Khóa luận ngoại thương năm 2011: 106 trang
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, là hiện tượng nổi bật nhất, thu hút nhiều sự chú ý nhất ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Sau hơn 30 năm (1979-2010) thực hiện cải cách mở cửa, bộ mặt kinh tế xã hội Trung Quốc đã biến đổi sâu sắc. Về nhiều mặt, Trung Quốc đang chiếm những vị trí đáng kể trong nền kinh tế thế giới, đứng hàng đầu về tốc độ tăng trưởng với một thực lực kinh tế không nhỏ. Đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương nói chung và xuất khẩu hàng hóa nói riêng, Trung Quốc đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ: từ chỗ xếp hàng thứ 32 trên thế giới về xuất nhập khẩu (năm 1978) đến năm 2010, Trung Quốc đã vươn lên là cường quốc xuất khẩu hàng đầu trên thế giới với tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 1.578 tỷ USD, chiếm gần 10% kim ngạch xuất khẩu của thế giới. Hơn thế nữa, vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trong thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, ngoại thương Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội mới để phát triển tốt đẹp hơn, đặc biệt là sau sự kiện Trung Quốc đã trở thành thành viên thứ 143 của Tổ chức thương mại thế giới ngay vào năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Việt Nam tiến hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm và cho đến nay thì những thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển ngoại thương vẫn còn là khiêm tốn so với những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa xứng với tiềm năng của chính Việt Nam. Vì vậy, để thành công hơn nữa trong công cuộc phát triển ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của Trung Quốc là rất cần thiết.
Với lý do trên, em xin được mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.
Chương I
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRUNG QUỐC
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC TRUNG QUỐC
1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
2. Dân cư
3. Đặc điểm chính trị - xã hội
II. Kinh tế Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay
1. Về tăng trưởng kinh tế
2. Cơ cấu kinh tế
3. Thành tựu trong các lĩnh vực
3.1 Nông nghiệp
3.2 Công nghiệp
3.3 Kinh tế đối ngoại
3.3.1 Ngoại thương
3.3.2 Đầu tư nước ngoài
4. Một số hạn chế
III. Dự báo kinh tế Trung Quốc trong thời gian tới và ảnh hưởng đối với kinh tế toàn cầu
Chương II:
CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH XUẤT KHẨU
CỦA TRUNG QUỐC
I. Thực trạng xuất khẩu của Trung Quốc
1. Kim nghạch xuất khẩu
2. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
3. Một số thị trường xuất khẩu chính
3.1 Thị trường Hồng Kông
3.2 Thị trường Nhật Bản
3.4 Thị trường Liên minh Châu Âu (EU)
3.5 Thị trường ASEAN
II. Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
1. Thực trạng chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
1.1 Chính sách khuyến khích đầu tư
1.2 Chính sách tài chính
1.2.1 Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp
1.2.2 Trợ cấp xuất khẩu gián tiếp
1.3 Chính sách tỷ giá
1.3.1 Thời kỳ chuyển từ chính sách tỷ giá cố định sang thả nổi theo sát với diễn biến tỷ giá thị trường (1979 - 1993)
1.3.2 Thời kỳ phá giá đồng NDT, thống nhất hai tỷ giá hướng tới một đồng NDT có khả năng chuyển đổi (1994 – nay)
1.4 Chính sách tín dụng
1.4.1 Tín dụng xuất khẩu
1.4.2 Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.5 Chính sách cơ cấu sản phẩm và thị trường xuất khẩu
1.5.1 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
1.5.2 Cơ cấu thị trường xuất khẩu
1.6 Các chính sách về thể chế - tổ chức
1.6.1 Xây dựng đặc khu kinh tế
1.6.2 Đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế
2. Đánh giá chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
2.1 Hiệu quả của chính sách khuyến khích xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc
2.2 Một số vấn đề tồn tại trong chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
2.3 Điều chỉnh chính sách xuất khẩu trong thời gian tới
III. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1. Những mặt nên học tập
1.1 Chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Trung Quốc được thực hiện với cách tiếp cận phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
1.2 Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc có sự thay đổi qua từng giai đoạn, phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế
1.3 Áp dụng những chính sách thích hợp để khơi thông nguồn lực của đất nước, hình thành và phát triển các ngành xuất khẩu
1.4 Áp dụng những chính sách thích hợp để tạo lập và phát triển những lợi thế cạnh tranh mới, dẫn đến sự chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu xuất khẩu.
1.5 Khai thác một cách thích hợp vai trò của tỷ giá hối đoái và các biện pháp đòn bẩy khuyến khích tài chính để thúc đẩy xuất khẩu
1.6 Có sự phối hợp đúng đắn, linh hoạt và có hiệu quả các công cụ chính sách thúc đẩy xuất khẩu, gắn chính sách thúc đẩy xuất khẩu với những cải cách toàn diện trong nền kinh tế
1.7 Khai thác và phát huy triệt để vai trò của FDI để thúc đẩy, sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
1.8 Khai thác các yếu tố thuận lợi, những cơ hội lớn trong nền kinh tế thế giới để đẩy mạnh thu hút FDI, phục vụ cho mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu
1.5.2 Cơ cấu thị trường xuất khẩu
1.6 Các chính sách về thể chế - tổ chức
1.6.1 Xây dựng đặc khu kinh tế
1.6.2 Đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế
2. Đánh giá chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
2.1 Hiệu quả của chính sách khuyến khích xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc
2.2 Một số vấn đề tồn tại trong chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
2.3 Điều chỉnh chính sách xuất khẩu trong thời gian tới
III. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1. Những mặt nên học tập
1.1 Chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Trung Quốc được thực hiện với cách tiếp cận phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
1.2 Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc có sự thay đổi qua từng giai đoạn, phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế
1.3 Áp dụng những chính sách thích hợp để khơi thông nguồn lực của đất nước, hình thành và phát triển các ngành xuất khẩu
1.4 Áp dụng những chính sách thích hợp để tạo lập và phát triển những lợi thế cạnh tranh mới, dẫn đến sự chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu xuất khẩu.
