Khóa luận Các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển

- Qui định ngày giá trị của hợp đồng. Hiện giờ có thể nhu cầu của thị trường chưa cao, đồng thời để tạo sự linh hoạt cho các thành phần tham gia vào giao dịch thì ngày giá trị của hợp đồng nên rút ngắn lại so với thông lệ quốc tế. - Qui ước về khối lượng giao dịch chuẩn của các đồng tiền. Hiện nay, tiềm lực của thị trường Việt Nam còn nhỏ nên không thể học tập các sở giao dịch nước ngoài thực hiện với khối lượng lớn, chúng ta chỉ nên đặt qui ước chỉ bằng 1/10, khi mà thị trường đã có những đón nhận và phát triển thích hợp thì có thể tăng khối lượng của giao dịch chuẩn. - Xúc tiến xây dựng Sở giao dịch tiến hành các giao dịch tương lai. Với tình hình Việt Nam thì ban đầu nên do Nhà nước quản lý với hình thức quốc doanh sau đó mới từ từ chuyển sang hoạt động độc lập. Có thể ban đầu, Sở giao dịch tương lai chỉ mang tính chất quốc gia nhưng chúng ta nên tin rằng sau một thời gian phát triển cùng với sự đi lên của kinh tế đất nước, Sở giao dịch này sẽ là một trung tâm giao dịch lớn của khu vực và được quốc tế quan tâm, tham gia.

pdf90 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3261 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ua vào rất hạn chế nên các NHTM phải xin thực hiện nghiệp vụ hoán đổi. Đáng chú ý là, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đã mạnh dạn xin thực hiện nghiệp vụ này tuy doanh số còn khiêm tốn. Cụ thể là ngày 06/02, NHNN đã tiến hành hoán đổi 82 triệu USD, trong đó Ngân hàng Công thương chiếm tới 40 triệu USD, Ngân hàng Ngoại thương; Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn mỗi ngân hàng 20 triệu USD, còn 2 triệu USD là chi nhánh NHTM Chinfon (Đài Loan). Vài ngày sau đó, cả ngân hàng Đầu tư và phát triển cũng tham gia, tổng số ngoại tệ trong nghiệp vụ hoán đổi của cả 4 NHTM lần này gấp đôi ngày 06/02, lên tới 161 triệu USD. Cho đến tháng 4/2002, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác cũng rơi vào tình trạng thiếu VNĐ, tổng cộng ít nhất 1,000 tỷ VNĐ, trong khi các ngân hàng này phải chấp hành một số hạn chế về việc đi vay vốn và huy động tiền gửi nội tệ và phải phụ thuộc vào các đối tác là NHTM trên thị trường liên ngân hàng. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Standard Chartered Bank, ABN AMRO bank…) phải tính đến sử dụng nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối với NHNN, với họ đây tuy là giải pháp hữu hiệu và nhanh chóng nhưng vẫn chỉ là biện pháp hỗ trợ cuối cùng. 51 Với áp lực thiếu tiền VNĐ từ phía các NHTM, NHNN đã đưa ra nhiều biện pháp khắc phục như hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu, tiến hành các giao dịch thị trường mở, mua các giấy tờ có giá ngắn hạn do các NHTM phát hành … và đặc biệt là cho phép các NHTM áp dụng hoán đổi USD - VNĐ để tạm thời giải quyết nhu cầu vốn VNĐ cho khách hàng. Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam, đã có một số ngân hàng như ABN AMRO Bank (nay là The Royal Bank of Scotland Việt Nam), Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 01/3/2005 tới 02/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền USD và VNĐ (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện từ trước khi có qui định chính thức của NHNN. Cho tới lần đầu tiên được NHNN cho phép, HSBC (Ngân hàng Hồng Kông- Thượng Hải) đã cung cấp gói Swaps tiền VNĐ cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên thị trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VNĐ và nhận lại USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007 HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VNĐ từ khách hàng. Với giao dịch này, khách hàng đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn VNĐ kỳ hạn 3năm mà không chịu bất cứ rủi ro nào về tỷ giá USD/VNĐ. Bên cạnh đó, HSBC cũng thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn (Daily range accrual), thời hạn của hợp đồng tối đa là 5 năm. Theo thỏa thuận hoán đổi này, khách hàng vay của HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch và tổng lãi suất phải trả này không vượt quá mức lãi suất cao nhất đã được định trước. Đổi lại HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch cho những ngày lãi suất Sibor dao động trong một khoảng được định trước. Cụ thể, hợp đồng này thỏa thuận giữa khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất thả nổi. Nếu đến ngày đáo hạn lãi suất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước (4.5%/năm) thì 52 HSBC sẽ trả lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất Sibor + 1.1% . Trường hợp vượt mức lãi suất định trước thì HSBC không phải trả mức lãi suất này. Đổi lại khách hàng sẽ trả cho HSBC mức lãi suất Sibor+0.6% nhưng mức tối đa không vượt quá 5.1%/năm. Chính hành động của HSBC đã tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi ngoại hối sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam đã thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ; thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng - lãi suất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào biến động của một số yếu tố thị trường như tỷ giá, lãi suất, giá cả thị trường ... Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo thường có việc hoán đổi thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể được hoán đổi vào đầu kỳ (nếu có) và cuối kỳ, hoặc nhiều kỳ trong thời hạn hiệu lực của giao dịch. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (nay là Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank) đã thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác là TCTD hoạt động tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong và ngoài nước, phù hợp với qui định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về Ngân hàng Ngoại thương là quyền được kết thúc trước thời hạn hợp đồng hoán đổi đối với các khoản vay. 53 Bảng 5. Báo cáo các giao dịch hoán đổi lãi suất còn đang hiệu lực thực hiện tháng 6/ 2005 Ngân hàng Khách hàng Đơn vị Giá trị hợp đồng Lãi suất hoán đổi: lãi suất nhận Lãi suất hoán đổi: lãi suất trả Thời hạn hợp đồng Standard Chartered Hợp đồng 1 SC London GBP 5,114,829.75 5,34 2 năm Tokyo Mitsubishi Hợp đồng 1 Hợp đồng 2 VN Japan Gas Kein H.Muramoto USD USD 2,000,000 1,372,000 SIBOR+0,55 6M SIBOR +1,5% 4 năm 4 năm Vietcombank Hợp đồng 1 SC London USD 22,000,000 LIBOR 6m 15/1/2015 54 Hợp đồng 2 Hợp đồng 3 Hợp đồng 4 Sc London Citibank, SGP Citibank, SGP USD USD USD 6,400,000 19,500,000 20,500,000 LIBOR 6m LIBOR 6m LIBOR 6m 15/7/2015 15/1/2014 15/7/2014 ABN AMRO Hợp đồng 1 VNA USD 44,037,650 Nil Citibank Hợp đồng 1 HOLCIM USD 20,000,000 4,8% 5 năm Nguồn: NHNN Việt Nam – Vụ chính sách tiền tệ: Báo cáo các giao dịch hoán đổi lãi suất còn đang hiệu lực thực hiện tháng6/2005.5 Qua bảng trên ta thấy trong khi các NHTM đều cố gắng thực hiện nghiệp vụ hoán đổi thì sự hưởng ứng của thị trường vẫn chưa thực sự được như mong đợi. Các doanh nghiệp tham gia nghiệp vụ có thể thấy là những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc là do các ngân hàng thực hiện với nhau. Các doanh nghiệp này đã có được sự tiếp xúc đối với các công cụ phái sinh trước đây (đối với doanh nghiệp nước ngoài) nên họ có được sự chủ động trong việc sử dụng những công cụ này, trong khi đối với những tổ chức kinh tế trong nước vẫn còn khá lạ lẫm. 2.4. Thực trạng giao dịch quyền chọn Theo như cơ sở pháp lý áp dụng cho giao dịch quyền chọn thì giao dịch quyền chọn gồm quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ và quyền chọn ngoại tệ với nội tệ (VNĐ). 2.4.1 Quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ Về phía ngân hàng tham gia Trong giai đoạn thí điểm, các NHTM muốn thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối, có vốn tự 5 Kû yÕu héi th¶o khoa häc “Gi¶i ph¸p ph¸t triÓn thÞ tr­êng ph¸i sinh ë ViÖt Nam”, (2007), NXB V¨n hãa th«ng tin, Trang 122. 55 có tối thiểu là 200 tỷ VNĐ, kinh doanh ngoại tệ có lãi trong ít nhất 5 năm gần nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD. Ngoài ra, NHTM phải lập ra qui trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận bằng văn bản cho thực hiện thí điểm. Như đã đề cập ở trên, Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ. Sau Eximbank, NHNN cho phép 7 ngân hàng khác thực hiện thí điểm nghiệp vụ này, gồm có hai ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là Citibank và HSBC chi nhánh TP Hồ Chí Minh và 5 ngân hàng trong nước là Ngân hàng đầu tư và phát triển(BIDV), Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Argibank), Ngân hàng công thương Việt Nam (nay là Vietinbank). Sau khi quyết định 1452/2004/QĐ - NHNN được ban hành thì có thêm nhiều NHTM đưa giao dịch quyền chọn vào phục vụ khách hàng. Về doanh số giao dịch: Tính đến tháng 6/2004, mặc dù lợi ích trong việc sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro đã thấy rõ như một nhu cầu cấp thiết nhưng số lượng hợp đồng được ký kết chỉ dừng lại ở con số 50 hợp đồng quyền chọn với doanh số thực hiện hơn 50 triệu USD của Eximbank ký với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian thí điểm nghiệp vụ quyền chọn. Trong đó quyền chọn mua ngoại tệ chiếm 68%, còn 6 ngân hàng còn lại không ký được hợp đồng nào. Qua tổng kết 6 tháng thực hiện, Eximbank mới chỉ có vài chục khách hàng và trên thực tế ngân hàng này buộc phải ký lại các hợp đồng quyền chọn nhận được với các ngân hàng nước ngoài giống như một dạng tái bảo hiểm. Sở dĩ làm như vậy vì ngân hàng có số lượng khách hàng tham gia nghiệp vụ quyền chọn quá ít và không đủ điều hòa rủi ro tỷ giá. Thêm vào đó số lượng ngân hàng nội địa có khả năng tham gia vào nghiệp vụ này còn ít 56 nên việc tham gia nghiệp vụ quyền chọn với các ngân hàng nước ngoài là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên làm như vậy thì Eximbank sẽ không có lãi do phí quyền chọn thu được từ khách hàng lại phải đóng mức tương đương cho các đối tác nước ngoài. Sở dĩ, doanh số của các giao dịch quyền chọn chưa đạt được kết quả khả quan trong thời gian thí điểm là bởi một số qui định về thí điểm đã bộc lộ một số hạn chế như: - Qui định về điều kiện TCTD được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn, đặc biệt là doanh số mua / bán ngoại tệ tối thiểu là 1 tỷ USD/ năm là cao chưa thực sự phù hợp với thực tế, chỉ có các NHTM nhà nước và một số ít các NHTM cổ phần đáp ứng được điều kiện này. do đó hạn chế khả năng sử dụng nghiệp vụ này của các TCTD có qui mô trung bình. - Giới hạn số dư giao dịch là 500,000 USD hoặc ngoại tệ khác tương đương sẽ hạn chế và không khuyến khích các khách hàng là các doanh nghiệp có doanh số xuất khẩu lớn tham gia sử dụng nghiệp vụ quyền chọn. Thời hạn giao dịch từ 7 ngày đến 3 tháng là khá hẹp chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng về kỳ hạn của khách hàng, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. - Việc chỉ cho phép sử dụng ngoại tệ tự do chuyển đổi, không cho phép sử dụng VNĐ trong giao dịch quyền chọn thực sự không khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sử dụng nghiêp vụ quyền chọn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Bởi vì, biến động tỷ giá VNĐ/USD tương đối độc lập với biến động tỷ giá các đồng tiền khác so với USD. Sử dụng giao dịch quyền chọn đề phòng biến động tỷ giá VNĐ/USD là cần thiết với các doanh nghiệp. Từ 2004 đến 2007, mặc dù không còn giới hạn về số lượng NHTM tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế cho thấy 57 các hoạt động mua bán này chưa thực sự sôi động. Các giao dịch chỉ tập trung vào chi nhánh các ngân hàng nước ngoài như HSBC hay Citibank và một số ít NHTM Việt Nam như Eximbank, Techcombank còn lại các ngân hàng vẫn không có giao dịch. 2.4.2. Quyền chọn ngoại tệ với nội tệ Về phía ngân hàng tham gia giao dịch: Tháng 4/2005 NHNN đã bắt đầu triển khai thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với VNĐ. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu là 10,000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ khác với VNĐ) Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trị hợp đồng là 8 triệu USD - 100,000 USD và chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu. BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây không còn qui định giới hạn cho giá trị hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như Eximbank, GP.Bank cũng tham gia nghiệp vụ này. Như vậy, tính đến tháng 5/2008 đã có 7 ngân hàng được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với VNĐ. Đặc điểm giao dịch: Cũng giống như giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn ngoại tệ với VNĐ yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này cần phải có đề án chi tiết qui trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro và phải được NHNN chấp nhận bằng văn bản. Qui định về tỷ giá thực hiện như sau:  Đối với hợp đồng quyền chọn USD/VNĐ: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá kỳ hạn USD/VNĐ cùng thời hạn. 58  Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VNĐ: tỷ giá do ngân hàng và khách hàng tự do thoả thuận. Doanh số giao dịch: Mặc dù triển khai từ năm 2005 nhưng doanh số mua bán thực tế của các NHTM không đáng kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo kiểu Mỹ vì điều kiện thanh toán linh hoạt hơn. Qua kết quả thăm dò, các ngân hàng như ACB, Techcombank, BIDV, VIB dù là những ngân hàng tham gia nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ mới chỉ thực hiện được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể. Riêng Vietcombank và Eximbank được xem là hai ngân hàng mạnh về lĩnh vực này nhưng doanh số hoạt động cũng không cao. Tính trong năm 2006- 2007 Vietcombank chỉ đạt khoảng 37.53 triệu USD (chiếm chưa đến 0.1% tổng doanh số giao dịch ngoại tệ), Eximbank đạt 128.12 triệu USD (chiếm khoảng 0.8% trong tổng số giao dịch ngoại tệ). 3. ĐÁNH GIÁ CHUNG 3.1 Thành tựu Những quan ngại về tính biến động khôn lường đã khiến cho giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm. Tự bảo hiểm cho chính mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ một phần rủi ro cho thị trường thông qua các công cụ phái sinh, có thể coi là sự lựa chọn khôn ngoan nhất của các chủ thể tham gia thị trường. Giao dịch các công cụ phái sinh đã xuất hiện từ lâu và đóng vai trò quan trọng tại các thị trường ngoại hối phát triển. Quá trình nghiên cứu và phân tích cho thấy, mặc dù thị trường các công cụ phái sinh ở Việt Nam còn mới mẻ nhưng cũng đã có được những thành tựu nhất định. 59 Thứ nhất, việc NHNN cho phép sử dụng các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối đã góp phần hoàn thiện thị trường ngoại hối. Với mục tiêu xây dựng một thị trường ngoại hối hiện đại xứng tầm với kinh tế đất nước và là một trung tâm giao dịch trong khu vực, việc đưa các công cụ phái sinh vào thị trường là một bước quan trọng trong quá trình xây dựng này. Thứ hai, thị trường đã phần nào đón nhận các nghiệp vụ phái sinh như một phương thức mới để phòng ngừa rủi ro. Thông qua các NHTM, các công cụ tài chính phái sinh đã được tiếp cận với người sử dụng là các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Thứ ba, xét về tỷ lệ doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, có thể thấy doanh số giao dịch của các công cụ phái sinh ngày càng tăng. Điều đó chứng tỏ các công cụ phái sinh đã và đang giữ một vị trí quan trọng trên thị trường ngoại hối. Biểu đồ cơ cấu giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng dưới đây sẽ làm rõ hơn đánh giá này. Biểu đồ: Cơ cấu giao dịch trên TTNTLNH ( % ) 60 94.3 5.7 95.7 4.3 89 11 81.3 18.7 89.1 10.9 83.5 16.5 88.7 11.3 86.5 13.5 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Biểu đồ: Cơ cấu giao dịch trên TTNTLNH (%) giao ngay kỳ hạn và hoán đổi Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN 2001 - 2008 Theo báo cáo thường niên của NHNN, doanh số giao dịch giữa các ngân hàng tăng cao và các giao dịch phái sinh đã dần được sử dụng nhiều hơn. Đặc biệt năm 2008, mặc dù bối cảnh cung - cầu ngoại tệ trên thị trường diễn biến phức tạp nhưng hoạt động thị trường liên ngân hàng vẫn tiếp tục sôi động với qui mô và doanh số giao dịch tăng cao. Tổng doanh số giao dịch tăng khoảng 25% so với năm 2007, trong đó, các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi tăng 13%. Các ngân hàng đã tiếp cận và sử dụng nhiều hơn các nghiệp vụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối. Đánh giá riêng những kết quả đạt được của các công cụ phái sinh nhận thấy rằng: 61 - Giao dịch hoán đổi: Thời kì đầu tiếp cận với thị trường, khi mới chỉ được sử dụng bởi các ngân hàng, các giao dịch hoán đổi đã chung tay giải quyết những khó khăn của thị trường. Thị trường ngoại hối nói chung và thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam nói riêng đã ổn định chống lại được khủng hoảng cũng như các diễn biến mang nhiều tính tâm lý. - Giao dịch kỳ hạn và hoán đổi chủ yếu được sử dụng trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. - Doanh số giao dịch ngày càng tăng là minh chứng cho sự phát triển của giao dịch quyền chọn, kể từ lúc được đưa vào thị trường Việt Nam vào năm 2005. Để có thể thấy rõ thành tựu của các công cụ phái sinh, dưới đây là bảng tổng kết doanh số giao dịch các công cụ phái sinh tại bốn ngân hàng thương mại mạnh về giao dịch các công cụ phái sinh: Bảng 6. Tổng hợp các công cụ phái sinh tài chính của một số ngân hàng thƣơng mại Đơn vị: Triệu đồng Giao dịch 2007 2008 2009 Kỳ hạn 1,492,130 10,326,491 4,960,091 Hoán đổi 4,283,128 5,434,426 17,011,082 Quyền chọn - 149,244 954,783 Tổng 5,775,258 15,910,161 22,925,956 Ghi chú: Giá trị được ghi nhận theo giá trị tại ngày ký kết hợp đồng. 62 Nguồn: Tổng hợp báo cáo thường niên của các ngân hàng Eximbank, Vietcombank, ACB và Sacombank. Quan sát bảng tổng hợp có thể thấy, doanh số giao dịch các công cụ có xu hướng tăng từ năm 2008. Cụ thể, doanh số giao dịch kỳ hạn năm 2008 tăng 6.9 lần so với năm 2007, trong khi doanh số giao dịch hoán đổi chỉ tăng nhẹ 1.2 lần. Năm 2008 đánh dấu sự chuyển mình của các giao dịch quyền chọn khi chúng được hưởng ứng với doanh số tương đối cao 149,244 triệu đồng. Bước sang năm 2009, mặc dù nằm trong số các quốc gia ít chịu ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới nhưng các thành phần kinh tế của Việt Nam cũng đã chuyển sang sử dụng giao dịch hoán đổi khá nhiều. Chỉ xét riêng 4 NHTM nêu trên doanh số giao dịch đã gấp hơn 3 lần so với năm 2008, đạt hơn 17 nghìn tỷ. Về tổng giao dịch các công cụ phái sinh tiền tệ tại 4 NHTM này trong 3 năm gần đây doanh số giao dịch đã tăng hơn 4 lần. Có thể nói đó là một con số đáng kể giúp chúng ta thấy được tiềm năng phát triển lớn của thị trường các công cụ phái sinh trong tương lai. 3.2 Khó khăn Trong khi tại các thị trường ngoại hối phát triển, giao dịch các công cụ phái sinh đã xuất hiện từ lâu và đóng vai trò quan trọng thì ở nước ta nhìn nhận một cách tổng quát, mức độ áp dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế, xin được chỉ ra một vài điểm sau đây:  Giao dịch kỳ hạn: mặc dù xuất hiện sớm nhưng phát triển chậm, các giao dịch chỉ tập trung vào những giao dịch ngắn ngày (7- 60 ngày) với mức doanh thu thấp khoảng 5% so với giao dịch giao ngay.  