Tăng cường đầu tư thâm canh, cải tạo đất đai, hầu hết các hộ nông dân đều
không tưới nước và rất ít bón phân làm cho chuối kém phát triển, buồng nhỏ, không
được thu mua, không đtạ hiệu qảu kinh tế cao, vì vậy người nông dân cần có ý thức,
nắm rõ đặc điểm của cây chuối để trồng có hiệu quả và bền vững.
- Người dân cần chủ động nắm bắt thông tin thị trường thông qua các phương
tiện truyền thông địa chúng tránh để các thương lái và những người thu gom có cơ hội
chèn ép giá, làm mình trở thành đối tượng chịu thiệt hại.
- Cần có mối quan hệ hợp tác lâu dài với một đối tượng thu mua nhằm đảm bảo
tính ổn định cho đầu ra của sản phẩm mình, tránh những rủi ro.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chuỗi cung sản phẩm chuối trên địa bàn huyện hướng hóa tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thấp là do hoạt động mua – bán giữa
2 tác nhân này không được diễn ra thường xuyên, các thương lái chỉ đến thu mua vào
những ngày 10 – 13 âm lịch hàng tháng và những ngày giáp Tết nhằm mục đích cung
cấp cho người tiêu dùng các loại chuối để thờ cúng vào dịp Rằm và Tết.
Kênh 3: Những người thu gom tiến hành mua chuối từ người sản xuất để bán
lại cho các điểm cân hoặc những thương lái nhằm phục vụ tiêu dùng trong nước. Khối
lượng chuối tiêu dùng nội địa được xuất bán theo kênh này là rất nhỏ, chỉ chiếm
khoảng 2% tổng sản lượng chuối thu hoạch của hộ. Điều này có thể được giải thích bởi
lý do là những người thu gom nhỏ thực hiện các hoạt động thu mua chuối chủ yếu là
phục vụ cho thị trường chuối xuất khẩu, trong khi đó việc trao đổi mua bán với các
điểm cân và thương lái không được diễn ra thường xuyên, chỉ tập trung vào những
ngày 10 – 13 âm lịch hàng tháng và những ngày giáp Tết nhằm cung cấp sản phẩm
chuối tiêu dùng nội địa.
Thị trường xuất khẩu: So với thị trường trong nước, hoạt động mua – bán
chuối xuất khẩu được tổ chức khá chặt chẽ và có sự phân công rõ ràng giữa các tác
nhân tham gia chuỗi. Sản phẩm chuối ở huyện Hướng Hóa được xuất bán sang thị
trường Trung Quốc và Thái Lan, trong đó thị trường Trung Quốc chiếm đến 95% tổng
khối lượng chuối xuất khẩu. Khác với chuối tiêu dùng nội địa, chuối xuất khẩu là sản
phẩm loại 2 và loại 3, có trọng lượng nhỏ hơn hoặc bằng 10kg/buồng và mức giá bán
của người sản xuất giao động từ 4.200 – 5.000đ/kg. Tham gia vào thị trường xuất khẩu
này có 4 tác nhân chính hoạt động ở trên địa bàn huyện Hướng Hóa, đó là: (1) nông
dân trồng chuối; (2) thu gom quy mô nhỏ; (3) Điểm cân; (4) Đầu mối thu gom (5).
Quan sát ở hình 3 cho thấy, có 2 kênh phân phối sản phẩm chuối xuất khẩu chủ yếu, cụ
thể:
Kênh 1: Hộ nông dân trồng chuối xuất bán trực tiếp cho các điểm cân, sau đó
được các đầu mối thu gom ở trên địa bàn huyện Hướng Hóa đến thu mua để cung cấp
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 54
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
cho các thương lái ở nước ngoài thông qua cửa khẩu Lao Bảo (xuất khẩu sang thị
trường Thái Lan) và cửa khẩu Hà Thanh (xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc). Số
liệu ở sơ đồ 7 cho thấy, khối lượng chuối xuất khẩu sang thị trường nước ngoài chủ
yếu đi theo kênh này, chiếm đến 80% tổng sản lượng chuối thu hoạch.
Kênh 2: Chuối được bán cho những người thu gom nhỏ, sau đó được bán lại
cho những đầu mối thu gom lớn ở huyện Hướng Hóa để xuất khẩu qua thị trường Thái
Lan và Trung Quốc. Khối lượng sản phẩm chuối xuất khẩu đi theo kênh này là khá
thấp, chỉ chiếm khoảng 5% tổng sản lượng chuối thu hoạch của hộ. Khác với thị
trường tiêu thụ nội địa, những người thu gom chuối quy mô nhỏ hoạt động ở thị
trường xuất khẩu có vai trò giống như các điểm cân chuối. Họ có mối quan hệ trao đổi
hàng hóa khá chặt chẽ với những đầu mối thu gom lớn, đồng thời được xem như là
những người hỗ trợ, giúp việc cho các đầu mối trong việc thu mua sản phẩm. Theo ý
kiến của chính những người thu gom, cứ mỗi đầu mối thu gom sẽ có khoảng 25 – 30
người thu gom quy mô nhỏ cam kết, hợp tác chặt chẽ và lâu dài trong việc trao đổi
mua bán sản phẩm chuối xuất khẩu.
2.3.3.2. Phân tích kinh tế chuối cung chuối huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng
Trị
Nghiên cứu lựa chọn 2 kênh phân phối chính, đại diện cho 2 thị trường tiêu thụ
sản phẩm chuối, bao gồm thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu nhằm làm rõ vị thế
tài chính, sự phân chia lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị. Ở thị
trường xuất khẩu, nghiên cứu lựa chọn kênh thứ nhất với sự tham gia của 3 tác nhân
chính: hộ nông dân trồng chuối; điểm cân và đầu mối thu gom. Đây được xem là kênh
phân phối chủ đạo và chi phối toàn bộ thị trường tiêu thụ sản phẩm chuối ở trên địa
bàn huyện Hướng Hóa của tỉnh Quảng Trị, với sản lượng tiêu thụ chiếm đến 80% tổng
sản lượng chuối thu hoạch. Đối với thị trường tiêu thụ nội địa, kênh thứ nhất được đưa
vào phân tích, với 3 tác nhân chính: hộ nông dân trồng chuối; điểm cân; thương lái.
Sản lượng chuối tiêu thụ theo kênh này chiếm 10% tổng sản lượng thu hoạch và chiếm
71,43% sản lượng chuối xuất bán ở thị trường nội địa.
Số liệu ở bảng 14 chỉ ra rằng doanh thu biên của toàn bộ chuỗi giá trị đối với
1kg chuối xuất bán sang thị trường Trung Quốc là 10.700 đồng, trong đó chi phí tăng
thêm trên 1kg chuối là 3.547 đồng, chiếm 33,15% doanh thu biên của toàn bộ chuỗi và
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 55
Đạ
i
ọc
K
inh
tế
H
ế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
lợi nhuận là 7.153 đồng/kg, chiếm 66,85% doanh thu biên của chuỗi giá trị. Đóng góp
lớn nhất vào chi phí tăng thêm của 1kg chuối là các hộ nông dân trồng chuối, tương
ứng với 2.250đồng, chiếm 63,43% tổng chi phí tăng thêm. Tác nhân đầu tư chi phí
thấp nhất của chuỗi đó chính là các điểm cân (150đồng/kg, chiếm 4,23%).