1.5 Khai thác một cách thích hợp vai trò của tỷ giá hối đoái và các biện pháp đòn bẩy khuyến khích tài chính để thúc đẩy xuất khẩu
1.6 Có sự phối hợp đúng đắn, linh hoạt và có hiệu quả các công cụ chính sách thúc đẩy xuất khẩu, gắn chính sách thúc đẩy xuất khẩu với những cải cách toàn diện trong nền kinh tế
1.7 Khai thác và phát huy triệt để vai trò của FDI để thúc đẩy, sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
1.8 Khai thác các yếu tố thuận lợi, những cơ hội lớn trong nền kinh tế thế giới để đẩy mạnh thu hút FDI, phục vụ cho mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu
2. Những mặt không nên học tập
2.1 Quan điểm lấy “lượng” thay cho “chất” làm giảm hiệu quả của hoạt động xuất khẩu
2.2 Chính sách bảo hộ quá mức trong một số ngành đã ngăn cản việc cải thiện khả năng cạnh tranh
2.3 Trong quá trình thúc đẩy xuất khẩu phát triển dẫn tới sự chênh lệch vùng miền
2.4 Công tác nâng cao kiến thức kinh doanh, hiểu biết về tình hình thị trường quốc tế cho doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức
Chương III
ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM
I. Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1986 đến nay
1. Kim ngạch xuất khẩu
2. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
3. Một số thị trường xuất khẩu chính
3.1 Thị trường Mỹ
3.2 Thị trường Nhật Bản
3.3 Thị trường Trung Quốc
3.4 Thị trường ASEAN
3.5 Thị trường EU
3.6 Thị trường Trung Đông
II. Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam
1. Chính sách khuyến khích đầu tư
2. Chính sách tài chính tín dụng
2.1 Miễn giảm thuế:
2.2 Nhà nước bảo lãnh tín dụng xuất khẩu:
2.3 Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
2.4 Nhà nước cung cấp tín dụng xuất khẩu:
3. Chính sách về thể chế - tổ chức
4. Chính sách liên quan đến tạo nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu
III. Căn cứ xây dựng chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020
1. Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam và bối cảnh Quốc tế
1.1 Tình hình đất nước
1.2. Bối cảnh quốc tế
2. Cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại
2.1 Thực hiện các cam kết khi gia nhập ASEAN
2.1.1 Về thuế quan
2.1.2 Rào cản phi thuế quan
2.2 Cam kết khi gia nhập APEC
2.2.1 Về thuế quan
2.2.2 Rào cản phi thuế quan
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
3.1 Quan điểm phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020
3.1.1 Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững
3.1.2 Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1.3 Phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
3.2 Mục tiêu về kinh tế - xã hội
3.2.1 Về kinh tế
3.2.2 Về văn hóa, xã hội
IV. Định hướng hoàn thiện chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam
1. Thực hiện các biện pháp đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, đa phương hóa thị trường xuất khẩu
2. Khuyến khích đầu tư trong nước
3. Thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
4. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu
5. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu
6. Đẩy nhanh hội nhập vào các liên kết kinh tế khu vực và thế giới
KẾT LUẬN
105 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3349 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong cơ cấu kinh tế, các nước Trung Đông bị phụ thuộc rất nhiều vào dầu mỏ, trong khi các ngành công nghiệp chế tạo và sản xuất nông nghiệp chưa phát triển. Vì vậy, các nước trong khu vực này có nhu cầu rất lớn và đa dạng về các loại hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng nội địa. Các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu đạt kim ngạch lớn sang thị trường này đều là những mặt hàng mà Trung Đông đang có nhu cầu cao như hải sản, gạo, vải sợi các loại, máy vi tính, máy móc thiết bị phụ tùng, dệt may, sữa và sản phẩm sữa...
Hầu hết các nước trong khu vực này đã có quan hệ ngoại giao với Việt Nam, một số nước đã có quan hệ kinh tế, thương mại, mở 5 thương vụ tại các nước Cô-oét, Iraq, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, U.A.E. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này những năm gần đây cũng tăng lên đáng kể, năm 2008 là 1,27 tỷ USD, tính riêng 9 tháng đầu năm 2010, Việt Nam xuất sang Trung Đông đạt gần 1,2 tỷ USD, tập trung chủ yếu ở các thị trường như Thổ nhĩ Kỳ đạt 354 triệu USD, UAE đạt 350 triệu USD, I-rắc đạt 154 triệu USD, Ả-rập Xê-út 95 triệu USD…
Trung Đông là một thị trường tiềm năng vì ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường này cũng không bị đòi hỏi khắt khe về chất lượng như các thị trường khác và lượng tiêu thụ rất ổn định. Nhận thức tiềm năng hợp tác kinh tế-thương mại với khu vực này, năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Đông giai đoạn 2008-2015.
II. Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam
1. Chính sách khuyến khích đầu tư
Nhằm mục đích khuyến khích đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ đã quy định nhiều ưu đãi dành cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
Theo Luật đầu tư 2005, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu thuộc danh mục các dự án khuyến khích đầu tư được hưởng một số ưu đãi:
- Ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
Thời gian và mức ưu đãi miễn thuế, giảm thuế
a- Được giảm 50% số thuế phải nộp cho phần thu nhập chịu thuế có được do xuất khẩu của cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các trường hợp:
a.1- Năm đầu tiên xuất khẩu được thực hiện bằng cách xuất khẩu trực tiếp;
a.2- Năm đầu tiên xuất khẩu mặt hàng mới có tính năng kinh tế - kỹ thuật, tính năng sử dụng khác với mặt hàng trước đây doanh nghiệp đã xuất khẩu;
a.3- Năm đầu tiên xuất khẩu ra thị trường một quốc gia mới, hoặc lãnh thổ mới khác với thị trường trước đây.
b- Được giảm 50% số thuế phải nộp cho phần thu nhập chịu thuế tăng thêm do xuất khẩu trong năm tài chính của cơ sở sản xuất, kinh doanh có doanh thu xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước;
c- Được giảm 20% số thuế phải nộp cho phần thu nhập chịu thuế có được do xuất khẩu trong năm tài chính của cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các trường hợp:
c.1- Có doanh thu xuất khẩu đạt tỷ trọng trên 50% tổng doanh thu;
c.2- Duy trì thị trường xuất khẩu ổn định về số lượng hoặc giá trị hàng hoá xuất khẩu trong ba năm liên tục trước đó.
