- Qui định ngày giá trị của hợp đồng. Hiện giờ có thể nhu cầu của
thị trường chưa cao, đồng thời để tạo sự linh hoạt cho các thành phần tham
gia vào giao dịch thì ngày giá trị của hợp đồng nên rút ngắn lại so với thông lệ
quốc tế.
- Qui ước về khối lượng giao dịch chuẩn của các đồng tiền. Hiện
nay, tiềm lực của thị trường Việt Nam còn nhỏ nên không thể học tập các sở
giao dịch nước ngoài thực hiện với khối lượng lớn, chúng ta chỉ nên đặt qui
ước chỉ bằng 1/10, khi mà thị trường đã có những đón nhận và phát triển thích
hợp thì có thể tăng khối lượng của giao dịch chuẩn.
- Xúc tiến xây dựng Sở giao dịch tiến hành các giao dịch tương
lai. Với tình hình Việt Nam thì ban đầu nên do Nhà nước quản lý với hình
thức quốc doanh sau đó mới từ từ chuyển sang hoạt động độc lập.
Có thể ban đầu, Sở giao dịch tương lai chỉ mang tính chất quốc gia
nhưng chúng ta nên tin rằng sau một thời gian phát triển cùng với sự đi lên
của kinh tế đất nước, Sở giao dịch này sẽ là một trung tâm giao dịch lớn của
khu vực và được quốc tế quan tâm, tham gia.
90 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ua vào rất hạn chế nên các NHTM
phải xin thực hiện nghiệp vụ hoán đổi. Đáng chú ý là, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài cũng đã mạnh dạn xin thực hiện nghiệp vụ này tuy doanh số còn
khiêm tốn. Cụ thể là ngày 06/02, NHNN đã tiến hành hoán đổi 82 triệu USD,
trong đó Ngân hàng Công thương chiếm tới 40 triệu USD, Ngân hàng Ngoại
thương; Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn mỗi ngân hàng 20
triệu USD, còn 2 triệu USD là chi nhánh NHTM Chinfon (Đài Loan). Vài
ngày sau đó, cả ngân hàng Đầu tư và phát triển cũng tham gia, tổng số ngoại
tệ trong nghiệp vụ hoán đổi của cả 4 NHTM lần này gấp đôi ngày 06/02, lên
tới 161 triệu USD. Cho đến tháng 4/2002, một số chi nhánh ngân hàng nước
ngoài khác cũng rơi vào tình trạng thiếu VNĐ, tổng cộng ít nhất 1,000 tỷ
VNĐ, trong khi các ngân hàng này phải chấp hành một số hạn chế về việc đi
vay vốn và huy động tiền gửi nội tệ và phải phụ thuộc vào các đối tác là
NHTM trên thị trường liên ngân hàng. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài
(Standard Chartered Bank, ABN AMRO bank…) phải tính đến sử dụng
nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối với NHNN, với họ đây tuy là giải pháp hữu hiệu
và nhanh chóng nhưng vẫn chỉ là biện pháp hỗ trợ cuối cùng.
51
Với áp lực thiếu tiền VNĐ từ phía các NHTM, NHNN đã đưa ra nhiều
biện pháp khắc phục như hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất tái cấp vốn
và tái chiết khấu, tiến hành các giao dịch thị trường mở, mua các giấy tờ có
giá ngắn hạn do các NHTM phát hành … và đặc biệt là cho phép các NHTM
áp dụng hoán đổi USD - VNĐ để tạm thời giải quyết nhu cầu vốn VNĐ cho
khách hàng.
Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị
trường Việt Nam, đã có một số ngân hàng như ABN AMRO Bank (nay là The
Royal Bank of Scotland Việt Nam), Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong
phạm vi đồng USD từ ngày 01/3/2005 tới 02/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán
đổi lãi suất giữa hai đồng tiền USD và VNĐ (hoán đổi lãi suất chéo) đã được
thực hiện từ trước khi có qui định chính thức của NHNN. Cho tới lần đầu tiên
được NHNN cho phép, HSBC (Ngân hàng Hồng Kông- Thượng Hải) đã cung
cấp gói Swaps tiền VNĐ cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15
triệu USD trên thị trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VNĐ và nhận lại
USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007 HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VNĐ
từ khách hàng. Với giao dịch này, khách hàng đã đạt được mức lãi suất cạnh
tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn VNĐ kỳ hạn 3năm mà
không chịu bất cứ rủi ro nào về tỷ giá USD/VNĐ. Bên cạnh đó, HSBC cũng
thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn (Daily range accrual), thời hạn
của hợp đồng tối đa là 5 năm. Theo thỏa thuận hoán đổi này, khách hàng vay
của HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch và tổng lãi suất phải trả này
không vượt quá mức lãi suất cao nhất đã được định trước. Đổi lại HSBC sẽ
trả Sibor cộng với phần chênh lệch cho những ngày lãi suất Sibor dao động
trong một khoảng được định trước. Cụ thể, hợp đồng này thỏa thuận giữa
khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất thả nổi. Nếu đến ngày đáo hạn
lãi suất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước (4.5%/năm) thì
52
HSBC sẽ trả lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất Sibor + 1.1% . Trường
hợp vượt mức lãi suất định trước thì HSBC không phải trả mức lãi suất này.
Đổi lại khách hàng sẽ trả cho HSBC mức lãi suất Sibor+0.6% nhưng mức tối
đa không vượt quá 5.1%/năm.
Chính hành động của HSBC đã tạo ra nền tảng phát triển cho các giao
dịch hoán đổi ngoại hối sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại
Việt Nam đã thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền đối với các
khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ; thực
hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng - lãi suất cơ cấu cho tiền gửi
và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố
định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào biến
động của một số yếu tố thị trường như tỷ giá, lãi suất, giá cả thị trường ...
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã thực hiện hoán đổi tiền tệ
chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong tương lai bằng các đồng tiền
khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo thường có việc hoán đổi thanh
toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh toán lãi (cố định
hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể
được hoán đổi vào đầu kỳ (nếu có) và cuối kỳ, hoặc nhiều kỳ trong thời hạn
hiệu lực của giao dịch.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (nay là Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank) đã thực hiện giao dịch hoán đổi
lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác là TCTD hoạt động tại
Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong và ngoài nước, phù hợp
với qui định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về Ngân hàng Ngoại thương là
quyền được kết thúc trước thời hạn hợp đồng hoán đổi đối với các khoản vay.