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 56
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Bảng 14: Vị thế tài chính của các thành phần tham gia chuỗi cung chuối xuất khẩu
(Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu điều tra năm 2016)
Thị
trường
Thành phần
tham gia chuỗi
Chi phí
Đơn giá
Lợi nhuận Doanh thu
Tổng
chi
phí
Chi
phí
tăng
thêm
% Chi
phí
tăng
thêm
Lợi
nhuận
% Tổng
lợi
nhuận
Doanh
thu biên
% Doanh
thu biên
Trung
Quốc
Nông dân 2.250 2.250 63,43 5.100 2.850 39,84 5.100 47,66
Điểm cân 5.250 150 4,23 6.000 750 10,49 900 8,41
Đầu mối thu gom 7.147 1.147 32,34 10.700 3.553 49,67 4.700 43,93
Tổng cộng 3.547 100 7.153 100 10.700 100
Thái
Lan
Nông dân 2.250 2.250 78,07 4.200 1.950 49,77 4.200 61,76
Điểm cân 4.350 150 5,20 5.000 650 16,59 800 11,76
Đầu mối thu gom 5.482 482 16,72 6.800 1.318 33,64 1.800 26,47
Tổng cộng 2.882 100 3.918 100 6.800 100
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 57
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Mặc dù chi phí tăng thêm của người trồng chuối chiếm 63,43% tổng chi phí gia
tăng nhưng tỷ lệ lợi nhuận mà họ nhận được chỉ chiếm 39,84% tổng lợi nhuận thu
được từ 1kg chuối của toàn bộ chuỗi bán ở thị trường Trung Quốc. Trong khi đó, tỷ lệ
chi phí tăng thêm mà những đầu mối thu gom chuối bỏ ra chỉ chiếm 32,34% nhưng tỷ
lệ lợi nhuận mà họ nhận được từ 1kg chuối bán ra lên tới 49,67%. Như vậy, có thể nói
rằng các đầu mối thu gom không phải là tác nhân giữ vị thế tài chính cao nhất trong
chuỗi nhưng là tác nhân hưởng lợi nhiều nhất từ chuỗi giá trị chuối xuất bán sang thị
trường Trung Quốc. Tác nhân hưởng lợi sau đầu mối thu gom chính là các điểm cân,
và cuối cùng là hộ nông dân trồng chuối.
Các trật tự về vị thế tài chính, lợi ích của những tác nhân tham gia vào chuỗi giá
trị chuối xuất khẩu sang thị trường Thái Lan cũng không có sự thay đổi nhiều so với
chuỗi giá trị chuối xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Mặc dù tỷ lệ lợi nhuận thu
được từ 1kg chuối xuất khẩu ở thị trường này có sụt giảm do giá bán thấp, nhưng các
đầu mối thu gom vẫn là người hưởng lợi cao nhất. Trong khi đó, nông dân vẫn là tác
nhân hưởng lợi thấp nhất trong số những tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị.
Ở thị trường nội địa, doanh thu biên của toàn bộ chuỗi giá trị đối với 1kg chuối
là cao hơn nhiều so với thị trường xuất khẩu, đạt ở mức 14.500đồng/kg, trong đó chi
phí tăng thêm trên 1kg chuối là 2.770 đồng, chiếm 19,10% doanh thu biên của toàn bộ
chuỗi và lợi nhuận là 11.730đồng/kg, chiếm 80,90% doanh thu biên của chuỗi giá trị.
Tương tự như chuỗi giá trị chuối xuất khẩu, đóng góp lớn nhất vào chi phí tăng thêm
của 1kg chuối vẫn là các hộ nông dân trồng chuối, chiếm đến 81,23% tổng chi phí tăng
thêm. Ở trong chuỗi giá trị chuối tiêu dùng nội địa, các điểm cân đóng vai trò như các
đầu mối thu gom, họ thực hiện đồng thời nhiều chức năng như thu mua, gói hàng hoặc
có thể vận chuyển sản phẩm đến các thương lái ở Quảng Bình, Thừa Thiên Huế và Đà
Nẵng, do đó chi phí tăng thêm cho 1kg chuối cao hơn nhiều so với kênh xuất khẩu.
Bình quân 1kg chuối tiêu dùng nội địa, các điểm cân phải bỏ ra 320đồng, chiếm
11,55% tổng chi phí tăng thêm của toàn bộ chuỗi.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 58
Đạ
i
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Bảng 15. Vị thế tài chính của các thành phần tham gia chuỗi giá trị chuối
ở thị trường nội địa
ĐVT: Đồng/kg
Thành
phần
tham
gia
chuỗi
Chi phí
Đơn
giá
Lợi nhuận Doanh thu
Tổng
chi
phí
Chi
phí
tăng
thêm
% Chi
phí
tăng
thêm
Lợi
nhuận
%
Tổng
lợi
nhuận
Doanh
thu
biên
%
Doanh
thu
biên
Nông
dân
2.250 2.250 81,23 10.000 7.750 66,07 10.000 68,97
Điểm
cân
10.320 320 11,55 12.500 2.180 18,58 2.500 17,24
Thương
lái
12.700 200 7,22 14.500 1.800 15,35 2.000 13,79
Tổng cộng 2.770 100 11.730 100 14.500 100
(Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu điều tra năm 2016)
Số liệu ở bảng 15 cho thấy, các điểm cân chính là tác nhân hưởng lợi cao nhất,
tiếp sau đó là thương lái và cuối cùng là người trồng chuối. Xét về vị thế tài chính thì
hộ trồng chuối giữ vị thế cao nhất trên cả ba khía cạnh chi phí gia tăng, lợi nhuận và
doanh thu biên, nhưng trật tự hưởng lợi vẫn không có gì thay đổi khi họ bán sản phẩm
ở thị trường trong nước. Rõ ràng trồng chuối mang lại lợi nhuận cho người nông dân
nhưng so với các tác nhân khác trong chuỗi thì họ vẫn là người hưởng lợi thấp nhất.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 59
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
Hu
ế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
2.3.3.3. Thông tin trong chuỗi
Trong kinh doanh, các nhà sản xuất, các trung gian phân phối phải nắm bắt
được nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả
hàng hóa để từ đó có thể điều chỉnh quá trình sản xuất sao cho phù hợp với thị hiếu
của người tiêu dùng. Tùy vào từng khâu , từng mắt xích của chuỗi mà có những loại
thông tin cần được quan tâm khác nhau và từng mức độ rõ ràng của thông tin khác
nhau.
Theo chiều dọc
- Thông tin các yếu tố đầu vào như cây giống, phân bón, thuốc BVTV. Người
dân tiếp cận khá dễ dàng vfa chính xác thông qua các cơ sở bán buôn, bà con hàng
xóm. Các cơ sở cung cấp các yếu tố đầu vào luôn quan tâm trao đổi thông tin với hộ
trồng chuối vì đây là khách hàng của họ. Tuy nhiên các thông tin về khoa học kỹ thuật,
chăm sóc, các chương trình dự án sắp triển khai thì người dân ít có cơ hội tiếp cận.
thông thường thì khi nào chính quyền địa phương tổ chức phổ biến cho người dân mới
biết.
- Thông tin về giá cả, chất lượng:
Người nông dân là thành phần trong chuỗi có khả năng thu thập thông tin kém
nhất. Các hộ thu gom nhỏ và đại lý thu gom trao đổi thông tin với hộ trồng chuối chủ
yếu là thông tin về giá cả, số lượng, yêu cầu chất lượng.
Thông tin vê số lượng và giá cả giữa các nhà thu gom với các công ty khá đầy
đủ và rõ ràng. Họ thường xuyên liên lạc với nhau, có thông báo về giá và hợp đồng
khối lượng sản phẩm với nhau. Khi có biến động về giá, sản lượng thì các công ty và
nhà xuất khẩu chuối sẽ gọi điện báo trước cho các nhà thu gom. Từ các thông tin này
mà nhà thu gom có thể quyết định giá mua đối với hộ nông dân.
