Khóa luận Giải pháp hạn chế tình trạng vàng hóa ở Việt Nam hiện nay

Mặc dù hiện nay, các văn bản chính sách kinh doanh vàng trong nước đã được NHNN ban hành khá đầy đủ và đang được phát triển theo hướng hoàn thiện hơn, nhưng vẫn còn không ít trường hợp các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức cố tình lách luật, làm trái các quy định về hoạt động kinh doanh mua bán vàng trong nước. Các hoạt động giao dịch thương mại sử dụng vàng làm công cụ thanh toán vẫn còn tồn tại. Tình trạng vàng giả, nhái, vàng trang sức kém chất lượng xảy ra khá phổ biến. Những vấn đề này khiến thị trường trở nên bất ổn hơn và về lâu dài còn có thể làm tổn hại chính sách quản lý vĩ mô đã được NHNN đưa ra. Các cơ quan chức năng như Cục Quản lý thị trường (Bộ Công thương), Tổng cục Hải quan, lực lượng Công an. cần hỗ trợ NHNN trong việc thanh tra, giám sát thị trường, xử lý nhanh chóng và nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy định về kinh doanh mua bán vàng, làm trong sạch thị trường, trả lại đúng chức năng phương tiện thanh toán về cho tiền đồng, cũng như tạo ra cơ cấu để đưa các doanh nghiệp và người dân tham gia thị trường một cách nghiêm túc, đi đúng hướng phát triển của Ngân hàng Nhà nước

pdf81 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp hạn chế tình trạng vàng hóa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá", Khoản 1, Điều 63 Luật Thương mại 2005 quy định: "Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hoá theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hoá với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai." Thang Long University Library 51 - Về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với việc thành lập và hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá của Bộ Công thương, Khoản 2, Điều 2 Nghị định 158/2006 quy định: "Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hóa.” - Về địa vị pháp lý của Sở giao dịch hàng hoá, Điều 6 Nghị định 158/2006 quy định: "Sở Giao dịch hàng hóa là pháp nhân được thành lập và hoạt động dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định của Nghị định này." - Về thẩm quyền cấp phép, Điều 7 Nghị định 158/2006 có quy định: "Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) quyết định cấp mới, cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy phép thành lập Sở Giao dịch hàng hóa; phê chuẩn Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa". - Về loại "Hợp đồng mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hoá", Khoản 1, Điều 64 Luật Thương mại 2005 quy định: "Hợp đồng mua bán hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hoá bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn." - Về phương thức thực hiện hợp đồng đối với hợp đồng mua bán kỳ hạn, Khoản 1, Điều 41 của Nghị định 158/2006 quy định: "Các bên giao dịch hợp đồng kỳ hạn có thể lựa chọn thực hiện hợp đồng theo một trong hai phương thức dưới đây: + Thanh toán bù trừ qua Trung tâm thanh toán vào phiên cuối cùng của ngày cuối cùng giao dịch hợp đồng. + Giao nhận hàng hoá qua Trung tâm giao nhận hàng hoá". Theo các quy định trên, cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Sở giao dịch hàng hoá là Bộ Công thương. Việc thành lập sàn giao dịch vàng phải được tổ chức dưới hình thức Sở giao dịch hàng hoá và phải tuân thủ các quy định của Nghị định 158/2006. Tuy nhiên cho tới nay, do Bộ Công thương chưa ban hành Danh mục hàng hoá được giao dịch trên Sở giao dịch hàng hoá, việc thành lập sàn giao dịch vàng tập trung là chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý. Theo nhận định của NHNN, hoạt động kinh doanh trên sàn vàng là hình thức kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro và cũng không phải hoạt động sản xuất kinh doanh giúp tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Chính vì thế, ngày 30/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có thông báo về việc chấm dứt hoạt động sàn giao dịch vàng. [28] 52 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Chương 2 là những đánh giá về tình trạng vàng hóa ở Việt Nam và một số biện pháp quản lý nhằm ổn định thị trường vàng của các cơ quan, ban, ngành trung ương. Tình trạng vàng hóa diễn ra ở Việt Nam từ năm 2008 – 2013 khá phức tạp với nhiều mối liên quan từ các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cho tới các doanh nghiệp kinh doanh, buôn bán vàng miếng và người dân. Trong khoảng thời gian này, thị trường vàng trong nước chịu tác động rất lớn từ xu hướng vàng thế giới. Nạn đầu cơ, tích trữ và buôn lậu vàng cũng là mối nguy hại hiện hữu ảnh hưởng tới sự biến động của giá vàng trong nước. Năm 2010 và 2011 đánh dấu sự gia tăng của tình trạng lạm phát ở mức 2 con số khiến người dân và các nhà đầu tư không khỏi hoang mang, cộng thêm với việc giá vàng liên tục tăng với mức tăng khá lớn trên thế giới, tình trạng huy động vàng bất chấp mọi rủi ro của các Ngân hàng thương mại khiến cho thị trường vàng nước ta càng trở nên rối loạn. Và thị trường vàng chỉ bắt đầu trở nên ổn định, đúng hướng khi một loạt các biện pháp mạnh tay được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cùng các cơ quan khác ban hành nhằm hạn chế vàng hóa, ổn định lòng tin của người dân. Tuy nhiên để xây dựng một thị trường vàng minh bạch và phát triển ổn định thì Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng cần phải có các biện pháp hiệu quả và lâu dài hơn. Thang Long University Library 53 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG VÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1 Định hướng của Ngân hàng Nhà nước trong công tác quản lý thị trường vàng 3.1.1 Mục tiêu và định hướng đổi mới quản lý thị trường vàng trong giai đoạn 2013 - 2020 Căn cứ vào định hướng chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về quản lý thị trường vàng, khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Một là, đảm bảo và bảo vệ quyền sở hữu vàng hợp pháp của người dân. Hai là, tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng, đặc biệt là thị trường vàng miếng. Ba là, ngăn chặn ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng "vàng hóa" trong nền kinh tế; nghiêm cấm việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán; có giải pháp để từng bước huy động nguồn lực vàng trong dân phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Bốn là, nâng cao vai trò quản lý và điều tiết thị trường vàng của Nhà