53
Bảng 5. Báo cáo các giao dịch hoán đổi lãi suất còn đang hiệu lực thực
hiện tháng 6/ 2005
Ngân hàng Khách hàng
Đơn
vị
Giá trị hợp
đồng
Lãi suất
hoán đổi:
lãi suất nhận
Lãi
suất
hoán
đổi: lãi
suất
trả
Thời hạn
hợp đồng
Standard
Chartered
Hợp đồng 1
SC London
GBP
5,114,829.75
5,34
2 năm
Tokyo
Mitsubishi
Hợp đồng 1
Hợp đồng 2
VN Japan Gas
Kein
H.Muramoto
USD
USD
2,000,000
1,372,000
SIBOR+0,55
6M SIBOR
+1,5%
4 năm
4 năm
Vietcombank
Hợp đồng 1
SC London
USD
22,000,000
LIBOR 6m
15/1/2015
54
Hợp đồng 2
Hợp đồng 3
Hợp đồng 4
Sc London
Citibank, SGP
Citibank, SGP
USD
USD
USD
6,400,000
19,500,000
20,500,000
LIBOR 6m
LIBOR 6m
LIBOR 6m
15/7/2015
15/1/2014
15/7/2014
ABN AMRO
Hợp đồng 1
VNA
USD
44,037,650
Nil
Citibank
Hợp đồng 1
HOLCIM
USD
20,000,000
4,8%
5 năm
Nguồn: NHNN Việt Nam – Vụ chính sách tiền tệ: Báo cáo các giao
dịch hoán đổi lãi suất còn đang hiệu lực thực hiện tháng6/2005.5
Qua bảng trên ta thấy trong khi các NHTM đều cố gắng thực hiện
nghiệp vụ hoán đổi thì sự hưởng ứng của thị trường vẫn chưa thực sự được
như mong đợi. Các doanh nghiệp tham gia nghiệp vụ có thể thấy là những
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc là do các
ngân hàng thực hiện với nhau. Các doanh nghiệp này đã có được sự tiếp xúc
đối với các công cụ phái sinh trước đây (đối với doanh nghiệp nước ngoài)
nên họ có được sự chủ động trong việc sử dụng những công cụ này, trong khi
đối với những tổ chức kinh tế trong nước vẫn còn khá lạ lẫm.
2.4. Thực trạng giao dịch quyền chọn
Theo như cơ sở pháp lý áp dụng cho giao dịch quyền chọn thì giao dịch
quyền chọn gồm quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ và quyền chọn ngoại tệ với
nội tệ (VNĐ).
2.4.1 Quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ
Về phía ngân hàng tham gia
Trong giai đoạn thí điểm, các NHTM muốn thực hiện giao dịch quyền
chọn ngoại tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối, có vốn tự
5
Kû yÕu héi th¶o khoa häc “Gi¶i ph¸p ph¸t triÓn thÞ trêng ph¸i sinh ë ViÖt Nam”, (2007), NXB
V¨n hãa th«ng tin, Trang 122.
55
có tối thiểu là 200 tỷ VNĐ, kinh doanh ngoại tệ có lãi trong ít nhất 5 năm gần
nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD. Ngoài
ra, NHTM phải lập ra qui trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và trình Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận bằng văn bản cho thực hiện thí điểm.
Như đã đề cập ở trên, Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp
vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ. Sau Eximbank, NHNN cho phép 7 ngân
hàng khác thực hiện thí điểm nghiệp vụ này, gồm có hai ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam là Citibank và HSBC chi nhánh TP Hồ Chí
Minh và 5 ngân hàng trong nước là Ngân hàng đầu tư và phát triển(BIDV),
Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Argibank), Ngân hàng công
thương Việt Nam (nay là Vietinbank).
Sau khi quyết định 1452/2004/QĐ - NHNN được ban hành thì có thêm
nhiều NHTM đưa giao dịch quyền chọn vào phục vụ khách hàng.
Về doanh số giao dịch:
Tính đến tháng 6/2004, mặc dù lợi ích trong việc sử dụng các công cụ
bảo hiểm rủi ro đã thấy rõ như một nhu cầu cấp thiết nhưng số lượng hợp
đồng được ký kết chỉ dừng lại ở con số 50 hợp đồng quyền chọn với doanh số
thực hiện hơn 50 triệu USD của Eximbank ký với các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu trong thời gian thí điểm nghiệp vụ quyền chọn. Trong
đó quyền chọn mua ngoại tệ chiếm 68%, còn 6 ngân hàng còn lại không ký
được hợp đồng nào. Qua tổng kết 6 tháng thực hiện, Eximbank mới chỉ có vài
chục khách hàng và trên thực tế ngân hàng này buộc phải ký lại các hợp đồng
quyền chọn nhận được với các ngân hàng nước ngoài giống như một dạng tái
bảo hiểm. Sở dĩ làm như vậy vì ngân hàng có số lượng khách hàng tham gia
nghiệp vụ quyền chọn quá ít và không đủ điều hòa rủi ro tỷ giá. Thêm vào đó
số lượng ngân hàng nội địa có khả năng tham gia vào nghiệp vụ này còn ít
56
nên việc tham gia nghiệp vụ quyền chọn với các ngân hàng nước ngoài là giải
pháp tốt nhất. Tuy nhiên làm như vậy thì Eximbank sẽ không có lãi do phí
quyền chọn thu được từ khách hàng lại phải đóng mức tương đương cho các
đối tác nước ngoài.
Sở dĩ, doanh số của các giao dịch quyền chọn chưa đạt được kết quả
khả quan trong thời gian thí điểm là bởi một số qui định về thí điểm đã bộc lộ
một số hạn chế như:
- Qui định về điều kiện TCTD được thực hiện nghiệp vụ quyền
chọn, đặc biệt là doanh số mua / bán ngoại tệ tối thiểu là 1 tỷ USD/ năm là
cao chưa thực sự phù hợp với thực tế, chỉ có các NHTM nhà nước và một số
ít các NHTM cổ phần đáp ứng được điều kiện này. do đó hạn chế khả năng sử
dụng nghiệp vụ này của các TCTD có qui mô trung bình.
- Giới hạn số dư giao dịch là 500,000 USD hoặc ngoại tệ khác
tương đương sẽ hạn chế và không khuyến khích các khách hàng là các doanh
nghiệp có doanh số xuất khẩu lớn tham gia sử dụng nghiệp vụ quyền chọn.
Thời hạn giao dịch từ 7 ngày đến 3 tháng là khá hẹp chưa đáp ứng nhu cầu đa
dạng về kỳ hạn của khách hàng, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu.
- Việc chỉ cho phép sử dụng ngoại tệ tự do chuyển đổi, không cho
phép sử dụng VNĐ trong giao dịch quyền chọn thực sự không khuyến khích
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sử dụng nghiêp vụ quyền chọn
để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Bởi vì, biến động tỷ giá VNĐ/USD tương đối độc
lập với biến động tỷ giá các đồng tiền khác so với USD. Sử dụng giao dịch
quyền chọn đề phòng biến động tỷ giá VNĐ/USD là cần thiết với các doanh
nghiệp.
Từ 2004 đến 2007, mặc dù không còn giới hạn về số lượng NHTM
tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế cho thấy
57
các hoạt động mua bán này chưa thực sự sôi động. Các giao dịch chỉ tập trung
vào chi nhánh các ngân hàng nước ngoài như HSBC hay Citibank và một số ít
NHTM Việt Nam như Eximbank, Techcombank còn lại các ngân hàng vẫn
không có giao dịch.
2.4.2. Quyền chọn ngoại tệ với nội tệ
Về phía ngân hàng tham gia giao dịch:
Tháng 4/2005 NHNN đã bắt đầu triển khai thực hiện thí điểm giao dịch
quyền chọn giữa ngoại tệ với VNĐ. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm
nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối
thiểu là 10,000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền
chọn giao dịch giữa các ngoại tệ khác với VNĐ)
Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trị hợp đồng là 8
triệu USD - 100,000 USD và chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu.
BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây không còn qui định
giới hạn cho giá trị hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như
Eximbank, GP.Bank cũng tham gia nghiệp vụ này. Như vậy, tính đến tháng
5/2008 đã có 7 ngân hàng được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa
ngoại tệ với VNĐ.
