Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc quản lý giá bán mặt hàng của các hộ, yêu cầu
các hộ nghiêm chỉnh chấp hành, nếu phát hiện sẽ bị phạt hành chính và thông báo cho
ban quản lý Chợ, công an phường, công an thành phố đến làm việc trực tiếp. Ngoài ra
các ban liên quan nên lập một đội chuyên tiếp nhận các ý kiến phản hồi từ khách hàng
ở các chợ lớn trung tâm. Nếu khách hàng phản ảnh một số hộ bán giá quá cao so với
thị trường thì lập tức xác minh và lập biên bản xử lý, bên cạnh đó cần dán giấy thông
báo cho các khách hàng biết để phối hợp với cơ quan chức năng cùng nhau bảo vệ lợi
ích của các hai bên.
3.7. Tăng cường hợp tác với các cơ quan chức năng khác
Với nhiệm vụ là huy động nguồn thu cho NSNN, thiết nghĩ đây không chỉ là
nhiệm vụ cho mỗi Ngành thuế mà là trách nhiệm của các cơ quan chức năng khác và
toàn xã hội. Vì vậy, cần có quy định cụ thể buộc các cấp các ngành liên quan như cơ
quan cấp đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý thị trường, cơ quan công an,. có trách
nhiệm và nghĩa vụ hỗ trợ và giúp đỡ cơ quan thuế cung cấp những tài liệu liên quan
đến quá trình hình thành và hoạt động của các cá nhân, tập thể để cơ quan thuế có thể
kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh doanh. Giúp đỡ cơ
quan thuế trong việc xử lý các hành vi vi phạm thuế cũng như đôn đốc việc thu nộp và
cưỡng chế nợ thuế.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế thành phố Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng cao mà doanh thu không tăng theo, chúng tôi buộc phải
làm đơn xin miễn giảm thuế để gắng bớt một phần chi phí” – Chị Hoàng Thị Tý, trụ
tái 38/1 Hoàng Quốc Việt, sản xuất nem chả cho biết. Tìm hiểu và làm việc với anh
Ngô Văn Thạnh, trú tại 115 Trường Chinh, kinh doanh cho thuê đồ cưới, anh cho
hay “Cho thuê đồ cưới thường đạt doanh số cao nhất khi đến mùa xuân hay mùa hè
(gọi là mùa cưới), còn đến mùa thu và mùa đông thì hạn chế cho thuê, vì vậy tôi xin
làm đơn miễn giảm thuế để giảm bớt chi phí và khai man là tạm nghỉ kinh doanh,
nhưng khi có khách hỏi thuê tôi vẫn cho thuê bình thường”.
Đối với HKD có hành vi chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định (sau 30
ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế), thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong
thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản
lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và bị xử phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế
chậm nộp – được quy định tại khoản 1, khoản 3, khoản 4 Điều 106 Chương XII
Luật Quản lý thuế. Tổng số phạt nợ thuế qua năm năm trên 93 (triệu đồng), con số
này chỉ chiếm 23.34% so với tổng số thuế phạt 5 năm vừa rồi, đã giảm mạnh trong
năm 2011 khi số nợ thuế chỉ khoảng 5 (triệu đồng) và số hộ vi phạm chỉ 11 hộ, tương
ứng chiếm 5.34% tổng hộ. Tuy nhiên trong 2 năm cuối lại tăng mạnh số lượt vi phạm,
Trư
ờ g
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 56
khiến cho công tác xứ lý thêm phần nhọc nhằn. Nguyên nhân là việc nộp thuế chậm
hoặc thất thu hẳn là do một số chủ HKD đã chết, mất tích mà phía Đội vẫn chưa cập
nhật kịp thời để xóa nợ hoặc có những khoản nợ do nhầm lẫn trong công tác thu thuế
như viết nhầm biên lai, mã số thuế, mục lục ngân sách,...
Với sự nổ lực không nhỏ từ phía các cán bộ thuế trong đội kiểm tra, mỗi năm
đều phát hiện không ít sai phạm, mang lại kết quả đáng khen. Tuy nhiên, vẫn còn vô
số trường hợp vẫn chưa được hoặc phát hiện rồi nhưng công tác xử phạt và cưỡng chế
vẫn chưa thực hiện gay gắt, tạo tâm lý chủ quan và xem nhẹ ở một số hộ. Hơn nữa, về
phía Chi cục Thuế cũng tập trung phần lớn nguồn nhân lực cho Đội kiểm tra 1 và Đội
Kiểm tra 3 (Kiểm tra Doanh nghiệp) nên việc kiểm tra bên HKD cá thể còn khá sơ sài.
Hy vọng trong những năm tiếp theo Chi cục Thuế sẽ cố gắng hơn nữa trong việc thực
thi pháp luật, mang lại sự công bằng cho tất cả các bên liên quan.
2.4. Đánh giá tổng hợp công tác quản lý thuế đối với các Hộ kinh doanh cá thể
trên địa bàn Thành phố Huế
2.4.1. Thành tựu đạt được
Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ viên chức trong Chi cục, được sự chỉ
đạo và giúp đỡ của HĐND Tỉnh, Thành phố; UBND Tỉnh, Thành phố, Cục Thuế Tỉnh
Thừa Thiên Huế và các ban ngành có liên quan, sự phối kết hợp chặt chẽ của UBND
các phường, công an, quản lý thị trường ..., thời gian qua Chi cục luôn hoàn thành nhiệm
vụ thu đối với khu vực cá thể. Số thu từ các HKD cá thể của Chi cục Thuế thành phố
Huế đứng đầu trong các Chi cục của toàn tỉnh, số liệu cụ thể ở bảng sau:
Bảng 2.13. Tình hình thực hiện thu thuế Hộ cá thể giai đoạn 2009 – 2013
Đơn vị: Nghìn đồng, %
Năm Pháp lệnh kế hoạch Thực hiện Tỷ lệ TH/KH (%)
2009 76,674,000 62,373,700 81.35
2010 83,114,531 71,620,126 86.17
2011 80,628,000 80,103,126 99.35
2012 87,241,000 82,676,69 94.77
2013 95,973,000 89,303,247 93.05
Nguồn: Đội KK KKT&TH
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 57
Số thu ở trên không chỉ bao gồm 5 loại thuế như bài đã phân tích ở phía trên
này mà còn bao gồm Thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDPNN), Thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp (SDPNN), phạt hành chính,...
Qua 5 năm vửa rồi, tuy không đạt con số kế hoạch đề ra bởi việc lập dự toán
luôn luôn lập cao hơn thực tế để đề ra mục tiêu phấn đấu. Khi bắt tay thực hiện còn
gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt khi chính sách luật còn nhiều vướng mắc và một số
hộ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình. Nhưng điều đáng mừng là
không có năm nào thực hiện đạt dưới con số 80% và 3 năm gần đây đều có tỷ lệ
trên 90%, có năm lên đến 99.35%. Đạt được điều này là một sự cố gắng, một thành
tích không nhỏ của các cán bộ thuế Chi cục Thuế thành phố Huế.
Về công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT: Những thắc mắc của các HKD cá thể
trực tiếp hay gián tiếp qua văn bản, điện thoại, e mail,...đều được Đội xử lý nhanh
chóng. Bên cạnh đó Chi cục đã áp dụng các biện pháp tuyên truyền như phát tờ rơi,
đăng tấm aphich, tổ chức đối thoại với ĐTNT,...để cập nhật thông tin, bổ sung
thông tin và phổ biến kiến thức thuế cho mọi đối tượng. Kết quả cho thấy công tác
này đã rất hiệu quả cho thấy bởi số hộ mới ra kinh doanh đã tiến hành kê khai thuế
lên đến trên 90% trong năm 2013, số hộ nghỉ kinh doanh có làm đơn xin miễn giảm
thuế cũng tăng so với tự ý nghỉ, số hộ tự nguyện chấp nhận điều chỉnh tăng thuế và
tự động liên hệ bổ sung thông tin khi có thay đổi về ngành nghề kinh doanh, chỗ
kinh doanh cũng tăng.