nước. [29] Sau 2 năm xây dựng khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng và một năm chính thức có hiệu lực thi hành, khuôn khổ mới với nòng cốt là Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã phát huy hiệu quả rõ rệt, khắc phục triệt để những bất cập của thị trường vàng giai đoạn trước và về cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra. Tuy vậy, thị trường vàng vẫn phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong hiện tại và tương lai, điều đó đồng nghĩa rằng khuôn khổ pháp lý mới cần được hoàn thiện hơn nữa. Thông qua nghiên cứu tình hình quản lý nhà nước đối với thị trường vàng trong thời gian qua cùng những nhận định về triển vọng trong tương lai của thị trường vàng Việt Nam và thế giới, để phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam, khóa luận cho rằng việc đổi mới cơ chế quản lý thị trường vàng trong giai đoạn 2013-2020 phải hướng tới bốn mục tiêu cơ bản sau: - Xây dựng thị trường vàngminh bạch, ổn định và ngày càng hoàn thiện. - Đảm bảo thị trường vàng ổn định và tránh tối đa tác động tiêu cực đến các chỉ số kinh tế vĩ mô Việt Nam. - Huy động, sử dụng hiệu quả vốn tiết kiệm dưới dạng vàng để phát triển kinh tế. - Phát triển sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ hướng tới xuất khẩu. 54 Theo đó, các hệ thống văn bản pháp quy về quản lý và kinh doanh vàng cần được hoàn thiện trên cơ sở phù hợp với tình hình thực tế nhưng vẫn đảm bảo bám sát định hướng đã đề ra. Cụ thể: (1) Tôn trọng tập quán, quyền lợi của người dân khi sử dụng vàng làm phương tiện cất trữ giá trị, nhưng tuyệt đối không khuyến khích người dân đầu tư vàng, đặc biệt cần chống việc doanh nghiệp và dân cư đầu cơ vàng bằng nguồn vốn huy động ngoài xã hội; (2) Giảm thiểu chức năng phương tiện thanh toán của vàng trong nền kinh tế, không để thị trường vàng tác động lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô; (3) Tôn trọng quy luật thị trường trong điều tiết hoạt động kinh doanh vàng, đồng thời cần có sự quản lý, định hướng của Nhà nước; (4) Có cơ chế linh hoạt để thị trường vàng trong nước biến động phù hợp với thị trường vàng quốc tế, góp phần chống buôn lậu vàng; (5) Có cơ chế phù hợp để nguồn vốn tiết kiệm trong nước không bị điều chuyển quá mức vào hoạt động kinh doanh vàng; (6) Về kỹ thuật, cần có tiêu chuẩn/tiêu chí rõ ràng, cụ thể phân biệt vàng là đồ trang sức, mỹ nghệ với vàng có tính chất tiền tệ, theo đó có cơ chế quản lý riêng biệt, chặt chẽ, thu hẹp phạm vi, đối tượng tham gia và quy mô đối với kinh doanh vàng có tính chất tiền tệ, ví dụ vàng miếng; (7) Thông tin về quy mô giao dịch, số lượng giao dịch, số lượng vàng (vàng “có tính chất tiền tệ” - vàng miếng) sở hữu bởi một thành viên tham gia thị trường vàng chính thức phải được minh bạch, công khai và được báo cáo NHNN hàng ngày để NHNN có thể kiểm soát, điều tiết thị trường bằng các quyết định quản lý phù hợp, góp phần chống được hiện tượng làm giá, đầu cơ. (8) Gia tăng lượng dự trữ ngoại hối bằng vàng phù hợp với quy mô dự trữ ngoại hối tổng thể nhằm tăng tính chủ động của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết thị trường vàng, kết hợp các biện pháp tăng tính hiệu quả trong việc bảo quản và sử dụng lượng vàng dự trữ, tránh lãng phí tài nguyên. [31] 3.1.2 Xây dựng thị trường vàng minh bạch, ổn định và ngày càng hoàn thiện Xây dựng thị trường vàng theo hướng tập trung sẽ tạo thuận lợi cho cơ quan chức năng, cụ thể là Ngân hàng Nhà nước trong việc giám sát và quản lý. Thực tế, Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ đã thể hiện rõ mục tiêu kiểm soát thị trường vàng. Đơn cử như việc các đơn vị muốn kinh doanh vàng miếng phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước, điều này bước đầu giúp tăng cường khả năng giám sát thị trường của các cơ quan chức năng, tăng tính minh bạch cho thị trường. Việc Thang Long University Library 55 NHNN tổ chức các phiên đấu thầu vàng miếng thay vì bán trực tiếp cho ngân hàng và các doanh nghiệp đảm bảo việc mua bán diễn ra công khai, minh bạch, lành mạnh theo tín hiệu thị trường. Bên cạnh đó, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước đối với vàng, NHNN cũng cần sử dụng tất cả các nghiệp vụ để đảm bảo ổn định thị trường vàng, từ đó có thể đảm bảo lợi ích cho những người dân mua vàng với mục đích cất trữ giá trị. Hơn nữa, Chính phủ nên căn cứ vào điều kiện kinh tế vĩ mô cũng như khả năng hội đủ các điều kiện về tự do hóa thị trường tài chính nhằm định hướng cho phép NHNN phát triển đầy đủ hệ thống thị trường vàng như thị trường phái sinh, các sàn giao dịch vàng, quỹ đầu tư vàng... theo như kinh nghiệm của các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và Mỹ. Khi hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và toàn diện, song hành cùng sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, quá trình tự do hóa tất yếu sẽ diễn ra, nhờ vậy các nguồn lực trong nền kinh tế mới được vận hành thực sự có hiệu quả. 3.1.3 Đảm bảo thị trường vàng ổn định và tránh tối đa tác động tiêu cực tới các chỉ số kinh tế vĩ mô Vàng không chỉ là một loại tài sản có giá trị, có truyền thống cất trữ trong dân cư mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường ngoại hối, kiềm chế lạm phát và đảm bảo nguồn dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Bởi vậy, thị trường vàng ổn địnhsẽ tác động tích cực đến hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đến các chỉ số kinh tế vĩ mô. Thực tế cho thấy, Việt Nam được xem là quốc gia có "tỷ lệ vàng hóa” cao trên thế giới, sở dĩ bởi vàng thực hiện nhiều chức năng quan trọng: chức năng tiền tệ, phương tiện thanh toán, định giá, cất trữ. Theo đó, mỗi biến động giá vàng đều kéo theo biến động tỷ giá và đặc biệt là tâm lý thị trường. [38] Vấn đề vàng hóa đã và đang trở thành một bài toán khó dành cho các nhà hoạch định chính sách, ảnh hưởng tiêu cực đến Chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy, chủ trương chống vàng hóa đã và đang trở thành ưu tiên hàng đầu Ngân hàng Nhà nước nhằm hướng tới ổn định thị trường vàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung trong tương lai. Cụ thể, chống vàng hóa có tác dụng: ngăn ngừa biến động giá vàng ảnh hưởng tới tỷ giá, từ đó chống lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô; huy động được nguồn vàng trong dân để phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục triển khai các biện pháp theo đúng