Đặc điểm giao dịch:
Cũng giống như giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ, quyền
chọn ngoại tệ với VNĐ yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này
cần phải có đề án chi tiết qui trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro và
phải được NHNN chấp nhận bằng văn bản. Qui định về tỷ giá thực hiện như
sau:
Đối với hợp đồng quyền chọn USD/VNĐ: tỷ giá này không vượt
quá tỷ giá kỳ hạn USD/VNĐ cùng thời hạn.
58
Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VNĐ: tỷ
giá do ngân hàng và khách hàng tự do thoả thuận.
Doanh số giao dịch:
Mặc dù triển khai từ năm 2005 nhưng doanh số mua bán thực tế của
các NHTM không đáng kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo
kiểu Mỹ vì điều kiện thanh toán linh hoạt hơn. Qua kết quả thăm dò, các ngân
hàng như ACB, Techcombank, BIDV, VIB dù là những ngân hàng tham gia
nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ mới chỉ thực hiện được một số hợp đồng
với doanh số không đáng kể.
Riêng Vietcombank và Eximbank được xem là hai ngân hàng mạnh về
lĩnh vực này nhưng doanh số hoạt động cũng không cao. Tính trong năm
2006- 2007 Vietcombank chỉ đạt khoảng 37.53 triệu USD (chiếm chưa đến
0.1% tổng doanh số giao dịch ngoại tệ), Eximbank đạt 128.12 triệu USD
(chiếm khoảng 0.8% trong tổng số giao dịch ngoại tệ).
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG
3.1 Thành tựu
Những quan ngại về tính biến động khôn lường đã khiến cho giao dịch
tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm. Tự
bảo hiểm cho chính mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ một phần rủi ro
cho thị trường thông qua các công cụ phái sinh, có thể coi là sự lựa chọn khôn
ngoan nhất của các chủ thể tham gia thị trường. Giao dịch các công cụ phái
sinh đã xuất hiện từ lâu và đóng vai trò quan trọng tại các thị trường ngoại hối
phát triển. Quá trình nghiên cứu và phân tích cho thấy, mặc dù thị trường các
công cụ phái sinh ở Việt Nam còn mới mẻ nhưng cũng đã có được những
thành tựu nhất định.
59
Thứ nhất, việc NHNN cho phép sử dụng các công cụ phái sinh trên thị
trường ngoại hối đã góp phần hoàn thiện thị trường ngoại hối. Với mục tiêu
xây dựng một thị trường ngoại hối hiện đại xứng tầm với kinh tế đất nước và
là một trung tâm giao dịch trong khu vực, việc đưa các công cụ phái sinh vào
thị trường là một bước quan trọng trong quá trình xây dựng này.
Thứ hai, thị trường đã phần nào đón nhận các nghiệp vụ phái sinh như
một phương thức mới để phòng ngừa rủi ro. Thông qua các NHTM, các công
cụ tài chính phái sinh đã được tiếp cận với người sử dụng là các tổ chức tín
dụng, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nhỏ lẻ.
Thứ ba, xét về tỷ lệ doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng, có thể thấy doanh số giao dịch của các công cụ phái sinh ngày
càng tăng. Điều đó chứng tỏ các công cụ phái sinh đã và đang giữ một vị trí
quan trọng trên thị trường ngoại hối. Biểu đồ cơ cấu giao dịch trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng dưới đây sẽ làm rõ hơn đánh giá này.
Biểu đồ: Cơ cấu giao dịch trên TTNTLNH ( % )
60
94.3
5.7
95.7
4.3
89
11
81.3
18.7
89.1
10.9
83.5
16.5
88.7
11.3
86.5
13.5
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Biểu đồ: Cơ cấu giao dịch trên TTNTLNH
(%)
giao ngay kỳ hạn và hoán đổi
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN 2001 - 2008
Theo báo cáo thường niên của NHNN, doanh số giao dịch giữa các
ngân hàng tăng cao và các giao dịch phái sinh đã dần được sử dụng nhiều
hơn. Đặc biệt năm 2008, mặc dù bối cảnh cung - cầu ngoại tệ trên thị trường
diễn biến phức tạp nhưng hoạt động thị trường liên ngân hàng vẫn tiếp tục sôi
động với qui mô và doanh số giao dịch tăng cao. Tổng doanh số giao dịch
tăng khoảng 25% so với năm 2007, trong đó, các giao dịch kỳ hạn và hoán
đổi tăng 13%. Các ngân hàng đã tiếp cận và sử dụng nhiều hơn các nghiệp vụ
phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
Đánh giá riêng những kết quả đạt được của các công cụ phái sinh nhận
thấy rằng:
61
- Giao dịch hoán đổi: Thời kì đầu tiếp cận với thị trường, khi mới
chỉ được sử dụng bởi các ngân hàng, các giao dịch hoán đổi đã chung tay giải
quyết những khó khăn của thị trường. Thị trường ngoại hối nói chung và thị
trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam nói riêng đã ổn định chống lại được
khủng hoảng cũng như các diễn biến mang nhiều tính tâm lý.
- Giao dịch kỳ hạn và hoán đổi chủ yếu được sử dụng trong thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng.
- Doanh số giao dịch ngày càng tăng là minh chứng cho sự phát
triển của giao dịch quyền chọn, kể từ lúc được đưa vào thị trường Việt Nam
vào năm 2005.
Để có thể thấy rõ thành tựu của các công cụ phái sinh, dưới đây là bảng
tổng kết doanh số giao dịch các công cụ phái sinh tại bốn ngân hàng thương
mại mạnh về giao dịch các công cụ phái sinh:
Bảng 6. Tổng hợp các công cụ phái sinh tài chính của một số ngân
hàng thƣơng mại
Đơn vị: Triệu đồng
Giao dịch 2007 2008 2009
Kỳ hạn 1,492,130 10,326,491 4,960,091
Hoán đổi 4,283,128 5,434,426 17,011,082
Quyền chọn - 149,244 954,783
Tổng 5,775,258 15,910,161 22,925,956
Ghi chú: Giá trị được ghi nhận theo giá trị tại ngày ký kết hợp đồng.
62
Nguồn: Tổng hợp báo cáo thường niên của các ngân hàng Eximbank,
Vietcombank, ACB và Sacombank.
Quan sát bảng tổng hợp có thể thấy, doanh số giao dịch các công cụ có
xu hướng tăng từ năm 2008. Cụ thể, doanh số giao dịch kỳ hạn năm 2008
tăng 6.9 lần so với năm 2007, trong khi doanh số giao dịch hoán đổi chỉ tăng
nhẹ 1.2 lần. Năm 2008 đánh dấu sự chuyển mình của các giao dịch quyền
chọn khi chúng được hưởng ứng với doanh số tương đối cao 149,244 triệu
đồng. Bước sang năm 2009, mặc dù nằm trong số các quốc gia ít chịu ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới nhưng các thành phần kinh tế
của Việt Nam cũng đã chuyển sang sử dụng giao dịch hoán đổi khá nhiều. Chỉ
xét riêng 4 NHTM nêu trên doanh số giao dịch đã gấp hơn 3 lần so với năm
2008, đạt hơn 17 nghìn tỷ. Về tổng giao dịch các công cụ phái sinh tiền tệ tại
4 NHTM này trong 3 năm gần đây doanh số giao dịch đã tăng hơn 4 lần. Có
thể nói đó là một con số đáng kể giúp chúng ta thấy được tiềm năng phát
triển lớn của thị trường các công cụ phái sinh trong tương lai.