Về công tác quản lý ĐTNT, Chi cục Thuế đã nắm được danh sách của các
HKD lâu năm hay mới ra kinh doanh. Tất cả đều được quản lý trong sổ bộ và ngoài
bộ không sót bất cứ ai. Đặc biệt, công tác kiểm tra hộ nghỉ được tiến hành hường
xuyên, nhất là vào dịp Tết nguyên đán, kiên quyết xử lý truy thu và phạt đối với những
hộ lợi dụng xin nghỉ để kinh doanh trốn lậu thuế. Những hộ mới ra kinh doanh chưa có
mã số thuế, chưa khai thuế thì đôn đốc và hướng dẫn các hộ đó làm thủ tục kê khai.
Chi cục Thuế khá chú trọng vào khâu quản lý doanh thu. Việc điều tra doanh
thu để lấy căn cứ tính thuế là một việc không phải dễ dàng gì. Vì vậy, các Đội thuế
đã phối hợp với HĐTV thuế các phường tiến hành điều tra thực tế tình hình kinh
doanh và kịp thời phát hiện, điều chỉnh các hộ khai báo doanh thu “giả” và xứ lý thật
nặng các hộ vi phạm. Còn đối với các hộ kê khai thì Chi cục thường xuyên kiểm tra sổ
Trư
ờng
Đạ
i ọ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 58
sách kế toán và việc sử dụng hoá đơn, vận đơn, khuyến khích các HKD thực hiện chế
độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ. Với những hộ đã gian lận trong kê khai thì
chuyển các hộ đó sang hộ khoán, trường hợp không chịu phối hợp và tiến hành gian
lận thuế thì xử lý thật nặng theo pháp luật thuế.
Công tác thu nộp thuế cũng được cải thiện nhờ sự nỗ lực thiết thực trong hoạt
động như phối hợp với các Ban ngành, Đoàn thể nhờ đó thu đúng thu đủ tránh hiện
tượng thất thu, nợ đọng thuế. Số thuế thực thu năm nào cũng trên 90% đã thể hiện rõ
sụ nổ lực của các cán bộ thuế trong việc đôn đốc thu nộp thuế. Số nợ thuế cũng đã
phân loại, tiến hành truy thu liên tục, trường hợp chống đối, chây ỳ không chịu nộp thì
tiến hành cưỡng chế nợ, trường hợp không trả được nợ do hoàn cảnh khó khăn tài
chính kéo dài thì xin ý kiến chỉ thị cấp trên để tiến hành xóa nợ.
Đối với công tác thanh tra, kiểm tra, Đội thuế đã luôn chú trọng tiến hành theo
đúng quy định, thi hành đúng chức năng, ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực từ phía
các cán bộ thuế, các ĐTNT; tạo lòng tin cho các ĐTNT, góp phần đảm bảo công bằng
xã hội và phát triển ổn định.
Cấp Ủy, Chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan liên quan đã vào cuộc
trong công tác quản lý thuế cùng cơ quan thuế. Luật Quản lý thuế ra đời đã quy định rõ
quyền hạn của Cơ quan thuế, của NNT và các cơ quan, Ban ngành có liên quan trong
công tác quản lý thuế như: UBND, HĐND, Mặt trận tổ quốc, các Ngân hàng, tổ chức
tín dụng... Quan trọng hơn cả, với cơ chế cân đối thu chi Ngân sách cho các cấp chính
quyền, UBND các cấp đã có những chuyển biến tích cực trong việc hỗ trợ, giúp đỡ Chi
cục Thuế thành phố Huế trong công tác thu Ngân sách vì đồng thời với cơ chế cân đối
thu chi, nhiệm vụ thu Ngân sách cũng đồng thời là nhiệm vụ của chính quyền UBND
các cấp.
Việc quản lý thu thuế HKD cá thể góp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế cá thể.
Số thu từ khu vực này tăng qua các năm, góp phần đảm bảo nhiệm vụ thu Ngân sách
của cơ quan thuế. Đồng thời cũng là nguồn bổ sung quan trọng và cần thiết đối với khu
vực Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
2.4.2. Hạn chế
Được thành lập vào năm 1990, đến này Chi cục Thuế Thành phố Huế đã hoạt
động được hơn 20 năm. Trong suốt quá trình đó, Chi cục đã cố gắng tập trung, phấn
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
i
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 59
đấu cao độ để thực hiện mọi nhiệm vụ của Tổng Cục Thuế, Cục Thuế giao cho. Với sự
nỗ lực phấn đấu của mình, Chi cục Thuế đã gặt hái được nhiều thành công trong việc
quản lý thuế đối với HKD cá thể trên địa bàn. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan nên trong 5 năm vừa rồi cũng còn tồn tại một vài hạn chế, thiếu sót.
Mặc dù luật thuế đã được thay đổi và bổ sung liên tục nhưng vẫn chưa toàn vẹn
và không bắt kịp với tình hình thay đổi thực tế. Hơn thế nữa, chưa có văn bản luật nào
quy định cụ thể, tổng hợp các loại thuế, cách thức nộp thuế một cách rõ ràng, bao quát
và dễ làm theo. Việc áp dụng các loại thuế, thuế suất được tính dựa vào các văn bản
luật khác nhau, điều này khiến các HKD cá thể không thể tự mình tính toán nên có rất
nhiều thắc mắc cần giải đáp và điều này lại gây áp lực công việc lên phía cơ quan thuế.
Hàng ngày, khối lượng công việc tính trên mỗi cán bộ nhân viên là rất nhiều,
song với tình hình làm việc còn chưa năng động và mang tâm lý “ làm cho Nhà nước”,
không chạy theo sản phẩm nên không khuyến khích các nhân viên làm việc hết mình,
thay vào đó có một số cán bộ đi làm muộn, về sớm, tranh thủ thời gian để ngồi chơi,
tán gẫu, lướt web,..dẫn đến tình trạng trì trệ, không hoàn thành chỉ tiêu công việc như
ban đầu dự kiến. Mặc dù có Đội kiểm tra 2 thường xuyên kiểm tra nội bộ, song hình
thức xử phạt còn chưa cao, gây ra tâm lý ỷ lại. Bên cạnh đó, hệ thống phần mềm phần
mềm quản lý thuế tuy đã được nâng cấp nhưng vẫn còn xảy ra lỗi, có đôi lúc mạng nội
bộ (LAN) xảy ra trục trặc dẫn đến mất thời gian rất nhiều để sửa và phục hồi, công
việc lại chưa được xử lý chuyển sang ngày khác.
Trong công tác Tuyên truyền, hỗ trợ NNT mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền,
phổ biến chính sách khi triển khai các chính sách thuế mới, hoặc thông báo nộp thuế
Môn bài đầu năm, do được phân cấp quản lý ở cấp Đội thuế thuộc Chi cục Thuế. Trên
thực tế, rất ít các trường hợp HKD cá thể hỏi, thắc mắc về chính sách thuế, hoặc nếu
có chỉ là các trường hợp thắc mắc về mức thuế khoán ổn định, chiểm tỷ lệ khoảng 1-
2% trên tổng số các trường hợp được cơ quan thuế giải đáp. Các HKD cá thể hầu như
không cần biết đến Đội Tuyên truyền, hỗ trợ NNT, thậm chí, các hộ Kế toán tư nhân
cũng chỉ nộp hồ sơ khai thuế ở Đội thuế, không cần đến cơ chế “một cửa” do cũng nộp
thuế theo phương pháp ấn định trên doanh thu khai thuế.
Trong việc quản lý ĐTNT còn chưa hoàn chỉnh. Có một số HKD thời vụ, hoặc
kinh doanh xen kẽ, không liên tục, các cán bộ điều tra đã không nhận thấy hoặc có biết
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 60
nhưng “giả lơ” cho qua. Bên cạnh đó, trường hợp nghỉ kinh doanh có làm đơn xin
miễn giảm thuế nhưng vẫn tiếp tục kinh doanh không bị phát hiện hoặc phát hiện quá
chậm dẫn đến thất thu thuế và tạo cơ hội cho các hành vi gian lận thuế.
