏ ra 20 đô la để có được đôi giầy đó, nhưng nếu ta phá giá đồng nội tệ 50% 1 USD = 15000 VND và lúc này người Mỹ chỉ phải bỏ ra 13,3 đô la và họ đã tiết kiệm được 6,7 đô la. Trong khi đó nếu ta nhập khẩu 1 tấn URE giá khoảng 160 USD. Vào thời điểm ban đầu ta sẽ phải mất 1.600.000 VND, sau khi phá giá sẽ là 2.400.000 VND tức là các nhà nhập khẩu phải tốn thêm 900.000 VND cho một tấn phân URE. - Hiệu ứng khối lượng: Xuất nhiều nhưng nhập ít thì hiệu ứng này sẽ cải thiện cán cân thương mại. Như vậy chính sách phá giá đồng nội tệ chỉ thành công khi hiệu ứng khối lượng trội hơn hiệu ứng giá cả. Chúng ta sẽ phân tích chi tiết vấn đề này thông qua điều kiện phá giá Marshall- Learner. Thực ra thuyết về hạ giá đồng tiền đã được các nhà kinh tế học kinh điển như Bickerdike(1920), Marshall (1923), Robison (1937) nghiên cứu và hình thành học thuyết “Những điều kiện của chính sách hạ giá đồng tiền”. Sau này vào năm 1994 Learner -Nhà kinh tế học người Mỹ, đã tiếp tục đi sâu vào và đã lập nên điều kiện dể một cuộc phá giá thành công mà người ta gọi là “Điều kiện Marshall- Learner” . Bằng phương pháp tiếp cận theo phương pháp “hệ số co giãn” và đưa ra hai giả thuyết cơ bản để mục đích là cố định mức giá của hai nước (nội địa và nước ngoài). Chính sách phá giá chỉ thành công khi tổng hệ số co giãn của cung hàng hóa xuất khẩu và hệ số co giãn của cầu hàng hoá nhập khẩu lớn hơn 1. Trong khi đó các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta lại chủ yếu là hàng thô, tỷ lệ chế biến và hàm lượng công nghệ thấp do đó độ co giãn theo giá rất nhỏ. Theo một bài phân tích của hai tác giả Lê Việt Đức và Trần Thu Hằng “ Bàn về phá giá và khả năng thực hiện phá giá ở nước ta” đăng trên tạp chí nghiên cứu kinh tế số 3 tháng 6/1995, thì tổng hai hệ số co giãn của Marshall - Learner là 0,574 + 0,117 = 0,691. Hơn nữa, cho đến nay, chưa có một tiêu chuẩn, một công trình khoa học nào khẳng định được giá trị thực của đồng Việt Nam là bao nhiêu. Như vậy, nếu có chứng minh được về mặt định tính, việc phá giá là có lợi cho Việt Nam thì ta cũng khó có cơ sở để đưa ra được một mức phá giá cụ thể hợp lý như những người bảo vệ tư tưởng phá giá vẫn từng nói: “tiến hành phá giá VND từng bước, trượt dần từng nấc nhỏ”. Trong khi đó, việc định lượng trong quyết định phá giá đồng tiền là rất quan trọng vì chỉ trong một mức độ cho phép nào đó thì phá giá đồng tiền mới đem lại hiệu quả thực sự cho nền kinh tế. Khi mà tỷ trọng của tổng kim ngạch xuất khẩu trên GDP hàng năm ở Việt Nam mới chỉ đạt khoản 25% (Xem bảng 15) thì cái lợi thu được thông qua lượng hàng hoá xuất khẩu cũng khó có thể bù đắp được những thiệt hại mà hơn 70% giá trị hàng hoá trong nước phải gánh chịu do việc phá giá tiền đồng. Đó là còn chưa kể đến những mâu thuẫn về thiếu vốn, hạn chế đầu tư nước ngoài, mất lòng tin của dân chúng, hạn chế nhập khẩu dẫn đến hạn chế xuất khẩu mà chính sách phá giá nội tệ ở Việt Nam hiện nay có thể gặp phải như phần trên đã nói. Bảng 15: Tỷ trọng của XK trong GDP của Việt Nam một số năm qua. Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 GDP(tỷ đồng, tính theo giá hiện hành) 228 892 297.036 313.623 361.468 399.942 425.031 Xuất khẩu(triệu USD) 54448.9 7255.9 9185.0 9361.0 11523.0 14308.0 Tỷ giá USD/VND 10.965 11.044 11.176 12.986 13.973 14.462 Xuất khẩu( tỷ đồng) 57.747 80.314 102.651 121.562 161.011 206.922 % xuất khẩu/GDP 25.23 27.04 32.73 33.63 40.26 48.68 Nguån: - Phßng tû gi¸- Vô qu¶n lý ngo¹i hèi - NHNN Nh­ vËy trong ®iÒu kiÖn hiÖn nay cña n­íc ta th× viÖc lùa chän biÖn ph¸p ph¸ gi¸ tiÒn ®ång lµ kh«ng hîp lý bëi v× trong ®iÒu kiÖn c¬ chÕ tû gi¸ th¶ næi cã ®iÒu tiÕt th× viÖc ®iÒu chØnh tû gi¸ hèi ®o¸i cña Ng©n hµng Trung ­¬ng lµ th­êng xuyªn vµ nÕu viÖc gi¶m tû gi¸ néi tÖ so víi ngo¹i tÖ cã ®­îc thùc hiÖn th× còng ch­a gäi lµ ph¸ gi¸ tiÒn tÖ. CHƯƠNG III XU HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM I. XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ USD/VND TRONG THỜI GIAN TỚI. Cuối cùng, việc mở rộng biên độ dao động tỷ giá đối với USD đã được Ngân hàng Nhà nước chính thức quyết định, với việc cho phép các ngân hàng thương mại áp dụng tỷ giá giao dịch hàng ngày dao động trong biên độ ± 0,25% so với tỷ giá liên ngân hàng ho NHNH công bố. Việc mở rộng biên độ giao dịch sẽ làm giảm áp lực trong cung cầu ngoại tệ, dẫn đến việc tỷ giá sẽ diễn biến có tính thị trường hơn, nhưng nó cũng đồng nghĩa với khả năng về xuất hiện sự biến động tỷ giá lớn hơn so với hiện nay. Nếu như trước đây với mức biến động là ± 0,1% so với tỉ giá của Ngân hàng Nhà nước công bố thì khả năng mở rộng tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại bị khống chế ở mức dao động thấp và nhiều khi chưa phản ánh đúng diễn biến thị trường. Còn trong thời gian tới, khi biên độ lớn hơn sẽ cho phép khả năng dao động lớn hơn, tỷ giá sẽ biến động thực hơn. Theo số liệu của Tổng cụ Thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2002, giá trị xuât khẩu của nước ta chỉ đạt 10,3 tỷ USD (giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2001), kim ngạch nhập khẩu gần 12 tỷ (tăng 15% so với cùng kỳ), như vậy, giá trị nhập siêu lên tới gần 1,7 tỷ USD, mức cao nhất kể từ 1996 trở lại đây. Trước tình hình này, đã có một số lời cảnh báo về một sự biến động tỷ giá mạnh trong thời gian tới. Điều này liệu có thể xảy ra? Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào giá trị nhập siêu khá lơn như trên thì cũng không thể đưa ra dự đoán về tỷ giá là chưa đủ, mà phải xét trên tổng thể cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Trên thực tế, nguồn cung về ngoại tệ không chỉ nằm ở xuất khẩu, mà còn có từ nhiều nguồn khác nhau như đầu tư trực tiếp nước ngoài, viện trợ phát triển, kiều hối.. Theo một số chuyên gia tài chính cho rằng, chỉ tính riêng lượng kiều hối trong vài năm gần đây cũng đã đủ bù đắp thâm hụt cán cân thương mại. Như vậy trong thời gian tới giá USD sẽ tăng nhưng với mức độ chậm bởi: -Thứ nhất, với nỗ lực chung của các nước phát triển, đồng đô la sẽ vẫn tiếp tục lên giá so với các ngoại tệ khác trên thị trường quốc tế. Như vậy, nếu VND lên giá so với đô la thì nghĩa là VND cũng lên giá so với một loạt các ngoại tệ khác. Điều đó gây khó khăn cho hoạt động ngoại thương của Việt Nam và không phản ánh thực lực nền kinh tế Việt Nam. -Thứ hai, do mức chênh lệch lạm phát của VND và đô la Mỹ còn lớn dẫn đến một hệ số điều chỉnh tỷ giá trong đầu kỳ lớn hơn tỷ giá trong cuối kỳ. Tỷgiá USD/VND