Ngoài ra, các dự án cần đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị, máy móc mà chủ đầu tư trực tiếp hoặc ủy thác nhập khẩu để xây dựng cơ sở sản xuất.
Về tín dụng: được bảo lãnh tín dụng, cấp tín dụng xuất khẩu…
Về tiền thuê đất: địa bàn ưu đãi đầu tư được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế, nếu có dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu nếu được giao đất thì không phải trả tiền thuê đất, nếu thuê đất thì được miễn thuế đất trong 5 năm đầu, giảm 50% trong 5 năm tiếp theo…
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ cũng có nhiều ưu đãi như: miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tạo điều kiện mua nguyên vật liệu từ thị trường nội địa, cung cấp cơ sở hạ tầng thuận lợi…
2. Chính sách tài chính tín dụng
2.1 Miễn giảm thuế:
Ở Việt Nam thuế xuất khẩu áp dụng đối với số ít mặt hàng. Mục tiêu là nâng cao mức độ chế biến nguyên liệu thô, chứ không phải nhằm mục tiêu là ngân sách. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách miễn thuế đối với một số mặt hàng :
- Hàng hoá tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập để tham dự hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm; máy móc, thiết bị, dụng cụ nghề nghiệp tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập để phục vụ công việc trong thời hạn nhất định.
- Hàng hoá là tài sản di chuyển theo quy định của Chính phủ;
- Hàng hóa nhập khẩu để gia công cho nước ngoài rồi xuất khẩu;
- Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn năm năm, kể từ khi bắt đầu sản xuất.
Giảm thuế đối với một số mặt hàng:
- Hàng xuất khẩu để trả nợ nước ngoài - Hàng được xét miễn giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu - Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và xuất khẩu để thực hiện hợp đồng gia công cho nước ngoài .- Hàng xuất khẩu của các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài.
Chính phủ thực hiện chính sách hoàn thuế đối với một số mặt hàng :- Hàng đã kê khai và nộp thuế xuất khẩu nhưng không xuất khẩu hoặc xuất khẩu rất ít. - Hàng vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu hoàn thuế tương ứng tỷ lệ xuất khẩu thành phẩm.- Hàng nhập để tạm xuất - tái xuất - tái nhập để đem đi dự hội chợ triển lãm.
2.2 Nhà nước bảo lãnh tín dụng xuất khẩu:
Trong trường hợp doanh nghiệp bán hàng theo phương thức bán chịu, trả chậm cho khách hàng nước ngoài. Để giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp, Nhà nước đứng ra bảo lãnh đền bù khi bị mất vốn. Tỷ lệ đền bù có thể lên đến 100% vốn bị mất, nhưng thường là khoảng 60-70% của khoản tín dụng đó. Trước năm 2008, ở Việt Nam, đã thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhằm mục đích thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. Giúp giá bán hàng của nhà xuất khẩu nâng lên vì khi bán người ta sẽ bán với giá bán cộng thêm lãi suất, giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Đến tháng 9 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định bãi bỏ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Việc bãi bỏ Quỹ này là nhằm đảm bảo nguyên tắc đối xử bình đẳng theo cam kết trong WTO. Theo đó, Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp thông qua các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
2.3 Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
Hiện nay, Việt Nam đang thí điểm áp dụng hình thức Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (BHTDXK). BHTDXK là hình thức bảo đảm tài chính cho nhà xuất khẩu trong các hợp đồng xuất nhập khẩu có điều kiện thanh toán theo hình thức tín dụng mở trước rủi ro nợ xấu, mất khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu do mất khả năng thanh toán, phá sản hoặc vì bất ổn chính trị tại quốc gia nhập khẩu.
Tổ chức BHTDXK là nguồn cung cấp thông tin thị trường, năng lực và tình trạng tài chính của người mua, giúp nhà xuất khẩu thực hiện các giao dịch kinh doanh an toàn và hiệu quả. Ban đầu, các tổ chức BHTDXK đều do Nhà nước thành lập và hỗ trợ. Tuy nhiên, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, mô hình hoạt động của tổ chức BHTDXK từng bước có sự tham gia của khu vực tư nhân và vận hành theo cơ chế thị trường
Ở nước ta thì BHTDXK mới chỉ được triển khai thí điểm vào tháng 10/2010 và theo đề án triển khai thí điểm từ năm 2011 đến cuối năm 2013. Chúng ta sẽ nâng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu được BHTDXK là 3%. Hiện có 3 doanh nghiệp bắt đầu triển khai BHTDXK là tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí (PVI), tổng công ty cổ phần Bảo Minh (Bảo Minh), Công ty TNHH bảo hiểm QBE. Mặc dù vậy cả 3 doanh nghiệp trên vẫn chưa có đội ngũ chuyên gia về BHTDXK, do vậy họ gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nhà tái bảo hiểm nước ngoài từ khâu khai thác, đánh giá rủi ro, thẩm định bảo hiểm,.. và tái phần lớn dịch vụ nhận được cho nhà tái bảo hiểm nước ngoài.
Chính phủ thực hiện thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong giai đoạn 2011 - 2013 với những nội dung chủ yếu sau đây:
(1) Ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro trong tín dụng xuất khẩu, góp phần bảo đảm an toàn tài chính và thúc đẩy xuất khẩu.
(2) Đối tượng tham gia bảo hiểm là các thương nhân xuất khẩu hàng hóa thuộc các nhóm hàng khuyến khíc bảo hiểm tín dụng được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định 2011/QĐ-TTg năm 2010.