Dù áp dụng phương pháp thuế khoán hay kê khai thì cũng ít nhiều xảy ra kẽ hở
cho ĐTNT gian lận để hòng trốn thuế. Trên thực tế vẫn còn những hiện tượng vi phạm
chế độ về ghi chép sổ sách kế toán, dùng hệ thống sổ sách kế toán giả để đối phó với các
cán bộ thuế, trong khi đó công tác quản lý đối với các cán bộ này không được thường
xuyên dẫn đến thất thu lớn cho Nhà nước. Đối với các hộ nộp thuế theo phương pháp ấn
định thì doanh thu thực tế thường lớn hơn doanh thu tính thuế rất nhiều. Đứng trước tình
hình cấp bách đó, nhưng việc kiểm tra rà soát còn quá hời hợt bởi cho rằng số thuế thu
từ HKD cá thể chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong số thu vào NSNN.
Bên cạnh đó, việc thực hiện đôn đốc thu nộp tờ khai thuế cũng còn nhiều bất
cập, do số lượng HKD lớn, thông báo thuế phải nộp có nhiều mẫu biểu tờ khai, nhiều
mẫu thông báo thuế riêng biệt, trong khi thời hạn nộp thuế hàng tháng, hàng quý khác
nhau. Những khó khăn này cộng với trình độ của các hộ rất hạn chế nên gây tốn kém
về giấy tờ, thủ tục cho cơ quan Thuế, thêm việc cho cán bộ Thuế và HKD mất rất
nhiều thời gian đi nộp thuế trong khi số thuế phải nộp rất nhỏ. Hơn nữa, tỷ lệ thu hồi
tờ khai thuế của HKD nộp thuế khoán còn thấp. Theo thống kê cho thấy, có tới
26,84% Chi cục Thuế cho rằng không thu hồi được đầy đủ các tờ khai; chất lượng kê
khai và độ tin cậy của thông tin trên tờ khai cũng rất hạn chế. Hầu hết các HKD kê
khai doanh số mang tính tượng trưng, rất thấp so với thực tế kinh doanh.
Việc khoán doanh thu, khoán thuế còn xảy ra nhiều bất cập, tạo kẽ hở cho đối
tượng lợi dụng. Chẳng hạn, Chi cục Thuế áp dụng Luật thuế GTGT để khoán một tỷ lệ
nào đó không vượt quá quy định tính trên GTGT của hàng hóa đó. Tuy nhiên, một số
hộ cá thể kinh doanh bán hàng hóa với giá bán cao hơn gấp nhiều lần so với giá mà họ
khai báo, dẫn đến họ sẽ thu được một khoản lãi mà không phải nộp thuế trên khoản lãi
đó. Chi cục Thuế cũng đã nhận biết được các hành vi như vậy và đã có các biện pháp
xử lý. Ví dụ năm 2010, Chi cục Thuế đã phân công nhiệm vụ cho các cán bộ thuế quản
lý chợ Đông Ba bắt buộc các chủ hộ tiến hành dán giá trên từng sản phẩm để công
khai giá bán, ngăn chặn tình trạng chặt chém cũng như chống thất thu thuế. Tuy
nhiên, việc tiến hành đó chưa được quản lý chặt chẽ, chưa xử phạt nặng các trường
Trư
ờng
Đạ
i ọ
c K
in
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 61
hợp không chịu niêm yết giá và bán hàng không theo giá đã niêm yết. Mặc khác do lưc
lượng quản lý mỏng và địa bàn quá rộng, số hộ quá đông nên rất khó quản lý.
Công tác thu nộp thuế cũng còn nhiều khó khăn do có một số hộ chậm hoặc kéo
dài thời gian nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế nhằm chiếm dụng tiền thuế vào
hoạt động kinh doanh của đơn vị, tiền thuế không được tập trung đầy đủ, kịp thời vào
NSNN. Bên cạnh đó số thuế thất thu cũng tương đối lớn do ĐTNT kê khai không trung
thực, hiện tượng phổ biến là: kê khai không đúng doanh thu thực tế, khai thấp giá bán
và số lượng hàng bán, để ngoài sổ sách kế toán những khoản thu đáng kể phải đánh
thuế, ghi sai thuế suất những mặt hàng, hoạt động phải chịu thuế suất cao khai sang
loại chịu thuế suất thấp. để được nộp thuế thấp hơn số thuế phải nộp theo đúng luật.
Ngoài ra một số ít cán bộ thuế đã thoả hiệp với ĐTNT để giảm bớt số thuế phải nộp,
nhất là trong trường hợp xác định doanh thu, mức thuế khoán xem xét miễn giảm thuế
cộng với chưa kịp thời kiểm tra, thanh tra phát hiện sai sót trong kê khai nộp thuế và
ghi chép sổ sách kế toán.
Việc UNT thuế cho UBND các phường, xã chỉ mang tính hợp đồng công việc,
không có quy định chặt chẽ để chuyển trách nhiệm của cơ quan thuế sang UNT, dẫn
đến việc lạm thu hoặc tiêu cực do các cán bộ được UNT không có ràng buộc như cán
bộ thuế. Chi phí cho UNT lớn nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm cụ thể
của các cán bộ uỷ nhiệm thu nên hiệu quả không cao. Trình độ của cán bộ được UNT
trong quản lý thuế rất thấp.
Trong việc xử phạt các hành vi trốn thuế, chây ỳ thuế của các HKD cá thể việc
xử phạt với các hộ KD đối với hành vi này chưa được cụ thể hoá bằng Luật, Nghị định
mà chỉ mới được hướng dẫn bằn các công văn của Bộ Tài chính, Tổng Cục Thuế; hiệu
lực pháp lý chưa cao, việc xử lý rườm rà, có nhiều điểm gây bất lợi cho cơ quan thuế
dễ gây ra thua thiệt khi có khiếu kiện từ các HKD vì hiệu lực pháp lý của văn bản
thấp. Mặt khác việc Cục Thuế các tỉnh được phép ban hành Quyết định để ấn định tỷ
lệ GTGT trên doanh thu, tỷ lệ thu nhập chịu thuế trên doanh thu tuy làm theo hướng
dẫn của Bộ Tài chính, Tổng Cục Thuế nhưng vẫn gây khó chịu cho NNT, phần lớn họ
nghĩ rằng việc thu thuế cao hay thấp đều do Ngành thuế quyết định và không mang
tính khách quan.
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 62
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Sau quá trình tìm hiểu kỹ về cách thức tổ chức bộ máy của Chi cục Thuế cũng
như quy trình quản lý thuế Hộ kinh doanh cá thể, cơ bản đã nắm bắt được tình hình
quản lý thuế Hộ cá thể trong những năm gần đây.
Đối với công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, Chi cục đã có quan tâm
đúng mức và đã giải quyết khá nhiều vướng mắc cho người nộp thuế. Tuy nhiên, còn
một bộ phận lớn Hộ cá thể vẫn chưa quan tâm thậm chí còn chưa biết đến dịch vụ hỗ
trợ này của Chi cục.
Đối với công tác quản lý đối tượng nộp thuế, Chi cục đã quản lý và phân loại
các Hộ kinh doanh để đưa về quản lý từng địa bàn, từng khu vực cụ thể; thường xuyên
kiểm soát danh sách hộ mới ra kinh doanh, hộ nghỉ kinh doanh. Tuy nhiên, vì số lượng
các hộ quá nhiều, lực lượng cán bộ thuế còn mỏng nên vẫn chưa thể kiểm soát 100%.