định hướng như xây dựng khung pháp lý đầy đủ về quản lý thị trường vàng; yêu cầu các ngân hàng thương mại tất toán trạng thái vàng và chuyển toàn bộ quan hệ từ huy động, cho vay vàng thành mua, bán vàng. 56 3.2 Điều kiện tiên quyết để chống vàng hóa Nguyên nhân dẫn tới việc một nền kinh tế bị vàng hóa xuất phát từ chính sách quản lý thị trường vàng của chính quốc gia đó chưa phù hợp, chính sách tiền tệ không thể hiện được tính hiệu quả trong một thời gian dài, gây ra tình trạng lạm phát cao và biến động lớn, đồng bản tệ thường xuyên mất giá. Điều kiện thiết yếu đối với một chiến lược chống vàng hóa đó là: - Huy động được nguồn lực vàng trong dân để phục vụ cho việc phát triển kinh tế. - Siết chặt, nâng cao hiệu quả trong cách quản lý thị trường vàng. - Hạn chế được tình trạng buôn lậu vàng. - Giảm vai trò tiền tệ của vàng, nâng cao hiệu quả quản lý vàng thuộc dự trữ ngoại hối để củng cố niềm tin của người dân vào nền kinh tế, giúp đồng tiền trong nước trở nên ổn định. 3.3 Giải pháp hạn chế tình trạng vàng hóa 3.3.1 Huy động lượng vàng trong dân cư Mục tiêu của công tác chống vàng hóa ngoài kiểm soát được thị trường vàng còn phải đạt được yêu cầu khơi thông dòng chảy vàng để phục vụ cho việc phát triển kinh tế. Theo số liệu thống kê từ các ngân hàng Thụy Sỹ thì tổng lượng vàng nhập về Việt Nam từ năm 1990 – 2011 khoảng 500 tấn, chưa kể số lượng từ Australia, Hồng Kông và qua đường tiểu ngạch. Nếu đem trừ đi số vàng đã xuất khẩu thì Việt Nam hiện còn khoảng 400 tấn vàng đang nằm trong dân. Theo ý kiến của T.S Nguyễn Thế Hùng – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Đầu tư và kinh doanh vàng Việt Nam (VGC) thì “Nếu huy động chỉ được một nửa số vàng trong dân thì ít nhất chúng ta cũng có 10 tỷ USD đưa vào nền kinh tế”. [15] Tuy nhiên, để huy động vàng hiệu quả, phải đảm bảo ổn định các yếu tố vĩ mô và nhất quán các điều kiện thực thi trên cơ sở cân đối lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức đầu tư kinh doanh vàng cũng như người gửi vàng, đảm bảo không còn rào cản đối với việc chuyển đổi giữa chứng chỉ vàng và vàng miếng. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giúp người dân nhận thức đầy đủ và cảm thấy an tâm khi gửi vàng cho ngân hàng quản lý, phát huy ưu điểm của Ngân hàng Nhà nước là nơi cất giữ vàng an toàn nhất. Khóa luận đề xuất giải pháp phát hành các chứng chỉ vàng7 để huy động vàng dự trữ trong dân. Giải pháp này thực tế đã được các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng nhưng do chưa có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, Việt Nam cũng như Ấn Độ đã hoàn toàn thất bại bởi giá vàng biến động quá mạnh, các ngân hàng thương mại cũng như 7 Chứng chỉ vàng là giấy chứng nhận chứng thực số lượng vàng của người sở hữu Thang Long University Library 57 toàn hệ thống gặp rủi ro về thanh khoản vàng. Giải pháp mới được đề xuất với quy định cụ thể như sau: - Chủ thể duy nhất được phát hành chứng chỉ vàng là Ngân hàng Nhà nước. Những chứng chỉ này được cầm cố, chiết khấu khi có nhu cầu, được tự do chuyển nhượng và giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, để thuận tiện và giảm chi phí hoạt động, Ngân hàng Nhà nước có thể ủy nhiệm giao dịch thông qua một số ngân hàng thương mại lớn như Vietcombank, Vietinbank, BIDV hoặc Agribank, - Khối lượng vàng giao dịch tính trên mỗi chứng chỉ là bội số của một lượng vàng. - Giá vàng trên chứng chỉ được tính theo giá vàng do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm giao dịch. Tuy nhiên, giá vàng trên chứng chỉ sẽ được điều chỉnh một năm/ lần nhưng không được tăng hoặc giảm vượt quá biên độ cho phép so với giá tại thời điểm mua chứng chỉ. Biên độ này sẽ được tính trên cơ sở bình quân gia quyền biến động với chỉ số giá vàng của Việt Nam trong tối thiểu 3 năm gần nhất. - Giá trị của chứng chỉ được tính trên cơ sở tích só của giá vàng và khối lượng giao dịch được niêm yết trên chứng chỉ. - Thời hạn của chứng chỉ được đề xuất tối thiểu là 1 năm và tối đa là 3 năm. - Ngân hàng Nhà nước có thể phát hành 2 loại chứng chỉ bao gồm: chứng chỉ có lãi suất và chứng chỉ không có lãi suất. Người thụ hưởng chứng chỉ có lãi suất (thông thường bằng với lãi suất Trái phiếu Chính phủ) sẽ được hưởng biên độ giao động giá nhỏ hơn so với chứng chỉ không có lãi suất. - Đối với giao dịch có khối lượng lớn, biên độ giao động giá có thể được thương lượng giữa Ngân hàng Nhà nước và cá nhân hoặc tổ chức gửi vàng. Với hình thức chứng chỉ mới này, quyền tích trữ vàng của người dân được đảm bảo trong khi nguồn vốn vẫn được luận chuyển phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác điều hành của Nhà nước. Đối với Ngân hàng Nhà nước, do đây là đầu mối duy nhất phát hành và quản lý chứng chỉ vàng nên công tác chuyển đổi theo đó cũng được đảm bảo an toàn hơn. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước khi thu hút được vàng trong dân về sẽ thực hiện chuyển đổi thành tiền thông qua giao dịch Swap – một giao dịch phái sinh có rào chắn rủi ro ở các thị trường phát triển, từ đó hạn chế được nguy cơ biến động giá mạnh dẫn đến rủi ro thanh khoản như đã từng xảy ra trong quá khứ. Tuy nhiên, nhược điểm của giải pháp này là các chứng chỉ vàng có khả năng bị làm giả, vì vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ phải bỏ ra nhiều chi phí hơn nhằm 58 hạn chế tình trạng này. Thêm nữa, để vừa tính toán được biên độ giao động giá vừa tạo được sự hấp dẫn đối với những người mua chứng chỉ, vừa đảm bảo hạn chế tối đa rủi ro biến động giá thực sự là một bài toán khó đối với Ngân hàng Nhà nước. Cuối cùng, dù áp dụng giao dịch phái sinh trong hoạt động chuyển đổi vàng thành tiền và biên độ giá trong hợp đồng, hoạt động phát hành chứng chỉ vàng vẫn chịu những rủi ro nhất định về tỷ giá và giá vàng do cung – cầu thị trường và những yếu tố khác mang lại. 3.3.2 Đa dạng hóa các thị trường vàng Cách thức tổ chức thị trường vàng vật chất hiện nay của Việt Nam còn khá đơn giản, hoạt động giao dịch tự phát và chưa xuất hiện các hình thức giao dịch hiện đại. Chính vì vậy, khóa luận xin đưa ra một số đề xuất: 3.3.2.1 Phát triển hình thức Quỹ đầu tư vàng Việc phát triển thành công các quỹ đầu tư vàng sẽ đem lại lợi ích lớn không chỉ cho nền kinh tế mà cho cả chính các nhà đầu tư tham gia thị trường. - Đối với nền kinh tế: + Đây được coi là một biện pháp khả thi trong vấn đề huy động vàng trong dân. Theo đó, khi thành lập các quỹ đầu tư (thường là các tổ chức tín dụng) lượng vàng vật chất từ dân sẽ được chảy vào các quỹ. Thông qua đó, vàng nhàn rỗi được luân chuyển trong nền kinh tế, hỗ trợ vốn cho sản xuất kinh doanh, việc quản lý của Nhà nước trở nên dễ dàng hơn, giảm bớt áp lực cho Ngân hàng Nhà nước mỗi khi có biến động. + Thu hẹp chênh lệch với giá vàng thế giới. Với sự minh bạch của các quỹ đầu tư vàng và đặc tính của chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn chứng khoán, những hành vi đầu cơ làm giá, thao túng thị trường nội địa sẽ được hạn chế đáng kể. Đồng thời, các quỹ đầu tư vàng tham chiếu với giá vàng quốc tế cũng góp phần thu hẹp đáng kể khoảng cách giữa giá vàng trong nước và quốc tế. - Đối với nhà đầu tư: Việc đầu tư vào chứng chỉ quỹ đầu tư vàng sẽ góp phần giảm thiểu được rủi ro liên quan đến vận chuyển, bảo quản vàng. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư vẫn có thể thu về mức lợi tức hấp dẫn. Với các lợi ích kể trên, đây thực sự là một giải pháp mà Ngân hàng Nhà nước cần ưu tiên xem xét. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu thực hiện, sự thận trọng là vô cùng cần thiết: hoạt động của các quỹ đầu tư vàng phải được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của NHNN, tránh lặp lại tình trạng sụp đổ nhanh chóng như từng xảy ra với mô hình sàn vàng. Mới đây, theo Vụ Quản lý, các Công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư Thang Long University Library 59 chứng khoán, cấu trúc vận hành quỹ đầu tư vàng sẽ bao gồm: Công ty quản lý quỹ, sáng lập viên của quỹ, thành viên lập quỹ, và Ngân hàng giám sát. - Công ty quản lý quỹ sẽ đăng ký xin phép cho quỹ đầu tư vàng theo quy định của Luật Chứng khoán: thực hiện hoạt động xác định giá trị tài sản ròng của quỹ, phát hành chứng chỉ quỹ trên cơ sở lượng vàng huy động được (đáp ứng lệnh mua của nhà đầu tư), hoặc thu hồi chứng chỉ quỹ trên cơ sở lượng vàng hoàn trả cho nhà đầu tư (đáp ứng lệnh bán của nhà đầu tư). - Sáng lập viên của quỹ là tổ chức có Giấy phép kinh doanh vàng do Ngân hàng Nhà nước cấp. Tổ chức này phải là tổ chức được Ngân hàng Nhà nước ủy quyền thay mặt Nhà nước thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu vàng miếng. Vai trò sáng lập viên được thông qua cơ chế xuất nhập khẩu vàng, bảo đảm giá vàng trong nước (thể hiện qua giá chứng chỉ đầu tư vàng) và giá vàng quốc tế (thể hiện qua giá trị tài sản ròng của quỹ đầu tư vàng) không chênh lệch quá nhiều. Sáng lập viên cũng có vai trò thẩm định chất lượng vàng huy động từ nhà đầu tư, thành viên lập quỹ bảo đảm đáp ứng tiêu chí của quỹ, trước khi chuyển vàng vào quỹ. - Thành viên lập quỹ là các công ty chứng khoán. Các tổ chức này cung cấp dịch vụ môi giới trong giao dịch hoán đổi vàng từ nhà đầu tư lấy các lô chứng chỉ quỹ đầu tư vàng và ngược lại. Các tổ chức này cũng được thực hiện nghiệp vụ tự doanh (trực tiếp mua vàng miếng để hoán đổi lấy các lô chứng chỉ quỹ đầu tư vàng hoặc ngược lại). - Ngân hàng giám sát thực hiện chức năng lưu kho vàng huy động từ nhà đầu tư. Đồng thời, ngân hàng giám sát cũng thực hiện các chức năng quản lý quỹ, phát hành và thu hồi chứng chỉ quỹ theo chỉ thị của công ty quản lý quỹ Trên cơ sở đó, khóa luận đưa ra một số góp ý cho mô hình này: - Ngân hàng giám sát phải là Ngân hàng Nhà nước. - Ngân hàng Nhà nước vẫn phải đóng vai trò là người xuất, nhập khẩu vàng trong giai đoạn đầu thực hiện, tránh tình trạng nhập khẩu hoặc xuất khẩu ổ ạt do nhu cầu đầu tư gây ra. - Trong giai đoạn thử nghiệm, nên sử dụng các biện pháp kỹ thuật để hạn chế rủi ro một cách tối đa với các yêu cầu về vốn điều lệ, tỷ lệ đầu tư tối đa trên tổng vốn tự có. 3.3.2.2 Xây dựng sàn giao dịch vàng vật chất Sàn giao dịch vàng vật chất cũng là một hướng phát triển cho thị trường Việt Nam. Mô hình sàn vàng vật chất ở Việt Nam nên được tổ chức như sau: 60 - Về quản lý: Ngân hàng Nhà nước vẫn phải giữ vai trò chi phối. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước sẽ là cơ quan quản lý, giám sát, chi phối hoạt động của sàn. - Về hình thức pháp lý: Sàn phải thuộc sở hữu Nhà nước, có thể xem xét một trong hai hình thức: công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hoặc công ty cổ phần với tỷ lệ vốn Nhà nước trên 50%. - Về hàng hóa: Vàng tiêu chuẩn SJC và vàng đạt chuẩn quốc tế. - Về thành viên: các doanh nghiệp sản xuất vàng miếng và các định chế tài chính và các thành viên chủ chốt (nhà tạo lập thị trường, đại lý nhận lệnh, hoạt động ngân hàng thanh toán, cung cấp dịch vụ lưu kho, giao nhận). - Về hình thức mua bán: Thời gian đầu, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên cho phép mua bán giao ngay (T+1) để đánh giá phản ứng của thị trường trước khi có những phương án phát triển đa dạng hơn. 3.3.3 Hạn chế tình trạng buôn lậu vàng Nhập lậu vàng là một vấn đề đã và đang tồn tại trong nhiều năm qua bởi những lý do khác nhau do lượng cầu trên thị trường vàng Việt Nam là rất lớn và không ngừng gia tăng trong khi nguồn cung hạn chế do đây là mặt hàng không được Nhà nước khuyến khích tiêu dùng. Theo nghiên cứu của GFMS (Tập đoàn Thomson Reuters, Mỹ), Việt Nam là nước tiêu thụ vàng nhiều thứ tư châu Á, sau Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan và cũng là một trong những quốc gia có tỷ lệ giữ vàng cao nhất châu Á, dù xu hướng tiêu thụ vàng có giảm trong năm 2012. Điều này phản ánh một lượng cầu không nhỏ đối với loại mặt hàng đặc biệt này. Tương tự nhận định trên, thống kê từ IMF cho thấy dù không được cấp phép nhập khẩu vàng nhưng mức tiêu thụ vàng của Việt Nam năm 2012 đạt khoảng 77 tấn. Hiện tại, cung và cầu vàng trong nước đang tồn tại một sự chênh lệch lớn. Mặc dù NHNN đã thực hiện 40 phiên đấu thầu tính đến ngày 05/07/2013, cung ra thị trường 40,5 tấn vàng, song dường như lực cầu vẫn còn rất mạnh. Trước thực trạng trên, một bộ phận đã nhập lậu vàng để đáp ứng một phần nhu cầu trong nước, hưởng chênh lệch giá. Thực tế cho thấy, trong khi vàng miếng bị Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt thì việc mua bán, sản xuất vàng nữ trang, vàng nhẫn lại đang khá tự do, nên vàng lậu vẫn có nhiều thị trường để tiêu thụ. Thêm vào đó, trình độ quản lý hoạt động kinh doanh và nhập vàng nguyên liệu tại các doanh nghiệp, cửa hàng kinh doanh nhỏ lẻ còn khá đơn giản, đa phần họ không quá quan tâm đến nguồn gốc vàng mà chỉ quan tâm đến tuổi vàng sau khi phân kim. Vàng lậu được nhập về, bán cho doanh nghiệp dưới dạng vàng nguyên