Theo chiều ngang
Mức độ trao đổi thông tin giữa các tác nhân trong cùng một khâu có sự khác
nhau. Các hộ trồng chuối có mức độ trao đổi thông tin cao, họ thường xuyên trao đổi
những thông tin về kinh nghiệm trồng và chăm sóc, xử lý bệnh,giá bánGiữa các hộ
thu gom nhỏ hay đại lý thu gom chỉ trao đổi với nhau về giá bán và giá mua, tuy nhiên
mức độ trao đổi còn thấp và không thường xuyên.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 60
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Như vây, các hộ thu gom nhỏ, các đại lý và công ty là những người nắm rõ
thông tin hơn cả trong chuỗi, còn hộ trồng chuối là những người nhận thông tin kém
nhất, đa số các hộ nông dân ở Hướng Hóa không có điện thoại, chưa tiếp cận được với
các phương tiện thông tin đại chúng, vì vậy bản thân họ cũng không có khả năng phân
tích thị trường để dự báo mức độ biến động giá cả của thị trường. Dòng thông tin trong
chuỗi còn nghèo nàn, chủ yếu là thông tin về giá cả, đây là vấn đề hạn chế của chuỗi
cung sản phẩm chuối trên địa bàn huyện.
Nhìn chung mức độ trao đổi thông tin giữa các tác nhân trong chuỗi còn hạn
chế, các thông tin có được qua mối quan hệ mua bán trực tiếp giữa các tác nhân trong
chuỗi là chủ yếu. đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến quan hệ
hợp tác giữa các tác nhân, làm giảm hiệu quả kinh tế của chuỗi cung.
2.3.3.4. Tính không bền vững của chuỗi cung sản phẩm chuối ở huyện
Hướng Hóa, Tỉnh quảng Trị
Trong ngắn hạn, hoạt động sản xuất chuối đã trở thành sinh kế quan trọng,
mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân ở huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
Tuy nhiên, khi đi sâu tìm hiểu về cấu trúc thị trường tiêu thụ cũng như thực trạng sản
xuất ở trên địa bàn huyện Hướng Hóa đã cho thấy tính không bền vững của chuỗi giá
trị sản phẩm chuối. Điều này có thể được giải thích bởi các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, quan sát cấu trúc chuỗi giá trị sản phẩm chuối cho thấy mức độ phụ
thuộc vào thị trường tiêu thụ ở Trung Quốc là rất cao, trong khi quy mô tiêu thụ sản
phẩm chuối ở thị trường Thái Lan và nội địa là rất thấp. Sự phụ thuộc hoàn toàn vào
một thị trường dẫn đến giá bán thấp, đồng thời tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro thị trường
tiêu thụ đối với nông dân trồng chuối. Minh chứng cho điều này là từ giữa tháng 2 đến
cuối tháng 9 năm 2015, các nhà nhập khẩu của Trung Quốc đã ngừng thu mua chuối ở
huyện Hướng Hóa và dẫn đến lượng cung sản phẩm bị tồn đọng rất cao, kéo theo giá
bán chuối xuất khẩu sang thị trường Thái Lan cũng như giá bán chuối tiêu dùng nội
địa giảm xuống nghiêm trọng.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 61
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
Hu
ế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Biểu đồ 4. Biến động giá bán sau khi thương lái Trung Quốc ngừng thu mua
chuối ở Hướng Hóa năm 2015.
Nguồn: nongnghiep.vn
Nếu như trước đây khi thị trường Trung Quốc chưa đóng cửa đối với mặt hàng
chuối ở Hướng Hóa, người trồng chuối nhận được 4.000 – 4.200 đồng cho 1kg chuối
xuất khẩu sang thị trường Thái Lan, thì đến thời điểm nhà nhập khẩu Trung Quốc
ngừng thu mua, giá bán giảm xuống chỉ còn 1.200 – 1.800đồng/kg. Đặc biệt nghiêm
trọng hơn, giá bán 1kg chuối loại 1 xuất bán ở thị trường trong nước giảm từ 10.000
đồng xuống còn 3000 đồng. Với mức giá này đã không bù đắp đủ chi phí sản xuất,
người trồng chuối bị thua lỗ nghiêm trọng và dẫn đến mất khả năng tái sản xuất.
Khi được hỏi về lý do thị trường Trung Quốc đóng cửa đối với sản phẩm chuối
ở huyện Hướng Hóa, tất cả các thành phần tham gia chuỗi cũng như cán bộ chính
quyền địa phương đều trả lời là không biết được lý do. Điều này cho thấy thông tin thị
trường tiêu thụ chuối ở Trung Quốc là không hoàn hảo, thậm chí người trồng chuối và
những tác nhân tham gia thu gom chuối cũng không biết mục đích Trung Quốc thu
mua chuối ở Hướng Hóa là để làm nguyên liệu chế biến hay tiêu dùng trực tiếp.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 62
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Sơ đồ 8. Cây vấn đề của chuỗi cung chuối ở huyện Hướng Hóa
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, phỏng vấn năm 2016
Nông dân ngừng sản
xuất
Nguy cơ phá vỡ ngành chuối ở
huyện Hướng Hóa
Tính không bền vừng của chuỗi cung sản phẩm
chuối ở Hướng Hóa
Rủi ro thị
trường
Sự phụ thuộc
thị trường tiêu
thụ ở Trung
Quốc
Tính bất ổn
trong thu mua
Không có
cam kết, hợp
đồng
Thị trường tự
phát
Nhu cầu tiêu
dùng nội địa
thấp
Thiếu quy
hoạch sử
dụng đất
Tính không bền
vững của thị
trường tiêu thụ
Thái Lan
Không có
chính sách về
thị trường và
xúc tiến thương
mại
Không nhận
được các dịch
vụ khuyến nông
Thái Lan có
nguồn cung
chuối dồi
dào và chất
lượng cao
Thông tin thị
trường không
hoàn hảo
Nhập khẩu
chuối chất lượng
thấp và giá rẻ để
phục vụ chăn
nuôi
Kỹ thuật
canh tác của
người dân
tộc thiểu số
còn lạc hậu
Chưa có
giống mới
thay thế
Suy thoái đất
canh tác
Nguồn cung
không bền
vững
Bệnh héo rũ
panama đang xuất
hiện cảng nhiều
Chưa có
chính sách
phát triển
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 63
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Đối với thị trường tiêu thụ ở Thái Lan, nguồn cung sản xuất chuối trong nước
của Thái Lan khá dồi dào với nhiều giống chuối có chất lượng cao, do đó sản phẩm
chuối của huyện Hướng Hóa rất khó cạnh tranh được sản phẩm chuối của Thái Lan về
chất lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người Thái. Theo ý kiến của một số đầu
mối thu gom, các trang trại sản xuất nông nghiệp ở vùng Đông Bắc Thái Lan (nơi có
EWEC đi qua) đã nhận biết giá xuất khẩu chuối ở huyện Hướng Hóa sang thị trường
Trung Quốc là tương đối thấp, vì vậy họ đã tiến hành thu mua sản phẩm chuối có chất
lượng thấp (chuối loại 3) được trồng ở huyện Hướng Hóa nhằm phục vụ chế biến thức
ăn chăn nuôi gia súc. Theo nhận định của người Thái, mức giá chuối nhập khẩu thấp
hơn nhiều so với chi phí đầu tư thức ăn chăn nuôi công nghiệp, trong khi hàm lượng
dinh dưỡng giữa chuối và thức ăn công nghiệp là như nhau. Như vậy, rõ ràng nhu cầu
của thị trường Thái Lan đối với sản phẩm chuối ở Hướng Hóa là sản phẩm nhập khẩu
có chất lượng thấp và giá rẻ, dẫn đến giá trị xuất khẩu thấp và tính bền vững của thị
trường là không cao.