Công tác quản lý khai, khoán thuế đã đạt được mục tiêu đề ra. Chính vì công vì
công tác này khó có thể đảm bảo 100% công việc nên có nhiều điểm chưa hoàn thành
đúng kế hoach đặt ra cũng là điều tất nhiên. Song đây là công việc trọng tâm của quy
trình quản lý thuế, là cơ sở đảm bảo để có nguồn thu chính xác và đầy đủ, kịp thời nên
phía Chi cục cần quan tâm và đề ra các giải pháp thích hợp để cải thiện công tác này.
Việc quản lý thu nộp thuế đã thực hiện khá là tốt trong những năm qua, đều đạt
trên 90% số thuế thực thu/ghi thu và việc nợ thuế cũng giảm qua các năm. Tuy nhiên,
số nợ thuế bên phía các ngành kinh doanh nộp thuế TTĐB hiện đang thất thu nhiều và
bên phía cơ quan thuế vẫn chưa có giải pháp thỏa đáng để giải quyết dứt điểm tình
trạng này.
Miễn giảm thuế là chính sách ưu đãi thuế và công bằng thuế mà phía cơ quan
thuế áp dụng cho đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên một số hộ vẫn lợi dụng điều đó mà
khai man để gian lận thuế. Mặc dù vậy, với quy trình xử lý chặt chẽ thì đa số các đơn
trình lên xin miễn giảm thuế đều được xác minh một cách chính xác.
Trong những năm gần đây tình hình vi phạm cũng có bước giảm đáng kể, tuy
nhiên vì các hình thức vi phạm cũng nhỏ nhặt và số tiền bị truy phạt cũng không lớn
lắm nên về phía cơ quan thuế cũng không tập trung nhân sự nhiều cho đối tượng này.
Trư
ờng
Đạ
i ọ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 63
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ
3.1. Hoàn thiện luật pháp và các chính sách có liên quan đến quản lý thuế đối với
Hộ kinh doanh cá thể.
Chính sách và văn bản luật là kim chỉ nam cho mọi nghĩa vụ nộp thuế cũng như
công tác quản lý thuế. Trong những năm qua, đã nhiều lần thay đổi, bổ sung Luật,
Nghị định, Thông tư,..nhưng cơ bản còn số số chỗ chưa hoàn thiện và ít nhiều khập
khiễng, theo ý kiến của bản thân, tôi xin kiến nghị một số điều chỉnh:
Thứ nhất, đã đến lúc cần sửa đổi một vài điều luật thuế Môn bài. Qua 10 năm
cùng với mức tăng lương 8 lần thì giá cả các mặt hàng cũng liên tục tăng, đồng nghĩa
với doanh thu hoạt động kinh doanh nói chung tăng và theo đó thu nhập trên doanh thu
cũng tăng. Từ đó HKD có xu hướng tăng bậc MB.
Hiện nay, mức thu nhập > 1 triệu đối với 1 HKD là phổ biến, do vậy hầu như
các HKD sẽ chịu thuế MB bậc 1, bậc 2, các hộ MB bậc thấp sẽ hạn chế dần. Mức
lương tối thiểu vùng áp dụng từ 01/01/2013, quy định tại Nghị định 103/2012/NĐ-CP
như sau:
Vùng I 2,350,000 đồng/tháng
Vùng II 2,100,000 đồng/tháng
Vùng III 1,800,000 đồng/tháng
Vùng IV 1,650,000 đồng/tháng
Như vậy, trừ các hộ MB bậc 1 mà có thu nhập > 1,650,000 (đồng) là còn thu
thuế GTGT, còn lại thấp hơn các mức lương tối thiểu đều không thu thuế GTGT và cả
thuế TNCN (hộ có thu nhập thấp). Điều đó thật bất hợp lý vì hộ thu nhập thấp, không
thu thuế hàng tháng mà vẫn phải đóng môn bài như doanh nghiệp hoặc đóng như các
HKD có thu nhập cao hơn nhiều lần.
Như vậy, việc xác định căn cứ tính thuế là việc làm của những nhà xây dựng
chính sách. Tuy nhiên, tôi suy nghĩ cần đồng nhất trong việc xác định căn cứ tính thuế
MB đối với cả doanh nghiệp và HKD. Nên căn cứ vào quy mô kinh doanh để xác định
thuế MB. Đối với doanh nghiệp là vốn trong giấy phép kinh doanh, còn HKD nên giao
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 64
cho cơ quan địa phương kết hợp với HĐTV thuế xác định quy mô kinh doanh.
Thứ hai, ban hành khung pháp lý đủ mạnh và cần thiết để tất cả HKD cá thể
bắt buộc sử dụng hoá đơn bán hàng khi có các cung ứng về hàng hoá, dịch vụ.
Để làm được điều này ngoài biện pháp tăng cường tuyên truyền sâu, rộng trong
các tầng lớp kinh doanh còn phải tích cực kiểm tra, răn đe, xử lý các trường hợp bán
hàng không xuất hoá đơn. Đồng thời phải khuyến khích, động viên các trường hợp
chấp hành nghiêm túc chế độ sử dụng hoá đơn bán hàng.
Hiện nay chúng ta đang áp dụng chế độ miễn thuế GTGT đối với các HKD có
thu nhập dưới mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định (tại địa bàn thành phố Huế
con số này thường chiếm khoảng 25 % tổng số HKD). Một số HKD nhỏ không đăng
ký kinh doanh, phát sinh doanh thu không thường xuyên nhưng phát sinh doanh thu
trên 100.000 (đồng) khi bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ nếu có yêu cầu sẽ được cấp
hoá đơn lẻ. Còn lại, tất cả các HKD có mức thu nhập trên mức lương tối thiểu thuộc
đối tượng phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh và kê khai nộp thuế. Đối với các hộ
này, yêu cầu bắt buộc là phải sử dụng hoá đơn khi bán hàng, cung cấp dịch vụ: Hoá
đơn sẽ được phát hành riêng cho HKD cá thể này. Hoá đơn chỉ gồm 02 liên: 01 cho
khách hàng, 01 lưu. Đảm bảo không lẫn với hoá đơn của loại hình doanh nghiệp khác
do cách thức quản lý khác nhau, đồng thời sẽ hạn chế được tệ nạn mua bán hoá đơn
trái phép do hoá đơn không sử dụng được rộng rãi.
Đồng thời với việc yêu cầu tất cả các HKD sử dụng hoá đơn, cần thiêt phải có
chế tài buộc mọi người đi mua hàng hoá, dịch vụ phải lấy hoá đơn từ người cung cấp
hàng hoá, dịch vụ. Chẳng hạn số tiền phạt sẽ tính phần trăm (%) trên giá trị hóa đơn.
Đồng thời, có chính sách khuyến khích người dân sử dụng hoá đơn (VD: giữ hoá đơn
để quay số dự thưởng với giải thưởng có giá trị, ưu đãi khi khấu trừ chi phí tính thuế
TNCN). Còn về phía HKD cá thể, phải có chính sách khuyến khích các HKD sử dụng
hoá đơn (VD: giảm 30-50% số thuế phải nộp trong thời gian 6 tháng đến 1 năm) để tạo
thói quen và tiền đề cho việc quản lý về sau. Trong trường hợp khuyến khích không
phát huy tác dụng thì sẽ áp dụng biện pháp xử phạt hành chính thật nặng nếu bán hàng
không xuất hóa đơn.
Thứ ba, việc áp dụng các mức thuế suất thuế GTGT nên căn cứ vào tình hình
thực tế việc đặt giá mua vào bán ra để quy định mức thuế hợp lý, không quá cao cũng
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
i h
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 65
không nên quá thấp để tránh tình trạng lợi dụng thuế. Cụ thể với các sản phẩm bằng
đay, cói, tre, nứa, lá, rơm, vỏ dừa, sọ dừa, bèo tây và các sản phẩm thủ công khác sản
xuất bằng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp sẽ phải chịu mức thuế suất là 5%. Tuy
nhiên, mức thuế đó tương đối nhỏ so với lợi nhuận mà các hộ thu được do chênh lệch
giá mua vào và giá bán ra quá lớn.