cuối kỳ = Tỷgiá USD/VND đầu kỳ X (1 + lạm phát VND trong kỳ) > Tỷgiá USD/VND đầu kỳ (1+ lạm phát USD trong kỳ) Nguồn: Thương mại và việc xác định tỷ giá trên thị trường hối đoái - Peter Fisher và Erlach – Văn phòng dự án Đức- Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, mặc dù ta không cố gắng điều chỉnh tỷ giá theo đúng chênh lệch lạm phát song xu hướng tỷ giá trong thời gian tới sẽ tăng. Mặt khác một trong những mục tiêu điều chỉnh tỷ giá của Việt Nam hiện nay là hướng tới cân bằng tương đối lợi ích của nhà xuất khẩu và nhập khẩu. Vì vậy, tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu luôn được xét đến trong quá trình xác định tỷ giá sao cho: Tỷ giá xuất khẩu < Tỷ giá chính thức< Tỷ giá nhập khẩu Bên cạch đó, lượng vốn nước ngoài voà Việt Nam thông qua con đường hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp (FDI), kiều hối.. và các luồng ngoại ngạch khác vẫn ngày một tăng là một trong những áp lực làm giảm giá đô la Mỹ, giảm tỷ giá chính thức USD/VND. Chính những xu hướng vận động trái ngược nhau của tỷ giá hối đoái nói trên cùng với tính ổn định trong nền kinh tế đã đạt được trong những năm qua sẽ giúp cho tỷ giá USD/VND ở Việt Nam trong thời gian tới ổn định và chỉ biến động ở mức nhỏ theo hướng tăng nhằm thúc đẩy hoạt động ngoại thương và phát triển kinh tế. Với những thực trạng và xu hướng trong tương lai như trên, ta cần phải nghiên cứu và đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những kiến nghị kịp thời cho chính sách tỷ giá cũng như việc phối hợp giữa các ban ngành, các bộ, hệ thống ngân hàng và bản thân các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu để đạt được một sự đồng bộ, thống nhất và nhịp nhàng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong thời gian tới. II. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK Ở VIỆT NAM. 1. Cơ sở để lựa chọn các giải pháp. 1.1 Trên tầm vĩ mô. - Nhà nước và cơ quan hoạch định chính sách là người đứng ở thế chủ động.Vì vậy các cơ quan quản lý vĩ mô này cần phải nghiên cứu kỹ các cơ sở lý thuyết, kinh nghiệm của các nước cũng như thực tế ở Việt Nam để dự đoán mức hiệu quả và tính khả thi khi áp dụng một giải pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái cụ thể nào đó trước khi ra quyết định chính thức. - Chúng ta phải công nhận một điều rằng bất cứ một giải pháp nào cũng có mặt tốt, mặt xấu nên cần phải cân nhắc lựa chọn sao cho có lợi nhất cho sự phát triển kinh tế nói chung và phù hợp với các mục tiêu xây dụng nền kinh tế hướng ngoại hiện nay của Việt Nam. - Mục tiêu trước mắt và lâu dài cho công cuộc xây dựng kinh tế hiện nay của Việt Nam là ổn định đồng tiền, kiềm chế lạm phát, đẩy mạnh xuất khẩu. Vì vậy, những giải pháp về tỷ giá ta đưa ra ở đây là nhằm một mặt ổn định tiền tệ, giảm sự phụ thuộc của Việt Nam đồng vào đô la Mỹ, mặt khác chống nâng giá đồng nội tệ để khỏi ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đặc biệt những giải pháp tập trung vào cách tính tỷ giá hối đoái phải đạt được yêu cầu định hướng có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, trả nợ nước ngoài cũng như đảm bảo giá trị cho quỹ điều hoà ngoại tệ của Việt Nam trước sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thế giới. 1.2 Trên tầm vi mô. - Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là người trực tiếp chịu ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình. Vì vậy, những giải pháp đưa ra cho doanh nghiệp ở đây thực chất là những phương thức thích nghi có hiệu quả trong tình hình chế độ tỷ giá, quản lý xuất nhập khẩu và ngoại hối như hiện nay. Nội dung của các giải pháp này một mặt nhằm phát huy tối đa vai trò của tỷ giá hối đoái trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, mặt khác cũng để tránh tối đa những rủi ro của biến động của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến các khoản thu chi phát sinh trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này cũng trở thành một hệ thống thông tin phản hồi, cung xấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các dữ liệu giúp Ngân hàng nhà nước có cơ sở trong việc xác định tỷ giá xuất nhập khẩu và tỷ giá chính thức. - Hệ thống ngân hàng thương mại vốn được coi là mạch máu của nền kinh tế, một mặt phải đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình, không ngừng tiếp thu, đổi mới công nghệ và nghiệp vụ theo kịp với trình độ khu vực và thế giới. Mặt khác ngân hàng còn phải hoạt động trên nguyên tắc sự thành công thịnh vượng của khách hàng chính là nguồn lợi nhuận của bản thân mình. Vì vậy, trong mối quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, giải pháp đưa ra cho các ngân hàng thương mại là phát huy những nghiệp vụ vốn có trong vấn đề tiền tệ và tỷ giá hối đoái trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi và làm lợi cho nền kinh tế nói chung. Tóm lại, ý tưởng phát huy vài trò của tỷ giá và thích nghi với chế độ tỷ giá hiện hành trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam chính là: + Một mặt phát huy ảnh hưởng tích cực của tỷ giá đến quá trình điều tiết, định hướng hoạt động xuất nhập khẩu. + Mặt khác hạn chế những tác động tiêu cực của phương thức điều hành tỷ giá và sự biến động tỷ giá đến lợi nhuận của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng và lợi ích của toàn nền kinh tế nói chung, để từ đó thức đẩy ngoại thương Việt Nam phát triển 2. Một số giải pháp cụ thể. 2.1 Giải pháp mang tính vĩ mô. 2.1.1- Phương pháp xác định và điều chỉnh tỷ giá. Hiện nay, hiện tượng “đô la hoá” ở Việt Nam đang ở mức rất cao. Đó không những là kết quả của quá trình hình thành tâm lý lâu dài của người dân, và các nhà kinh doanh ở Việt Nam mà còn ít nhiều là hậu quả của định hướng chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ những năm đầu đổi mới (quyết định gắn chặt đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ). Chính hiện tượng này đã làm cho giá trị thực của đồng Việt Nam so với các ngoại tệ thường xuyên biến động theo mọi thăng trầm của đồng đô la Mỹ. Điều đó phần nào ảnh hưởng đến ngoại thương Việt Nam và bóp méo vai trò của tỷ giá trong việc thúc đẩy hoạt động xuấtnhập khẩu của Việt Nam (như chương II đã trình bày). Tuy nhiên ta không nên nhìn nhận điều đó như là một sai lầm của chính sách tỷ giá bởi trong điều kiện kinh tế lúc bấy giờ, ta không còn một con đường nào lựa chọn đúng đắn hơn. Tất cả những gì chúng ta phải làm bây giờ không phải là phê phán một chế độ tỷ giá cũ sắp đến lúc cần đổi mới, mà là cùng nhau nghiên cứu đề ra những biện pháp hữu hiệu để có được một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với điều kiện thực tế nền kinh tế Việt Nam đang ngày một phát triển với chính năng lực của mình. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cũng như chính thực tế của Việt Nam chứng minh rằng: quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện nền kinh tế và thị trường tài chính - tiền tệ đang ngày càng quốc tế hoá hiện nay, không thể không tính đến và tranh thủ những lợi ích to lớn từ thương mại và phân công lao động quốc tế. Những thành công và cả những thất bại của các nước thực hiện quá trình công nghiệp hoá đều xác nhận tính hữu hiệu trong thực hiện mô hình phát triển có định hướng vào xuất khẩu. Nếu Việt Nam xác nhận những đóng góp của chiến lược và mô hình này, thì ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng bền vững có nghĩa là Việt Nam phải tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sỏ khuyến khích xuất khẩu, lấy sự tăng trưởng của xuất khẩu là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy quá trình tăng trưởng. Nội dung thiết yếu của chính sách tỷ giá hối đoái khuyến khích xuất khẩu là phải duy trì tỷ giá hối đoái sao cho những người cung cấp hàng hoá - dịch vụ trong nước có lãi khi bán sản phẩm của họ trên thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi tỷ giá hối đoái danh nghĩa phải được điều chỉnh để giữ nguyên hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoá - dịch vụ Việt Nam trên thị trường thế giới. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thúc đẩy xuất khẩu nghĩa là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải luôn điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa phản ánh được những chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát trong nước và thế giới. Việc tiến tới xác lập một tỷ giá hối đoái của VND có tính chất cạnh tranh hiện nay là một điều cần thiết, hợp lý và không thể khác nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế sự tràn ngập của những hàng hoá nhập khẩu rẻ tiền, khuyến khích việc lập kế hoạch và kiểm soát tài chính hợp lý cho mọi khoản vay nước ngoài, sao cho nguồn lực ngoại tệ quý hiếm và đắt giá này được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả. Ngoài ra đối với Việt Nam hiện nay, việc áp dụng phương pháp tính và điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo một rổ tiền tệ có thể là một giải pháp cần thiết không những trợgiúp cho quá trình phát triển kinh tế đất nước nói chung mà cho ngoại thương nói riêng, thể hiện ở những điểm sau: * Xác định đúng đắn và điều chỉnh hợp lý cơ cấu tỷ trọng đồng tiền trong rổ tiện tệ của Việt Nam (RVN) trong từng thời kỳ là một tiền đề quyết định cho sự thành công của giải pháp này. Lúc đó đồng Việt Nam sẽ được gắn với một nhóm các đồng tiền mà thường xuyên có ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam chứ không chỉ phụ thuộc duy nhất vào đồng đô la Mỹ như trước đây. * Ưu điểm thứ hai khi áp dụng rổ tiền tệ là đạt được tính bình đẳng trong phương pháp xác định tỷ giá của Việt Nam đồng với các ngoại tệ, xoá dần tâm lý sùng bái đồng đô la Mỹ. Tóm lại với phương pháp xác định tỷ giá theo một rổ tiền tệ thì ta sẽ phần nào đạt được một loạt các mục tiêu: - Phát huy được vai trò của tỷ giá trong việc định hướng và khuyến khích xuất khẩu mà không phải quá lo về các cú sốc cung cầu ngoại tệ có thể xảy ra. - Giảm dần sự lệ thuộc vào đồng đô la Mỹ và phát triển được một loạt các mối quan tâm mới về các đồng ngoại tệ mà trong tương lai có thể ảnh hưởng đến kinh tế và ngoại thương của Việt Nam. 2.1.2. Xây dựng thị trường ngoại hối ở Việt Nam. Hình thành thị trường ngoại hối với các qui chế hoạt động cụ thể là một nhu cầu tất yếu khách quan của quá trình phát triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam. Bởi trong tương lai, khi ở Việt Nam đã phát triển một thị trường ngoại hối hoàn thiện trong đó, mỗi doanh nghiệp đều có khả năng trở thành một thành viên của trị trường (cả về khả năng khách quan lẫn chủ quan), trực tiếp tham gia tiến hành các nghiệp vụ mua bán vay mượn ngoại tệ trên thị trường thì khi đó mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ chủ động phối hợp với các ngân hàng tiến hành những nghiệp vụ như mua bán ngoại tệ có kỳ hạn (forward), swap, currencies option, hedging,.. để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn ngoại tệ của mình và qua đó tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Chính vì vậy, xây dựng hoàn chỉnh một thị trường ngoại hối ở Việt Nam không những là yêu cầu của phát triển mà còn là một giải pháp mà các cơ quan quản lý vĩ mô cần quan tâm. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam lúc này (các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu) chưa hề được tiếp cận với các nghiệp vụ của ngân hàng như mua bán ngoại tệ kỳ hạn…(sẽ được phân tích trong phần sau). Do dó, mong muốn trước mắt của họ mới chỉ là làm sao đảm bảo an toàn cho nguồn vốn ngoại tệ của mình để đáp ứng kịp thời, hiệu quả cho các nhu cầu của hoạt động xuất nhập khẩu. Vì vậy hệ thống ngân hàng Việt Nam cần chủ động chỉ ra được cái lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khi sử dụng các dịch vụ này. Xuất phát từ những quan điểm trên, em xin mạnh dạn được đề ra một hướng nghiệp vụ kinh doanh mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tình hình cụ thể hiện nay: đó là nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro hối đoái (với cơ sở là nghiệp vụ currency option). Tất nhiên, giải pháp này mới chỉ là một ý tưởng cần phải được nghiên cứu xem xét cụ thể thông qua kinh nghiệm thực tế của nước ngoài. Nội dung của các nghiệp vụ này sẽ được phân tích kỹ trong phần sau. 2.2. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Như trên ta đã đề cập đến, trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại rất nhiều những nhân tố rủi ro, trong đó rủi ro về tỷ giá là một trong những rủi ro lớn và dễ gặp nhất. Đối với nhà nhập nhập khẩu rủi ro hối đoái xảy ra khi ngoại tệ mà nhà nhập khẩu phải trả trong tương lai lên giá so với bản tệ. Chẳng hạn, tháng 1/2001, một nhà nhập khẩu Việt Nam có một hợp đồng nhập khẩu phân bón trị giá 592.400 USD sẽ thanh toán vào tháng 6/2001, tỷ giá giao ngay tại thời điểm thoả thuận hợp đồng là USD/VND = 14.499. Trị giá hợp đồng phải thanh toán là 592.400 x 14499 = 8.589.207.600 VND. Hợp đồng này chứa đựng rủi ro, nếu như đến thời điểm thanh toan USD lên giá, ví dụ tăng 5% hay USD/VND = 15.223 thì trị giá hợp đồng phải sẽ là 9.018.667.980 VND cao hơn lúc thoả thuận là 429 triệu VND. Điều này có thể làm đảo lộn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nhà xuất khẩu, rủi ro hối đoái xảy ra khi ngoại tệ mà nhà xuất khẩu sẽ nhận trong tương lai giảm giá so với bản tệ. Chẳng hạn tháng 1 năm 2001, một doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có một hợp đồng xuất khẩu trị giá 600.000USD sẽ đến hạn thanh toán trong vòng 9 tháng tới. Tỷ giá giao ngay tại thời điểm thoả thuận hợp đồng là USD/VND = 14.500 và nhà xuất khẩu của chúng ta mong đợi nhận một khoản thanh toán khi đến hạn là 600.000 x 14.500 =8.700.000.000 VND. Nếu đến hạn thanh toán USD giảm giá ví dụ 3% tức là USD/VND =14.065, thì trị giá hợp đồng chỉ còn 600.000 x 14.065 =8.439.000.000 VND, thấp hơn dự kiến 261 triệu đồng. Như vậy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn đứng trước rủi ro hối đoái do đó họ phải có những biện pháp phòng chống rủi ro này để bảo đảm cho công việc kinh doanh luôn diến ra một cách suôn sẻ. Mọi giải pháp đều bắt nguồn từ những vấn đề liên quan đến tiền và hàng (khái niệm trong sơ đồ tái sản xuất của một doanh nghiệp Tiền => Hàng => Tiền’). Cụ thể là: + Các giải pháp liên quan đến yếu tố tiền tệ được thể hiện trong quá trình xây dựng các điều kiện thanh toán quốc tế trong các hợp đồng ngoại thương. + Các giải pháp liên quan đến việc sử dụng các dịch vụ của hệ thống ngân hàng thương mại + Các giải pháp liên quan đến yếu tố hàng hoá được thể hiện trong quá trình tạo nguồn hàng. + Giải pháp phối hợp chính là giải pháp về tổ chức sản xuất kinh doanh sao cho có lợi nhất trong điều kiện quản lý ngoại hối như hiện nay. 2.2.1 Các giải pháp nghiệp vụ trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương. Bước khởi đầu một thương vụ ở bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là việc ký kết hợp đồng ngoại thương. Chính những điều khoản trong hợp đồng này sẽ chi phối toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng và ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác, hiện nay phần lớn các nước trên thế giới đang áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, do đó những biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới sự ổn định giá trị của nguồn vốn, lợi nhuận và các khoản phải thu phải chi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, trong mỗi thương vụ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải đặc biệt quan tâm tới các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái và ảnh hưởng của nó đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Bằng cách chú ý tới các điều khoản thanh toán trong hợp đồng ngoại thương các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể phần nào tránh được rủi ro do biến động của tỷ giá hối đoái đem lại. a) - Giải pháp lựa chọn đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần chú ý chọn những đồng tiền có giá trị tương đối ổn định và có khả năng chuyển đổi để làm cơ sơ tính toán và thanh toán trong hợp đồng ngoại thương. Tất nhiên, việc lựa chọn đồng tiền này cũng phải phù hợp với tập quán thương mại quốc tế và khu vực. Ví dụ, đồng tiền tính toán phổ biến cho thương vụ xuất nhập khẩu dầu mỏ luôn là USD, cho cao su RSS1 là GBP, cho cao su RSS2 là SGD.. b) - Giải pháp trong lựa chọn hình thức chuyển tiền trong thanh toán. Thông thường, cách thức chuyển tiền được quyết định thông qua sự thoả thuận của hai bên. Bên nhập khẩu thường muốn sử dụng phương thức chuyển tiền qua thư bởi tỷ giá thư hối thấp hơn tỷ giá điện hối. Nhưng bên xuất khẩu lại muốn chuyển tiền qua điện vì phương thức này có ưu điểm về tốc độ nhưng nhược điểm của phương thức này là điện phí luôn hơn so với thư phí. Trong trường hợp bên xuất khẩu chấp nhận thanh toán phí chuyển tiền thì phần quyết định sẽ thuộc về bên xuất khẩu. Vấn đề đặt ra là bên xuất sẽ quyết định sử dụng phương thức chuyển tiền nào? Theo như lý thuyết đã chứng minh, tuỳ và giá trị của hợp đồng thể hiện qua số tiền phải chuyển trên L/C, mức thư phí và điện phí ta có thể tính toán và so sánh được hiệu quả của hai phương thức chuyển bằng điện (T/T) và chuyển tiền bằng thư (M/T). Mức hiệu quả ở đây cần được hiểu là hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả về thời gian thu hồi vốn. Từ đó ta sẽ đưa ra được quyết định lựa chọ phương thức chuyển tiền thanh toán xuất khẩu phù hợp, có lợi nhất. Tổng quát ta có: a = kim ngạch L/C i = lãi suất ngân hàng (năm) t = thời gian thu hồi nhanh của đòi tiền bằng điện so với đòi tiền bằng thư. T = điện phí M= Thư phí =hằng số (36000 và 36500 áp dụng riêng cho nước Anh). Khi đó: + Nếu a.i.t ≥ , thì việc chuyển tiền bằng điện là có hiệu quả nhất vì vốn không những được thu hồi nhanh hơn t ngày mà phần lãi trên số tiền thu được qua xuất khẩu( kim ngạch L/C) sinh ra trong t ngày đó thừa đủ để bù đắp chi phí điện hối. + Nếu a.i.t ≥ .(T-M), thì việc chuyển tiền bằng điện vẫn có hiệu quả hơn mặc dù trong trường hợp này, phần chi phí điện hối thực bỏ ra sau khi đã được bù đắp bởi phần lãi kể trên thì vẫn nhỏ hơn thư hối. Hơn thế nữa, người xuất khẩu lại thu được tiền vốn nhanh hơn t ngày, nghĩa là có thể tránh được rủi ro biến động tỷ giá hối đoái có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào trong t ngày đó. Như vậy qua việc xem xét lựa chọn phương thức chuyển tiền trong hợp đồng ngoại thương, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ tìm được giải pháp tốt nhất để tránh được ảnh hưởng của tỷ giá đến kết quả kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam. c)- Giải pháp thực hiện các điều khoản đảm bảo hối đoái cho giá trị hợp đồng ngoại thương. Điều khoản đảm bảo hối đoái là một giải pháp thường được dùng trong thanh toán quốc tế về ngoại thương nhằm đảm bảo giá trị thực của các khoản thanh toán trước những biến động về tiền tệ, tỷ giá hối đoái. Các hình thức đảm bảo thường gặp là: * Đảm bảo bằng vàng Hình thức thường dùng của điều kiện đảm bảo bằng vàng là điều chỉnh giá trị hợp đồng lúc thanh toán so với lúc ký kết tương ứng theo sự biến động của giá vàng trên một thị trường nhất định giữa hai thời điểm này. (Chú ý giá vàng nói trên và giá trị hợp đồng được tính bằng cùng một ngoại tệ). Ví dụ, lúc ký kết một hợp đồng trị giá là 195.000 USD, giá vàng trên thị trường New York là 390 USD/ ounce. Vào lúc thanh toán hợp đồng, giá vàng