Thứ hai, kỹ thuật canh tác của người dân vẫn còn hạn chế, đặc biệt là đồng bào
dân tộc Bru-Vân Kiều và Pa Cô; cộng với trình độ đầu tư thâm canh thấp (không sử
dụng phân bón) là những nguyên nhân chính dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm
thấp và có thể dẫn đến suy thoái đất canh tác. Bên cạnh đó, qua điều tra khảo sát cho
thấy mức độ sử dụng thuốc diệt cỏ trong sản xuất chuối là rất cao (bình quân 1 ha
chuối, các hộ sử dụng 25-35 chai thuốc diệt cỏ), do đó tính bền vững về sinh học của
sản phẩm cũng như chất lượng môi trường không còn được đảm bảo. Hơn thế nữa,
giống chuối được người dân huyện Hướng Hóa đưa vào trồng là giống địa phương có
tên gọi là chuối mật mốc, đến nay vẫn chưa có giống mới nào thay thế. Chuối được
trồng ở những cánh rừng có độ dốc khá cao, đồng thời sau khoảng 8 năm thì việc trồng
mới lại vườn chuối không thể thực hiện được do hàm lượng dinh dưỡng của đất bị suy
giảm, không đủ để cung cấp cho cây chuối sinh trưởng và phát triển, vì vậy buộc
người dân phải chuyển sang diện tích khác.
Thứ ba, theo kết quả điều tra khảo sát các hộ nông dân trồng chuối ở huyện
Hướng Hóa, việc hình thành vùng chuyên canh cây chuối ở địa phương là hoàn toàn
mang tính chất tự phát, chạy theo phong trào dựa trên tín hiệu của thị trường tiêu thụ ở
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 64
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
Trung Quốc. Trong khi đó, chưa có một chính sách nào của chính quyền địa phương
trong việc định hướng, quy hoạch và hỗ trợ phát triển sản xuất chuối cho người dân.
Việc trồng chuối được diễn ra trên quy mô nhỏ lẻ, phân tán gây khó khăn trong việc
tiêu thụ và vận chuyển chuối khi thu hoạch, đặc biệt ở huyện hướng Hóa hiện nay
không có một nhà máy nào chuyên về chế biến các sản phẩm từ chuối, vì vậy một khi
Thị trường Trung Quốc hay Thái Lan ngừng thu mua thì giá chuối giảm mạnh, nông
dân lao đao.
2.3.3.5. Phân tích ma trận SWOT cuả chuỗi cung sản phẩm chuối trên địa
bàn huyện Hướng Hóa
Điểm mạnh ( Strengths) Điểm yếu (Weaknesses)
- Huyện Hướng Hóa nằm trên tuyến
đường hành lang kinh tế đông tây đi
ngang qua, thuận lợi cho việc xuất
khẩu, vị trí mang tính chiến lược nên
luôn được nhà nước quan tâm.
- Địa hình, thổ nhưỡng ở huyện thích hợp
cho trồng cây chuối
- Chuối là loại cây dễ trồng, tốn kém ít
chi phí nên phù hợp với người nông
dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số
trên địa bàn huyện.
- Hai xã được đưa vào nghiên cứu là Tân
Thành và Tân Long đã tiến hành rà soát
để phục hồi và phát triển vườn hồ tiêu
trong những năm tới.
- Nhờ sự lãnh đạo của chính quyền địa
phương, các dự án trồng mới và phục
hồi vườn chuối mà các hộ nông dân
được thế chấp vay vốn, tạo điều kiện về
nguồn vốn phục vụ cho quá trình sản
xuất.
- Hằng năm, chính quyền địa phương, hội
nông dân phối hợp với trung tâm
khuyến nông, tổ chức các lớp tập huấn
cho bà con nông dân.
- Phần lớn vườn chuối đều quá già cỗi,
dịch bệnh, thời tiết phức tạp, đặc biệt là
hạn hán thường xuyên xảy ra, nên năng
suất cũng như sản lượng tiêu có xu
hướng giảm.
- Trên địa bàn huyện chưa có hợp tác xã
nông nghiệp, đây là một hạn chế lớn và
gây khó khăn cho việc sản xuất và tiêu
thụ chuối.
- Dòng thông tin trong chuỗi còn gặp
nhiều trở ngại và không hoàn hảo, chính
người nông dân là nhà sản xuất nhưng họ
lại là đối tượng tiếp cận với thông tin
trong chuỗi kém nhất, cũng là đối tượng
chịu chi phí lớn nhất nhưng lại hưởng lợi
nhuận thấp nhất. Điều đó làm cho họ trở
thành người thiệt thòi nhất trong chuỗi.
- Phần lớn các tác nhân tham gia trong
chuỗi chỉ mới nghỉ tới lợi ích của mình
mà chưa ý thức được tầm quan trọng về
mối quan hệ với các đối tác.
- Tính ổn định và hợp tác trong chuỗi
thấp. chuỗi mang tính cơ hội hơn là hợp
tác với nhau, hộ thu gom có xu hướng
xem các tác nhân trên và dưới chuỗi là
địch thủ, do đó làm thiếu sự cam kết hợp
tác với chuối.
- Tính phụ thuộc vào thị trường Trung
Quốc quá lớn, đến một khi Trung Quốc
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 65
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
ngừng thu mua thì không có đầu ra cho
chuối, người nông dân chịu thiệt hại rất
lớn.
- Thiếu phương tiện bảo quản và vận
chuyển khiến cho người trồng chuối
không có điều kiện chủ động trong việc
tiêu thụ sản phẩm của mình, do vậy phải
bán cho nhà thu gom.
- Người nông dân trên địa bàn huyện
phần lớn là đồng bào dân tộc ít người,
trình độ dân trí còn thấp, nắm bắt thông
tin chưa cao, dẫn đến việc luôn bị thương
lái ép giá.
- Giá chuối phụ thuộc nhiều vào thị
trường bên ngoài,nhiều rủi ro.
Cơ hội (Opportunities) Thách thức (Threats)
- Việt Nam gia nhập các tổ chức khu vực
và trên thế giới như ASEAN, WTO,
APEC Kỳ vọng từ các hiệp định
thương mại tự do trong thời gian tới như
hiệp định Đối Tác Kinh Tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP), Thương
Mại Tự Do Việt Nam – EU và cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC). Tạo điều kiện mở
rộng thị trường tiêu thụ.
- Nhu cầu tiêu thụ chuối trên thế giới
ngày càng tăng, trung bình mỗi năm tăng
thêm 25.000 – 30.000 tấn.
- Chuối mật mốc Tân Long vừa được bầu
chọn là “cây trồng số một của năm” ở
huyện và chủ tịch huyện cũng cho biết sẽ
sớm khẳng định thương hiệu cho loại
chuối này.
- Hiện trên địa bàn huyện có 4 dự án với
tổng mức đầu tư 36,9 triệu USD gồm:
Nhà máy chế biến và bảo quản nông sản
My Anh tại Khu công nghiệp Tân Thành;
Vườn ươm cây mắc ca, cây đinh lăng và
nha đam; Khu du lịch - dịch vụ đồi thông
Tân Độ, tạo điều kiện củng cố thị trường
tiêu thụ cho sản phẩm chuối trên địa bàn.
- Cơ chế thị trường luôn biến động liên
tục làm tình trạng được mùa rớt giá lặp
đi lặp lại khiến người nông dân không
yên tâm sản xuất.
- Biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng
phức tạp gây ra nhiều loại sâu bệnh trên
cây chuối.
- Yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng
cao về chất lượng sản phẩm cũng như
vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên
cạnh đó người tiêu dùng cũng quan tâm
nhiều hơn đến quy trình sản xuất thân
thiện với môi trường.