Thứ tư, Chính sách thuế TTĐB cần nghiên cứu sửa đổi theo hướng thu hẹp
phạm vi đánh thuế, tập trung vào những HKD có số thu lớn, kinh doanh trong các lĩnh
vực rượu, bia, casino, sân gôn, xổ số; không đánh thuế TTĐB đối với những HKD
trong các lĩnh vực phổ biến, quy mô nhỏ như karaoke, massage để tiết kiệm chi phí
hành thu, đồng thời không thu thuế TN đối với hộ khai thác nhỏ lẻ vì hiện tại đã có
quy định cơ sở thu mua TN của các hộ nhỏ phải nộp thuế thay cho người khai thác.
3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế
Công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT phải được quan tâm hàng đầu bởi lẽ khi các
ĐTNT đã am hiểu sâu sắc và nhận biết được lợi và hại thì công tác quản lý thuế đối
với HKD cá thể sẽ trở nên dễ dàng và hiệu quả. Đặc biệt vì rất ít HKD quan tâm và
nhận thức được các nghĩa vụ về thuế nên hoạt động này càng cần phải được đầu tư
nhiều hơn.
Đưa các chính sách thuế, văn bản luật thuế trở thành môn học giống như các
môn học tự nhiên, xã hội khác nào trường PTTH, Đại học và tiến hành kiểm tra, thi cử
như bình thường. Đó chính là con đường nhanh nhất để sau này khi các thành phần
học sinh, sinh viên ra trường và bước vào cuộc sống thực tế nhận thức được tầm quan
trọng và ích lợi của việc nộp thuế. Và những đối tượng được học môn về thuế này sẽ
chia sẻ kiến thức cho gia đình, cho bạn bè và người thân. Từ đó, môi trường thuế sẽ
thân thiện hơn bao giờ hết bởi lẽ số nhiều trong chúng ta đã nhận thức được cái sai, cái
đúng, cái thiệt, cái hơn khi chấp hành các nghĩa vụ thuế cũng như các hành vi gian lận,
trốn lậu thuế.
Đội TTHH NNT luôn đảm nhận một khối lượng công việc đáng kể, Chi cục
Thuế nên tăng cường một số cán bộ nữa để giúp đảm bào công việc đạt tiến độ và hiệu
quả. Quan trọng hơn nữa, công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT phải được giao cho các
cán bộ thuế trước hết là phải “có tâm”, luôn lắng nghe và kiên nhẫn giải quyết mọi yêu
cầu thắc mắc của ĐTNT. Cán bộ đó phải là người am hiểu sâu sắc luật thuế, nhanh
Trư
ờ g
Đạ
i họ
c K
in
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 66
nhẹn, tiếp thu và xử lý thông tin nhanh chóng để có thể hỗ trợ được nhiều người và
góp phần tiết kiệm chi phí cho ngân sách Chi cục.
Chi cục Thuế thường tổ chức Hội nghị đối thoại với tập thể, cá nhân để giải đáp
thắc mắc về thuế nhưng đa số đối tượng tham gia đều là doanh nghiệp, rất ít HKD cá
thể tham gia mặc dù đây là đối tượng ít am hiểu về luật thuế nhất. Vì vậy Chi cục Thuế
nên phát giấy mời tận tay và động viên tham gia để được tư vấn tận tình cũng như giải
đáp các vướng mắc mà HKD cá thể đang gặp phải. Đông thời, nên tuyên dương và có
chính sách khuyến khích hơn nữa đối với những HKD đã hoàn thành nghĩa vụ thuế
một cách xuất sắc. Điều này sẽ góp phần động viên những hộ khác học tập noi theo.
Không chỉ chú ý đến việc cung cấp các hình thức hỗ trợ NNT một cách đa dạng
mà Chi cục cần chú ý đến việc làm sao để các NNT tiếp cận được với các dịch vụ đó
một cách dễ dàng nhất hay nói cách khác, nguồn lực cho việc hỗ trợ được sử dụng một
cách hiệu quả nhất. Do đó, cách thức cung cấp dịch vụ thuế là vấn đề không kém quan
trọng. Các ấn phẩm được xuất bản hay các bài viết trên báo cần được đưa dưới dạng
các câu hỏi nhỏ, các tình huống cụ thể thay vì các văn bản pháp luật khô cứng. Việc
cung cấp các tài liệu này cũng cần được mở rộng hơn, có thể có sẵn ở các bưu điện,
các quầy sách báo thay vì để ở các tủ sách miễn phí tại các cơ quan thuế như hiện nay
để NNT có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu.
Website điện tử của Chi cục Thuế nên được xây dựng bài bản, cập nhật các phần
mềm tra cứu thông tin để các ĐTNT có thể cập nhật thông tin về tình hình nộp thuế của
mình và cập nhật những sửa đổi, bổ sung của luật được nhanh chóng. Trang web đó cũng
cần nên có những mục giải đáp thắc mắc trực tuyến để ngay khi cập nhật tin tức xong, các
nhân tổ chức nào có nhu cầu hỏi thì có thể được giải đáp ngay lập tức.
3.3. Kiểm soát chặt chẽ các đối tượng có thực tế kinh doanh vào diện quản lý thuế
Hiện nay, tình trạng thất thu thuế từ một số bộ phận mới ra kinh doanh mà
không khai báo với cơ quan thuế hoặc các trường hợp “nghỉ giả”, chuyển địa bàn kinh
doanh hay kinh doanh tại gia, kinh doanh qua mạng,...đang ngày càng gia tăng và yêu
cầu cần có biện pháp xử lý để sớm khắc phục tình trạng không mấy đẹp đẽ này.
Từng đội thuế nên phối hợp với các ngành cấp đăng ký kinh doanh, quản lý thị
trường, thống kê, HĐTV thuế để điều tra, nắm lại số đối tượng thực tế có kinh doanh
trên địa bàn do mình quản lý, đối chiếu với số đối tượng đã có mã số thuế và đã quản
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
in
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 67
lý thuế, xác định những đối tượng chưa có MST, chưa quản lý thuế hướng dẫn họ lập
tờ khai xin cấp mã số thuế và đưa ngay vào sổ bộ để quản lý.
Căn cứ vào kết quả tự điều tra, từng Đội thuế phải lên sơ đồ các cơ sở kinh
doanh theo đường phố, số nhà, số quầy hàng (ở các chợ), xác định chính xác HKD do
đội quản lý, chú ý đến địa bàn giáp ranh giữa các phường. Yêu cầu đối với các HKD
có cửa hàng, cửa hiệu, quầy hàng cố định phải quản lý thu thuế 100%, đối với HKD
lưu động, kinh doanh tranh thủ sáng tối, kinh doanh vãng lai, kinh doanh tại gia, kinh
doanh qua mạng, kinh doanh vận tải, xây dựng tư nhân phải quản lý được từ 95%
trở lên.
Riêng đối với những HKD vận tải, đội thuế phải phối hợp với HĐTV thuế nắm
lại số hộ có phương tiện vận tải, phân loại hộ đang kinh doanh nhưng không nộp thuế
vì thường những hộ này vừa dùng xe cho gia đình vừa kiêm chở hàng hóa hoặc hành
khách. Đối với những hộ cho thuê nhà, thuê cửa hàng, cửa hiệu, phải phối hợp với
HĐTV thuế và tổ trưởng dân phố để xác định trường hợp nào thực chất là cho thuê
nhưng trốn thuế dưới danh nghĩa cho người nhà ở nhờ.