Giao dịch hoán đổi: xuất hiện gần như cùng với giao dịch kỳ hạn nhưng chỉ hoạt động trên TTNTLNH chứ chưa phổ biến rộng rãi. Các giao dịch 63 với bên ngoài thì hầu như chỉ được hưởng ứng bởi những công ty nước ngoài hoặc các tập đoàn lớn.  Giao dịch quyền chọn: tính từ thời điểm ban đầu cho đến nay, hầu như đều được giao dịch bởi các doanh nghiệp XNK là chủ yếu. Điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở Việt Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Ví như giao dịch hoán đổi, thời kỳ đầu chỉ được xem như một giải pháp tình thế khi thị trường căng thẳng về VNĐ hơn là một công cụ kinh doanh ngoại hối hay một công cụ thị trường đúng nghĩa. Xoay quanh vấn đề này có 4 nghi vấn được đặt ra: trước hết, các doanh nghiệp chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro? Hay phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các doanh nghiệp và các công cụ phái sinh còn quá lớn? Cũng có thể các doanh nghiệp chưa thực sự được tiếp cận đầy đủ với các công cụ phái sinh, hoặc liệu rằng họ còn có những vướng mắc nào khác? Để trả lời cho những điều trên ta sẽ phân tích những hạn chế của thị trường các công cụ phái sinh để thấy được nguyên nhân cơ bản và từ đó đưa ra giải pháp tối ưu cho vấn đề này. Thứ nhất, cần phải nói đến môi trường tài chính của Việt Nam trong thời gian qua. Do trong suốt một thời gian dài, tỷ giá hối đoái - bộ phận xương sống của thị trường ngoại hối được duy trì ở mức khá ổn định và thường theo hướng VNĐ giảm giá dần, nhằm giữ bình ổn thị trường, việc này đã tạo tâm lý lơ là đối với các doanh nghiệp và các TCTD. Tuy nhiên trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, bên cạnh đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây đã làm cho tỷ giá hối đoái trong nước và quốc tế biến động liên tục thì các biện pháp tự bảo hiểm là vô cùng cần thiết. Qui định của NHNN thường quá chặt chẽ khiến cho việc thương lượng hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng còn gặp khó khăn. Thị trường tài chính Việt Nam chưa có 64 hệ thống thông tin cập nhật khiến sự thiếu hụt thông tin thị trường, làm cho công tác phân tích và dự báo tỷ giá của ngân hàng và khách hàng gặp trở ngại. Từ đó khách hàng không có thông tin để ra quyết định liên quan đến phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Thứ hai, các doanh nghiệp nhận thức được việc cần phòng ngừa rủi ro tỷ giá nhưng lại chưa có sự hiểu biết đầy đủ về các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Theo kết quả khảo sát về nhận thức và sử dụng các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp, cho thấy:  Đối với hợp đồng kỳ hạn, cho đến thời điểm thực hiện khảo sát (2008) vẫn còn 17% doanh nghiệp chưa biết đến loại hợp đồng này. Ngoài ra, có đến 75% doanh nghiệp chưa hoặc ít sử dụng, chỉ có khoảng 25% doanh nghiệp là thường xuyên có sử dụng hợp đồng kỳ hạn.  Đối với hợp đồng hoán đổi: đến nay vẫn còn có 36% doanh nghiệp chưa hề biết đến loại hợp đồng này. Số còn lại có nghe nói đến nhưng chưa có hoặc ít sử dụng loại hợp đồng này.  Đối với hợp đồng quyền chọn: theo kết quả khảo sát cho thấy đến gần 80% số doanh nghiệp được khảo sát chưa hoặc ít sử dụng hợp đồng quyền chọn, trong đó có 21% chưa hề nghe nói đến loại hợp đồng này6. Qua kết quả khảo sát trên có thể thấy: đến nay sự hiểu biết của các doanh nghiệp về các công cụ phái sinh giúp họ phòng ngừa được những rủi ro khi tham gia vào thị trường ngoại hối là còn ít. Số còn lại mặc dù có nhận thức nhưng tỷ lệ sử dụng còn thấp. Thứ ba, vẫn còn nhiều trở ngại trong việc sử dụng các công cụ phái sinh. Việc vận dụng những lý thuyết nghiệp vụ phái sinh ngoại hối còn cứng 6 Hoµn thiÖn c¸c gi¶i ph¸p phßng ngõa rñi ro tû gi¸ nh»m chuÈn bÞ héi nhËp kinh tÕ khu vùc vµ thÕ giíi, TS. NguyÔn Minh KiÒu, C«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc, Trang 39. 65 nhắc, thiếu tính chuyên nghiệp khiến cho các giao dịch không phát huy hết vai trò vốn có của nó. Chi phí cho việc sử dụng các công cụ phái sinh thường quá cao, đặc biệt là chi phí mua quyền chọn. Các nghiệp vụ phái sinh do các NHTM cung cấp chưa đa dạng nên chưa có nhiều sự lựa chọn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp còn thiếu thông tin về các nghiệp vụ giao dịch phái sinh nên không thể đưa ra quyết định sử dụng khi cần. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là vừa và nhỏ nên cần có những thông tin cần thiết liên quan đến định giá công cụ và dự báo tỷ giá từ những chuyên gia bên ngoài do doanh nghiệp không có chuyên gia nội bộ trong lĩnh vực này. Các hướng dẫn hạch toán kế toán liên quan đến nghiệp vụ phái sinh khi sử dụng các giao dịch tài chính phái sinh vẫn chưa được ban hành cụ thể làm cho các doanh nghiệp lúng túng khi muốn sử dụng. Thứ tư, về phía các NHTM đóng vai trò là chủ thể cung cấp các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Như đã đề cập ở trên các sản phẩm phái sinh chưa được thiết kế phù hợp với nhu cầu khách hàng, thông tin về các sản phẩm này còn khá sơ sài. Nếu các doanh nghiệp chỉ đơn thuần là cập nhật các tin mới về dịch vụ qua trang web của ngân hàng thì sẽ không thể biết chi tiết. Bên cạnh đó, năng lực của các nhân viên ngân hàng trong tư vấn khách hàng sử dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế nên việc hỗ trợ các doanh nghiệp còn yếu. Khi Việt Nam đã gia nhập WTO và từng bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế sâu sắc thì những rủi ro trong thị trường ngoại hối sẽ ngày càng gia tăng. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối cần có những kiến thức cần thiết và sự nhạy bén với diễn biến của thị trường để tự bảo hiểm. Lúc này, các công cụ phái sinh thực sự là những công cụ hữu ích, vô cùng hiệu quả và phải được quan tâm đúng mức hơn. 66 CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM 1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Trong thời gian qua, mặc dù thị trường ngoại hối Việt Nam đã hướng tới mở cửa thị trường nhưng vẫn có nhiều biến động mang tính chất tâm lý, và chưa được vận hành chặt chẽ, nhịp nhàng. Thị trường vẫn còn tồn tại những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng găm giữ, tích trữ ngoại tệ của doanh nghiệp và dân cư; nhu cầu mua ngoại tệ tăng đột biến trong khi nhu cầu vay ngoại tệ lại giảm sút. Hệ thống ngân hàng “thừa” ngoại tệ để cho vay, thiếu ngoại tệ để bán, thị trường ngoại hối căng thẳng, có rất ít các giao dịch và nếu có đều giao dịch trên mức tỷ giá trần do NHNN qui định. Do đó, trong thời gian tới cần có định hướng phát triển thị trường ngoại hối nhằm ổn định để thực hiện vai trò điều tiết cung cầu ngoại hối, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu trên, thị trường ngoại hối Việt Nam cần phát triển theo định hướng sau: Một là, xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất. Định hướng hoàn thiện môi trường pháp lý và cơ chế chính sách cho hoạt động của thị trường 67 ngoại hối phải nhằm mục tiêu phát triển mở rộng qui mô hoạt động của thị trường ngoại hối chính thức, từng bước hạn chế và tiến đến xóa bỏ thị trường ngoại hối không chính thức. Trên cơ sở đó, xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất với sự tham gia đa dạng của nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Hai là, hoàn thiện cơ cấu thị trường. Nói đến thị trường ngoại hối Việt Nam có thể nói chúng ta mới chỉ xây dựng được cái khung của ngôi nhà mà chưa trang bị cho nó những đồ nội thất bên trong. Chúng ta cần phải hoàn thiện và làm cho các công cụ và các bộ phận của thị trường trở nên linh hoạt hơn. Củng cố thị trường liên ngân hàng với cơ chế hoạt động thông thoáng, tăng cường vai trò giám sát, điều hành điều tiết thị trường của NHNN. Tăng cường các chính sách khuyến khích tự do hóa thị trường trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp với chính sách ngoại hối của đất nước.  Đối với NHNN Nâng cao vị thế của NHNN, đảm bảo NHTW thực sự độc lập, tự chủ trong xây dung và điều hành chính sách tiền tệ. Mục tiêu chủ yếu là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ - ngân hàng, góp phần tạo dung môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Đổi mới cơ cấu của NHNN từ trung ương xuống các chi nhánh theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực và khả năng xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến, thực hiện các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Sắp xếp lại các doanh nghiệp trực thuộc NHNN theo hướng chỉ giữ lại Nhà máy in tiền Quốc gia. Tăng cường hiệu lực của NHNN về quản lý, giám sát các giao dịch ngoại hối, tự do hóa giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính. Tăng nhanh dự trữ ngoại hối Nhà nước, thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị trường. 68  Đối với các Tổ chức tín dụng. Cải cách triệt để và phát triển hệ thống các TCTD theo hướng đa năng, hiện đại, đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, có qui mô lớn và hoạt động theo nguyên tắc thị trường với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Tăng cường năng lực thể chế thông qua cơ cấu lại tổ chức và hoạt động, phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị và ban điều hành, mở rộng qui mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, phát triển các hệ thống quản lý của NHTM phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích, được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời nhanh chóng tiếp cận và phát triển các loại hình dịch vụ mới với hàm lượng công nghệ cao. Ba là, xây dựng thị trường ngoại hối hội nhập với khu vực và thế giới. Tính quốc tế là một đặc điểm cơ bản của thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối có phạm vi hoạt động không đóng khung trong phạm vi một quốc gia mà lan rộng ra toàn cầu nhằm phục vụ cho các nhu cầu mua bán giao dịch ngoại tệ. Trong điều kiện hệ thống thông tin liên lạc quốc tế phát triển cao, các giao dịch trên thị trường ngoại hối diễn ra hết sức nhanh chóng, chính xác, tạo ra tính quốc tế hóa trong việc yết giá. Trong khi đó, thị trường ngoại hối nước ta về cơ bản chỉ đóng khung trong phạm vi quốc gia. Việc tham gia giao dịch của các NHTM Việt Nam trên thị trường quốc tế còn rất hạn chế. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu của các hoạt động kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới của nền kinh tế; xây dựng thị trường ngoại hối hiện đại mang tính quốc tế cao cần phải có giải pháp làm cho thị trường ngoại hối việt nam từng bước hội nhập khu vực và thế giới. 69 2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM 2.1. Hoàn thiện thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng ngoại hối Việt Nam Khi nói đến thị trường ngoại hối, người ta nghĩ ngay đến đó là thị trường không bị giới hạn về mặt không gian và thời gian, mang tính quốc tế cao. Điều đó có nghĩa là thị trường ngoại hối hoạt động 24/24 và không đóng khung trong phạm vi một quốc gia mà lan rộng ra toàn cầu nhằm phục vụ cho nhu cầu mua bán chuyển đổi các loại ngoại tệ với nhau. Hiện nay, về cơ bản VinaForex mới chỉ hoạt động trong phạm vi quốc gia. Việc tham gia hoạt động trên thị trường ngoại hối của các NHTM Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy để phát triển các công cụ phái sinh ngoại tệ trong hoạt động kinh doanh ngoại hối thì thị trường ngoại hối phải từng bước phát triển và hội nhập với thị trường ngoại hối thế giới và lâu dài xây dựng Việt Nam thành trung tâm tài chính của khu vực. 2.1.1. Hoàn thiện chính sách tỷ giá Giải pháp lâu dài và căn bản để hạn chế hoạt động của thị trường ngoại tệ ngầm, cũng như hạn chế các mặt trái của việc định giá cao nội tệ là hướng tới một tỷ giá thị trường, linh hoạt và tỷ giá phải là sản phẩm của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam hiện nay việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá lập tức sẽ gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi cho việc ổn định