3.2 Khó khăn
Trong khi tại các thị trường ngoại hối phát triển, giao dịch các công cụ
phái sinh đã xuất hiện từ lâu và đóng vai trò quan trọng thì ở nước ta nhìn nhận
một cách tổng quát, mức độ áp dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế, xin
được chỉ ra một vài điểm sau đây:
Giao dịch kỳ hạn: mặc dù xuất hiện sớm nhưng phát triển chậm, các
giao dịch chỉ tập trung vào những giao dịch ngắn ngày (7- 60 ngày) với mức
doanh thu thấp khoảng 5% so với giao dịch giao ngay.
Giao dịch hoán đổi: xuất hiện gần như cùng với giao dịch kỳ hạn
nhưng chỉ hoạt động trên TTNTLNH chứ chưa phổ biến rộng rãi. Các giao dịch
63
với bên ngoài thì hầu như chỉ được hưởng ứng bởi những công ty nước ngoài
hoặc các tập đoàn lớn.
Giao dịch quyền chọn: tính từ thời điểm ban đầu cho đến nay, hầu
như đều được giao dịch bởi các doanh nghiệp XNK là chủ yếu.
Điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở Việt
Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ
không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Ví như giao dịch hoán đổi, thời kỳ
đầu chỉ được xem như một giải pháp tình thế khi thị trường căng thẳng về
VNĐ hơn là một công cụ kinh doanh ngoại hối hay một công cụ thị trường
đúng nghĩa. Xoay quanh vấn đề này có 4 nghi vấn được đặt ra: trước hết, các
doanh nghiệp chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro? Hay phải chăng
khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các doanh nghiệp và các
công cụ phái sinh còn quá lớn? Cũng có thể các doanh nghiệp chưa thực sự
được tiếp cận đầy đủ với các công cụ phái sinh, hoặc liệu rằng họ còn có
những vướng mắc nào khác? Để trả lời cho những điều trên ta sẽ phân tích
những hạn chế của thị trường các công cụ phái sinh để thấy được nguyên
nhân cơ bản và từ đó đưa ra giải pháp tối ưu cho vấn đề này.
Thứ nhất, cần phải nói đến môi trường tài chính của Việt Nam trong
thời gian qua. Do trong suốt một thời gian dài, tỷ giá hối đoái - bộ phận
xương sống của thị trường ngoại hối được duy trì ở mức khá ổn định và
thường theo hướng VNĐ giảm giá dần, nhằm giữ bình ổn thị trường, việc này
đã tạo tâm lý lơ là đối với các doanh nghiệp và các TCTD. Tuy nhiên trong
bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, bên cạnh đó là cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu gần đây đã làm cho tỷ giá hối đoái trong nước và quốc tế biến
động liên tục thì các biện pháp tự bảo hiểm là vô cùng cần thiết. Qui định của
NHNN thường quá chặt chẽ khiến cho việc thương lượng hợp đồng giữa ngân
hàng và khách hàng còn gặp khó khăn. Thị trường tài chính Việt Nam chưa có
64
hệ thống thông tin cập nhật khiến sự thiếu hụt thông tin thị trường, làm cho
công tác phân tích và dự báo tỷ giá của ngân hàng và khách hàng gặp trở ngại.
Từ đó khách hàng không có thông tin để ra quyết định liên quan đến phòng
ngừa rủi ro tỷ giá.
Thứ hai, các doanh nghiệp nhận thức được việc cần phòng ngừa rủi ro
tỷ giá nhưng lại chưa có sự hiểu biết đầy đủ về các biện pháp phòng ngừa rủi
ro. Theo kết quả khảo sát về nhận thức và sử dụng các giải pháp phòng ngừa
rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp, cho thấy:
Đối với hợp đồng kỳ hạn, cho đến thời điểm thực hiện khảo sát
(2008) vẫn còn 17% doanh nghiệp chưa biết đến loại hợp đồng này. Ngoài ra,
có đến 75% doanh nghiệp chưa hoặc ít sử dụng, chỉ có khoảng 25% doanh
nghiệp là thường xuyên có sử dụng hợp đồng kỳ hạn.
Đối với hợp đồng hoán đổi: đến nay vẫn còn có 36% doanh nghiệp
chưa hề biết đến loại hợp đồng này. Số còn lại có nghe nói đến nhưng chưa có
hoặc ít sử dụng loại hợp đồng này.
Đối với hợp đồng quyền chọn: theo kết quả khảo sát cho thấy đến
gần 80% số doanh nghiệp được khảo sát chưa hoặc ít sử dụng hợp đồng
quyền chọn, trong đó có 21% chưa hề nghe nói đến loại hợp đồng này6.
Qua kết quả khảo sát trên có thể thấy: đến nay sự hiểu biết của các
doanh nghiệp về các công cụ phái sinh giúp họ phòng ngừa được những rủi ro
khi tham gia vào thị trường ngoại hối là còn ít. Số còn lại mặc dù có nhận
thức nhưng tỷ lệ sử dụng còn thấp.
Thứ ba, vẫn còn nhiều trở ngại trong việc sử dụng các công cụ phái
sinh. Việc vận dụng những lý thuyết nghiệp vụ phái sinh ngoại hối còn cứng
6 Hoµn thiÖn c¸c gi¶i ph¸p phßng ngõa rñi ro tû gi¸ nh»m chuÈn bÞ héi nhËp kinh tÕ khu vùc vµ thÕ
giíi, TS. NguyÔn Minh KiÒu, C«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc, Trang 39.
65
nhắc, thiếu tính chuyên nghiệp khiến cho các giao dịch không phát huy hết
vai trò vốn có của nó. Chi phí cho việc sử dụng các công cụ phái sinh thường
quá cao, đặc biệt là chi phí mua quyền chọn. Các nghiệp vụ phái sinh do các
NHTM cung cấp chưa đa dạng nên chưa có nhiều sự lựa chọn cho doanh
nghiệp. Doanh nghiệp còn thiếu thông tin về các nghiệp vụ giao dịch phái
sinh nên không thể đưa ra quyết định sử dụng khi cần. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là vừa và nhỏ nên cần có những thông tin cần
thiết liên quan đến định giá công cụ và dự báo tỷ giá từ những chuyên gia bên
ngoài do doanh nghiệp không có chuyên gia nội bộ trong lĩnh vực này. Các
hướng dẫn hạch toán kế toán liên quan đến nghiệp vụ phái sinh khi sử dụng
các giao dịch tài chính phái sinh vẫn chưa được ban hành cụ thể làm cho các
doanh nghiệp lúng túng khi muốn sử dụng.
Thứ tư, về phía các NHTM đóng vai trò là chủ thể cung cấp các nghiệp
vụ phái sinh vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Như đã đề cập ở trên
các sản phẩm phái sinh chưa được thiết kế phù hợp với nhu cầu khách hàng,
thông tin về các sản phẩm này còn khá sơ sài. Nếu các doanh nghiệp chỉ đơn
thuần là cập nhật các tin mới về dịch vụ qua trang web của ngân hàng thì sẽ
không thể biết chi tiết. Bên cạnh đó, năng lực của các nhân viên ngân hàng
trong tư vấn khách hàng sử dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế nên
việc hỗ trợ các doanh nghiệp còn yếu.