Đẩy mạnh việc kiểm tra hộ xin nghỉ kinh doanh đã miễn giảm thuế theo quy
định. Để tiện cho việc kiểm tra, khi hộ báo nghỉ kinh doanh, Chi cục Thuế có thể cấp
biển "Nghỉ kinh doanh" để hộ đó treo trước cửa, vừa tiện kiểm tra vừa hạn chế tiêu
cực. Đối với những hộ đã có đơn xin nghỉ nhưng thực tế vẫn kinh doanh phải kiên
quyết xử phạt vi phạm hành chính và truy thu số thuế đã miễn giảm. Đội thuế phải
chịu trách nhiệm nếu địa bàn có HKD xin nghỉ, đã miễn giảm thuế nhưng thực tế vẫn
đang kinh doanh mà không phát hiện được. Để hỗ trợ, Chi cục cần phân công cụ thể
mỗi cán bộ kiểm tra phải chịu trách nhiệm trên một số địa bàn và phải cùng chịu trách
nhiệm với đội thuế nếu có các hộ xin nghỉ nhưng thực tế vẫn đang kinh doanh.
Để quản lý chặt chẽ ĐTNT, chống thất thu về hộ, Chi cục cần chỉ đạo Tổ Kiểm
tra, tập trung kiểm tra đối tượng kinh doanh trên từng địa bàn phát hiện hộ mới ra kinh
doanh chưa kê khai nộp thuế, các HKD sáng tối, kinh doanh không có cửa hàng Kết
quả kiểm tra phải được thông báo thường xuyên cho Lãnh đạo Chi cục để đưa ngay
vào diện quản lý thu thuế và có chỉ đạo xử lý kịp thời.
Trư
ờng
Đại
học
Kin
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 68
3.4. Quản lý chặt chẽ doanh thu
Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế trên địa bàn, Chi cục tiến hành xem
xét lại doanh thu kinh doanh cho phù hợp. Yêu cầu doanh thu kinh doanh phải là
doanh thu thực tế, nếu phát hiện doanh thu, mức thuế quản lý mới chỉ bằng hoặc dưới
70% doanh thu thực tế thì cán bộ quản lý, đội trưởng đội thuế và Lãnh đạo Chi cục
Thuế phụ trách địa bàn phải chịu trách nhiệm.
3.4.1. Đối với Hộ kinh doanh nộp thuế khoán ổn định
Chi cục phải tổ chức điều tra thí điểm doanh thu kinh doanh của một số hộ, kết
hợp với doanh thu kê khai của hộ thực hiện chế độ kế toán để đánh giá mức độ thất thu
về doanh thu hiện nay của hộ thu khoán, giao chỉ tiêu phấn đấu tăng so với mức thuế
khoán hiện nay cho từng đội thuế. Mức thuế mới phải đảm bảo tăng tối thiểu 15% so
với mức ghi chung hiện nay.
Trong điều chỉnh thuế không làm tràn lan mà tập trung vào những ngành,
những loại hộ đang thất thu nhiều như: điện máy, ăn uống, giải khát, karaoke, khách
sạn, nhà nghỉ, may mặc,...Chú ý khi điều tra, xác định lại doanh thu, mức thuế phải
làm đúng quy trình, thực hiện công khai và không được xác định tăng theo lối bình
quân dễ sai sót.
Đối với những HKD nhỏ sau khi đã xác định lại doanh thu tính thuế, mức
thuế thì thông báo ổn định luôn 6 tháng hoặc cả năm. Còn đối với HKD vừa có thể
ổn định quý hoặc 6 tháng sẽ xem xét lại.
3.4.2. Đối với Hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai
Đẩy mạnh triền khai chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn chứng từ. Để chấn
chỉnh việc quản lý, sử dụng hoá đơn đi vào nề nếp, khắc phục những tồn tại trong
thời gian qua, cần thực hiện những biện pháp sau:
- Cần có quy định tất cả các hộ sản xuất kinh doanh phải có bản cam kết viết
hoá đơn đầy đủ cho khách hàng. Bản cam kết phải được treo chỗ thuận tiện, dễ thấy tại
điểm bán hàng. Nếu HKD không thực hiện đúng cam kết sẽ bị xử phạt theo luật định.
- Có chính sách khuyến khích người mua hàng lấy hoá đơn hoặc nếu người mua có
đủ số liệu chứng minh người bán không xuất hoá đơn thì được thưởng bằng cách giảm
thuế (TNCN, MB, GTGT,..) cho người đó. Thủ tục này cũng góp phần phát hiện những
hành vi sai phạm và động viên mọi cá nhân, tập thể tuân thủ luật thuế nghiêm chỉnh.
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 69
- Cơ quan thuế tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định về bán hoá đơn, quản
lý hoá đơn, phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận bán hoá đơn và bộ phận quản lý đối tượng
sử dụng hoá đơn nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm. Bên cạnh
đó, cơ quan thuế cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, coi đây là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục. Trong đó việc kiểm tra, đối chiếu hoá đơn là trọng tâm. Đặc
biệt đối với các hộ kế toán sử dụng hoá đơn phải được lập phiếu xác minh 100% số
hoá đơn đối tượng sử dụng hàng tháng. Hướng là tất cả những hoá đơn bán hàng bên
bán và bên mua đều ở cục địa phương đều phải xác minh đối chiếu ngay trong tháng.
Đối với những hoá đơn liên quan đến địa phương khác thì lập phiếu gửi đi xác minh.
Nếu qua xác minh có vi phạm phải kết hợp xác định rõ đối tượng vi phạm để xử lý
đúng người, đúng hành vi
- Mọi trường hợp vi phạm về khai báo sử dụng hoá đơn, quản lý và sử dụng hoá
đơn cơ quan thuế phải xử lý hành vi vi phạm và tạm đình chỉ việc sử dụng hoá đơn của
HKD. Sau khi HKD đã thực hiện quyết định xử lý và có các biện pháp chấn chỉnh mới
tiếp tục bán hoá đơn cho HKD.
Tăng cường kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý nghiêm khắc đối với những HKD
không chấp hành, hạch toán kế toán, lập hoá đơn chứng từ không trung thực với thực
tế phát sinh nhằm mục đích trốn lậu thuế. Đối với những hộ qua kiểm tra phát hiện vi
phạm, ngoài việc xử lý vi phạm hành chính còn phải xử phạt theo lần số thuế lậu, đồng
thời phải ấn định thuế theo kết quả kiểm tra đó. Mức thuế ấn định phải cao hơn mức
thuế của những HKD cùng ngành nghề, cùng quy mô thực hiện tốt chế độ kế toán, hoá
đơn chứng từ để động viên những HKD thực hiện tốt và HKD thấy được lợi ích thực
tế, không tái phạm.
3.6. Các giải pháp trong công tác thu nộp thuế và giải quyết nợ đọng
Công tác thu nộp thuế phải được lập kế hoạch rõ ràng, phân công nhiệm vụ cho
các cán bộ thu trung thực, nhanh nhẹn, cứng rắn và mềm mỏng khi cần và là những
người khá cẩn thận, tỷ mỉ.
Việc lập kế hoạch thu phải sát với thực tế địa bàn, điều đó đòi hỏi vai trò quản
lý của các cơ quan hữu quan trong việc giao chỉ tiêu cho Chi cục, bên cạnh đó các cán
bộ thuế cũng phải nắm bắt chính xác để tham mưu cho Chi cục tổ chức kiểm tra đôn
đốc tình hình thu nộp thuế theo đúng thời gian, đủ số tiền, tránh dây dưa gây nợ đọng.
Trư
ờng
Đạ
i ọ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 70
Trong thời gian tới, Ngành thuế nên xây dựng và hoàn thiện Sổ tay nghiệp vụ
quản lý thuế đối với HKD cá thể và các tài liệu hướng dẫn chuyên sâu về quản lý danh
bạ NNT, điều tra doanh số ấn định thuế, trên cơ sở đó nghiên cứu thực hiện các biện
pháp thu thuế hiện đại như nộp thuế qua ngân hàng, qua mạng hoặc các máy ATM.
Theo định hướng này, Vụ Cải cách sẽ phối hợp chặt chẽ với Cục Công nghệ thông tin
Tổng Cục Thuế phát triển các ứng dụng quản lý thuế HKD tích hợp vào chung một hệ
thống. Như vậy sẽ giúp cho số tiền thu nộp sẽ chính xác và hạn chế rủi ro.