hệ thống kinh tế - xã hội. Với vai trò là NHNN quản lý thị trường ngoại tệ chủ yếu thông qua can thiệp mua bán, công bố tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng, qui định trần tỷ giá giao ngay, tỷ lệ % gia tăng của tỷ giá kỳ hạn và các biện pháp quản lý ngoại hối. Trong giai đoạn trước mắt thì các biện pháp này còn cần thiết, nhưng 70 cần phải nới lỏng từng bước, vì các biện pháp này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi lại tạo lực cản cho sự phát triển của thị trường ngoại hối. Cơ chế tỷ giá phải được đổi mới theo hướng linh hoạt hơn, phản ảnh đúng đắn mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ và cơ chế tỷ giá phải có tác động điều chỉnh mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. Các giải pháp chủ yếu như sau:  Tiếp tục mở rộng biên độ tỷ giá, khi thị trường tương đối phát triển các thành phần tham gia thị trường rộng và đã hội đủ một số yếu tố cần thiết thì có thể tiến tới xóa bỏ biên độ tỷ giá.  Áp dụng cơ chế tỷ giá thỏa thuận: mở rộng qui mô doanh số giao dịch thu hút các thành phần tham gia giao dịch nhằm tăng tính xác thực và phản ánh cung cầu về tỷ giá hình thành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.  Giảm bớt sự gắn định của VNĐ với USD đa dạng hóa đồng tiền trong việc công bố tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng bằng cách xác định tỷ giá mục tiêu phù hợp với điều hành chính sách tỷ giá của NHNN. 2.1.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường liên ngân hàng Đối với các nền kinh tế phát triển, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả, doanh số giao dịch trên thị trường này chiếm hơn 80% so với tổng doanh số giao dịch của thị trường ngoại hối, do đó , tỷ giá liên ngân hàng luôn là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho quan hệ cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế, ví dụ như LIBOR, SIBOR … Đối với Việt Nam, do trình độ thị trường còn sơ khai, ngoài yếu tố tỷ giá còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can thiệp hành chính, do đó doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 15- 20%. Chính vì vậy, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ đóng vai trò thứ yếu do đó tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu 71 quả ở Việt Nam, ngoài yếu tố tỷ giá như ở trên cần phải đề cập đến một số yếu tố như: - Thực hiện vai trò của NHTW là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại hối, hiện nay, do tỷ giá chưa thực sự thể hiện được là sự điều tiết do cung cầu và hướng dẫn điều tiết của NHTW thông qua việc mua bán ngoại tệ cuối cùng trên thị trường ngoại hối, ngoài ra, NHNN cần tham gia và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn đúng như qui định trong qui chế nhằm tạo điều kiện cho các NHTM tham gia tích cực hơn vào thị trường ngoại hối. - Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời với qui mô thích hợp, có như vậy thì thị trường mới hoạt động thống nhất. Một khi NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc qui mô can thiệp không thích hợp thì sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Điều cần lưu ý rằng, sự can thiệp của NHNN ảnh hưởng lên thị trường ngoại hối lớn hơn nhiều so với qui mô can thiệp của chính nó. Như vậy, chỉ cần một động thái khôn ngoan thích hợp của NHNN, cũng đủ để thị trường tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả. - Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. - Số lượng thành viên giữa thị trường liên ngân hàng còn hạn chế, điều này khiến cho thị trường hoạt động kém phần sôi nổi. Hơn nữa, giao dịch trên thị trường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng chỉ chuyên bán, số khác chỉ chuyên đi mua, điều này khiến cho thị trường mất đi tính đặc thù của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cần mở rộng số lượng thành viên, mặt khác cần tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường được tích cực hơn. 72 2.1.3. Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối Với vai trò là NHTW, NHNN tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với tư cách là thành viên và là người tổ chức, quản lý điều hành hoạt động thị trường. Do thị trường ngoại hối Việt Nam còn sơ khai, có độ thanh khoản thấp, tỷ giá kém linh hoạt nên sự can thiệp của NHNN là vô cùng quan trọng. NHNN cần có những tác động để các giao dịch trên thị trường được thông suốt. Để NHNN thực hiện tốt vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cần có: - Hướng tới một tỷ giá thị trường cân bằng, nhằm biến tỷ giá thành công cụ chủ yếu và hữu hiệu trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. - Tăng cường dự trữ ngoại tệ vào NHNN, đảm bảo một nguồn dự trữ cần thiết sẵn sàng đáp ứng, và điều tiết khi thị trường cần. NHNN cần tác động đến thị trường thông qua các nghiệp vụ thị trường mở có như vậy mới đạt được hai mục tiêu vừa quản lý được thị trường vừa không tác động quá sâu vào sự phát triển của nền kinh tế. 2.2. Hoàn thiện thị trƣờng các công cụ phái sinh 2.2.1. Giao dịch ngoại hối kỳ hạn và hoán đổi Như đã phân tích ở chương I, yếu tố tác động lên giá trị kỳ hạn và hoán đổi chính là lãi suất và tỷ giá hối đoái. Để thúc đẩy giao dịch kỳ hạn và hoán đổi phát triển, trước mắt NHNN cần từng bước nới lỏng tỷ lệ % gia tăng cho phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh tạo cho thị trường có độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. Ngoài ra, lãi suất trên thị trường cần được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế có như vậy tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi mới thực sự được hình thành đúng. 73 Bên cạnh đó, khi đã có đủ trình độ và điều kiện, NHNN nên cho phép các NHTM tự quyết định tỷ giá kỳ hạn mua bán như vậy mới tạo đựợc tính cạnh tranh trên thị trường có như vậy mới thu hút được khách hàng tham gia thị trường. 