- Thị trường Trung Quốc giảm thu mua
chuối mạnh tính từ năm 2014 đến nay
vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi, Thái Lan
thu mua chuối với giá rẻ, chất lượng thấp
để làm thức ăn chăn nuôi mang tính
không bền vững.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 66
Đạ
i
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHUỖI CUNG
SẢN PHẨM
3.1. Định Hướng trên địa bàn huyện
Cây chuối là một trong những cây trồng chủ lực của huyện, có hiệu quả và giá
trị kinh tế cao, góp phần vào xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống của người dân
và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện, đặc biệt là hai xã có diện tích chuối
tập trung chủ yếu là Tân Thành và Tân Long. Tuy nhiên những năm gần đây sản phẩm
chuối gặp nhiều khó khăn do những bất lợi về thời tiết, sâu bệnh, nhiều vườn chuối đã
quá già cỗi, khó khăn nhất là trong việc tiêu thụ và tìm đầu ra cho sản phẩm, một số
nông dân chia sẻ “không muốn thu hoạch chuối vì chi phí thu hoạch còn cao hơn cả
phần tiền thu về khi bán chuối” Từ những khó khăn trên chính quyền địa phương
huyện Hướng Hóa đã đưa ra một số định hướng cho phát triển sản xuất cây chuối
trong thời gian tới như sau:
- Đầu năm 2015, thông qua đề tài “Phục tráng một số giống chuối trên địa bàn
huyện Hướng Hóa bằng phương pháp Invitro” của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa
học và Công nghệ tỉnh Quảng Trị thực hiện, đã đưa công nghệ vào trồng thí nghiệm ở
một số hộ gia đình và cho ra kết quả tốt, chuối được cấy phát triển nhanh và cho năng
suất cao, chính quyền địa phương cho biết sẽ cố gắng hỗ trợ để mô hình được nhân
rộng làm nguồn cung cấp giống chuối chính trên địa bàn.
- Giai đoạn 2016 – 2020 sẽ quy hoạch trồng thêm 5,7 ha tại vườn hộ gia đình
được cấp mới và trên quỹ đất hiện có. Đến năm 2020, toàn huyện đều sử dụng được tối
đa diện tích đất còn trống và bỏ hoang đưa vào sản xuất, tăng sản lượng chuối.
- Đầu năm 2016, Chủ tịch UBND huyện Hướng Hóa, Võ Thanh cho biết sẽ chỉ
đạo các cơ quan chức năng của huyện làm thủ tục đăng ký thương hiệu “Chuối mật
mốc Tân Long” để không chỉ xuất khẩu mặt hàng nông sản này sang Trung Quốc, mà
còn xuất qua các nước châu Âu, châu Mỹ.
- Đầu tư mở rộng, cải tạo hệ thống thủy lợi để chủ động nguồn nước tưới cho
sản xuất chuối.
- Tăng cường hoạt động giới thiệu sản phẩm, tạo điều kiện cho các hộ sản xuất
kinh doanh trong địa bàn tiếp cận thị trường tiêu thụ.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 67
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
Hu
ế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
- Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Trị cho biết
đơn vị này đã thực hiện nghiên cứu phục tráng thành công hai giống chuối trên địa bàn
huyện Hướng Hóa bằng phương pháp Invitro. Hai loại chuối được chọn ứng dụng
công nghệ sinh học để phục tráng là giống chuối mốc (chuối tây) và chuối lùn (chuối
bà lùn) đã được trồng từ lâu trên địa bàn huyện Hướng Hóa. Sau gần 1 năm triển khai
thực hiện, đến nay Trung tâm đã nhân giống thành công các loại chuối này. Cây chuối
được phục tráng đã phát triển tốt, theo đúng yêu cầu nghiên cứu đặt ra, từ đầu năm
2013 các loại giống đã được nhân rộng và cung cấp cho người dân, nhằm phát triển
bền vững ngành chuối ở Hướng Hóa.
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm chuối
3.2.1. Giải pháp về nguồn lực
- Về vốn: Nhu cầu về vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất chuối là rất cần thiết
bởi người dân ở huyện còn nghèo nàn, ăn chưa đủ no, áo chưa đủ ấm. Nhà nước cần có
chính sách vay vốn tín dụng phù hợp về mức vay, thời gian vay và lãi suất vay. Hạn
chế các thủ tục rườm rà để người dân mạnh dạn đầu tư vào vườn chuối của mình một
cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, cần định hướng người dân sử dụng vốn đúng mục
đích, tránh lãng phí và không hiệu quả bên cạnh đó cần phối kết hợp, lồng ghép các
chương trình dự án nhằm huy động nguồn vốn cho các hộ trồng chuối.
- Về nhân lực: Chính quyền địa phương cần tiếp tục phối hợp với công ty
Thương Mại Quảng Trị mở nhiều lớp tập huấn đào tạo ngắn hạn về kỹ thuật chăm sóc
và phục hồi vườn chuối. Những hộ chưa tham gia thì vận động tham gia, những hộ
trồng chuối đã có một người tham gia tập huấn, thì tất cả những người có khả năng
tham gia lao động trong lĩnh vực sản xuất này của hộ cũng nên tham gia nhằm đảm
bảo nguồn nhân lực.
- Về đất đai: Cần có giải pháp vùng chuyên canh cây chuối một cách đồng bộ
và chặt chẽ, nhằm tạo điều kiện tốt cho việc đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, thuận lợi cho việc thu gom tiêu thụ. Kết hợp trồng luân canh một số loại
cây họ đậu để cải tạo đất sau khi thu hoạch và chuẩn bị trồng mới vườn chuối.
- Về thủy lợi: Cần xây dựng thêm hệ thống thủy lợi, củng cố đê đập, tránh tình
trạng hiện tại ở huyện luôn ngập úng về mùa mưa do nước ở các con sông và bên Lào
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 68
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
ế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
xả về, nhưng lại hạn hán nặng vào mùa hè, gây nhiều vườn chuối cháy khô( bệnh
panama) mất trắng và không thu hoạch được.
Đối với những vườn chuối quá già cỗi, lẫn tạp, độ đông đặc quá thấp mang lại
hiệu quả kinh tế không đáng kể thì mạnh dạn phá bỏ để trồng mới hoặc chuyển qua
trồng loại cây khác có hiệu quả hơn như cà phê, sắn.Để giảm bớt sự quá tải về việc
tiêu thụ.
3.2.2. Tăng cường mối quan hệ hợp tác trực tiếp giữa các điểm cân thu
mua, hộ thu gom, hộ trồng tiêu và nhà xuất khẩu
Tăng cường sự hợp tác giữa các điểm cân thu mua, các đối tượng thu gom với
hộ trồng chuối là giải pháp quan trọng để hoàn thiện chuỗi cung. Thực tế thì sản phẩm
chuối phải qua nhiều khâu trung gian mới đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng, việc
thiết lập mối quan hệ trực tiếp để các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán lẻ ở thị trường
trong nước là rất khó khăn vì chính bản thân các doanh nghiệp ít có điều kiện tiếp xúc
và mua sản phẩm trực tiếp từ hộ trồng chuối. 100% hộ trồng chuối đều trả lời không
đủ điều kiện về số lượng sản phẩm chuối, phương tiện vận chuyển, chất lượng,
vốnĐể đưa sản phẩm của mình đến bán trực tiếp cho các doanh nghiệp xuất khẩu
hay điểm cân thu mua. Đặc biệt, một vấn đề khó khăn lớn ở huyện miền núi này là
giao thông đi lại còn rất khó khăn, nhiều bản cách chợ chuối hoặc nơi thu gom gần vài
chục kilomet. Năm 2013, công ty Thương Mại Quảng Trị đã đặt một điểm thu mua
chuối tại địa phương nhưng không mang lại hiệu quả nên đã ngừng hoạt động. Để mối
quan hệ hợp tác được bền vững thì cần có sự hợp tác như sau:
- Các cơ sở cung cấp các yếu tố đầu vào tăng cường hợp tác với hộ trồng chuối
nhằm trao đổi một cách đầy đủ và chính xác các thông tin về kỹ thuật, giá cả và chất
lượng của các yếu tố đầu vào. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất của các
hộ trồng chuối, cũng như nang cao hiệu quả kinh doanh của các cơ sở.