liệu, sau đó dễ dàng được doanh nghiệp đóng dấu, dát thành vàng miếng mỏng, hoặc vàng nhẫn, nữ trang để bán ra thị trường dưới thương hiệu của Thang Long University Library 61 doanh nghiệp đó. Đây là một cách “lách luật” để doanh nghiệp thu lợi nhuận khi không được phép bán vàng miếng SJC. Và dù giá những loại vàng này thấp hơn so với vàng miếng SJC nhưng với mức chênh lệch hiện tại, kinh doanh vàng lậu vẫn đảm bảo có lãi cao. Với thực trạng như vậy, không có gì là khó hiểu khi hiện tượng nhập lậu vàng đang có xu hướng quay trở lại. Chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng trong thời gian qua đã cho thấy những tác động tích cực đến biến động giá vàng trong nước cũng như góp phần bình ổn thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, lợi dụng sự lên xuống bất thường của thị trường vàng thế giới và sự ổn định của thị trường vàng trong nước, không ít đối tượng đã nhập lậu vàng để hưởng chênh lệch giá vàng Việt Nam và thế giới. Do đó, khóa luận xin đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy lùi tệ nạn này, cụ thể: 3.3.3.1 Đối với chính sách xuất, nhập khẩu vàng Thứ nhất, cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập khẩu vàng theo đúng quy định. Thứ hai, Chính phủ nên nới lỏng các điều kiện nhập khẩu vàng, cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu vàng có đánh thuế ở mức phù hợp để đáp ứng nhu cầu tạm thời trong nước. Tuy nhiên việc làm này cần có lộ trình cụ thể và chỉ nên thực hiện trong dài hạn, tránh tạo áp lực cho cán cân thanh toán quốc tế và cán cân xuất, nhập khẩu. Cụ thể, khi Việt Nam hội đủ các điều kiện nhằm tự do hóa thị trường tài chính, Ngân hàng Nhà nước nên nới lỏng, sau đó tiến tới tự do hóa hoạt động nhập khẩu để thị trường vàng trong nước và thế giới gắn kết hợp lý với nhau, đưa giá vàng trong nước về sát giá thế giới. Thứ ba, từng bước nới lỏng hoạt động xuất khẩu vàng. Do thói quen tiêu dùng và tích trữ nên lượng vàng trong dân cư hiện nay rất lớn. Vàng này không có khả năng sinh lời nên đã gây ra tổn thất cho nền kinh tế. Chính vì vậy, Nhà nước cần đưa ra các biện pháp để huy động lượng "vàng chết” này. Nếu xuất khẩu vàng được khai thông, một lượng vốn lớn bằng vàng trong dân cư sẽ được huy động, chuyển thành ngoại tệ đầu tư trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh. Cụ thể, phải phân bổ số lượng xuất khẩu cho các đơn vị tùy theo năng lực và vốn pháp định. Đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ tiêu chuẩn chất lượng vàng xuất khẩu theo đúng quy định tại các văn bản luật. Chính phủ nên mở rộng loại vàng được phép xuất khẩu thêm vàng thỏi, vàng miếng thay vì chỉ là vàng nguyên liệu hay trang sức như hiện nay. Thứ tư, cần phát huy vai trò của kho ngoại quan vàng. Việc ra đời của kho ngoại quan vàng giúp các nhà xuất nhập khẩu vàng bạc trong nước mua bán trực tiếp, không phải qua trung gian như Hồng Kông, Thụy Sỹ, Singapore hay Nhật Bản như trước; từ đó, giảm được chi phí vận chuyển và bảo hiểm. Tuy nhiên, hiện nay kho ngoại quan 62 vàng vẫn chưa phát huy hiệu quả vai trò của nó, công suất sử dụng còn hạn chế. Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng đưa ra các biện pháp quản lý thích hợp nhằm thúc đẩy hoạt động của kho ngoại quan, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu vàng. 3.3.3.2 Đối với các chính sách thuế Một mức thuế suất hợp lý sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhập khẩu vàng thuận lợi hơn với lượng nhập lớn hơn. Họ không cần phải quá lo lắng về tình trạng thuế nhập khẩu đẩy giá vàng tăng cao, tác động tiêu cực đến quá trình sản xuất, kinh doanh của những doanh nghiệp này. Nói cách khác, việc giảm thuế, giảm các thủ tục phức tạp trong quá trình nhập khẩu vàng sẽ khiến các doanh nghiệp không cần tìm đến con đường nhập lậu vàng. Đơn cử một ví dụ, khi thuế suất nhập khẩu của Việt Nam bằng 0% như các nước khác, sự khác biệt giữa giá nhập lậu và giá nhập khẩu chính thống sẽ được thu hẹp đáng kể. Điều quan trọng nhất, mức thuế phải hợp lý thì thị trường mới chấp nhận. Thái Lan đã làm rất tốt việc lợi dụng lợi ích từ việc cắt giảm mức thuế này. Nước này quyết định cắt giảm thuế nhập khẩu vàng thỏi xuống còn 0%. Kết quả là năm 2000, Thái Lan không những giảm được 85% lượng vàng nhập lậu mà còn góp phần làm cho kim ngạch xuất khẩu sản phẩm vàng của họ đạt 2,5 tỷ USD. 3.3.3.3 Tăng cường phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước với Tổng cục Hải quan, Bộ Công thương để kiểm soát ngăn chặn tình trạng nhập lậu vàng Sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan hữu quan trong công tác phòng chống buôn lậu vàng cũng là một trong những lý do khiến nạn nhập lậu vàng vẫn tồn tại. Ngân hàng Nhà nước không thể nào kiểm soát mọi giao dịch qua biên giới hay giám sát trên thị trường mà chức năng này thuộc về các cơ quan chuyên ngành như Tổng cục Hải quan, Bộ Công thương... Trên thực tế, số vụ buôn lậu vàng bị phát hiện chưa nhiều, mặc dù trong nhiều năm qua, WGC đánh giá Việt Nam là một nước tiêu thụ rất nhiều vàng lậu. Chính vì vậy, để chấm dứt tình trạng buôn lậu vàng, bên cạnh việc tạo sự thông thoáng hơn cho hoạt động nhập khẩu vàng chính ngạch, các Bộ, ngành liên quan gồm Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Hải quan và Bộ Công thương (cụ thể là Cục Quản lý thị trường) cần có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất về đường lối và chính sách quản lý, cùng nhau rà soát nguồn gốc xuất xứ vàng, thiết lập chế tài đối với hành vi kinh doanh vàng không xuất xứ nhằm giúp thị trường vàng trở nên lành mạnh. Để phát hiện vàng lậu, các cơ quan chức năng có thể căn cứ vào hóa đơn xuất hàng hoặc phiếu xuất kho kiêm hóa đơn vận chuyển nội bộ, nhờ vậy có thể giám sát được nguồn vàng vào - ra tại các đơn vị kinh doanh quy mô nhỏ. Đối với các doanh nghiệp lớn, để tránh hiện tượng “quay vòng hóa đơn”, cơ quan chức năng có thể yêu cầu doanh nghiệp kê khai chi tiết hóa đơn nhập khẩu, lấy đó làm căn cứ đối chiến với lượng vàng nhập thực tế, Thang Long University Library 63 thủ tục này tuy phức tạp song có thể giúp hạn chế tối đa nguy cơ vàng nhập lậu tràn vào Việt Nam. 3.3.3.4 Tăng cường chế tài xử phạt vi phạm đối với hành vi nhập lậu vàng Thứ nhất, Chính phủ cần tăng mức phạt tiền đối với hành vi xuất khẩu, nhập khẩu ngoại tệ, vàng mà không có giấy phép của NHNN. Theo đó, mức phạt của hành vi này sẽ là tịch thu tăng vật, đồng thời đối tượng vi phạm