Hiện nay thành phố Huế chỉ có duy nhất một địa điểm để nộp thuế là Kho bạc
thành phố (113 Nguyễn Huệ), nên cần mở rộng các điểm thu khác thuộc Kho bạc
thành phố để NNT có điều kiện được nộp trực tiếp thay vì nộp qua trung gian.
Ngoài ra, các cán bộ chuyên quản cũng phải thường xuyên nhắc nhở vận động
các cơ sở kinh doanh nộp thuế theo đúng thời hạn, số tiền quy định đồng thời phát hiện
những đối tượng trốn lậu thuế, thông báo kịp thời để có biện pháp xử lý. Đối với các
hộ xin nghỉ kinh doanh phải nhanh chóng xác minh và quyết định miễn giảm thuế, đối
với những hộ xin nghỉ nhưng vẫn tiếp tục kinh doanh cần có biện pháp xử lý nghiêm
khắc tránh gây tâm lý xấu ảnh hưởng tới các HKD khác thực hiện công bằng giữa các
ĐTNT. Đối với những hộ cố ý chây ỳ, dây dưa trốn thuế, không chịu nộp thuế cần đưa
ra xử lý công khai như không cho tiếp tục kinh doanh, xử lý hành chính nếu tái phạm
nhiều lần sẽ truy tố trách nhiệm dân sự
3.6. Tăng cường công tác kiểm tra và kịp thời xử lý nghiêm khắc các hành vi vi
phạm luật thuế
Công tác kiểm tra phải được thực hiện toàn diện, trãi rộng nhiều đại bàn, thực
hiện cả định kỳ lẫn đột xuất để bất ngờ phát hiện được nhiều đối tượng vi phạm và kịp
thời xử lý vi phạm.
Như đã nói, việc kiểm tra nên tập trung vào những mối nguy cơ lớn và có dấu
hiệu khả nghi cao như các HKD nghành nghề nộp thuế TTĐB, các hộ kê khai để kiểm
tra chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ. Đặc biệt, việc kiểm tra không chỉ nên dựa vào
lực lượng mỏng của Chi cục Thuế mà nên phối hợp với một số cơ quan chức năng
phát để nâng cao xác suất tìm kiếm những hành vi gian lận thuế chuyên nghiệp.
Ví dụ, để phát hiện một số hộ đang kinh doanh tại nhà mà không khai báo thuế
thì Đội kiểm tra nên phối hợp với Công an quản lý địa bàn đó, Tổ trường tổ dân phố,
Trư
ờng
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 71
người dân khu vực đó để chứng minh hộ đó có kinh doanh. Hay để kiểm tra việc cá
nhân nào có kinh doanh qua mạng hay không thì cần phối hợp với Bộ Công Thương
theo Nghị định 52/2013/NĐ-CP để tiến hành phát hiện và xứ lý. Tuy nhiên, Nghị định
52 chỉ áp dụng cho các cá nhân, tổ chức tạo lập website thương mại điện tử riêng, các
mạng xã hội khác như facebook,... vẫn chưa có quy định cụ thể nên việc kinh doanh
trên các trang mạng xã hội vẫn diễn ra phổ biến. Các cấp chính quyền nên sớm đưa ra
các điều khoản để buộc các đối tượng đó đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc quản lý giá bán mặt hàng của các hộ, yêu cầu
các hộ nghiêm chỉnh chấp hành, nếu phát hiện sẽ bị phạt hành chính và thông báo cho
ban quản lý Chợ, công an phường, công an thành phố đến làm việc trực tiếp. Ngoài ra
các ban liên quan nên lập một đội chuyên tiếp nhận các ý kiến phản hồi từ khách hàng
ở các chợ lớn trung tâm. Nếu khách hàng phản ảnh một số hộ bán giá quá cao so với
thị trường thì lập tức xác minh và lập biên bản xử lý, bên cạnh đó cần dán giấy thông
báo cho các khách hàng biết để phối hợp với cơ quan chức năng cùng nhau bảo vệ lợi
ích của các hai bên.
3.7. Tăng cường hợp tác với các cơ quan chức năng khác
Với nhiệm vụ là huy động nguồn thu cho NSNN, thiết nghĩ đây không chỉ là
nhiệm vụ cho mỗi Ngành thuế mà là trách nhiệm của các cơ quan chức năng khác và
toàn xã hội. Vì vậy, cần có quy định cụ thể buộc các cấp các ngành liên quan như cơ
quan cấp đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý thị trường, cơ quan công an,... có trách
nhiệm và nghĩa vụ hỗ trợ và giúp đỡ cơ quan thuế cung cấp những tài liệu liên quan
đến quá trình hình thành và hoạt động của các cá nhân, tập thể để cơ quan thuế có thể
kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh doanh. Giúp đỡ cơ
quan thuế trong việc xử lý các hành vi vi phạm thuế cũng như đôn đốc việc thu nộp và
cưỡng chế nợ thuế.
Trư
ờ g
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 72
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Nắm bắt được thực trạng về công tác quản lý thuế đối với Hộ kinh doanh cá thể
trên địa bàn Thành phố Huế nên trong chương 3 đã nêu một số giải pháp nhằm giải
quyết một số khúc mắt và khó khăn trong việc quản lý thuế Hộ cá thể.
Các giải pháp được đưa ra dựa trên việc phân tích từng điểm mạnh và điểm yếu
cũng như những gì đã đạt được và chưa đạt được của công tác quản lý thuế Hộ kinh
doanh nên nó sát với tình hình thực tế.
Trong nhóm giải pháp trên thì được phân chủ yếu áp dụng cho 3 đối tượng, đó
là Cơ quan thuế và cán bộ thuế, bản thân người nộp thuế (Hộ kinh doanh) và các Ban
ngành liên quan. Tuy các giải pháp này chỉ mang tính tương đối và khá chủ quan
nhưng các biện pháp này cũng đã được rút ra từ thực trạng nên cơ bản cũng khá là hợp
lý và thỏa đáng.
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 73
PHẦN III. KẾT LUẬN
3.1. Mức độ hoàn thành mục tiêu nghiên cứu
Bằng sự nỗ lực không ngừng nghỉ, trong suốt thực hiện đề tài này, tôi đã cố
gắng nghiên cứu từng ngóc ngách, từng khía cạnh để phân tích một cách sâu sắc nhất
những điểm nóng trong công tác quản lý thuế hộ cá thể hiện nay.
Qua nội dung đã trình bày ở trên, tôi đã cố gắng nêu lên được những vấn đề cơ
bản trong quy trình quản lý thuế như: quản lý ĐTNT, quản lý doanh thu, quản lý thu
nộp và nợ thuế, công tác tuyên truyền hỗ trợ, kiểm tra và xử lý vi phạm,... để có cái
nhìn bao quát và toàn diện về một quy trình quản lý thuế đối với một đối tượng phổ
biến nhất trong Ngành thuế cũng như trong xã hội. Điều này có lẽ sẽ giúp ích trong số
chúng ta rất nhiều bởi đâu đó xung quanh mình là gia đình, là bạn bè, là người thân
chính là một trong số hộ cá thể đang chịu trách nhiệm nộp thuế theo luật định Nhà
nước. Vậy thông qua những hiểu biết rành mạch về quy trình, chúng ta sẽ biết được
chúng ta là ai, có nghĩa vụ và trách nhiệm gì đối với Nhà nước.
Mặt khác, với những số liệu đã thu thập được về tình hình quản lý thuế trong 5
năm gần đây, bài khóa luận đã phần nào đánh giá được thực trạng công tác quản lý thuế
hộ cá thể, nhìn nhận được xu hướng tăng giảm số thu, số chênh lệch, số nợ, số thuế xử
phạt,...cũng như chất lượng của từng bước công việc. Qua đó phát hiện được một số yếu
tố còn hạn chế trong công tác quản lý, một số khúc mắc trong chính sách luật cũng như
một số bất cập trong chính bộ máy cơ quan thuế. Từ những cái gì còn thiếu sót, còn
vướng mắc, còn thiếu hụt thì cần có biện pháp giải quyết, bổ sung và đó chính là những
phương pháp xứ lý được rút ra từ thực trạng quản lý thuế hộ cá thể hiện nay.