- Các đại lý thu gom lớn hợp tác trực tiếp với các hộ gia đình nông dân trong việc
cung ứng vật tư. Cụ thể hộ trồng chuối phải cung cấp đủ số lượng, đúng thời gian và
yêu cầu chất lượng, đại lý phải thumua sản phẩm kịp thời vì chuối nhanh chín và dễ
hư hỏngTạo mối quan hệ buôn bán uy tín, có thể hỗ trợ cho hộ trồng chuối vay
vốn, tạm ứng lúc cần tiền. Các điểm cân hợp tác với đại lý thu gom cần có hợp đồng
cụ thể, cung cấp đầy đủ các thông tin về giá cả, yêu cầu chất lượng.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 69
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
3.2.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm ở khâu sản xuất
- Chọn giống: Nếu người dân tự lấy cây non hay chồi tự tách ra từ cây mẹ ở vụ
trước trồng cho vụ sau thì tỷ lệ sống không cao, dễ bị sâu bệnh, về lâu dài sẽ làm thái
hóa giống, người dân cần chọn giống tốt từ các công ty bán giống. hiện tại, Trung tâm
Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Trị cho biết đơn vị này đã thực
hiện nghiên cứu phục tráng thành công hai giống chuối trên địa bàn huyện Hướng Hóa
bằng phương pháp Invitro, được thực hiện bằng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
trong công tác chọn giống, phục tráng giống, tạo ra một số lượng lớn cây sạch bệnh,
đảm bảo về mặt di truyền, góp phần quan trọng vào việc phát triển bền vững nghề
trồng chuối ở Hướng Hóa.
- Vệ sinh an toàn thực phẩm: Xây dựng hướng phát triển cho các mặt hàng nông
sản nói chung và cây chuối nói riêng là đảm bảo quy trình an toàn thực phẩm trong
từng công đoạn, liên kết tạo thành chuỗi thực phẩm an toàn theo hướng “Từ trang trại
đến bàn ăn”. Chuỗi cung thực phẩm an toàn phải bắt đầu từ công đoạn cung cấp vật tư
nông nghiệp (Giống, phân bón, thuốc) đến khâu sản xuất(Trồng trọt, chăn nuôi)
và cuối cung là giai đoạn sơ chế, bảo quản một cách an toàn nhất để chuyển đến tay
người tiêu dùng cuối cùng. Điều này đỏi hỏi cần phải có một hệ thống các yêu cầu đối
với hộ nông dân, cơ sở thu gom chuối, tránh tình trạng hiện này có một số tư thương vị
lợi nhuận giấm chuối xanh bằng hóa chất để làm nhanh chín, gây ảnh hưởng đến sức
khỏe người tiêu dùng và mất uy tín ngành chuối của địa phương. Để đáp ứng những
yêu cầu về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm thì cần quan tâm, chú trọng đến công
tác chăm sóc ngay từ khi trồng, thu hoạch, bảo quản và ủ chín. Sản phẩm chuối là mặt
hàng nông sản cồng kềnh, khó vận chuyển, dễ hư hỏng và khó bảo quản sau khi chuối
đã chín.Vì vậy sau khi thu hoạch cần có bao xốp, bó chuối để tránh bị bầm dập, để
nơi khô ráo. Việc này giúp sản phẩm chuối được đảm bảo an toàn, phù hợp với người
tiêu dùng cả trong và ngoài nước, góp phần xây dựng ngành chuối tại địa phương lớn
mạnh.
3.2.4. Giải pháp thị trường
- Để sản phẩm chuối Hướng Hóa được biết đến trên thị trường trong nước và thị
trường quốc tế, cần quan tâm tới khâu quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu
riêng, tham gia các hội chợ giới thiệu sản phẩm. Chuối mật mốc Tân Long vừa được
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 70
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
bầu chọn là “cây trồng số một của năm” ở huyện và chủ tịch huyện cũng cho biết sẽ
chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành khẳng định thương hiệu cho loại chuối này.
- Cần có sự gắn kết chặt chẽ bốn nhà: Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa
học và nhà nông nhằm hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ vốn và giải quyết đầu ra cho sản phẩm.
- Trên địa bàn vẫn chưa có một công ty lớn nào chuyên về chế biến chuối thành
các loại thực phẩm khác, đây là một thiếu hụt lớn của ngành công nghiệp chế biến nói
chung và ngành chuối Hướng Hóa nói riêng. Cần đầu tư xây dựng nhà máy chế biến
chuối thành các loại bánh kẹo hoặc thức ăn chăn nuôi, tạo đầu ra ổn định cho sản
phẩm.
- Tất cả các thành viên trong chuỗi cần phải chủ động nắm vững các thông tin, giá
cả, hoàn thiện khâu vận chuyển trao đổi sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhât,
phù hợp nhất. chính quyền địa phương cần phân công cán bộ, lãnh đạo các cấp theo
dõi, định hưỡng thị trường nông sản cho người dân, xây dựng hệ thống truyền thông
thôn xóm để cập nhật thông tin về giá cả và tình hình thị trường cho toàn dân, định
hướng nguồn cung cho vụ tiếp theo tránh trồng một cách tự phát, tràn lan. Khi mọi
người trong chuỗi cung nắm vững tình hình, giá cả thì sẽ không xảy ra tình trạng chèn
ép nhau, gây mất công bằng trong toàn chuỗi.
- Tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc (đến 80%),
tìm kiếm thị trường mới đầy tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản và đẩy mạnh tiêu dụng nội
địa.
3.2.5. Tăng cường công tác thông tin
- Các thông tin của người tiêu dùng về số lượng chủng loại, chất lượng sản
phẩm, giá cả sản phẩm là không rõ ràng ở một số mắt xích đặc biệt là hộ nông dân. Vì
vậy các hộ nông dân cần chủ động tìm hiểu những thông tin này, nâng cao khả năng
tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn để có thông tin đầy đủ.
- Các cơ quan chức năng cần khảo sát thực tế để cung cấp những thông tin thị
trường cho người dân, đưa ra các yêu cầu về sản phẩm đồng thời tiếp nhận thông tin
phản hồi từ nông dân khi họ tham gia vào chuỗi cung, người nông dân sẽ yên tâm sản
xuất và yên tâm về thị trường đầu ra.
- Các điểm thu mua, thương lái, công ty xuất khẩu cần thiết lập mối quan hệ
hợp tác lâu dài và ổn định, nắm rõ luật kinh doanh quốc tế và thủ tục xuất nhập khẩu
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 71
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
nhằm xây dựng được nguồn nguyên liệu ổn định và bền vững. cần cung cấp đầy đủ
thông tin thị trường cho các tác nhân dưới mình thông qua điện thoại hoặc găp mặt
trao đổi.
3.2.6. Giải pháp giúp nông hộ trực tiếp đưa sản phẩm ra thị trường
Để nông hộ trực tiếp đưa sản phẩm ra thị trường thì đòi hỏi hộ phải có lao động
và nguồn vốn lớn đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm.