phải nộp phạt thêm số tiền tương đương với giá trị buôn lậu, nhưng tối thiểu của hành vi này là 500 triệu VND. (Điều này tương tự với việc phạt các vi phạm trong Luật Thuế Thu nhập cá nhân của Việt Nam). Thứ hai, đối với các hành vi thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ bằng vàng với nhau trái quy định pháp luật; kinh doanh mua, bán vàng trái quy định pháp luật theo Nghị định 95/2011, nhóm nghiên cứu đề xuất hình phạt bổ sung là tịch thu tang vật tại chỗ bên cạnh chế tài phạt tiền từ 50 - 100 triệu đồng. Thứ ba, trong trường hợp các tổ chức kinh doanh vàng có hành vi kinh doanh, mua bán vàng trái pháp luật, ngoài hình thức tịch thu tang vật, tổ chức vi phạm bị phạt tiền tương đương với giá trị tang vật (tối thiểu 500 triệu VND) (Điều này tương tự với việc phạt các vi phạm trong Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam). Đồng thời, cơ quan chức năng nên chăng xem xét việc thu hồi Giấy phép hoạt động kinh doanh vàng trong thời hạn 12 tháng khi vi phạm lần đầu và tước bỏ Giấy phép không thời hạn trong trường hợp tái phạm. 3.3.4 Nâng cao hiệu quả quản lý vàng thuộc dự trữ ngoại hối Nhà nước Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần gia tăng tỷ lệ vàng cũng như số lượng vàng dự trữ tuyệt đối trong tổng dự trữ ngoại hối nhà nước đến mức hợp lý. Cụ thể, tỷ lệ dự trữ vàng cần phải tăng lên ngang mức bình quân của thế giới là khoảng 9 - 11% tổng quy mô dự trữ ngoại hối Nhà nước. Điều này bắt nguồn từ việc lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay chưa thực sự lớn nếu xét theo số tuần nhập khẩu. Trong trường hợp chưa thể thay đổi ngay lập tức cơ cấu dự trữ ngoại hối đảm bảo mục tiêu trên, Ngân hàng Nhà nước nên xem xét quy định lượng dự trữ ngoại hối theo số tuyệt đối. Theo đó, số tuyệt đối là quy mô tối thiểu cần đạt được để đảm bảo NHNN đủ nguồn lực can thiệp thị trường vàng trong điều kiện thị trường có những diễn biến xấu. Có thể sử dụng phương pháp "Stress test" để xác định lượng vàng tối thiểu cần dự trữ như trên. Tuy nhiên, trong dài hạn, khi quy mô dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng, tỷ lệ có thể duy trì tương tự như một số nước trong khu vực từ 3 - 5%, song vẫn cần có những quy định song hành liên quan đến lượng vàng tuyệt đối tối thiểu phải đạt được trong dự trữ. Thực hiện tốt giải pháp này, NHNN sẽ luôn duy trì được thế chủ động trong bình ổn thị trường vàng, đồng thời hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực từ thị 64 trường vàng thế giới cũng như tác động nhất thời đến tỷ giá hối đoái trong trường hợp buộc phải nhập lượng vàng lớn. Việc gia tăng quy mô có thể được thực hiện thông qua hoạt động mua vàng vật chất trực tiếp trên thị trường quốc tế hoặc mua vàng từ dân cư. Tuy nhiên, đối với hình thức huy động vàng từ dân cư nhằm khai thác lượng "vốn chết” trong dân, cần phải tính đến chi phí chuyển đổi bởi phần lớn lượng vàng này chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế cũng như cân nhắc các điều kiện nhằm thực hiện giải pháp huy động lượng vàng còn tồn đọng trong dân cư. Thứ hai, vấn đề đa dạng hóa hình thức đầu tư vàng dự trữ cũng cần được xem xét. Ngân hàng Nhà nước không nên đơn thuần lưu trữ trong kho nhằm tránh lãng phí của cải và rủi ro mất cắp. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều hình tư đầu tư vàng như gửi vàng, cho thuê vàng vật chất hay mua bán vàng trên tài khoản. Trước mắt, NHNN Việt Nam có thể nghiên cứu triển khai hoạt động gửi và và cho thuê vàng vật chất trước khi thực hiện giao dịch vàng trên tài khoản như trong lộ trình dài hạn đã đặt ra. 3.4 Một số kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước Sự phức tạp của thị trường vàng Việt Nam hiện nay đòi hỏi một chính sách quản lý và phát triển đồng bộ, thống nhất của hệ thống các cơ quan nhà nước. Bên cạnh các chính sách quản lý trực tiếp thị trường vàng, NHNN cần đề ra những chính sách tổng thể nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, qua đó gián tiếp điều tiết thị trường vàng. Ngoài ra, để có một thị trường vàng phát triển đầy đủ và ổn định, NHNN cũng rất cần sự phối hợp từ các cơ quan chức năng nhằm tạo ra hệ thống chính sách đồng bộ, hiệu quả. Nhóm nghiên cứu xin phép đề xuất một số kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. 3.4.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 3.4.1.1 Đồng bộ các chính sách vĩ mô Bên cạnh sự quản lý trực tiếp với thị trường vàng thì những tác động của NHNN với việc ổn định giá cả, lãi suất, tỷ giá, hệ thống ngân hàng, thị trường ngoại hối... cũng có những ảnh hưởng quan trọng đến sự ổn định và biến động trên thị trường vàng. Khóa luận cho rằng trong khi thực hiện chính sách quản lý thị trường vàng, NHNN có thể đồng thời nghiên cứu, thực thi các chính sách liên quan đến lạm phát, ngoại tệ, lãi suất... đồng thời, đồng bộ với chính sách thị trường vàng, từ đó làm giảm các áp lực do lạm phát, tỷ giá tác động lên tâm lý người dân, khiến cho thị trường vàng được ổn định hơn. Các chính sách đối với hệ thống ngân hàng cũng nên được thực hiện đồng bộ và khéo léo, tạo điều kiện để các ngân hàng tham gia thị trường vàng một cách lành mạnh, không gặp rủi ro. Thang Long University Library 65 3.4.1.2 Củng cố niềm tin vào giá trị tiền đồng Việc người dân mất niềm tin vào sự ổn định của tiền đồng, chuyển sang găm giữ vàng đã tạo ra sự liên thông tiêu cực giữa thị trường vàng và các thị trường hàng hóa khác như bất động sản, chứng khoán và tín dụng. Ngoài ra, khi vàng trong nước tăng giá, cầu vàng, cầu ngoại tệ tăng làm tăng giá ngoại tệ và phá giá nội tệ, người dân càng trở lên mất niềm tin vào tiền đồng và chuyển sang nắm giữ vàng. Vì vậy, giải pháp quan trọng nhất để ngăn cản những tác động không tốt của sự liên thông các thị trường đó là củng cố niềm tin vào giá trị tiền đồng. Theo đó, NHNN cần phải thực hiện ổn định tỷ giá qua đó hướng tới mục tiêu cuối cùng là kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả. Năm 2012, cùng với chính sách về tỷ giá, tín dụng, các nghiệp vụ thị trường mở và công cụ lãi suất, NHNN đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát ở mức một con số là 6,81%. Vì vậy, trong thời gian tới, để tiếp tục củng cố niềm tin của người dân vào nền kinh tế, NHNN cần tiếp tục thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát theo mục tiêu giống như trong năm 2012, đồng thời ổn định tỷ giá thông qua việc tiếp tục kiềm chế nhập siêu