Sau những gì mà tôi đã trình bày, cũng đã hoàn thiện được mục tiêu nghiên cứu
mà tôi đã đặt ra từ trước. Với đề tài này, tôi hy vọng với sự hiểu biết của mình, tôi có
thể đóng góp một phần nho nhỏ để công tác quản lý thuế đối với HKD cá thể ngày một
hoàn thiện hơn, đưa nền kinh tế Tỉnh nhà phát triển hơn nữa.
3.2. Hạn chế của đề tài
Đề tài này được thực hiện ở Chi cục Thuế Thành phố Huế, do địa bàn còn nhỏ
lên diện tích nghiên cứu cũng còn hẹp, chưa định hình được xu hướng chung chính xác
trong những năm qua. Thêm vào đó, thiếu sự so sánh, đối chiếu với tình hình quản lý
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
i h
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH 74
thuế hộ cá thể với các Chi cục khác có cùng quy mô, trình độ phát triển tương đương
nên sự đánh giá còn mang tính cô lập.
Việc khai thác đề tài chỉ dựa trên hoạt động, quy trình của Chi cục Thuế và sự
đánh giá của bản thân người nghiên cứu nên đề tài còn mang tính chủ quan, một chiều
do chưa có sự đánh giá và khảo sát từ phía NNT.
Do thời gian và quy mô báo cáo có hạn nên việc nghiên cứu chỉ tập trung ở một
số nội dung chính, chưa phân tích mọi chi tiết dẫn đến bài báo cáo còn bỏ sót một số
vấn đề.
3.3. Phương hướng nghiên cứu tiếp theo
Từ những hạn chế trong bài làm, nếu mở rộng nghiên cứu tôi sẽ nghiên cứu trên
nhiều góc độ hơn nữa:
Thứ nhất, việc khảo sát các bên tham gia không chỉ có bản thân người nghiên
cứu, Chi cục Thuế thành phố Huế mà còn khảo sát phía ĐTNT, các Sở, Ban, Ngành
liên quan và quan tâm đánh giá của Cục Thuế tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thứ hai, để đề tài không mang tính địa phương thì cần phải so sánh giữa các Chi
cục Thuế trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế cũng như so sánh với các Chi cục tỉnh thành
khác có mức phát triển và quy mô tương đương, từ đó phát hiện được những gì còn hạn
chế, những gì tốt thì phát huy và rút ra một số kinh nghiệm từ hạn chế của đối phương.
Thứ ba, chú trọng vào những công tác quản lý chính các cán bộ thuế hơn nữa
như đánh giá chế độ, chính sách quan tâm đời sống cán bộ nhân viên, hệ thống cơ sở
vật chất, công tác tuyên truyền phối hợp báo đài, công tác phối hợp cán bộ UNT,...như
thế bài nghiên cứu sẽ được toàn diện hơn.
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các văn bản Luật
- Quy trình quản lý Thuế Hộ kinh doanh (Ban hành kèm theo Quyết định số
2248/QĐ-TCT ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Tổng cục trưởng Tổng Cục Thuế).
- Quy trình quản lý thu Thuế Đối với Hộ kinh doanh cá thể (Ban hành kèm theo
Quyết định số 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26 tháng 7 năm 2004 của Tổng cục trưởng Tổng
Cục Thuế).
- Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006.
- Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012.
- Thông tư của Bộ Tài chính số 42/2003/TT-BTC hướng dẫn bổ sung, sửa đổi
Thông tư số 96/2002/TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ tài chính
- Thông tư số 96/ 2002/TT-BTC ban hành ngày 24 tháng 10 năm 2002
Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 75/2002/NĐ - CP ngày 30/8/2002 của Chính phủ
về việc điều chỉnh mức thuế Môn bài
- Luật Thuế Gía Trị Gia Tăng số 13/2008/QH12 được Quốc Hội thông qua
ngày 03 tháng 6 năm 2008.
- Thông tư số: 65/2013/TT-BTC Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 06/2012/TT-
BTC ngày 11/01/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thuế giá trị gia tăng, hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày
08/12/2008 ban hành ngày ngày 17 tháng 5 năm 2013 và Nghị định số 121/2011/NĐ-
CP ngày 27/12/2011 của Chính phủ.
- Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày08/12/2008 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật thuế GTGT.
- Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngầy 26/12/2008 của Bộ tài chính về việc
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT và hướng dẫn thi hành Nghị định
số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính phủ qquy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật thuế GTGT.
- Quyết định số 504/QĐ-TCT của Tổng cục trưởng Tổng Cục Thuế về việc quy
định chức năng, nhiệm vụ của các Đội thuộc Chi cục Thuế
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
in
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH
- Luật Thuế Thu Nhập Cá Nhân của Quốc Hội Khóa XII, kỳ họp thứ 2, số
04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007.
- Luật số: 26/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN
số 04/2007/QH12.
- NGHỊ ĐỊNH 100/2008/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế
thu nhập cá nhân ngày 08 tháng 9 năm 2008
- Thông tư số: 84/2008/TT-BTC Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thuế TNCN và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế TNCN ngày 30 tháng 9
năm 2008.
- Luật Thuế Tài Nguyên số: 45/2009/QH12 được Quốc hội nước CHXHCN
Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2009.
- Thông tư số: 42 /2007/TT-BTC Hướng dẫn thi hành Nghị định số
68/1998/NĐ-CP ngày 03/09/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
Thuế tài nguyên (sửa đổi) và Nghị định số 147/2006/NĐ-CP ngày 01/12/2006 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 68/1998/NĐ-CP nêu trên
ban hành ngày 27 tháng 4 năm 2007.
- Luật Thuế Tiêu Thụ Đặc Biệt số: 27/2008/QH12 được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008.
- Nghị định số: 26/2009/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Thuế Tiêu Thụ Đặc Biệt ban hành ngày 16 tháng 03 năm 2009.
- Thông tư số:05/2012/TT-BTC Hướng dẫn thi hành Nghị định số
26/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2009 và Nghị định số 113 /2011/NĐ-CP ngày
8 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
26/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2009 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ngày 05 tháng 01 năm 2012.
- Nghị định Số 113/2011/NĐ - CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 26/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2009 của Chính Phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ngày 08 tháng 12 năm 2011.
2. Các tài liệu tham khảo
- Giáo trình Luật thuế của Đại học Luật Hà Nội
Trư
ờ
Đạ
i họ
c K
i h
tế H
uế
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Minh Lý
SVTH: Đào Thị Mỹ Dung – Lớp: K44B - TCNH
- Giáo trình Quản lý Tài chính công của học viện tài chính
- Giáo trình Quản lý Thuế của Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh do
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng chủ biên.
- Giáo trình Thuế của Trường Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh do TS. Lê
Thị Thanh Hà chủ biên, xuất bản năm 2007 bởi Nhà Xuất Bản Thống Kê.
- Bộ Tài chính - Tổng Cục Thuế (2001), Thuế Việt nam qua các thời kỳ lịch sử
(tập I, tập II), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội.
- Báo Thuế Thừa Thiên Huế số 01, 02, 03, 04 năm 2012, 2013.
- Tạp chí Thuế Nhà nước số 22, 25, 28, 35, 36, 46, 48 năm 2012.
3. Các WEBSITE
- www.gdt.gov.vn (website của Tổng Cục Thuế)
- (website của Cục Thuế Tỉnh Thừa Thiên Huế)
- (website của Chi cục Thuế Thành phố Huế)
- (Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế)
- www.gso.gov.vn/ (Tổng cục Thống Kê)
- (Tạp chí Thuế Nhà nước)
- (Tạp chí Tài Chính)
- (Cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính)
Trư
ờng
Đạ
i họ
c K
inh
tế H
uế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dao_thi_my_dung_561.pdf