Khi Việt Nam đã gia nhập WTO và từng bước hoàn thiện nền kinh tế
thị trường hội nhập quốc tế sâu sắc thì những rủi ro trong thị trường ngoại hối
sẽ ngày càng gia tăng. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối cần có
những kiến thức cần thiết và sự nhạy bén với diễn biến của thị trường để tự
bảo hiểm. Lúc này, các công cụ phái sinh thực sự là những công cụ hữu ích,
vô cùng hiệu quả và phải được quan tâm đúng mức hơn.
66
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC
CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƢỜNG
NGOẠI HỐI VIỆT NAM
1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong thời gian qua, mặc dù thị trường ngoại hối Việt Nam đã hướng
tới mở cửa thị trường nhưng vẫn có nhiều biến động mang tính chất tâm lý, và
chưa được vận hành chặt chẽ, nhịp nhàng. Thị trường vẫn còn tồn tại những
nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng găm giữ, tích trữ
ngoại tệ của doanh nghiệp và dân cư; nhu cầu mua ngoại tệ tăng đột biến
trong khi nhu cầu vay ngoại tệ lại giảm sút. Hệ thống ngân hàng “thừa” ngoại
tệ để cho vay, thiếu ngoại tệ để bán, thị trường ngoại hối căng thẳng, có rất ít
các giao dịch và nếu có đều giao dịch trên mức tỷ giá trần do NHNN qui định.
Do đó, trong thời gian tới cần có định hướng phát triển thị trường ngoại hối
nhằm ổn định để thực hiện vai trò điều tiết cung cầu ngoại hối, đáp ứng được
yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập kinh tế.
Để thực hiện được mục tiêu trên, thị trường ngoại hối Việt Nam cần
phát triển theo định hướng sau:
Một là, xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất. Định hướng hoàn
thiện môi trường pháp lý và cơ chế chính sách cho hoạt động của thị trường
67
ngoại hối phải nhằm mục tiêu phát triển mở rộng qui mô hoạt động của thị
trường ngoại hối chính thức, từng bước hạn chế và tiến đến xóa bỏ thị trường
ngoại hối không chính thức. Trên cơ sở đó, xây dựng thị trường ngoại hối
thống nhất với sự tham gia đa dạng của nhiều chủ thể trong nền kinh tế.
Hai là, hoàn thiện cơ cấu thị trường. Nói đến thị trường ngoại hối Việt
Nam có thể nói chúng ta mới chỉ xây dựng được cái khung của ngôi nhà mà
chưa trang bị cho nó những đồ nội thất bên trong. Chúng ta cần phải hoàn
thiện và làm cho các công cụ và các bộ phận của thị trường trở nên linh hoạt
hơn. Củng cố thị trường liên ngân hàng với cơ chế hoạt động thông thoáng,
tăng cường vai trò giám sát, điều hành điều tiết thị trường của NHNN. Tăng
cường các chính sách khuyến khích tự do hóa thị trường trong khuôn khổ
pháp luật và phù hợp với chính sách ngoại hối của đất nước.
Đối với NHNN
Nâng cao vị thế của NHNN, đảm bảo NHTW thực sự độc lập, tự chủ
trong xây dung và điều hành chính sách tiền tệ. Mục tiêu chủ yếu là ổn định
tiền tệ, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ - ngân hàng, góp
phần tạo dung môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Đổi mới cơ cấu của NHNN từ trung ương xuống các chi nhánh theo
hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực và khả năng xây dựng, thực
thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên
tiến, thực hiện các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Sắp xếp lại các doanh nghiệp
trực thuộc NHNN theo hướng chỉ giữ lại Nhà máy in tiền Quốc gia.
Tăng cường hiệu lực của NHNN về quản lý, giám sát các giao dịch
ngoại hối, tự do hóa giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các
giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài
chính. Tăng nhanh dự trữ ngoại hối Nhà nước, thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ
giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị trường.
68
Đối với các Tổ chức tín dụng.
Cải cách triệt để và phát triển hệ thống các TCTD theo hướng đa năng,
hiện đại, đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, có qui mô lớn và hoạt động
theo nguyên tắc thị trường với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận.
Tăng cường năng lực thể chế thông qua cơ cấu lại tổ chức và hoạt động,
phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị và
ban điều hành, mở rộng qui mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự
kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, phát
triển các hệ thống quản lý của NHTM phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực
quốc tế.
Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích, được định
hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và
hiệu quả của các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời nhanh chóng tiếp
cận và phát triển các loại hình dịch vụ mới với hàm lượng công nghệ cao.
Ba là, xây dựng thị trường ngoại hối hội nhập với khu vực và thế giới.
Tính quốc tế là một đặc điểm cơ bản của thị trường ngoại hối. Thị trường
ngoại hối có phạm vi hoạt động không đóng khung trong phạm vi một quốc
gia mà lan rộng ra toàn cầu nhằm phục vụ cho các nhu cầu mua bán giao dịch
ngoại tệ. Trong điều kiện hệ thống thông tin liên lạc quốc tế phát triển cao,
các giao dịch trên thị trường ngoại hối diễn ra hết sức nhanh chóng, chính
xác, tạo ra tính quốc tế hóa trong việc yết giá. Trong khi đó, thị trường ngoại
hối nước ta về cơ bản chỉ đóng khung trong phạm vi quốc gia. Việc tham gia
giao dịch của các NHTM Việt Nam trên thị trường quốc tế còn rất hạn chế. Vì
vậy, để đáp ứng được yêu cầu của các hoạt động kinh tế đối ngoại trong quá
trình hội nhập với khu vực và thế giới của nền kinh tế; xây dựng thị trường
ngoại hối hiện đại mang tính quốc tế cao cần phải có giải pháp làm cho thị
trường ngoại hối việt nam từng bước hội nhập khu vực và thế giới.
69
2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG CỤ PHÁI
SINH TRÊN THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
2.1. Hoàn thiện thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng ngoại hối Việt Nam
Khi nói đến thị trường ngoại hối, người ta nghĩ ngay đến đó là thị
trường không bị giới hạn về mặt không gian và thời gian, mang tính quốc tế
cao. Điều đó có nghĩa là thị trường ngoại hối hoạt động 24/24 và không đóng
khung trong phạm vi một quốc gia mà lan rộng ra toàn cầu nhằm phục vụ cho
nhu cầu mua bán chuyển đổi các loại ngoại tệ với nhau.
Hiện nay, về cơ bản VinaForex mới chỉ hoạt động trong phạm vi quốc
gia. Việc tham gia hoạt động trên thị trường ngoại hối của các NHTM Việt
Nam còn hạn chế. Vì vậy để phát triển các công cụ phái sinh ngoại tệ trong
hoạt động kinh doanh ngoại hối thì thị trường ngoại hối phải từng bước phát
triển và hội nhập với thị trường ngoại hối thế giới và lâu dài xây dựng Việt
Nam thành trung tâm tài chính của khu vực.
2.1.1. Hoàn thiện chính sách tỷ giá
Giải pháp lâu dài và căn bản để hạn chế hoạt động của thị trường ngoại
tệ ngầm, cũng như hạn chế các mặt trái của việc định giá cao nội tệ là hướng
tới một tỷ giá thị trường, linh hoạt và tỷ giá phải là sản phẩm của quan hệ
cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt
Nam hiện nay việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá lập tức sẽ gây ra những tác động
tiêu cực cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi cho việc ổn định hệ thống
kinh tế - xã hội.