Gồm có 2 nhóm như sau:
Nhóm 1:
1. Thủy sản
6. Hạt tiêu
2. Gạo
7. Nhân điều
3. Cà phê
8. Chè
4. Rau quả
9. Sắn và các sản phẩm từ sắn
5. Cao su
6. Hạt tiêu
Nhóm 2
1. Dệt may
8. Sản phẩm chất dẻo
2. Giày dép
9. Dây điện và cáp điện
3. Điện tử và linh kiện máy tính
10. Xe đạp và phụ tùng
4. Gốm sứ
11. Túi xách, vali, mũ, ô dù
5. Thủy tinh
12. Sản phẩm từ sắt thép
6. Mây tre cói và thảm
13. Máy móc thiết bị
7. Sản phẩm gỗ
14. Phương tiện vận tải
(3) Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đối với các rủi ro thương mại và rủi ro chính trị theo quy định của Bộ Tài chính.
(4) Sản phẩm bảo hiểm là bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ngắn hạn.
(5) Đến cuối năm 2013, đạt tối đa 3% kim ngạch xuất khẩu được bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
(6) Căn cứ xác định phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là mức độ rủi ro, tổn thất (dự kiến), chi quản lý và các chi phí khác có liên quan đến rủi ro được bảo hiểm.
(7) Bộ Tài chính quy định tiêu chí để các doanh nghiệp bảo hiểm đăng ký triển khai thực hiện thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
(8) Ngân sách nhà nước hỗ trợ triển khai thực hiện thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu theo quy định của Bộ Tài chính. Nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước hàng năm được bố trí trong Chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch quốc gia.
2.4 Nhà nước cung cấp tín dụng xuất khẩu:
Nhà nước cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, nhất là các chương trình cấp tín dụng ưu đãi cho thuế xuất khẩu. Trong đó xác định đối tượng cho vay là: Những doanh nghiệp Việt Nam có dự án sản xuất, chế biến, gia công hàng xuất khẩu mà phương án tiêu thụ sản phẩm của dự án đạt kim ngạch xuất khẩu ít nhất bằng 30% doanh thu hàng năm; những đơn vị có nhu cầu vay vốn đầu tư vào các dự án liên doanh sản xuất, chế biến, gia công hàng xuất khẩu mà phương án tiêu thụ sản phẩm của dự án liên doanh đạt kim ngạch xuất khẩu ít nhất bằng 80% doanh thu hàng năm. Các hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu gồm: tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trung và dài hạn; tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn và xử lý rủi ro.
3. Chính sách về thể chế - tổ chức
Trong thời gian qua, nước ta đã tiến hành rất nhiều biện pháp liên quan đến thể chế - tổ chức để xúc tiến xuất khẩu, như:
Thể chế hoá các chính sách và biện pháp khuyến khích xuất khẩu
Tích cực đàm phán, ký kết hợp đồng thương mại song phương-đa phương ...tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu.
Gia nhập ký kết các hiệp ước quốc tế để tạo điều kiện thúc đẩy tự do buôn bán.
Cải cách thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu
Cử phái đoàn thương mại ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, tiến hành PR, tham dự hội chợ triển lãm.
Ban hành biện pháp, chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
Xây dựng chiến lược, định hướng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu.
Thành lập trung tâm cung cấp thông tin cho nhà xuất khẩu.
Đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp đỡ cho nhà xuất khẩu.
Tiến hành PR ở nước ngoài.
Tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài.
Cử phái đoàn ra nước ngoài nghiên cứu thị trường.
Lập văn phòng đại diện ở nước ngoài.
4. Chính sách liên quan đến tạo nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu
Chính sách này được thể hiện ở 3 mặt sau:
Một là, chuyển hoàn toàn, chuyển nhanh, chuyển mạnh sang sản xuất và xuất khẩu hàng chế biến sâu, giảm tới mức tối đa xuất khẩu hàng nguyên liệu và giảm tới mức thấp các mặt hàng sơ chế.
Hai là, phải mở ra các mặt hàng hoàn toàn mới. Chuyển từ xuất khẩu thô sang chế biến đối với các sản phẩm đã có như chuyển từ dầu thô và khí sang xăng, phân bón; chuyển từ nông sản thô sang nông sản chế biến; chuyển từ lắp ráp điện tử sang chế tạo và sản xuất linh kiện…Bên cạnh đó, mở ra các mặt hàng hiện nay chưa có nhưng tiềm năng và triển vọng phù hợp xu hướng tiêu dùng quốc tế, đó là các sản phẩm kỹ thuật điện tử, máy công nghiệp, dịch vụ…và các sản phẩm trí tuệ như tạo phần mềm máy tính. Cần chú trọng tới các sản phẩm mà khi sản xuất có thể khai thác được các nguồn lực dồi dào sẵn có ở Việt Nam.
Ba là, chuyển sang chế biến và mở ra các mặt hàng mới dạng chế biến sâu nhưng không thể thực hiện bằng “tự lực cánh sinh” do điều kiện kỹ thuật lạc hậu, thị trường tiêu thụ không lớn. Điều này có thể thực hiện được thông qua các biện pháp cơ bản là hợp tác, liên doanh…với nước ngoài.
III. Căn cứ xây dựng chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020
1. Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam và bối cảnh Quốc tế
Tình hình đất nước
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm. Năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.200 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Ðạt được những thành tựu nêu trên là nhờ phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động sáng tạo của toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Ðảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế. Tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết có hiệu quả những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi.
Từ thực tiễn phát triển đất nước và kết quả thực hiện Chiến lược 10 năm qua có thể rút ra các bài học chủ yếu: Một là, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Hai là, đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Ba là, bảo đảm độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước. Bốn là, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
1.2. Bối cảnh quốc tế
Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Trong thập niên tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, nạn khủng bố có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên... buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động.