trên thị trường này là 400 USD/ ounce (tăng 2,564%). Như vậy giá trị hợp đồng thanh toán phải được điều chỉnh thành: 195.000 x 102,564% = 200.000 USD. Tuy nhiên trong phương pháp này, vật đảm bảo giá trị lại là vàng, một hàng hoá cũng có thể bị đầu cơ gây biến động giá trên thế giới, ảnh hưởng đến tính chính xác của giá trị hợp đồng. * Đảm bảo bằng ngoại hối. Tương tự như hình thức đảm bảo bằng vàng song vai trò của vàng được thay thế bởi một ngoại tệ tương đối ổn định hoặc một rổ tiền tệ nhất định được thống nhất khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khó có thể tìm được một đồng tiền nào có thể ổn định trên thị trường thế giới bởi vì mọi đồng tiền đều bị chao đảo và cuốn theo dòng xoáy của các vụ đầu cơ, các mục tiêu phát triển riêng của từng quốc gia trên thế giới. Vì vậy tốt nhất là nên chọ một rổ tiền tệ với hy vọng đạt được tính ổn định nhờ khả năng làm trung hoà bớt các biến động theo nhiều hướng của các đồng tiền trong rổ. Rổ tiền tệ này có thể là một mẫu hình có sẵn như đồng SDR và đồng EURO hay cũng có thể là một rổ tiền tệ mới do hai bên đối tác trong hợp đồng cùng xây dựng nên sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Với một ngoại tệ, mức điều chỉnh là phần trăm biến động tỷ giá giữa hai thời điểm. Còn với một rổ tiền tệ, mức điều chỉnh lại dựa theo phần trăm biến động mức tỷ giá hối đoái bình quân của cả rổ tiền tệ. 2.2.2. Các chiến lược tự bảo hiểm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Để tránh bị thiệt hại do sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng như có kế hoạch đảm bảo trạng thái ngoại hối cho các khoản thanh toán cũng như thu nhập bằng ngoại tệ trong tương lai thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng như nghiệp vụ nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kỳ hạn (hợp đồng Forward), Sử dụng thị trường tiền tệ phòng chống rủi ro, hợp đồng option... a)- Sử dụng nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kỳ hạn để phòng chống rủi ro. * Đối với nhà nhập khẩu Ví dụ: Một nhà nhập khẩu Việt Nam có nghĩa vụ phải thanh toán 1.000. 000 USD cho nhà xuất khẩu Nhật Bản sau thời gian 3 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. 14 000 14100 14200 14300 14400 14500 14600 14,7 14,614,514,414,3 14,2 14,114,0 Chi phí để mua 1 triệuUSD(tỷ VND) Tuyến chi phí nhập khẩu Tỷ giá giao ngay khi hợp đồng đến hạn: 1 USD= x. VND Hình 20 a: Khoản thanh toán nhập khẩu không có bảo hiểm. Nếu nhà nhập khẩu không tự bảo hiểm rủi ro tỷ giá, nghĩa là chờ 3 tháng cho đến khi hợp đồng thanh toán đến hạn và mua1.000.000 USD theo tỷ giá giao ngay trên thị trường. Chi phí bằng VND để mua 1 tỷ USD sẽ tăng lên nếu giá trị của VND giảm so với USD.(Xem hình 20 a). Trong trường hợp, nhà nhập khẩu dự tính giá trị của VND sẽ giảm so với USD sau ba tháng, thì có thể tự bảo hiểm rủi ro ngoại hối bằng cách sử dụng thị trường kỳ hạn để mua USD trước khi đồng VND giảm giá. Giả sử tỷ giá của thị trường như sau: Tỷ giá giao ngay: USD/VND = 14.050 và điểm kỳ hạn là 500 do đó tỷ giá kỳ hạn 3 tháng: USD/VND = 14.550 Nhà nhập khẩu có thể tự bảo hiểm bằng cách mua kỳ hạn 3 tháng 1 triệu USD tại mức giá kỳ hạn là 1 USD = 14.550 VND. Tổng chi phí để mua 1 triệu USD là 1.000.000 x 14.550 = 14.550.000.000 VND. Bằng đồ thị chúng ta biểu diễn chiến lược tự bảo hiểm của nhà nhập khẩu như sau: Hình 20 b: Chiến lược tự bảo hiểm của nhà nhập khẩu. 14,7 14,614,514,414,3 14,2 14,114,0 Chi phí để mua 1 triệuUSD(tỷ VND) 14550 000 000 VND 14 000 14100 14200 14300 14400 14500 14600 Tỷ giá giao ngay khi hợp đồng đến hạn: 1 USD= x. VND Một khi đã tự bảo hiểm, nhà nhập khẩu biết chắc chắn rằng chi phí để mua 1 triệu USD tại thời điểm hợp đồng thanh toán đến hạn là 14.550.000.000 VND cho dù tỷ giá giao ngay tại thời điểm sau ba tháng là như thế nào đi chăng nữa. Tỷ giá kỳ hạn 1 USD = 14.550 VND biểu diễn điểm giao điểm giao nhau giữa tuyến chi phí có bảo hiểm và không có bảo hiểm (điểm B hình 20 c). Điều này có nghĩa là, nếu tỷ giá giao ngay tại thời điểm hợp đồng thanh toán đến hạn là 1 USD = 14550 VND, thì chi phí thanh toán nhập khẩu trong hai trường hợp có và không có bảo hiểm đều như nhau. Trong trường hợp tỷ giá giao ngay trên thị trường lớn hơn 14550, thì chiến lược tự bảo hiểm của nhà nhập khẩu sẽ mang lại hiệu quả của nó. Hình 20c:So sánh giữa hai chiến lược có và không có bảo hiểm. Tỷ giá giao ngay khi hợp đồng đến hạn: 1 USD= x. VND 14,7 14,614,514,414,3 14,2 14,114,0 Chi phí để mua 1 triệuUSD(tỷ VND) 14 000 14100 14200 14300 14400 14500 14600 B * Đối với nhà xuất khẩu. Nếu khoản các thu xuất khẩu bằng ngoại tệ, thì nhà xuất khẩu có trạng thái ngoại hối ròng và bộc lộ rủi ro tỷ giá. Nhà xuất khẩu có thể phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng cách bán kỳ hạn khoản tiền xuất khẩu sẽ thu được trong tương lai. Ví dụ: Một công ty của Việt Nam xuất khẩu gạo sang Hồng Kông với tổng giá trị là 1 000 000 USD và sẽ được thanh toán sau hai tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Hình 21 a : Nhà xuất khẩu không thực hiện chiến lược tự bảo hiểm. Tỷ giá giao ngay khi hợp đồng đến hạn: 1 USD= x. VND 14,7 14,614,514,414,3 14,2 14,114,0 Khoản thu xuất khẩu(tỷ VND) Tuyến thu nhập từ xuất khẩu 14 000 14100 14200 14300 14400 14500 14600 Trong trường hợp không có bảo hiểm, thì nếu đồng USD càng lên giá so với VND thì nhà xuất khẩu Việt Nam càng thu được nhiều đồng Việt Nam hơn và ngược lại, nếu đồng USD càng mất giá, thì nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ thu được càng ít VND. Nếu công ty dự đoán rằng USD sẽ giảm giá sau hai tháng, thì công ty có thể phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách bán kỳ hạn số USD sẽ thu được là 1.000.000 USD để nhận VND trước khi tỷ giá giảm. Giả sử tỷ giá giao ngay là 1 USD = 14.500 VND, điểm kỳ hạn là - 300 thì tỷ giá kỳ hạn sẽ là 14500 – 300 = 14.200. Nhà xuất khẩu có thể bán kỳ hạn hai tháng số thu nhập là 1.000.000 USD theo tỷ giá mua kỳ hạn là 1 USD = 14.200 VND, như vậy số thu nhập chắc chắn mà nhà xuất khẩu có được là 1.000.000 x 14.200 = 14.200.000.000 VND dù sau hai tháng tỷ giá có biến động như thế nào đi chăng nữa. 14,7 14,614,514,414,3 14,2 14,114,0 Chi phí để mua 1 triệuUSD(tỷ VND) 14 200 000 000 VND 14 000 14100 14200 14300 14400 14500 14600 Hình 21b: Nhà xuất khẩu thực hiện chiến lược tự bảo hiểm. Tỷ giá giao ngay khi hợp đồng đến hạn: 1 USD= x. VND Tuy nhiên nếu tỷ giá giao ngay tại thời điểm thanh toán không tăng