Với vai trò là NHNN quản lý thị trường ngoại tệ chủ yếu thông qua can
thiệp mua bán, công bố tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng, qui định trần
tỷ giá giao ngay, tỷ lệ % gia tăng của tỷ giá kỳ hạn và các biện pháp quản lý
ngoại hối. Trong giai đoạn trước mắt thì các biện pháp này còn cần thiết, nhưng
70
cần phải nới lỏng từng bước, vì các biện pháp này không phải lúc nào cũng hiệu
quả, đôi khi lại tạo lực cản cho sự phát triển của thị trường ngoại hối.
Cơ chế tỷ giá phải được đổi mới theo hướng linh hoạt hơn, phản ảnh
đúng đắn mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ và cơ chế tỷ giá phải có tác động
điều chỉnh mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. Các giải pháp
chủ yếu như sau:
Tiếp tục mở rộng biên độ tỷ giá, khi thị trường tương đối phát
triển các thành phần tham gia thị trường rộng và đã hội đủ một số yếu tố cần
thiết thì có thể tiến tới xóa bỏ biên độ tỷ giá.
Áp dụng cơ chế tỷ giá thỏa thuận: mở rộng qui mô doanh số giao
dịch thu hút các thành phần tham gia giao dịch nhằm tăng tính xác thực và
phản ánh cung cầu về tỷ giá hình thành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Giảm bớt sự gắn định của VNĐ với USD đa dạng hóa đồng tiền
trong việc công bố tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng bằng cách xác định tỷ
giá mục tiêu phù hợp với điều hành chính sách tỷ giá của NHNN.
2.1.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường liên ngân hàng
Đối với các nền kinh tế phát triển, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
hoạt động hiệu quả, doanh số giao dịch trên thị trường này chiếm hơn 80% so
với tổng doanh số giao dịch của thị trường ngoại hối, do đó , tỷ giá liên ngân
hàng luôn là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho quan hệ cung cầu ngoại tệ của nền
kinh tế, ví dụ như LIBOR, SIBOR … Đối với Việt Nam, do trình độ thị
trường còn sơ khai, ngoài yếu tố tỷ giá còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can
thiệp hành chính, do đó doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng mới chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 15- 20%. Chính vì vậy, thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng mới chỉ đóng vai trò thứ yếu do đó tỷ giá giao dịch bình quân
liên ngân hàng trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho
cả nền kinh tế. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu
71
quả ở Việt Nam, ngoài yếu tố tỷ giá như ở trên cần phải đề cập đến một số
yếu tố như:
- Thực hiện vai trò của NHTW là người mua bán cuối cùng trên
thị trường ngoại hối, hiện nay, do tỷ giá chưa thực sự thể hiện được là sự điều
tiết do cung cầu và hướng dẫn điều tiết của NHTW thông qua việc mua bán
ngoại tệ cuối cùng trên thị trường ngoại hối, ngoài ra, NHNN cần tham gia và
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn
đúng như qui định trong qui chế nhằm tạo điều kiện cho các NHTM tham gia
tích cực hơn vào thị trường ngoại hối.
- Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời với qui mô
thích hợp, có như vậy thì thị trường mới hoạt động thống nhất. Một khi
NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc qui mô
can thiệp không thích hợp thì sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến
cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên
tỷ giá. Điều cần lưu ý rằng, sự can thiệp của NHNN ảnh hưởng lên thị trường
ngoại hối lớn hơn nhiều so với qui mô can thiệp của chính nó. Như vậy, chỉ
cần một động thái khôn ngoan thích hợp của NHNN, cũng đủ để thị trường
tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả.
- Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô
hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa
các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới.
- Số lượng thành viên giữa thị trường liên ngân hàng còn hạn chế,
điều này khiến cho thị trường hoạt động kém phần sôi nổi. Hơn nữa, giao dịch
trên thị trường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng chỉ chuyên bán,
số khác chỉ chuyên đi mua, điều này khiến cho thị trường mất đi tính đặc thù
của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cần mở rộng số lượng thành viên,
mặt khác cần tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị
trường được tích cực hơn.
72
2.1.3. Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối
Với vai trò là NHTW, NHNN tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng với tư cách là thành viên và là người tổ chức, quản lý điều hành hoạt
động thị trường. Do thị trường ngoại hối Việt Nam còn sơ khai, có độ thanh
khoản thấp, tỷ giá kém linh hoạt nên sự can thiệp của NHNN là vô cùng quan
trọng. NHNN cần có những tác động để các giao dịch trên thị trường được
thông suốt.
Để NHNN thực hiện tốt vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
cần có:
- Hướng tới một tỷ giá thị trường cân bằng, nhằm biến tỷ giá thành
công cụ chủ yếu và hữu hiệu trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối.
- Tăng cường dự trữ ngoại tệ vào NHNN, đảm bảo một nguồn dự
trữ cần thiết sẵn sàng đáp ứng, và điều tiết khi thị trường cần.
NHNN cần tác động đến thị trường thông qua các nghiệp vụ thị trường
mở có như vậy mới đạt được hai mục tiêu vừa quản lý được thị trường vừa
không tác động quá sâu vào sự phát triển của nền kinh tế.
2.2. Hoàn thiện thị trƣờng các công cụ phái sinh
2.2.1. Giao dịch ngoại hối kỳ hạn và hoán đổi
Như đã phân tích ở chương I, yếu tố tác động lên giá trị kỳ hạn và hoán
đổi chính là lãi suất và tỷ giá hối đoái. Để thúc đẩy giao dịch kỳ hạn và hoán
đổi phát triển, trước mắt NHNN cần từng bước nới lỏng tỷ lệ % gia tăng cho
phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh tạo cho thị trường có độ
thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. Ngoài ra, lãi suất trên thị trường cần
được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế có như vậy tỷ
giá kỳ hạn và hoán đổi mới thực sự được hình thành đúng.
73
Bên cạnh đó, khi đã có đủ trình độ và điều kiện, NHNN nên cho phép
các NHTM tự quyết định tỷ giá kỳ hạn mua bán như vậy mới tạo đựợc tính
cạnh tranh trên thị trường có như vậy mới thu hút được khách hàng tham gia
thị trường.
2.2.2. Giao dịch ngoại hối quyền chọn
Hiện tại, việc NHNN cho phép các NHTM tham gia nghiệp vụ quyền
chọn đã là một động thái hết sức tích cực. Để phù hợp với trình độ thị trường
và nhu cầu thực tiễn, trước mắt NHNN có thể cho phép và hướng dẫn các
NHTM tiến hành thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Vì quyền chọn rất
phức tạp về nội dung nghiệp vụ do đó cần triển khai từng bước từ đơn sơ đến
phức tạp.
- Mới đầu nên thực hiện giao dịch qua quầy như vậy thuận tiện
cho công tác quản lý cũng như giao dịch, khi mà thị trường đã phát triển tốt
hơn thì các chủ thể tham gia có thể tự mình giao dịch như thị trường ngoại hối
của các nước phát triển khác.
- Về mặt thời hạn của hợp đồng có thể kiểm soát được và tránh tâm
lý đầu cơ, nên qui định ngắn từ 3 tháng trở xuống. Khi thị trường đã ổn định và
phát triển thì thời hạn của hợp đồng nên dành cho khách hàng và ngân hàng.