Các hộ trồng chuối nên tập hợp lại thành từng tổ,nhóm theo quan hệ họ hàng
hay làng xóm, hoặc hình thành nhiều câu lạc bộ theo từng thôn, bản,dựa trên nguyên
tắc tự nguyện, hợp tác về mọi mặt. Chọn ra một hoặc hai người có kinh nghiệm và
năng lực để làm trưởng nhóm. các nhóm này có thể tập hợp những sản phẩm của mình
lại hoặc có thể thu gom thêm ở hộ khác, sau đó trưởng nhóm sẽ cử một vài người có
khả năng vận chuyển và đem bán sản phẩm cho các điểm cân, doanh nghiệp xuất khẩu
hoặc xuất đi tỉnh khác. Như vậy thì các hộ gia đình sẽ chú ý đến chất lượng sản phẩm
của mình hơn, kéo theo chất lượng sản phẩm trong toàn chuỗi được nâng cao hơn, đem
lại lợi ích cho mọi người. Bên cạnh đó, người nông dân cần tìm hiểu về sở thích và các
yêu cầu về sản phẩm chuối của người nước ngoài (Thái Lan, Trung Quốc) và người
tiêu dùng trong nước để sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường. Với mô hình
này sẽ giúp hộ giảm bớt được khâu giao dịch trung gian giúp hộ nâng cao thu nhập,
không bị ép giá.
Bên cạnh đó, họ trồng chuối cần nâng cao kiến thức kỹ thuật, hiểu biết về đặc
điểm cây chuối, năm bắt thông tin và nhu cầu thị trường, tránh trồng chuối một cách
tràn lan hoặc trồng rồi không đầu tư chăm sóc.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của
chuỗi cũng san phẩm chuối trên địa bàn huyện, bỏ bớt một số tác nhân trung gian như
hộ thu gom và đặc biệt là điểm cân. Tuy nhiên việc để nông dân trực tiếp đưa sản
phẩm ra thị trường là rất khó khăn vì họ không am hiểu thị trường, chưa nắm bắt kịp
thời thông tin và đặc biệt là nguồn vốn hạn chế.Vì vậy cần phải có sự phối kêt hợp
của các ban ngành chức năng.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 72
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Ở Hướng Hóa, chuối được xem là cây nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao.
Trước đây, đất đai bạc màu, thời tiết khắc nghiệt, người dân ở vùng biên giới Việt -
Lào không biết trồng cây gì cho hiệu quả, chủ yếu làm cửu vạn, thồ hàng lậu từ Lào về
Việt Nam kiếm sống. Sau khi cây chuối được chính quyền địa phương khuyến khích
trồng, người dân nơi đây dần dần bỏ buôn lậu, tập trung vào trồng chuối. Từ đó đến
giờ, cây chuối đã "đổi đời" bao phận người, từ kiếm gạo ăn từng bữa đến xây nhà cao
tầng, tậu xe ô tô. Sản phẩm chuối đã trở thành một trong những mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn, đóng góp tích cực vào sự tăng
trưởng kinh tế của huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Ngoài ra, chuối trở thành cây
trồng chủ lực, giúp giải quyết việc làm, tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo cho rất
nhiều người dân ở trên địa bàn huyện Hướng Hóa, đặc biệt là đồng bào dân tộc Vân
Kiều và Pa Cô. Tuy nhiên tính bền vững của ngành chuối ở Hướng Hóa đang rất bấp
bênh, do đầu ra của sản phẩm hay chuối cung sản phẩm chuối thiếu mất tính liên kết,
có đến 80% sản lượng chuối ở huyện Hướng Hóa được tiêu thụ ở thị trường Trung
Quốc, và 5% được xuất khẩu sang thị trường Thái Lan và khoảng 15% còn lại là được
tiêu thụ ở thị trường nội địa. trong thời gian qua, giá chuối liên tục giảm, chuối chín
đầy vườn không có người thu mua, nguy cơ phá hủy ngành chuối ở Hướng Hóa là rất
cao. Điều này xuất phát từ 3 nguyên nhân chính, đó là: rủi ro về thị trường tiêu thụ,
trực tiếp là sự phụ thuộc nhiều vào thị trường tiêu thụ ở Trung Quốc; nguồn cung
không bền vững; và chưa có chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất của chính quyền địa
phương. Có 3 kênh tiêu thụ chuối ở thị trường trong nước và 2 kênh tiêu thụ ở thị
trường nước ngoài, với 4 tác nhân tham gia thu mua chuối ở trên địa bàn huyện Hướng
Hóa. Mặc dù, hộ nông dân trồng chuối là tác nhân giữ vị thế tài chính cao nhất trên cả
ba chỉ tiêu về chi phí, doanh thu biên và lợi nhuận, nhưng họ là tác nhân hưởng lợi ít
nhất trong chuỗi ở cả 3 thị trường: Trung Quốc, Thái Lan và nội địa.
Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là cần sớm xây dựng thương hiệu chuối ở huyện
Hướng Hóa; đa dạng hóa thị trường tiêu thụ bằng cách kêu gọi doanh nghiệp tham gia
vào chuỗi cung ứng sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa; tăng cường các
dịch vụ khuyến nông nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác cho người dân, đảm
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 73
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
Hu
ế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
bảo sự ổn định về nguồn cung cho thị trường và nâng cao chất lượng sản phẩm; thực
hiện điều tra thông tin, cập nhật tình hình tiêu thụ chuối của huyện Hướng Hóa tại thị
trường Trung Quốc và Thái Lan là rất cần thiết nhằm đưa ra các dự báo chính xác về
thông tin thị trường cho người sản xuất. bên cạnh đó, cần có sự hỗ trợ về tài chính,
nâng cao năng suất và chất lượng cũng như giảm giá thành, giúp cải thiện đáng kể đầu
ra cho sản phẩm chuối cũng như tăng tính bền vững chuỗi cung chuối hay bền vững
cho ngành chuối ở huyện Hướng Hóa.
2. KIẾN NGHỊ
2.1. Đối với nhà nước
- Định hướng phát triển lâu dài và cụ thể cho người dân để họ thực hiện đúng
theo chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tránh tình trạng sản xuất theo kiểu
tự phát
- Nhà nước cần sớm thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật để
sản xuất và cung cấp các giống chuối phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, làm
sao nghiên cứu được giống chuối cho ra năng suất cao mà lại ít sâu bệnh hại, đưa tiến
bộ kỹ thuật mới về cho người dân.
- Nhà nước cần hoàn thiện các hệ thống chính sách về nông nghiệp như chính
sách đất đai, chính sách thuế, miễn thuế nông nghiệp có tín dụng ưu đãi, bảo hộ và trợ
giá nông sản, khuyến khích nông dân làm giàu, quan tâm hơn nữa đến công tác khuyến
nông, công tác đào tạo cán bộ.
- Tăng cường tiếp thị, thu hút đầu tư công nghệ chế biến các sản phẩm về chuối,
xây dựng doanh nghiệp, thương hiệu mặt hàng chuối Việt Nam, đặc biệt là chuối mật
mốc Tân Long.
- Hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tìm thị trường mới nhằm ổn định thị trường
tiêu thụ, tránh phụ thuộc quá nhiều vào thị trường xuất khẩu Trung Quốc, gây ra nhiều
rùi ro.
2.2. Đối với chính quyền địa phương
- Chính quyền địa phương phối hợp cùng các ban ngành liên quan để quy hoạch
lại đất đai, tạo thành các vùng chuyên canh chuối tạo điều kiện cho việc nâng cao chất
lượng sản phẩm và dễ dàng trong vận chuyển, thu gom.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 74
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
Hu
ế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
- Chính quyền địa phương cần hỗ trợ thêm vốn vay và kỹ thuật để người dân có
điều kiện dầu tư vào sản xuất. Mở các lớp tập huấn và hướng dẫn người dân áp dụng
các biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại tổng hợp cho cây chuối.