2.2.2. Giao dịch ngoại hối quyền chọn Hiện tại, việc NHNN cho phép các NHTM tham gia nghiệp vụ quyền chọn đã là một động thái hết sức tích cực. Để phù hợp với trình độ thị trường và nhu cầu thực tiễn, trước mắt NHNN có thể cho phép và hướng dẫn các NHTM tiến hành thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Vì quyền chọn rất phức tạp về nội dung nghiệp vụ do đó cần triển khai từng bước từ đơn sơ đến phức tạp. - Mới đầu nên thực hiện giao dịch qua quầy như vậy thuận tiện cho công tác quản lý cũng như giao dịch, khi mà thị trường đã phát triển tốt hơn thì các chủ thể tham gia có thể tự mình giao dịch như thị trường ngoại hối của các nước phát triển khác. - Về mặt thời hạn của hợp đồng có thể kiểm soát được và tránh tâm lý đầu cơ, nên qui định ngắn từ 3 tháng trở xuống. Khi thị trường đã ổn định và phát triển thì thời hạn của hợp đồng nên dành cho khách hàng và ngân hàng. 2.2.3. Giao dịch ngoại hối tương lai Dù đã có văn bản pháp lý đưa ra những khái niệm về giao dịch ngoại hối tương lai nhưng trên thực tế, nghiệp vụ tương lai chưa thực sự được giao dịch tại Việt Nam. Do đó, trước mắt NHNN cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn để việc ứng dụng nghiệp vụ này được dễ dàng hơn, cụ thể là: - Xác định chủ thể tham gia: đó là các NHTM và các doanh nghiệp là thành viên chủ chốt, ngoài ra còn có các nhà môi giới. - Xác định những đồng tiền cơ sở: các đồng tiền tham gia giao dịch là các đồng tiền tương đối mạnh, được giao dịch nhiều trên thị trường 74 quốc tế và những đồng tiền của các quốc gia có quan hệ xuất nhập khẩu với Việt Nam. Đầu tiên, các hợp đồng được yết theo USD trong đó VNĐ sẽ là đồng tiền giao dịch và được yết theo USD. Khi mà thị trường đã hình thành được tỷ giá linh hoạt hơn thì việc các hợp đồng được yết giá theo các ngoại tệ tự do chuyển đổi là cần thiết. - Qui định ngày giá trị của hợp đồng. Hiện giờ có thể nhu cầu của thị trường chưa cao, đồng thời để tạo sự linh hoạt cho các thành phần tham gia vào giao dịch thì ngày giá trị của hợp đồng nên rút ngắn lại so với thông lệ quốc tế. - Qui ước về khối lượng giao dịch chuẩn của các đồng tiền. Hiện nay, tiềm lực của thị trường Việt Nam còn nhỏ nên không thể học tập các sở giao dịch nước ngoài thực hiện với khối lượng lớn, chúng ta chỉ nên đặt qui ước chỉ bằng 1/10, khi mà thị trường đã có những đón nhận và phát triển thích hợp thì có thể tăng khối lượng của giao dịch chuẩn. - Xúc tiến xây dựng Sở giao dịch tiến hành các giao dịch tương lai. Với tình hình Việt Nam thì ban đầu nên do Nhà nước quản lý với hình thức quốc doanh sau đó mới từ từ chuyển sang hoạt động độc lập. Có thể ban đầu, Sở giao dịch tương lai chỉ mang tính chất quốc gia nhưng chúng ta nên tin rằng sau một thời gian phát triển cùng với sự đi lên của kinh tế đất nước, Sở giao dịch này sẽ là một trung tâm giao dịch lớn của khu vực và được quốc tế quan tâm, tham gia. 2.2. Hoàn thiện phƣơng thức giao dịch ngoại hối tại các NHTM 2.2.1. Chuẩn hóa tổ chức hoạt động của phòng kinh doanh ngoại tệ của NHTM Hiện nay các giao dịch kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế được thực hiện qua những hệ thống thông tin hiện đại, chủ yếu thông qua hệ thống Reuters Dealing 2000, qua các phòng Dealing Room. Hệ thống giao dịch kinh 75 doanh ngoại tệ quốc tế cho phép tiếp cận nhanh chóng với những thông tin về biến động tỷ giá, lãi suất, các chỉ số về tình hình kinh tế thế giới và các sự kiện quan trọng liên quan đến các thị trường tài chính, chứng khoán, và thị trường hối đoái quốc tế. Hoạt động kinh doanh ngoại hối quốc tế tại các Dealing Room hiện nay được thực hiện trực tiếp giữa các ngoại tệ tự do chuyển đổi. Các chi tiết giao dịch đều tuân thủ nghiêm ngặt luật lệ, tập quán quốc tế. Một số NHTM Việt nam đã giao dịch ngoại hối trực tiếp với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối toàn cầu như ngân hàng ở Singapor, Hong Kong, Tokyo … Để thực hiện tốt chức năng của mình trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ đồng thời mở rộng khả năng ứng dụng các công cụ phái sinh tiền tệ, mỗi NHTM phải tổ chức một phòng kinh doanh ngoại tệ có qui mô thích hợp và đầy đủ thẩm quyền để thực hiện giao dịch tức thời. Thông thường một ngân hàng tích cực trong kinh doanh ngoại tệ thường tổ chức phòng kinh doanh ngoại tệ gồm 3 bộ phận quan trọng sau:  Bộ phận kinh doanh: Tại đây nhà kinh doanh trực tiếp mua bán trong Interbank, nghĩa là, họ phải đối mặt với thị trường, đối thủ cạnh tranh. Đây là nơi thể hiện năng lực, trình độ, sự thành công hay thất bại của mỗi Dealer nói riêng và của ngân hàng nói chung. Đặc điểm của phòng kinh doanh là luôn có cuộc giao ban vào đầu giờ của mỗi ngày làm việc để xem xét những biến động của thị trường qua đêm, đọc các bản tin liên quan đến thị trường mở cửa sớm hơn, thảo luận về diễn biến thị trường và các đồng tiền liên quan và thảo luận về nội dung các kế hoạch trong ngày. Bộ phận kinh doanh phải kiểm soát được một cách chắc chắn trạng thái trường hay đoản của đồng tiền tại bất kỳ thời điểm nào, cũng như phương án thoát ra khỏi trạng thái đó như thế nào. Cán bộ kinh doanh phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả lãi lỗ trong hoạt động của 76 mình , đảm bảo rằng hoạt động của mình luôn nằm trong giới hạn quản lý rủi ro cho phép hay có thể kiểm soát được.  Bộ phận thanh toán: Đây là bộ phận có chức năng độc lập, có nhiệm vụ xác nhận giao dịch, thanh toán, đối chiếu số dư, sao kê tài khoản.  Bộ phận quản lý rủi ro: Có nhiệm vụ kiểm tra theo dõi giám sát các hạn mức mà các nhà kinh doanh được phép sử dụng, tránh không để cán bộ kinh doanh vượt ra ngoài khuôn khổ thẩm quyền và quá mạo hiểm trong kinh doanh, nhất là hoạt động đầu cơ. Bên cạnh đó, cần tuyển dụng những cán bộ kiểm soát có kinh nghiệm trong việc đánh giá rủi ro để có thể đưa ra những chiến lược và ý kiến nhận định khi cán bộ kinh doanh không thể tự mình quyết định, giúp cho hoạt động kinh doanh luôn thông suốt và đảm bảo được mức độ an toàn. 2.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ các cán bộ kinh doanh ngoại tệ Kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam. Hơn nữa tính chất nghiệp vụ của nó lại phức tạp và có thể gây ra rủi ro cho chính NHTM nếu được dùng với mục đích đầu cơ. Chính vì vậy, công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ ngân hàng phải được coi trọng đúng mức và phải tiến hành thường xuyên; cần đào tạo cả lý thuyết và thực hành, trong và ngoài nước. Các cán bộ kinh doanh cũng cần thường xuyên cập nhật thông tin, nắm bắt những diễn biến thị trường cũng như những chiến lược, những phương pháp mới trên thế giới để có thể đưa ra những tư vấn, quyết định đúng lúc, kịp thời. Có như vậy, cán bộ kinh doanh ngoại hối mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường cũng như thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển. 2.2.3. Trang bị kỹ thuật hiện đại cho phòng kinh doanh ngoại tệ 77 Do thị trường ngoại hối là thị trường có tính cạnh tranh cao, các thông tin trên thị trường luôn biến đổi không ngừng nên các nhà kinh doanh phải luôn tức thời và cập nhật thông tin liên tục. Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh ngoại hối thì việc trang bị cho phòng kinh doanh ngoại tệ các trang thiết bị hiện đại thuận tiện cho việc cập nhật thông tin là vô cùng quan trọng. Các giao dịch ngoại hối thường có giá trị lớn nên việc tính toán chính xác đóng vai trò lớn do đó một hệ thống quản lý là cần thiết. Bên cạnh đó, thiết bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng được việc bảo mật thông tin khách hàng và thông tin giao dịch tốt hơn, tạo được tâm lý an toàn cho nhà đầu tư. 2.3. Giải pháp đối với nhóm khách hàng mua bán lẻ Ngoài việc nâng cao tính hiệu quả trong kinh doanh ngoại hối với các NHTM thì khách hàng của họ cũng cần phải có được những kiến thức nhất định về thị trường ngoại hối đặc biệt là các công cụ phòng ngừa rủi ro như các công cụ phái sinh tiền tệ. Các NHTM cần học tập các Sở giao dịch lớn trên thế giới, nên cung cấp cho khách hàng của mình những kiến thức nền tảng về thị trường. Trên các website của Ngân hàng nên có phần hướng dẫn học tập, đưa ra những thông tin cơ bản nhất để khách hàng có được những hiểu biết nhất định về công cụ phái sinh ngoại hối cũng như thị trường ngoại hối. Bên cạnh đó, các NHTM hoặc NHNN có thể mở các lớp học ngắn hạn, để các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng như các nhà đầu tư lớn nâng cao kiến thức, qua đó làm cho thị trường ngoại hối phát triển mang tính chất chuyên nghiệp hơn. 78 KẾT LUẬN Không chỉ đơn thuần là một bộ phận của thị trường ngoại hối, thị trường các công cụ phái sinh ngoại hối còn giữ vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Tại Việt Nam, do được đưa vào áp dụng trong một thị trường ngoại hối còn tương đối non trẻ nên các công cụ phái sinh vẫn được coi là mới mẻ đối với thị trường. Đại bộ phận các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của phòng ngừa rủi ro, đồng thời chưa nhạy trong hành động nắm bắt và ứng dụng những công cụ mới, đã khiến cho việc tiếp cận thị trường của các công cụ này ít nhận được sự hưởng ứng rộng rãi. Tác giả đã đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện thị trường ngoại hối qua đó thúc đẩy các công cụ phái sinh phát triển. Có thể tổng kết lại như sau: 1. Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách tỷ giá và phát triển thị trường liên ngân hàng, cần nâng cao vai trò của NHNN đối với thị trường ngoại hối để NHNN là cơ quan quản lý, tổ chức điều hành thị trường. 79 2. Hoàn thiện các giao dịch trên thị trường các công cụ phái sinh theo hướng tới những chuẩn mực của thế giới nhưng vẫn phù hợp với nền kinh tế Việt Nam. 3. Nâng cao vai trò cũng như kiến thức của các NHTM và nhóm khách hàng mua bán lẻ. Điều kiện cần để các công cụ phái sinh phát triển là một môi trường kinh tế tốt đi đôi với một môi trường pháp lý ổn định, chặt chẽ. Trong đó, cần lấy con người làm nhân tố chủ đạo. Có quan tâm và đầu tư đúng đắn đến các giải pháp liên quan đến chủ thể kinh tế thì mới có sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường các công cụ phái sinh nói riêng. Phát triển kinh tế hội nhập quốc tế đồng nghĩa với việc thị trường ngoại hối cũng phải phát triển đồng bộ và toàn diện. Muốn thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển xứng tầm với nền kinh tế đang trên đà tiến tới một trung tâm kinh tế khu vực của đất nước, thì việc hoàn thiện hơn nữa thị trường ngoại hối là cấp bách và cần thiết. 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Việt Bảo, (2007) “Phát triển nghiệp vụ phái sinh ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 22/2007, trang 37 - 39. 2. TS. Nguyễn Kim Anh, Ths. Phạm Hoàng Anh, (2007), “Ứng dụng công cụ phái sinh tiền tệ trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, trang 76 - 86. 3. Ban kế hoạch phát triển - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, (2007) “Thị trường tài chính phái sinh và thực trạng tại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, trang 40 - 60. 4. Nguyễn Ninh Kiều, (2006) “Hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá nhằm chuẩn bị hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. 81 5. Nguyễn Ninh Kiều, Nguyễn Xuân Thành, “Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright”, Bài giảng 14, Trang 8. 6. Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Thanh, (2007) “Nghiệp vụ tài chính phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, trang 121 - 129. 7. Nguyễn Văn Tiến, (2004) Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối, Nhà xuất bản thống kê. 8. Nguyễn Văn Tiến, (2009) Giáo trình Tài chính quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê. Tiếng Anh 9. John C.Hull, (2006), Options, Futures and other derivatives, Pearson Prentice Hall. 10. Moosa, A.I., (2004), International Finance, Mc Graw - Hill. 11. Jake Bernstein, How the Futures Markets Work, New Yord Institute of Finance. Tài liệu website 12. Trang web của Ngân hàng Á Châu: www.acb.com.vn 13. Trang web của Bank for International Settlements: www.bis.org 14. Trang web của Sở giao dịch Chicago: www.cmegroup.com. 15. www.easyforex.com 16. www.euronext.com 17. Trang web của Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam: www.eximbank.com.vn 82 18. Trang web của Ngân hàng Sài Gòn Thương tín: www.saccombank.com.vn 19. Trang web của Tri thức - Kỹ năng kinh doanh: www.saga.vn 20. Trang web của Ngân hàng Nhà nước: www.sbv.gov.vn 21. Trang web của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: www.vietcombank.com.vn 22. Trang web Báo Tin tức kinh doanh và tài chính: www.vneconomy.vn. 23. Trang web báo Tin nhanh Việt Nam: www.vnexpress.net.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5308_512.pdf
Luận văn liên quan