2.2.3. Giao dịch ngoại hối tương lai
Dù đã có văn bản pháp lý đưa ra những khái niệm về giao dịch ngoại
hối tương lai nhưng trên thực tế, nghiệp vụ tương lai chưa thực sự được giao
dịch tại Việt Nam. Do đó, trước mắt NHNN cần có văn bản hướng dẫn cụ thể
hơn để việc ứng dụng nghiệp vụ này được dễ dàng hơn, cụ thể là:
- Xác định chủ thể tham gia: đó là các NHTM và các doanh nghiệp
là thành viên chủ chốt, ngoài ra còn có các nhà môi giới.
- Xác định những đồng tiền cơ sở: các đồng tiền tham gia giao
dịch là các đồng tiền tương đối mạnh, được giao dịch nhiều trên thị trường
74
quốc tế và những đồng tiền của các quốc gia có quan hệ xuất nhập khẩu với
Việt Nam. Đầu tiên, các hợp đồng được yết theo USD trong đó VNĐ sẽ là
đồng tiền giao dịch và được yết theo USD. Khi mà thị trường đã hình thành
được tỷ giá linh hoạt hơn thì việc các hợp đồng được yết giá theo các ngoại tệ
tự do chuyển đổi là cần thiết.
- Qui định ngày giá trị của hợp đồng. Hiện giờ có thể nhu cầu của
thị trường chưa cao, đồng thời để tạo sự linh hoạt cho các thành phần tham
gia vào giao dịch thì ngày giá trị của hợp đồng nên rút ngắn lại so với thông lệ
quốc tế.
- Qui ước về khối lượng giao dịch chuẩn của các đồng tiền. Hiện
nay, tiềm lực của thị trường Việt Nam còn nhỏ nên không thể học tập các sở
giao dịch nước ngoài thực hiện với khối lượng lớn, chúng ta chỉ nên đặt qui
ước chỉ bằng 1/10, khi mà thị trường đã có những đón nhận và phát triển thích
hợp thì có thể tăng khối lượng của giao dịch chuẩn.
- Xúc tiến xây dựng Sở giao dịch tiến hành các giao dịch tương
lai. Với tình hình Việt Nam thì ban đầu nên do Nhà nước quản lý với hình
thức quốc doanh sau đó mới từ từ chuyển sang hoạt động độc lập.
Có thể ban đầu, Sở giao dịch tương lai chỉ mang tính chất quốc gia
nhưng chúng ta nên tin rằng sau một thời gian phát triển cùng với sự đi lên
của kinh tế đất nước, Sở giao dịch này sẽ là một trung tâm giao dịch lớn của
khu vực và được quốc tế quan tâm, tham gia.
2.2. Hoàn thiện phƣơng thức giao dịch ngoại hối tại các NHTM
2.2.1. Chuẩn hóa tổ chức hoạt động của phòng kinh doanh ngoại tệ của
NHTM
Hiện nay các giao dịch kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế được
thực hiện qua những hệ thống thông tin hiện đại, chủ yếu thông qua hệ thống
Reuters Dealing 2000, qua các phòng Dealing Room. Hệ thống giao dịch kinh
75
doanh ngoại tệ quốc tế cho phép tiếp cận nhanh chóng với những thông tin về
biến động tỷ giá, lãi suất, các chỉ số về tình hình kinh tế thế giới và các sự
kiện quan trọng liên quan đến các thị trường tài chính, chứng khoán, và thị
trường hối đoái quốc tế.
Hoạt động kinh doanh ngoại hối quốc tế tại các Dealing Room hiện nay
được thực hiện trực tiếp giữa các ngoại tệ tự do chuyển đổi. Các chi tiết giao
dịch đều tuân thủ nghiêm ngặt luật lệ, tập quán quốc tế. Một số NHTM Việt
nam đã giao dịch ngoại hối trực tiếp với các ngân hàng nước ngoài trên thị
trường ngoại hối toàn cầu như ngân hàng ở Singapor, Hong Kong, Tokyo …
Để thực hiện tốt chức năng của mình trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ
đồng thời mở rộng khả năng ứng dụng các công cụ phái sinh tiền tệ, mỗi
NHTM phải tổ chức một phòng kinh doanh ngoại tệ có qui mô thích hợp và
đầy đủ thẩm quyền để thực hiện giao dịch tức thời. Thông thường một ngân
hàng tích cực trong kinh doanh ngoại tệ thường tổ chức phòng kinh doanh
ngoại tệ gồm 3 bộ phận quan trọng sau:
Bộ phận kinh doanh: Tại đây nhà kinh doanh trực tiếp mua bán
trong Interbank, nghĩa là, họ phải đối mặt với thị trường, đối thủ cạnh tranh.
Đây là nơi thể hiện năng lực, trình độ, sự thành công hay thất bại của mỗi
Dealer nói riêng và của ngân hàng nói chung.
Đặc điểm của phòng kinh doanh là luôn có cuộc giao ban vào đầu giờ
của mỗi ngày làm việc để xem xét những biến động của thị trường qua đêm,
đọc các bản tin liên quan đến thị trường mở cửa sớm hơn, thảo luận về diễn
biến thị trường và các đồng tiền liên quan và thảo luận về nội dung các kế
hoạch trong ngày. Bộ phận kinh doanh phải kiểm soát được một cách chắc
chắn trạng thái trường hay đoản của đồng tiền tại bất kỳ thời điểm nào, cũng
như phương án thoát ra khỏi trạng thái đó như thế nào. Cán bộ kinh doanh
phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả lãi lỗ trong hoạt động của
76
mình , đảm bảo rằng hoạt động của mình luôn nằm trong giới hạn quản lý rủi
ro cho phép hay có thể kiểm soát được.
Bộ phận thanh toán: Đây là bộ phận có chức năng độc lập, có
nhiệm vụ xác nhận giao dịch, thanh toán, đối chiếu số dư, sao kê tài khoản.
Bộ phận quản lý rủi ro: Có nhiệm vụ kiểm tra theo dõi giám sát
các hạn mức mà các nhà kinh doanh được phép sử dụng, tránh không để cán
bộ kinh doanh vượt ra ngoài khuôn khổ thẩm quyền và quá mạo hiểm trong
kinh doanh, nhất là hoạt động đầu cơ. Bên cạnh đó, cần tuyển dụng những cán
bộ kiểm soát có kinh nghiệm trong việc đánh giá rủi ro để có thể đưa ra những
chiến lược và ý kiến nhận định khi cán bộ kinh doanh không thể tự mình
quyết định, giúp cho hoạt động kinh doanh luôn thông suốt và đảm bảo được
mức độ an toàn.
2.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ
các cán bộ kinh doanh ngoại tệ
Kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ đối với các
NHTM Việt Nam. Hơn nữa tính chất nghiệp vụ của nó lại phức tạp và có thể
gây ra rủi ro cho chính NHTM nếu được dùng với mục đích đầu cơ. Chính vì
vậy, công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ ngân hàng phải được coi trọng
đúng mức và phải tiến hành thường xuyên; cần đào tạo cả lý thuyết và thực
hành, trong và ngoài nước. Các cán bộ kinh doanh cũng cần thường xuyên
cập nhật thông tin, nắm bắt những diễn biến thị trường cũng như những chiến
lược, những phương pháp mới trên thế giới để có thể đưa ra những tư vấn,
quyết định đúng lúc, kịp thời. Có như vậy, cán bộ kinh doanh ngoại hối mới
đáp ứng được nhu cầu của thị trường cũng như thúc đẩy hoạt động kinh doanh
phát triển.