Các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu; mặt khác, ASEAN cũng đang phải đối phó với những thách thức. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên... Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh và do đó, con người và tri thức trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện những liên kết mới. Vị thế của châu Á, nhất là Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Mặt khác, khủng hoảng còn để lại hậu quả nặng nề, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu phục hồi nhưng đà tăng trưởng trong những năm đầu còn yếu, độ rủi ro và tính bất định còn rất lớn. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế nêu trên tạo cho nước ta vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong thời kỳ chiến lược tới.
2. Cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại
2.1 Thực hiện các cam kết khi gia nhập ASEAN
Sau khi chính thức gia nhập ASEAN (7-1995), Việt Nam đã tích cực tham gia vào mọi hoạt động của ASEAN và đã đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các phương hướng hợp tác và phát triển của khu vực và trong các quyết sách lớn của ASEAN. Việt Nam đặc biệt cũng tham gia tích cực vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Một số cam kết về chính sách thương mại hàng hóa của Việt Nam đã được thực hiện đúng lộ trình:
2.1.1 Về thuế quan
Khi gia nhập ASEAN (năm 1995), chúng ta đã cam kết thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước trong khu vực. Như vậy, từ năm 1996, Việt Nam bắt đầu cắt giảm thuế nhập khẩu và trong vòng 10 năm, tức là đến năm 2006 đã giảm dần thuế nhập khẩu từ các nước trong khu vực xuống chủ yếu còn từ 0% - 5%. Tháng 8 năm 2008, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định về việc ban hành biểu thuế nhập khẩu ưu đãi của Việt Nam để thực hiện hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN giai đoạn 2008 – 2013. Theo quyết định này, tiến hành điều chỉnh thuế nhập khẩu đối với hàng nghìn mặt hàng như: tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm, đồ cổ; đồ nội thất; đồng hồ; dụng cụ, thiết bị quang học, nhiếp ảnh, điện ảnh; động vật sống; thịt và phụ phẩm từ thịt; rau; quả; gạo… có mức thuế 0 - 5% trong giai đoạn 2008 - 2013.
Tuy nhiên, một số mặt hàng trong biểu thuế lại được giảm dần mức thuế như một số loại: lúa gạo, bưởi, chanh, trứng gà, trứng vịt chịu thuế 30% (năm 2008) và giảm xuống 5% (vào năm 2013); các chế phẩm từ thịt như xúc xích, thịt đóng hộp… được giảm từ 40% (2008) xuống 5% (2013); đường mía, đường trắng sẽ giảm dần từ 20% xuống 5%...
Quyết định cũng quy định hàng hoá nhập khẩu được áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN (viết tắt là thuế suất CEPT) phải đáp ứng đủ các điều kiện: Thuộc Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành. Tất cả các loại hàng hóa phải được nhập khẩu từ các nước thành viên ASEAN như Brunei, Myanmar, Singapore, Thái Lan… thỏa mãn yêu cầu xuất xứ ASEAN, được xác nhận xuất xứ hàng hóa, vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN đến Việt Nam (theo quy định của Bộ Công thương)… được hưởng mức thuế ưu đãi trên.
Thực hiện cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (viết tắt là CEPT/AFTA), đến năm 2015, Việt Nam sẽ cơ bản xóa bỏ thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ ASEAN (một số dòng thuế linh hoạt vào năm 2018). Riêng năm 2010, Việt Nam áp dụng mức thuế suất 0-5% cho khoảng 99% số dòng thuế, trong đó 57% số dòng thuế có mức thuế suất CEPT là 0%.
2.1.2 Rào cản phi thuế quan
Đối với các mặt hàng thuộc IL (danh mục giảm thuế) và SEL (hàng nông sản nhạy cảm), tất cả các hàng rào phi thuế quan đã được loại bỏ theo lộ trình: 1996-2006, bao gồm:
Các hạn chế số lượng quota, giấy phép và cấm Các hạn chế về ngoại tệ liên quan đến việc thanh toán các hàng hoá thuộc CEPT sẽ được loại bỏ (1996).
Các khoản thuế phụ thu được loại bỏ (1996-1999).
Các hàng rào phi thuế quan khác được loại bỏ (1996-2006)
2.2 Cam kết khi gia nhập APEC
2.2.1 Về thuế quan
Từ ngày 1/1/1999, Việt Nam thực thi Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu mới. Theo đó, có ba loại thuế gồm thuế Tối huệ quốc, Thuế phi Tối huệ quốc và thuế ưu đãi. Số các mức thuế cũng sẽ được điều chỉnh, thuế suất cũng tiếp tục giảm để đạt mục tiêu của APEC vào 2020. Việt Nam cũng cam kết sẽ hướng tới chính sách thương mại mở bằng việc liên tục giảm mức thuế và nâng cao tính minh bạch của biểu thuế, làm cho biểu thuế phải phù hợp với biểu HS.
2.2.2 Rào cản phi thuế quan
Trên cơ sở tự nguyện, Việt Nam đã loại bỏ dần dần các rào cản phi thuế. Theo như cam kết thì hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý sẽ được hệ thống hoá trong biểu HS. Chúng ta đã từng bước chuyển những sản phẩm quản lý bằng giấy phép nhập khẩu hoặc hạn chế số lượng sang quản lý bằng hệ thống cấp giấy phép tự động về trung hạn. Việt Nam cũng đã tiến hành bãi bỏ nhập khẩu thông qua các đầu mối đối với xăng dầu và phân bón về dài hạn, tự do hoá xuất khẩu gạo, hạn chế phạm vi của các đầu mối (đặc quyền) trong xuất khẩu và trên cơ sở tự nguyên cũng đã dần dần đơn giản hoá sự quản lý của các Bộ đối với nhập khẩu.
2.3 Cam kết khi gia nhập WTO
Trong khuôn khổ WTO, Việt Nam đã thực hiện đúng các quy định chủ yếu về cắt giảm thuế quan và phi thuế quan đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam như sau:
Về trợ cấp nông nghiệp: bỏ toàn bộ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản ngay khi gia nhập; với các khoản hỗ trợ trong nước được duy trì ở mức 10% giá trị sản lượng như các nước đang phát triển khác trong WTO (mức hỗ trợ trong nước thực tế hiện nay đang thấp hơn 10%).