đến 14.550 trong trường hợp nhập khẩu và không giảm đến mức 14.200 trong trường hợp xuất khẩu thì các biện pháp tự bảo hiểm này không những không có kết quả mà còn làm tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp nhập khẩu và mất đi một phần phải thu của doanh nghiệp xuất khẩu. Như vậy, qua ví dụ trên ta thấy rằng mặc dù hợp đồng mua bán ngoại tệ cố định được giá trị các khoản thu nhập hay chi trả bất luận sự biến động tỷ giá trên thị trường nhằm giúp công ty có thể xác định chắc chắn hiệu quả kinh doanh nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn thuận lợi cho công ty nếu tỷ giá biến động ngược lại với dự kiến, do đó hợp đồng kỳ hạn chưa phải là cách phòng chống rủi ro hối đoái tốt nhất. b) Sử dụng thị trường tiền tệ phòng chống rủi ro hối đoái. Công ty có thể sử dụng thị trường tiền tệ kết hợp với hoạt động mua bán ngoại tệ như là một phương pháp phòng chống rủi ro hối đoái. Phương pháp này liên quan đồng thời đến hai hoạt động vay và cho vay với hai đồng tiền khác nhau - bản tệ và ngoại tệ. Để dễ hình dung xin lấy ví dụ sau đây: Ví dụ: Có một công ty A có khoản phải thu 12 triệu DEM trong vòng 6 tháng nữa. Tỷ giá giao ngay 1 DEM = 0,6773 USD. Tỷ giá kỳ hạn 6 tháng là1 DEM = 0,6128 USD, lãi suất của DEM và USD lần lượt là 8% và 6%. Sử dụng thị trường tiền tệ để phòng chống rủi ro hối đoái, công ty sẽ tiến hành các giao dịch như sau: - Vay DEM trong thời hạn 6 tháng: Số tiền cần vay bằng hiện giá của 12 triệu DEM, tức là 12.000.000/(1+0.04) = 11.538.461,54 DEM. - Chuyển số DEM này sang USD: 11.538.461,54 x 0,6773 = 7.815.000 USD - Đầu tư số USD này trong thời hạn 6 tháng với lãi suất 6%/2 = 3% Sau 6 tháng: - Công ty nhận được USD từ hoạt động đầu tư 7.815.000 x(1+0,03) = 8.049.450 USD. - Chuyển số USD này sang DEM: 8.049.450/0,6128 = 12.495.400, 45 DEM - Sử dụng số DEM này trả nợ vay cả vốn lẫn lãi trước đây là 12.000.000 DEM. Kết quả sử dụng thị trường tiền tệ để phòng chống rủi ro có thể tóm tắt theo vài tình huống như ghi nhận ở bảng 16 dưới đây: Bảng 16:Phân tích tình huống phòng rủi ro hối đoái thông qua thị trường tiền tệ. Tỷ giá giao ngay DEM/USD Giá trị khoản phải thu nếu không phòng chống rủi ro Giá trị khoản phải thu nếu có phòng chống rủi ro Lãi (lỗ) 0,6773 0,6218 0,5612 $8.127.600 $7.461.600 $6.734.400 $8.049.450 $8.049.450 $8.049.450 $78.150 $587.850 $1.315.050 c)- Sö dông hîp ®ång option ®Ó phßng chèng rñi ro hèi ®o¸i. C¸c ph­¬ng ph¸p phßng chèng rñi ro nh­ ®· tr×nh bµy chØ ¸p dông ®­îc khi nµo c«ng ty ch¾c ch¾n r»ng m×nh chiÕm ®­îc hîp ®ång mua b¸n vµ do ®ã ch¾c ch¾n cã mét kho¶n thu nhËp hay chi tr¶ trong t­¬ng lai bëi v× hîp ®ång forward vµ hîp ®ång trªn thÞ tr­êng tiÒn tÖ lµ nh÷ng hîp ®ång b¾t buéc ph¶i thùc hiÖn.Trong kinh doanh ®«i khi c«ng ty kh«ng ch¾c ch¾n r»ng m×nh cã thÓ thùc hiÖn ®­îc hîp ®ång hay kh«ng. Trong tr­êng hîp nµy nªn sö dông hîp ®ång option bëi v× hîp ®ång option cho phÐp c«ng ty cã quyÒn, nh­ng kh«ng b¾t buéc, mua hay b¸n mét sè l­îng ngo¹i tÖ. Gi¶ sö trong vÝ dô trªn c«ng ty sö dông hîp ®ång option ®Ó phßng chèng rñi ro. C«ng ty cã thÓ mua mét hîp ®ång theo c¸c ®iÒu kho¶n sau ®©y: - Tû gi¸ thùc hiÖn: 1 DEM = 0,6218 USD. - Thêi h¹n hîp ®ång : 6 th¸ng. - PhÝ giao dÞch: 1% hay lµ $ 0,01/DEM. Víi c¸c ®iÒu kho¶n hîp ®ång nh­ vËy, kÕt qu¶ cã thÓ x¶y ra theo mét sè t×nh huèng nh­ trong b¶ng d­íi ®©y. Bảng17:Phân tích tình huống sử dụng hợp đồng option để phòng chống rủi ro. DEM/USD TG thùc hiÖn PhÝ giao dÞch L·i L·i (lç) rßng 0.6773 0.6218 0.5612 0.6218 0.6218 0.6218 ($120.000) ($120.000) ($120.000) 0 0 $727.200 (1) ($120.000) ($120.000) ($607.200) (1) (0.6218 - 0,5612) x 12.000.000 = 727.200 Trên đây là một số phương pháp phòng chống rủi ro hối đoái liên quan đến việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Các phương pháp này chỉ thực hiện được khi nào có một thị trường tiền tệ và các ngân hàng thương mại sẵn sàng cung cấp những hợp đồng như forward, option hay các hợp đồng vay và cho vay trên thị trường tiền tệ. Ở Việt Nam hiện tại chưa có thị trường tiền tệ phát triển nên các ngân hàng thương mại chưa thể cung cấp những dạng hợp đồng dạng như vậy. Do đó, các công ty xuất nhập khẩu hoặc là đánh bạc việc kinh doanh của mình hoặc là phải phòng chống rủi ro hối đoái theo những phương pháp khác, dù các phương pháp đó đôi khi phức tạp và không hiệu quả. Chẳng hạn phòng chống rủi ro bằng cách đa dạng hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh và tiến hành nhập khẩu song song với hợp đồng xuất khẩu hoặc ngược lại. Bằng cách lấy lãi từ hợp đồng này để bù đắp cho lỗ của hợp đồng kia, rủi ro hối đoái sẽ được trung hoà. Tuy nhiên cách phòng chống rủi ro này có nhiều nhược điểm. Thứ nhất là nó đòi hỏi công ty phải đa dạng hoá hoạt động của mình sang những lĩnh vực khác mà công ty đôi khi không am hiểu lắm. Chẳng hạn như công ty chuyên lắp ráp xe gắn máy nay phải làm thêm công việc xuất khẩu hàng nông sản để tạo ra hợp đồng xuât khẩu nhằm trung hoà rủi ro của hợp đồng nhập khẩu phụ tùng. Thứ hai là không phải lúc nào công ty cũng có thể có được cùng một lúc cả hai hợp đồng xuất khẩu và nhập khẩu. Thứ ba là phòng chống rủi ro theo kiểu này luôn mất đi cơ hội kinh doanh nếu thị trường biến động theo chiều hướng có lợi cho công ty. 2.2.3. Các giải pháp trong quá trình sản xuất và chuẩn bị nguồn hàng cho doanh nghiệp xuất khẩu. Vai trò của tỷ giá chính thức như là một thước đo bình đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bởi mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới mục tiêu: Tỷ giá xuất khẩu < Tỷ giá chính thức < Tỷ giá nhập khẩu Chỉ khi đạt được mục yêu cầu này, họ mới có lãi. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng hạ tối thiểu tỷ giá xuất khẩu của mình bằng cách tiết kiệm chi phi làm giảm giá thành sản xuất, đồng thời cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu quốc tế để có thể nâng giá bán hàng xuất khẩu gần với mức giá quốc tế mà vẫn mở rộng được thị trường. 2.2.4. Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái. Với phương pháp này công ty không cần có chiến lược phong chống rủi ro hối đoái mà tiến hành tạo lập quỹ dự phòng. Quỹ này được hình thành từ lợi nhuận do chênh lệch tỷ giá khi tỷ giá biến động thuận lợi và dùng để bù đắp lỗ khi tỷ giá biến động bất lợi cho công ty. Tuy nhiên cách này thường đòi hỏi phải có những theo dõi phức tạp về mặt kế toán và dẫn đến tình trạng công ty lạm dụng chênh lệch tỷ giá để tiêu dùng vào việc khác. Như vậy là có rất nhiều những biện pháp để tiến hành việc phong chống rủi ro hối đoái, mỗi biện pháp đều có những ưu điểm cũngnhư nhược điểm riêng của nó, do vậy các doanh nghiệp xuât nhập khẩu cần phải phân tích kỹ lưỡng sự biến động của tỷ giá và đưa ra những dự đoán hợp lý về sự biến động của tỷ giá, từ đó nên quyết định lựa chọn phương pháp nào là tối ưu nhất. III. KIẾN NGHỊ. 1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản lí vĩ mô. Xét về tổng thể từ nhiều năm qua, việc cải cách cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái đã đem lại những thành quả đáng kể, tạo ra sự ổn định nhất định trong sức mua của đồng Việt Nam, đã góp phần cho sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế. Mặc dầu vậy, cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái hiện nay vẫn còn bộc lộ khác nhiều nhược điểm, cụ thể: - Thứ nhất, việc xác định tỷ giá còn mang tính cứng nhắc, chưa thực sự linh hoạt. - Thứ hai, tồn tại song hành tỷ giá thị trường tự do bên cạnh tỷ giá chính thức, tỷ giá của các ngân hàng thương mại và hiện tượng đô la hoá ngày càng trầm trọng hơn. - Thứ ba, chưa sử dụng có hiệu quả các công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái. - Thứ tư, cơ chế quản lý ngoại hối còn rất lỏng lẻo. Để khắc phục những mặt tồn tại trong cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái hiện hành, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau: - Ngân hàng Nhà nước cần phân biệt rõ chức năng đại diện cho Nhà nước và chức năng can thiệp để bình ổn thị trường. Với chức năng đại diện cho Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của Nhà nước và gia tăng tích luỹ theo mục tiêu đã định. Trong khi đó, chức năng can thiệp thị trường là nhằm mục tiêu điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường để tỷ giá phản ánh được quan hệ cung cầu. Việc không phân định rõ ràng tính độc lập của hai chức năng này sẽ làm giảm đi hiệu quả quản lý và điều tiết của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường. - Ngân hàng Nhà nước nên hạn chế tối đa việc sử dụng các biện pháp hành chính để can thiệp thị trường và không nên can thiệp quá sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. Thực tiễn cho thấy đôi lúc Ngân hàng Nhà nước đã có những tác động can thiệp sâu vào nghiệp vụ, chẳng hạn quyết định65/1999/QĐ- NHNH ngày 25.02.1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. - Chấn chỉnh và kiện toàn hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối. Với phương thức tổ chức như hiện nay, thị trường ngoại hối chưa phát huy được hiệu quả, các giao dịch trên thị trường ngôại hối chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng giao dịch của các ngân hàng nên hầu hết các ngân hàng đều hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối ngoại tệ. Hiện tượng vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước là khá phổ biến, nhiều doanh nghiệp khi xuất khẩu giao dịch với ngân hàng thì Ngân hàng mua ngoại tệ vượt trần quy định. Còn khi nhập khẩu thì ngân hàng lại có thế mạnh về ngoại tệ. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phát triển thị trường nội tệ với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động, tạo điều kiện điều hoà giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông suốt. Mở rộng số lượng thành viên tham gia thị trường, cho phép các nhà môi giới tham gia thị trường. - Quy định tỷ lệ kết hối hợp lý, có xem xét đến tính ổn định của nguồn cung ngoại tệ. Trong vòng hơn một năm từ quyết định 37/1998/ QĐ - TTg ngày 14.02.1998 đến quyết định 180/1999/QĐ - TTg ngày 30.8.1999, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành hơn 10 văn bản hướng dẫn thi hành trong đó không ít hơn 4 lần sửa đổi theo hướng nếu thấy tình hình ngoại tệ căng thẳng thì nâng tỷ lệ kết hối, và ngược lại thị hạ tỷ lệ kết hối. Cách làm này thường mang tính chất theo đuôi, điều chỉnh “khi sự đã rồi”. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước nên xem xét lại việc quy định tỷ lệ kết hối, theo đó tỷ lệ kết hối phải được xem xét trong một tổng thể dài hạn, không nên điều chỉnh thường xuyên. Thực tiễn đã cho thấy cứ sau mỗi lần tăng tỷ lệ kết hối thì tình hình cung cầu ngoại tệ ổn định hơn nhưng ngược lại, nếu giảm tỷ lệ kết hối thì hệ lụy tất yếu của nó là tình trạng khan hiếm ngoại tệ theo kiểu thừa mà thiếu và gây áp lực phải tăng tỷ lệ kết hối. - Quản lý chặt chẽ hoạt động vay và trả nợ nước ngoài. Theo quy định hiện hành việc quản lý vay trả và trả nợ nước ngoài được giao cho 3 cơ quan: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước với sự phân biệt rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, nhưng trong thực tế hiện nay chưa có sự thống nhất và phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan hữu quan, Chính phủ nên thành lập một cơ quan chức năng chuyên trách với các thành viên đại diện cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp và các cơ quan có liên quan khác để xây dựng kế hoạch và quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của tất cả các khoản vay nợ nước ngoài của khu vực nhà nước lẫn khu vực tư nhân. - Tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thực tế của nước ngoài trong các lĩnh vực, nghiệp vụ mới như: xác định tỷ giá qua rổ tiền tệ nhằm giảm bớt sự phụ thuộc của Việt Nam đồng vào đô la Mỹ, các nghiệp vụ của thị trường ngoại hối để từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam. - Chính sách tỷ giá cần quan tâm kịp thời đến các đồng tiền của các nước ASEAN và tỷ giá hối đoái giữa chúng với Việt Nam đồng, tạo điều kiện cho sự phát triển ngoại thương với các nước khu vực trong thời gian tới. - Trên tầm vĩ mô, Nhà nước một mặt phải nắm bắt thông tin chính xác kịp thời về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế, mức lạm phát, lãi suất trong nước và quốc tế, xu hướng biến động cung và cầu ngoại tệ trên thế giới để có thể làm tốt công tác dự đoán biến động tỷ giá. Mặt khác, nhà nước còn phải đảm bảo tính bình đẳng về thông tin cho mọi thành viên của xã hội thông qua việc thông báo tỷ giá cũng như các số liệu kinh tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng.. Bên cạnh các biện pháp chủ yếu trên, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát buộc các tổ chức tín dụng thực hiện đúng quy định quản lý ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước. Cương quyết xử lý các trường hợp vi phạm quy định. Phạt thật nặng đối với những vi phạm lần thứ nhất và rút giấy phép kinh doanh ngoại tệ ngay từ lần vi phạm lần thứ hai, có như vậy mới chấn chỉnh được hoạt động tuân thủ pháp luật của các tổ chức tín dụng, tạo hiệu ứng tốt cho công tác quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Mặt khác, cần sớm chấm dứt việc sử dụng USD trong thanh toán nội địa, hạn chế và tiến đến chấm dứt việc cho vay trực tiếp bằng ngoại tệ, tiến đến thống nhất trển lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam. Bên cạnh đó cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài chính - tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác để đạt được hiệu quả cao trong việc thực thi cơ chế quản lý tỷ giá. 2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. - Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải tuân thủ một chế độ hạch toán kế toán thống nhất cho từng ngành kinh doanh. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính và các ban ngành có liên quan phải thường xuyên kiểm tra kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu này để đảm bảo tính chính xác và kịp thời của các nguồn thông tin phản hồi từ các doanh nghiệp xuất khẩu về mức tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu để từ đó Ngân hàng Nhà nước có cơ sở đánh giá, xem xét điều chỉnh tỷ giá sao cho phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại ở Việt Nam. - Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tranh thủ các nguồn vốn, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm- dịch vụ, hạ giá thành. Chỉ có như vậy thì hàng Việt Nam mới có thể nâng cao sức cạnh tranh trên thị quốc tế cũng như trên thị trường nội địa. Chính điều này sẽ giúp lấy lại niềm tin trong dân chúng, xoá dần tâm lý sính dùng hàng ngoại, khơi dậy tinh thần dân tộc như người Nhật vẫn tự nhủ: dù hàng Nhật có đắt một chút nhưng vì sự nghiệp phát triển đất nước, vì lòng yêu nước, người Nhật vẫn dùng hàng Nhật. Đó có thể xem như là một hàng rào bảo họ mậu dịch tốt nhất cho sản xuất trong nước mà không một công cụ nào như tỷ giá hối đoái (phá giá) có thể vượt qua. KẾT LUẬN Tổng hợp tất cả các nhân tố tác động phân tính trên đây có thể lý giải được bức tranh ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến tài khoản vãng lai trong thời gian qua ở Việt Nam là hợp lý. Với mức độ điều chỉnh thấp, lại tác động lên những điều kiện chứa nhiều các nhân tố là lực cản thì những thay đổi trong tỷ giá hối đoái chỉ có ảnh hưởng khiêm tốn và chậm đến cán cân tài khoản vãng lai là đương nhiên. Thực tiễn phát triển và lựa chọn, điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của nhiều nước trên thế giới trong gần 30 năm qua khẳng định không có chính sách tỷ giá nào hiện nay được xem là có ưu thế tuyệt đối. Mỗi loại chính sách tỷ giá hối đoái đều có những điểm mạnh và điểm yếu nhất định. Nhưng kinh nghiệm của các nước cũng cho thấy: một chính sách tỷ giá hối đoái được sử dụng uyển chuyển phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn sẽ có nhiều tác động tích cực đến quá trình tăng trưởng và phát triển. Xét trên nhiều góc độ khác nhau,việc xử lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian gần đây là tương đối hợp lý và do đó đã có những đóng góp tích cực vào quá trình tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng quá trình điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong thời gian qua còn có những lúc chậm, bị động và chưa đủ mức.Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa từng phần, những hạn chế này phần nào đã không bộc lộ và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu cứ tiếp tục như vậy trong tương lai, khi chúng ta mở cửa nhiều hơn thì hậu quả của chính sách tỷ giá kém linh hoạt sẽ có nguy cơ lấn át những tác động tính cực mà một chính sách tỷ giá cố định tương đối tạo ra. Với nền kinh tế ngày một hội nhập mạnh hơn và yêu cầu phải điểu chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá- dịch vụ có độ co giãn lớn hơn trong tương lai (hàng hoá có chi phí kỹ thuật và chất xám ngày càng cao), và các rào cản đối với sự di chuyển vốn giữa Việt Nam và thế giới sẽ dần được xoá bỏ. Trong điều kiện như vậy, một cơ chế tỷ giá linh hoạt là đòi hỏi cấp thiết nhằm phản ánh giá trị đối ngoại của VND theo hướng có lợi cho cạnh tranh và ngăn cản những tác động của thị trường nước ngoài tới cân bằng trong nội bộ nền kinh tế. Hi vọng cùng với sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý vĩ mô, Việt Nam sẽ thực hiện thành công chính sách mở cửa của Đảng mà nội dung cơ bản là tăng cường hơn nữa các quan hệ kinh tế và thương mại với tất cả các nước trên thế giới bằng con đường đa phương hoá và đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trong vì chính xuất khẩu sẽ tạo tiền đề và điều kiện cho nền kinh tế phát triển không những trước mắt và còn cả cho một thời kỳ chiến lược lâu dài. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương – PGS. PTS Đinh Xuân Trình – Nhà xuất bản Giáo dục – 1995. Kinh tế đối ngoại – PGS. TS Võ Thanh Thu – Nhà xuất bản Thống kê - 1994. Lý thuyết tài chính tiền tệ (II)- Khoa ngân hàng đại học Kinh tế Quốc dân – 1994 Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối – TS Nguyễn Văn Tiến – Nhà xuất bản Thống kê -11/1999. Tài chính quốc tế - – TS Nguyễn Văn Tiến. Thương mại và việc xác định tỷ giá trên thị trường hối đoái – Perter Fisher và Erlach – Văn phòng dự án Đức – Ngân hàng Nhà nước. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic. S. Mishkin – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật – 1994. Văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối ở Việt Nam- Nhà xuất bản thế giới – 1995. Bàn về tỷ giá và khả năng thực hiện phá giá ở nước ta- Lê Việt Đức và Trần Thị Thu Hằng- Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 3 – 6/ 1995. Tỷ giá hối đoái và vấn đề tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu- Vũ Thu Giang và Lê Minh Tâm – Tạp chí Kinh tế kế hoạch số 1- 1995. Cán cân thanh toán quốc tế và mối quan hệ của nó với tỷ giá hối đoái- Nguyễn Đình Tài – Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. Niên giám Thống kê Việt Nam 1994/1997/2000/2001. Tạp chí ngân hàng các số 1,2,3,4,năm 1995; Tạp chí “Tài chính và thị trường tiền tệ” số 1,2,3 năm 1995,1996. Thông tin chuyên đề “ Dự trữ bắt buộc và tỷ giá hối đoái” – Viện khoa học Ngân hàng 6/6/1996.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNT089 KILOBOOKS.COM.doc
Luận văn liên quan