2.2.3. Trang bị kỹ thuật hiện đại cho phòng kinh doanh ngoại tệ
77
Do thị trường ngoại hối là thị trường có tính cạnh tranh cao, các thông
tin trên thị trường luôn biến đổi không ngừng nên các nhà kinh doanh phải
luôn tức thời và cập nhật thông tin liên tục. Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh
ngoại hối thì việc trang bị cho phòng kinh doanh ngoại tệ các trang thiết bị
hiện đại thuận tiện cho việc cập nhật thông tin là vô cùng quan trọng. Các
giao dịch ngoại hối thường có giá trị lớn nên việc tính toán chính xác đóng vai
trò lớn do đó một hệ thống quản lý là cần thiết. Bên cạnh đó, thiết bị kỹ thuật
hiện đại đáp ứng được việc bảo mật thông tin khách hàng và thông tin giao
dịch tốt hơn, tạo được tâm lý an toàn cho nhà đầu tư.
2.3. Giải pháp đối với nhóm khách hàng mua bán lẻ
Ngoài việc nâng cao tính hiệu quả trong kinh doanh ngoại hối với các
NHTM thì khách hàng của họ cũng cần phải có được những kiến thức nhất
định về thị trường ngoại hối đặc biệt là các công cụ phòng ngừa rủi ro như các
công cụ phái sinh tiền tệ.
Các NHTM cần học tập các Sở giao dịch lớn trên thế giới, nên cung
cấp cho khách hàng của mình những kiến thức nền tảng về thị trường. Trên
các website của Ngân hàng nên có phần hướng dẫn học tập, đưa ra những
thông tin cơ bản nhất để khách hàng có được những hiểu biết nhất định về
công cụ phái sinh ngoại hối cũng như thị trường ngoại hối. Bên cạnh đó, các
NHTM hoặc NHNN có thể mở các lớp học ngắn hạn, để các nhà đầu tư nhỏ lẻ
cũng như các nhà đầu tư lớn nâng cao kiến thức, qua đó làm cho thị trường
ngoại hối phát triển mang tính chất chuyên nghiệp hơn.
78
KẾT LUẬN
Không chỉ đơn thuần là một bộ phận của thị trường ngoại hối, thị
trường các công cụ phái sinh ngoại hối còn giữ vị trí quan trọng trong sự phát
triển kinh tế. Tại Việt Nam, do được đưa vào áp dụng trong một thị trường
ngoại hối còn tương đối non trẻ nên các công cụ phái sinh vẫn được coi là
mới mẻ đối với thị trường. Đại bộ phận các doanh nghiệp chưa nhận thức
đúng đắn tầm quan trọng của phòng ngừa rủi ro, đồng thời chưa nhạy trong
hành động nắm bắt và ứng dụng những công cụ mới, đã khiến cho việc tiếp
cận thị trường của các công cụ này ít nhận được sự hưởng ứng rộng rãi.
Tác giả đã đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện thị trường ngoại
hối qua đó thúc đẩy các công cụ phái sinh phát triển. Có thể tổng kết lại như
sau:
1. Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách tỷ giá và phát triển thị
trường liên ngân hàng, cần nâng cao vai trò của NHNN đối với thị trường
ngoại hối để NHNN là cơ quan quản lý, tổ chức điều hành thị trường.
79
2. Hoàn thiện các giao dịch trên thị trường các công cụ phái sinh
theo hướng tới những chuẩn mực của thế giới nhưng vẫn phù hợp với nền
kinh tế Việt Nam.
3. Nâng cao vai trò cũng như kiến thức của các NHTM và nhóm
khách hàng mua bán lẻ.
Điều kiện cần để các công cụ phái sinh phát triển là một môi trường
kinh tế tốt đi đôi với một môi trường pháp lý ổn định, chặt chẽ. Trong đó, cần
lấy con người làm nhân tố chủ đạo. Có quan tâm và đầu tư đúng đắn đến các
giải pháp liên quan đến chủ thể kinh tế thì mới có sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và thị trường các công cụ phái sinh nói riêng.
Phát triển kinh tế hội nhập quốc tế đồng nghĩa với việc thị trường ngoại
hối cũng phải phát triển đồng bộ và toàn diện. Muốn thị trường ngoại hối Việt
Nam phát triển xứng tầm với nền kinh tế đang trên đà tiến tới một trung tâm
kinh tế khu vực của đất nước, thì việc hoàn thiện hơn nữa thị trường ngoại hối
là cấp bách và cần thiết.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Việt Bảo, (2007) “Phát triển nghiệp vụ phái sinh ở Việt Nam”,
Tạp chí Ngân hàng số 22/2007, trang 37 - 39.
2. TS. Nguyễn Kim Anh, Ths. Phạm Hoàng Anh, (2007), “Ứng
dụng công cụ phái sinh tiền tệ trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giải pháp phát triển
thị trường phái sinh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, trang 76
- 86.
3. Ban kế hoạch phát triển - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam, (2007) “Thị trường tài chính phái sinh và thực trạng tại Việt Nam”, Kỷ
yếu hội thảo khoa học Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam,
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, trang 40 - 60.
4. Nguyễn Ninh Kiều, (2006) “Hoàn thiện các giải pháp phòng
ngừa rủi ro tỷ giá nhằm chuẩn bị hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
81
5. Nguyễn Ninh Kiều, Nguyễn Xuân Thành, “Chương trình Giảng
dạy kinh tế Fulbright”, Bài giảng 14, Trang 8.
6. Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Thanh, (2007) “Nghiệp vụ tài chính
phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giải
pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa -
Thông tin, trang 121 - 129.
7. Nguyễn Văn Tiến, (2004) Cẩm nang thị trường ngoại hối và các
giao dịch kinh doanh ngoại hối, Nhà xuất bản thống kê.
8. Nguyễn Văn Tiến, (2009) Giáo trình Tài chính quốc tế, Nhà xuất
bản Thống kê.
Tiếng Anh
9. John C.Hull, (2006), Options, Futures and other derivatives,
Pearson Prentice Hall.
10. Moosa, A.I., (2004), International Finance, Mc Graw - Hill.
11. Jake Bernstein, How the Futures Markets Work, New Yord
Institute of Finance.
Tài liệu website
12. Trang web của Ngân hàng Á Châu: www.acb.com.vn
13. Trang web của Bank for International Settlements: www.bis.org
14. Trang web của Sở giao dịch Chicago: www.cmegroup.com.
15. www.easyforex.com
16. www.euronext.com
17. Trang web của Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam:
www.eximbank.com.vn
82
18. Trang web của Ngân hàng Sài Gòn Thương tín:
www.saccombank.com.vn
19. Trang web của Tri thức - Kỹ năng kinh doanh: www.saga.vn
20. Trang web của Ngân hàng Nhà nước: www.sbv.gov.vn
21. Trang web của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam:
www.vietcombank.com.vn
22. Trang web Báo Tin tức kinh doanh và tài chính:
www.vneconomy.vn.
23. Trang web báo Tin nhanh Việt Nam: www.vnexpress.net.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5308_512.pdf