Về trợ cấp công nghiệp: xóa bỏ từ thời điểm gia nhập các khoản trợ cấp bị cấm (trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu) chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước. Riêng các khoản trợ cấp bị cấm đang áp dụng với ngành dệt may đã bỏ ngay từ thời điểm gia nhập.
Đến năm 2011, sẽ có 924 mặt hàng chủ yếu được cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm thuế các mặt hàng này là theo cam kết khi gia nhập WTO. Các mặt hàng được cắt giảm thuế nhập khẩu lần này chủ yếu là các sản phẩm nông thủy sản, vật liệu xây dựng, điện tử, điện lạnh… Mức giảm dao động trong khoảng 1 - 6%. Trong đó, mức giảm chủ yếu là 2% - 3%. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu này sẽ góp phần đa dạng hóa thị trường nội địa với các mặt hàng xuất nhập khẩu, tạo điều kiện để người tiêu dùng thêm sự lựa chọn.
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
3.1 Quan điểm phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020
3.1.1 Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.2 Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Phải tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu. Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh, trở thành một động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.3.1.3 Phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả. Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
3.2 Mục tiêu về kinh tế - xã hội
3.2.1 Về kinh tế Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với các vùng kinh tế; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh hàm lượng nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 - 3.200 USD. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.3.2.2 Về văn hóa, xã hội Xây dựng xã hội đồng thuận, dân chủ, kỷ cương, công bằng, văn minh. Ðến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 1,1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân(1), thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2 - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xóa nhà ở đơn sơ, tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng/người. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ðến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân.Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.
IV. Định hướng hoàn thiện chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam
1. Thực hiện các biện pháp đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, đa phương hóa thị trường xuất khẩu
Đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu: Chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc trong thời gian qua là đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, đây là một chính sách khá hợp lý. Thành công của Trung Quốc là ở chỗ xác định được các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt hiệu quả kinh tế cao dựa trên cơ cấu sản xuất trong nước và phù hợp với thị trường thế giới. Đồng thời, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu bằng cách tăng cường sản xuất những mặt hàng mới đáp ứng những thay đổi về nhu cầu trên thị trường thế giới, luôn lấy nhu cầu thị trường làm nguyên tắc hướng đạo. Chính sự đa dạng về chủng loại hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc đã đưa hàng xuất khẩu của Trung Quốc đến các thị trường khắp nơi trên thế giới. Điểm nổi bật trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc là tỷ trọng của các sản phẩm thuộc ngành có kỹ thuật cao như: điện tử, tin học, máy tính, thông tin, quang học, hàng không và vũ trụ, công nghệ sinh học và siêu âm không ngừng tăng lên. Điều này là do chính sách đầu tư vốn và công nghệ tiên tiến đúng đắn, có trọng điểm. Trung Quốc nhận thấy rằng đa dạng hóa hoàn toàn không có nghĩa là đầu tư phát triển tràn lan tất cả các loại mặt hàng mà cần phải dành những khoản đầu tư tương đối lớn để phát triển một số sản phẩm chủ lực, nhất là những sản phẩm đã tìm được thị trường lớn và có nhiều triển vọng phát triển. Đây chính là một bài học mà Việt Nam cần phải áp dụng trong quá trình cải cách cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Chúng ta nên cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng mới, các mặt hàng sản xuất do bị hạn chế về cơ cấu (diện tích, năng suất, thời tiết…) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng nhưng có khả năng tăng trưởng cao và có kim ngạch xuất khẩu lớn, những mặt hàng có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như giải quyết nhiều công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội như các sản phẩm chế biến từ nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp chế biến: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử, sản phẩm nhựa, dây cáp điện…
Bên cạnh việc đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh. Để thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu theo hướng trên cần có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, chính sách ưu tiên, ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng đó. Mặt khác, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và vay nợ, viện trợ đều ưu tiên cho đầu tư phục vụ cho xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng cần tập trung sự cố gắng vào xuất khẩu một số sản phẩm thô và sơ chế dựa trên lợi thế so sánh sẵn có do điều kiện tự nhiên mang lại.
Đa phương hóa thị trường xuất khẩu: Chính sách đa dạng hóa thị trường đã góp một phần không nhỏ vào thành tựu xuất khẩu của Trung Quốc trong thời gian qua. Cũng như Trung Quốc, Việt Nam nhận thấy cần phải đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hóa thị trường và năng động tìm kiếm bạn hàng. Trong thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách này nhưng hiệu quả vẫn chưa được như mong muốn. Điều này phần nào thể hiện qua việc Việt Nam “đánh mất” thị trường Nga trong nhiều mặt hàng cho hàng hóa Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ dù đây là thị trường truyền thống và dễ tính, chính vì vậy việc giành lại thị trường này hiện nay vẫn rất khó khăn; hay qua việc Việt Nam có lúc đã tập trung quá mức xuất cá basa vào thị trường Mỹ mà không đồng thời khai phá thị trường mới dẫn đến việc khi xảy ra tranh chấp thì các doanh nghiệp lúng túng cho việc tìm thị trường. Trong thời gian tới, Việt Nam nên:
- Trước hết cần phải chú ý tới các thị trường trọng điểm, bạn hàng lớn, đặc biệt là thị trường, bạn hàng các nước khu vực ASEAN, khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và khu vực EU. Bên cạnh đó, cần hết sức quan tâm tới thị trường liền kề là Trung Quốc khi mà thị trường này đã tăng “độ mở” sau khi vào WTO.
- Đối với các thị trường mới như thị trường Trung Đông, Nam Á, Châu Phi, chúng ta nên áp dụng các chiến lược như “ nhen nhóm”, “bổ khuyết”, “cát cứ” mà Trung Quốc đã áp dụng thành công.