- Cần cử các cán bộ khuyến nông trực tiếp về vườn chuối của các hộ để kiểm
tra, theo dõi quá trình chăm sóc, thu hoạch của người dân, từ đó tìm ra các điểm yếu
kém để khắc phục. tuyên truyền người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số nên trồng
kết hợp với việc cải tạo và phục hồi, thay mới các vườn chuối già cỗi để cho ra năng
suất cao hơn.
- Cần nắm bắt thông tin về giá cả và nhu cầu thị trường để từ đó tạo ra kênh
thông tin cho người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trực tiếp
gặp mặt và trao đổi. Đứng ra làm cầu nối trung gian để tạo sự gắn kết giữa các doanh
nghiệp thu mua chuối nhằm tạo thị trường ổn định cho người trồng chuối.
- Chính quyền đứng ra kêu gọi các dự án đầu tư trong nước và ngoài nước giúp
đỡ, hỗ trợ bà con đầu tư thâm canh cây chuối, tiếp tục triển khai thực hiện tốt các
chương trình dự án đnag có tai địa phương.
2.3. Đối với hộ thu gom, nhà xuất khẩu
Những hộ thu gom chuối cần mua đúng giá, tránh chèn ép giá của bà con nông
dân trồng chuối, cố gắng tạo quan hệ và tìm kiếm thị trường sao cho thu mua được số
lượng chuối ổn định, ngoài ra là đầu mối thu gom uy tín, tạo dựng và nâng cao chất
lượng chuối, tạo lòng tin cho người tiêu dùng, góp phần vào việc xây dựng ngành
chuối bền vững ở Hướng Hóa.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu chuối trên địa bàn, cần nắm rõ quan hệ kinh
doanh thương mại quốc tế, nộp thuế đầy đủ và đúng quy định, hoàn thành thủ tục xuất
nhập khẩu và đảm bảo uy tín để tạo mối quan hệ hợp tác lâu dài, bên cạnh đó không
quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, mà nên tím kiếm thêm thị trường mới.
Tăng cường hợp tác và trao đổi thông tin lâu dài giữa những hộ thu gom nhỏ,
đại lý thu gom và những hộ trộng chuối.
2.4. Đối với hộ trồng chuối
- Tích cực tham gia các lớp tập huấn khuyến nông để nâng cao trình độ kỹ
thuật, học hỏi thêm kinh nghiệm. Trong các buổi tập huấn cần mạnh dạn trao đổi
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 75
Đạ
i
ọc
Ki
nh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
những khó khăn, thắc mắc, phản hồi với cán bộ khuyến nông và chính quyền địa
phương nhằm nâng cao hiệu quả của các lớp tập huấn.
- Tăng cường đầu tư thâm canh, cải tạo đất đai, hầu hết các hộ nông dân đều
không tưới nước và rất ít bón phân làm cho chuối kém phát triển, buồng nhỏ, không
được thu mua, không đtạ hiệu qảu kinh tế cao, vì vậy người nông dân cần có ý thức,
nắm rõ đặc điểm của cây chuối để trồng có hiệu quả và bền vững.
- Người dân cần chủ động nắm bắt thông tin thị trường thông qua các phương
tiện truyền thông địa chúng tránh để các thương lái và những người thu gom có cơ hội
chèn ép giá, làm mình trở thành đối tượng chịu thiệt hại.
- Cần có mối quan hệ hợp tác lâu dài với một đối tượng thu mua nhằm đảm bảo
tính ổn định cho đầu ra của sản phẩm mình, tránh những rủi ro.
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 76
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Niên giám thống kê huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị năm 2014
2. Th.S. Nguyễn Manh Hùng “Phân tích chuỗi giá trị sản phẩm chuối ở huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị” (Nghiên cứu khoa học), Đại Học Kinh Tế Huế,
năm 2016.
3. Hoàng Thị Huế “Phân tích chuỗi cung sản phẩm chè trên địa bàn xã Thanh
Thủy, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An”, (khóa luận tốt nghiệp đại học,
2011), thư viện trường Đại Học Kinh Tế Huế.
4. Lê Thị Như Diệu “Tình hình sản xuất cây hồ tiêu của các hộ nông dân trên địa
bàn xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị” (khóa luận tốt nghiệp đại
học, 2012), thư viện trường Đại Học Kinh Tế Huế.
5. Lê Thị Ái Liên “chuỗi cung sản phẩm cây hồ tiêu của các hộ nông dân trên địa
bàn xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị” (khóa luận tốt nghiệp đại
học, 2015), thư viện trường Đại Học Kinh Tế Huế.
6. Lê Văn Thu “Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam”
(luận án tiến sĩ kinh tế, 2015), Đại học Huế.
7. PGS.TS.Mai Văn Xuân, marketing và phân tích chuỗi cung trong nông nghiệp.
NXB Đại học Huế, 2010.
8. PGS.TS. Bùi Đức Tính, giáo trình kinh tế nông hộ và trang trại, Đại học Kinh
Tế Huế.
9. Th.S. Nguyễn Công Bình, Giáo trình quản lý chuỗi cung ứng, 2008.
10. Micheal Hugos, Tinh hoa quản trị chuỗi cung ứng, 2003.
11. Các Websites:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hành_lang_kinh_tế_Đông_-_Tây
https://vi.wikipedia.org/wiki.
luanvan.net.vn
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 77
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Bùi Đức Tính
PHỤ LỤC
(1) Áp dụng công thức xác định cỡ mẫu điều tra của Slovin (1960): n=N/(1+Ne2).
Trong đó: n – cỡ mẫu điều tra; N – Quy mô hộ trồng chuối ở 2 xã; e – sai số kỳ vọng.
(2) Việc lựa chọn hộ điều tra được thực hiện bằng cách sử dụng hệ số bước nhảy K.
Với N = 1008, n = 109, do đó K=N/n = 9 hộ
(3) Thu gom quy mô nhỏ là những người dân địa phương ở huyện Hướng Hóa
chuyên làm nghề thu gom chuối từ các hộ nông dân. Khối lượng thu mua bình quân
đạt khoảng 7-8 tạ/ngày (theo kết quả điều tra).
(4) Điểm cân là những người dân địa phương ở huyện Hướng Hóa chuyên làm
nghề thu gom chuối từ các hộ nông dân và thu gom nhỏ. Khối lượng thu mua bình
quân đạt khoảng 10 tấn/ngày. Các điểm cân có khả năng dự trữ chuối từ 2 – 3 ngày,
đồng thời thực hiện các công việc phân loại, đóng gói để phân phối sản phẩm chuối đi
thị trường trong và ngoài nước (theo kết quả điều tra).
(5) Đầu mối thu gom là những người chuyên làm nghề thu mua chuối từ các điểm
cân và những người thu gom chuối quy mô nhỏ để phân phối sang thị trường các nước
Trung Quốc và Thái Lan. Họ chính là nhà xuất khẩu mặt hàng chuối ở trên địa bàn
huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị (theo kết quả điều tra).
(6) FAO: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
(7) GAP: GAP là viết tắt đầu 3 từ tiếng Anh (Good Agriculture Production) dịch
sang tiếng Việt là Thực hành nông nghiệp tốt. GAP là một chứng chỉ áp dụng công
nghệ sản xuất tiên tiến của nhà nông. Sản xuất phải theo quy trình kỹ thuật, năng suất
cao, chất lượng tốt, hàng đẹp và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, sản xuất trong
môi trường không ô nhiễm. ( nguồn: ).
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Phương – Lớp: K46A - KTNN 78
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuoi_cung_san_pham_chuoi_tren_dia_ban_huyen_huong_hoa_tinh_quang_tri_6799.pdf