- Khắc phục tình trạng phải xuất khẩu qua thị trường trung gian làm giảm hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Trong thời gian tới phấn đấu giảm dần thị trường trung gian mà tiến tới tập trung quan hệ buôn bán trực tiếp vào các khu vực thị trường ổn định, vững chắc và lâu dài.
2. Khuyến khích đầu tư trong nước
Trung Quốc chủ trương khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu đến mức tối đa, áp dụng rất nhiều ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Chúng ta cũng nên đưa chủ trương khuyến khích phát triển hàng xuất khẩu thể hiện đầy đủ và rõ nét hơn trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước theo nguyên tắc “Sản xuất hàng xuất khẩu phảu được đặt ở vị trí ưu tiên số một, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho hàng xuất khẩu”. Bên cạnh đó, cũng phải xem xét tới sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, nên dành ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà cụ thể nên điều chỉnh những ưu đãi dành cho doanh nghiệp trong sản xuất hàng xuất khẩu và tiến tới hợp nhất luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước thành luật đầu tư.
Nhằm mục đích khuyến khích mạnh mẽ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu và thay đổi tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu, xin kiến nghị việc sửa đổi luật khuyến khích đầu tư trong nước làm cho tính định hướng xuất khẩu rõ nét hơn và khuyến khích việc xuất khẩu hơn, có tỷ trọng chế biến cao.
3. Thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cũng giống như ở Trung Quốc, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua đã đóng góp tích cực cho hoạt động ngoại thương Việt Nam. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng đóng góp vai trò đáng kể trong việc thực hiện nhập khẩu công nghệ hiện đại theo định hướng cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam. Thông qua hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp này, nước ta đã nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiến bộ trong nhiều ngành kinh tế như: thông tin viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy. Trong đó, có những ngành công nghệ có chất lượng cao và đạt mức tiên tiến của thế giới như: công nghệ trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông. Mặc dù phần lớn công nghệ chuyển giao vào nước ta là công nghệ trung bình của thế giới nhưng nó đã có tiến bộ rất nhiều so với những công nghệ đã có từ trước đó, và nếu không có FDI thì bản thân các doanh nghiệp trong nước khó có thể đạt được trong một thời gian ngắn như vậy. Đây thực sự là đóng góp quan trọng của FDI, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam.
Trong thời gian tới, để thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài vào hoạt động ngoại thương, Việt Nam cần chú ý giải quyết tốt những điểm sau :
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, Nhà nước có vai trò quan trọng trong hoạch định chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu từng thời kỳ trên cơ sở đó bố trí cơ cấu vốn đầu tư một cách hợp lý, thu hút đầu tư vào những ngành, vùng theo mục tiêu định hướng tránh tình trạng tự phát.
- Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hoá môi trường kinh tế vĩ mô
Khi nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh thì ổn định kinh tế và chính trị là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là với những nền kinh tế mới chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. Chính trị có ổn định thì đời sống kinh tế xã hội trong nước mới có điều kiện phát triển. Trong những năm vừa qua, nước ta dưới sự lãnh đạo thống nhất và xuyên suốt của Đảng vẫn được dư luận thế giới đánh giá cao về sự ổn định của môi trường chính trị.
Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế theo hướng tích cực cũng là tiền đề cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI. Môi trường kinh tế vĩ mô tốt cho đầu tư bao hàm sự lành mạnh về giá cả hàng hoá nguyên vật liệu, về giá trị đồng tiền và tỉ giá hối đoái, về hoạt động của hệ thống ngân hàng, thị trường vốn, cơ chế tổ chức quản lý nền kinh tế.
Một nền kinh tế thị trường thực sự phát triển, có hệ thống thị trường đồng bộ, một môi trường chính trị ổn định sẽ là một nhân tố tích cực đối với việc tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam, góp phần thu hút nhiều hơn vốn FDI từ các nước phát triển.
- Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư
Có thể tiến hành một số biện pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức thu hút vốn nước ngòai, ban hành một số cơ chế chính sách thông thoáng hơn nữa về môi trường đầu tư, nâng cao hiệu quả và năng lực tiến hành hoạt động FDI…
4. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu
Chính sách quản lý xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc luôn được thực hiện theo xu hướng tự do hóa thương mại, xóa bỏ dần những cản trở đối với hoạt động xuất khẩu, tạo mọi điều kiện cho hoạt động xuất khẩu. Học tập kinh nghiệm từ Trung Quốc, chúng ta nên thấy rằng:
Trước hết, cần phải đổi mới quan điểm, luận cứ khi xây dựng cơ chế điều hành xuất nhập khẩu: Thống nhất nội dung quản lý Nhà nước bằng cách chuẩn hoá các nội dung về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá theo quy định quốc tế; thống nhất quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật; hoàn thiện luận cứ khoa học của việc đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hoá; đổi mới sự phân công và phối hợp giữa cơ quan liên quan đến nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Để thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam, Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế điều hành xuất nhập khẩu. Đó là xây dựng chính sách về xuất nhập khẩu ổn định cho nhiều năm, từ đó cụ thể hoá cho điều hành từng thời kỳ, đảm bảo sự thống nhất theo các chương trình mục tiêu dài hạn đã định của Nhà nước; cần nhanh chóng tự do hoá xuất khẩu tất cả những mặt hàng không phải là quốc cấm, không nên quản lý giá với hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, cần ban hành các chính sách cụ thể về ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Mặc dù hiện nay, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ra thông tư về việc các ngân hàng thương mại quốc doanh có trách nhiệm ưu tiên về mức vốn vay đối với các đơn vị sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu, tuy nhiên thông tư lại không quy định rõ ràng và cụ thể chỉ nói chung chung “khuyến khích tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn”. Do vậy, việc cần làm là phải quy định cụ thể một tỷ trọng vốn vay dài hạn và trung hạn trên tổng dư nợ và một khung lãi suất cố định theo từng thời kỳ nhằm làm việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu dễ dàng hơn, tránh gây mập mờ dẫn đến tiêu cực.
Nên thành lập các Quỹ bảo hiểm xuất khẩu và Quỹ hỗ trợ đầu tư. Hình thức bảo hiểm xuất khẩu mới được áp dụng thí điểm tại Việt Nam, trong khi thực tiễn kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều rủi ro. Do vậy, áp dụng biện pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là cần thiết và phù hợp với các quy định của WTO, cần được triển khai nhanh và đồng bộ.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho xuất khẩu như thưởng xuất khẩu, thưởng thành tích xuất khẩu... bị bãi bỏ. Cần sử dụng nguồn vốn này và bổ sung thêm để thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư: (1) nghiên cứu, cải tạo giống cây trồng, vật nuôi; (2) đổi mới, chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản hàng hoá xuất khẩu; (3) đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu.
Điều tiết tỷ giá hối đoái, lạm phát
Trung Quốc đã rất thành công khi sử dụng chính sách tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu. Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp thực tế đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác đặc biệt với đồng USD để tạo lợi thế thương mại ngắn hạn. Do sức ép từ nhiều phía, đặc biệt là từ Mỹ, Trung Quốc đã có nâng giá đồng NDT của mình, nhưng vẫn chưa đạt tới giá trị thực của nó. Đối với Việt Nam, chúng ta nên điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho thu hút được vốn nước ngoài và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý. Để việc phá giá tỷ giá hối đoái khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập siêu có hiệu quả và không làm ảnh hưởng quá lớn đến lạm phát làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nói chung cần thực hiện cơ chế lãi suất hợp lý đi kèm với việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát tín dụng như dự trữ bắt buộc, công cụ thị trường mở một cách linh hoạt. Nước ta là một nước nhỏ nên hiệu ứng từ việc phá giá đến xuất khẩu là không lớn trong khi áp lực lên lạm phát là rõ rệt hơn nên cần cân nhắc mức độ phá giá ở mức hợp lý khi điều hành tỷ giá trong các bối cảnh cụ thể để tránh áp lực lạm phát quá lớn gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế nói chung.
5. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu
Chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam để từ đó tạo nên những làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng. Đổi mới công tác tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm (ASEAN, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc) có kim ngạch nhập khẩu lớn…, các mặt hàng trọng điểm mà khả năng sản xuất trong nước không bị hạn chế, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước như: hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm cao su, hàng thực phẩm chế biến, hoá mỹ phẩm, sản phẩm cơ khí, dịch vụ phần mềm… nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc tiến thương mại đối với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu.
6. Đẩy nhanh hội nhập vào các liên kết kinh tế khu vực và thế giới
Trong thời gian tới Việt Nam cần có những bước đi nhanh hơn nữa để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việc hội nhập này ngoài ý nghĩa là sẽ mở ra những khu vực thị trường mới, đem lại những điều kiện mậu dịch dễ dàng hơn cho hàng hóa Việt Nam thì quan trọng hơn là nó sẽ tạo ra những động lực để ngoại thương nói riêng, cả nền kinh tế Việt Nam nói chung có những chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế hay nói cách khác điều đó sẽ giúp Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường mở hoàn thiện hơn qua đó tạo cho ngoại thương môi trường lành mạnh hơn, cạnh tranh hơn để phát triển. Bởi vì muốn hoà nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế và các khu vực trên đây, trước hết Việt Nam phải đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật ngoại thương cho phù hợp, xây dựng một lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và với cam kết quốc tế về giảm thuế quan, thuế hoá đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia, lịch trình bảo hộ, công bố công khai để các ngành có hướng sắp xếp sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh; chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu; tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu các kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của Nhà nước trong hoạch định chính sách và đưa ra những biện pháp tổng thể vĩ mô là rất quan trọng đối với hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói riêng. Hơn thế nữa, Chính phủ Trung Quốc rất linh hoạt trong việc tạo lập và thực hiện các chính sách bởi vì tuy Trung Quốc cũng là một nước đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế bản thân họ cũng phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, nhưng từ việc học hỏi đó Trung Quốc lại tự mình xây dựng các chính sách và thực thi các biện pháp phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển của chính ngoại thương Trung Quốc đồng thời cũng đáp ứng được với xu hướng phát triển chung của thời đại. Các chính sách khuyến khích xuất khẩu không bị ép theo một khuôn mẫu phát triển nào, mà linh hoạt vận động chuyển biến theo thực tiễn. Một điểm khác rất đáng lưu ý là, khi áp dụng một chính sách hoặc biện pháp Trung Quốc thường tiến hành thí điểm trên quy mô nhỏ để thử nghiệm, sau đó nếu thành công mới nhân rộng trên quy mô lớn nhờ vậy mà sẽ có điều kiện điều chỉnh kịp thời nếu chưa phù hợp. Về thực chất là Trung Quốc tiến hành cải cách ngoại thương, thúc đẩy xuất khẩu với những bước đi thận trọng, vững chắc. Việt Nam cũng nên lưu ý điểm này.
Là một nước đi sau, lại là một nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” với nhiều yếu tố tương đồng, Việt Nam có nhiều ưu thế trong việc tham khảo tình hình thực tiễn của Trung Quốc để từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm, tìm tới những gợi mở về chiến lược phát triển xuất khẩu phù hợp với đất nước, tránh những sai lầm và hạn chế mà Trung Quốc đã gặp phải. Hy vọng rằng Việt Nam với truyền thống ham học hỏi, tìm tòi và sẵn sàng tiếp thu cái mới sẽ vận dụng một cách sáng tạo những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, tìm được lối đi riêng trong điều kiện cụ thể của mình để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước trong những năm tới.
Việc nghiên cứu về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, thành công cũng như thất bại, để Việt Nam học tập và tìm ra con đường riêng của mình là vấn đề không dễ, đòi hỏi phải được xem xét tổng thể trên nhiều góc độ. Trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp này, với vốn kiến thức và nguồn tài liệu cũng như thời gian còn hạn chế, người viết khó tránh khỏi còn những chỗ thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
yyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.doc