trên cơ sở tăng xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, đặc biệt là đối với những thiết bị cũ kỹ, những mặt hàng không khuyến khích Ngoài ra, thực hiện ổn định giá vàng, giảm thiểu chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới nhằm tránh tình trạng nhập lậu, qua đó tránh được sự tăng giá kép giữa vàng và ngoại tệ, cơ cấu lại vàng và ngoại tệ trong dự trữ ngoại hối. 3.4.1.3 Kiến nghị với Bộ Tài chính Thuế là nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách Nhà nước. Nộp thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân. Tuy vậy nếu không có những chính sách thuế hợp lý thì vô hình chung thuế trở thành gánh nặng cho người dân, các doanh nghiệp... hay dẫn đến tình trạng trốn thuế, thất thu thuế... làm thiệt hại trực tiếp đến Ngân sách Nhà nước. Thuế liên quan đến thị trường vàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chính sách thuế liên quan đến thị trường vàng cần thực sự linh hoạt, phù hợp với mục tiêu điều hành nhưng cũng cần phải cân đối lợi ích của các chủ thể tham gia trên thị trường. Thuế có mối liên hệ mật thiết với thị trường vàng, Bộ Tài chính góp phần quản lý giám sát thị trường vàng thông qua việc đánh thuế hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng, trong đó đặc biệt chú trọng đến quy định về thuế xuất nhập khẩu. Khóa luận xin được đề xuất khuyến nghị đối với thuế xuất, nhập khẩu đối với vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước: Theo Nghị định 24, Nhà nước độc quyền trong việc sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Căn cứ vào mục tiêu Chính sách tiền tệ và cung cầu vàng trong từng thời kỳ, NHNN tổ chức thực hiện xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng 66 miếng đáp ứng yêu cầu can thiệp, bình ổn thị trường vàng trong nước. Trong khi đó, đối với vàng nguyên liệu có hàm lượng dưới 99,99% vẫn áp dụng thuế suất xuất khẩu là 10%, loại có hàm lượng 99,99% trở lên thì thuế suất là 0% còn thuế nhập khẩu đối với vàng nguyên liệu nói chung vẫn áp dụng mức thuế 0%. Điều này sẽ không hợp lý khi NHNN đã độc quyền trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu này bởi nếu tiếp tục đánh thuế thì Nhà nước đang tự lấy ngân sách để đóng thuế cho ngân sách. Tự nhiên dẫn đến mất chi phí cho công tác thu thuế hoặc phát sinh gian lận khi NHNN ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu cho một tổ chức nào đó để được khấu trừ thuế đầu vào. Từ những lý do trên, khóa luận kiến nghị miễn toàn bộ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu của NHNN. 3.4.2 Kiến nghị với các Bộ, ban ngành liên quan khác 3.4.3 Về việc tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhưng đảm bảo cụ thể, chặt chẽ trong hoạt động quản lý thị trường Trong tình hình hiện nay, khi mà thị trường vàng Việt Nam chưa có sự liên thông chặt chẽ với thị trường quốc tế, giá vàng trong nước còn khoảng cách xa so với giá thế giới, tình trạng xuất, nhập lậu vàng miếng có thể xảy ra với nguy cơ cao. Ngoài ra các chính sách còn chưa thông thoáng sẽ khiến doanh nghiệp kinh doanh vàng trang sức gặp khó khăn trong việc điều khiển nguồn cung vàng của mình. Quy trình quản lý nguồn cung vàng của NHNN cũng sẽ gặp nhiều trở ngại phức tạp hơn. Do vậy, bên cạnh việc ban hành biểu thuế linh hoạt hơn đối với vấn đề xuất nhập khẩu vàng, Bộ Tài chính, Bộ Công thương... nên ban hành các quy tắc làm đơn giản thủ tục hành chính, phối hợp với các chính sách NHNN để từ đó, doanh nghiệp có những điều kiện thuận lợi hơn, tự chủ hơn với nguồn vàng nguyên liệu của mình. Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần phối hợp để sớm sửa đổi các luật hiện hành về kinh doanh chứng khoán, bất động sản... đồng thời đưa ra các chính sách phát triển hiệu quả hơn với các thị trường này, giải quyết các khó khăn đang tồn tại như đóng băng tài sản, nợ xấu... vừa có tác dụng giải phóng hoạt động chung của nền kinh tế khiến môi trường vĩ mô ổn định hơn, mặt khác giảm sự bất ổn của các thị trường này để khuyến khích công chúng giảm sức nóng quá lớn đối với vàng, từ đó thị trường vàng cũng dần ổn định hơn. Trong hoạt động kinh doanh vàng trên thế giới thì sàn giao dịch tập trung có một vị trí rất quan trọng. Tuy nhiên, vướng mắc hiện nay ở Việt Nam là chưa có một cơ chế điều chỉnh thống nhất với các loại hình sàn giao dịch tập trung về hàng hóa, tài sản...; các văn bản luật còn chưa rõ ràng. Điều này khiến cho hoạt động sàn vàng ở Việt Nam cũng chưa có khuôn khổ vững vàng để đi vào hoạt động hiệu quả. Bởi vậy nhóm nghiên cứu cũng kiến nghị xây dựng các văn bản luật có nội dung cụ thể, thống Thang Long University Library 67 nhất với nhau về cơ chế, cách thức điều chỉnh, nguyên tắc hoạt động... của sàn giao dịch nói chung, từ đó Ngân hàng Nhà nước có thể hoàn thiện các quy định của mình, tạo ra một sàn giao dịch vàng hoạt động hiệu quả và minh bạch. 3.4.4 Về công tác thanh tra, giám sát Mặc dù hiện nay, các văn bản chính sách kinh doanh vàng trong nước đã được NHNN ban hành khá đầy đủ và đang được phát triển theo hướng hoàn thiện hơn, nhưng vẫn còn không ít trường hợp các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức cố tình lách luật, làm trái các quy định về hoạt động kinh doanh mua bán vàng trong nước. Các hoạt động giao dịch thương mại sử dụng vàng làm công cụ thanh toán vẫn còn tồn tại. Tình trạng vàng giả, nhái, vàng trang sức kém chất lượng xảy ra khá phổ biến. Những vấn đề này khiến thị trường trở nên bất ổn hơn và về lâu dài còn có thể làm tổn hại chính sách quản lý vĩ mô đã được NHNN đưa ra. Các cơ quan chức năng như Cục Quản lý thị trường (Bộ Công thương), Tổng cục Hải quan, lực lượng Công an... cần hỗ trợ NHNN trong việc thanh tra, giám sát thị trường, xử lý nhanh chóng và nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy định về kinh doanh mua bán vàng, làm trong sạch thị trường, trả lại đúng chức năng phương tiện thanh toán về cho tiền đồng, cũng như tạo ra cơ cấu để đưa các doanh nghiệp và người dân tham gia thị trường một cách nghiêm túc, đi đúng hướng phát triển của Ngân hàng Nhà nước. Thêm vào đó, công tác thanh tra, giám sát hoạt động xuất nhập khẩu vàng yêu cầu bộ phận hải quan, quản lý cửa khẩu thực hiện nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, nhanh chóng phát hiện và xử lý các hành vi buôn lậu, gian lận trong xuất nhập khẩu vàng, lợi dụng chính sách xuất nhập khẩu vàng thực hiện các hành vi “tẩy rửa vàng”, hợp thức hóa các nguồn vàng không rõ ràng, không được NHNN kiểm soát. Các cơ quan chức năng cũng cần có biện pháp đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng bằng cách thường xuyên kiểm tra phương tiện đo đạc, giám định tuổi vàng tại mọi doanh nghiệp, cửa hàng kim hoàn; thành lập tổ chức kiểm định quốc gia với các chuyên gia và phương tiện chuẩn, hiện đại... để thực hiện có hiệu quả công việc giám sát. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. An Huy, “Cuộc chiến vàng ở Ấn Độ”, cafef.vn, ( chien-vang-o-an-do 2013070215262978710ca53.chn) cập nhật 15/02/2013. 2. “Bài học quản lý thị trường vàng Trung Quốc và Ấn Độ”, baomoi.com, ( Do/126/12051897.epi), cập nhật 29/09/2013 3. Benjamin J. Cohen, “Dollarization: Pros and Cons”, Department of Political Science University of California at Santa Barbara, CA 93106 ( 4. “Các ngân hàng trung ương sẽ tiếp tục là người mua vàng?”, igi.com.vn, ( vang_5_22370.aspx), cập nhật 22/11/2012. 5. Chính Trung, “Ngân hàng ngậm vàng làm ngọt”, bizlive.vn, (bizlive.vn/ngan- hang/ngan-hang-ngam-vang-lam-ngot-103101.html), cập nhật 26/02/2014. 6. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, “Quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài”, ( x?ItemID=13971). 7. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, “Quyết định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài”, ( x?ItemID=16610). 8. Đất Việt, “Ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động vàng”, congly.com.vn, ( huy-dong-vang-7482.html), cập nhật 28/04/2012. 9. “Đề tài phòng ngừa rủi ro trong hoạt động đầu tư vàng Việt Nam”, doc.edu.vn, ( vang-viet-nam-17147/). 10. Đinh Thị Thanh Long, “Kinh doanh vàng của NHTM: hoạt động carry trade gây rủi ro hệ thống”. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, Học Viện Ngân hàng số 135, tháng 8/2013, trang 27. Thang Long University Library 11. Đinh Trần, “Hoạt động sàn giao dịch vàng tiền ẩn nhiều rủi ro”, tinmoi.vn, ( 01103284.html), cập nhật 8/1/2010. 12. Gold Demand Trends, World Gold Council, www.gold.org. 13. Hà Nội Mới, “Một quyết định cần thiết và kịp thời”, finance.tvsi.com.vn, ( kip-thoi.aspx), cập nhật 25/02/2010 14. Hữu Vinh, “Bơm ngoại tệ để điều tiết thị trường ngoại hối”, baotintuc.vn, ( n20101107171042746.htm ), , cập nhật 5/11/2010 15. “Huy động 400 tấn vàng trong dân – cách nào?”, vov.vn, ( te/Huy-dong-400-tan-vang-trong-dan-cach-nao/227407.vov), cập nhật 5/10/2012 16. Jonathan Spall , “Đầu tư vào vàng”, Nhà xuất bản Thế Giới, 2010. 17. Jonathan Spall, “Đầu tư vào vàng”, Nhà xuất bản Thế giới, 2010. 18. Khánh Linh, “Thống đốc NHNN: Vàng là mặt hàng không khuyến khích nên không cần bình ổn giá”, ( hang-khong-khuyen-khich-nen-khong-can-binh-on-gia-011102446.html), cập nhật 13/11/2012 19. Kinh tế Việt Nam, vi.wikipedia.org ( 20. Lê Thị An Châu, “Vàng sẽ lấn át đồng nội tệ ” , ( chinh/vang-se-lan-at-dong-noi-te-2011081102443246.htm), cập nhật 15/8/2011. 21. Mai Hương, “Chấm dứt hoạt động sàn giao dịch vàng trên toàn quốc”, bao dien tu.chinhphu.vn, ( giao-dich-vang-tren-toan-quoc/200912/25974,vgp), , cập nhật 30/12/2009. 22. Minh Đức, “Ngân hàng lỗ nghìn tỷ vàng”, vneconomy.vn, ( cập nhật 20/10/2012. 23. Minh Lý, “Ấn Độ: Đồng rupee có thể biến động trong năm 2014”, Báo Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh, plo.vn, ( bien-dong-trong-nam-2014-339553.html), cập nhật 2/1/2014. 24. “Một thời vốn vàng: 165 tấn và 190 nghìn tỷ đồng (kỳ 1)”, nguyentandung.org, ( ky-1.html), cập nhật 3/10/2013. 25. Ngô Trí Long, “Chính sách quản lý thị trường vàng: Những bất cập và hệ lụy”, www.cafef.vn,( truong-vang-nhung-bat-cap-va-he-luy-20121119070038664ca34.chn), cập nhật ngày 19/11/2012. 26. Nguyễn Hằng, “Điểm danh các đơn vị được phép kinh doanh vàng miếng kể từ 10/1/2013”, cafef.vn, ( vi-duoc-phep-kinh-doanh-vang-mieng-ke-tu-1012013- 2013011008430674ca34.chn), cập nhật 10/1/2013. 27. Nguyễn Thị Kim Nhã, Nguyễn Minh Phong, 2010, “Kinh doanh vàng trong thời kỳ lạm phát”, Kỷ yếu Hội thảo “Thị trường vàng Việt Nam: Những vấn đề đặt ra”. 28. Nguyễn Vân Anh, 2011, “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh vàng theo chức năng của NHTW”, đề tài NCKH cấp Ngành, NHNNVN. 29. Nguyễn Văn Bình, 2013, “Công tác quản lý Nhà nước đối với thị trường vàng”, báo cáo giải trình, NHNNVN. 30. Nhật Minh, 2010, “Lạm phát năm 2010 là 11,75%”, kinhdoanh.vnexpress.net, ( 2709689.html), cập nhật 24/12/2010. 31. Phan Anh, 2012, “Giải pháp quản lý thị trường vàng ở Việt Nam”, Đề tài NCKH, Học viên Ngân hàng. 32. Phương Anh, “Trung Quốc vượt qua Ấn Độ trở thành nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới”, ( thanh-nuoc-tieu-thu-vang-lon-nhat-the-gioi-831507.htm), cập nhật 24/1/2014. 33. Phương Chu, “Ấn Độ xem xét nới lỏng nhập khẩu vàng”, giavang.net, ( cập nhật 18/02/2014. 34. qt1, “Ấn Độ: Chính phủ đau đầu vì dân mê vàng”, giavanghomnay.net, ( vang-13093.html), cập nhật 5/1/2014. 35. SBV, “Nghị định 24: Tầm nhìn dài hạn trong quản lý hoạt động kinh doanh vàng”, nguyentandung.org, ( dai-han-trong-quan-ly-hoat-dong-kinh-doanh-vang.html), cập nhật 16/9/2013. 36. TS. Tô Ánh Dương, “Bài học quản lý thị trường vàng Trung Quốc và Ấn Độ”, doimoi.org, ( truong-vang-trung-quoc-va-an-do.html), cập nhật 14/09/2013. Thang Long University Library 37. Tài liệu hội nghị triển khai công tác ngành ngân hàng năm 2014 (tháng 12/2013) 38. Thanh Huyền, “Chống vàng hóa: Từ cấm đến mở quá tay”, Thời báo Ngân hàng,(www.vinacorp.vn/news/chong-vang-hoa-tu-cam-den-mo-qua-tay/ct- 544632), cập nhật 3/5/2013. 39. Triển vọng kinh tế nhìn từ gói kích cầu, 2011, vnba.org.vn, ( 43&Itemid=90). 40. Tuấn Khanh, “Việt Nam tiêu thụ hơn 92 tấn vàng trong năm 2013”, nguoiduatin.vn,( trong-nam-2013-a124944.html), cập nhật 19/2/2014. 41. Tuệ Minh, “Ngân hàng đua huy động vàng”, kinhdoanh.vnexpress.net, ( 2715533.html), cập nhật 11/10/2011. 42. Vàng, wikipedia, (www.vi.wikipedia.org/wiki/Vàng) 43. “Vì sao người Việt Nam “sùng bái vàng”?”- Ngân hàng Standard Chartered lý giải vì sao nhu cầu vàng Việt Nam thuộc hàng lớn nhất thế giới”, ( sung- bai-vang.htm) 44. Vũ Quang Việt, “Khủng hoảng và hệ thống tín dụng: Phân tích ứng dụng với kinh tế Mỹ và Việt Nam”- Tạp chí Thời đại mới số 27 tháng 3/2013, trang 17. 45. Vương Kiến, “Ẩn số nào cho thị trường vàng”, tapchitaichinh.vn, (www.tapchitaichinh.vn/Vang-Tien-te/An-so-nao-cho-thi-truong- vang/41496.tctc), cập nhật 1/2/2014. 46. Watanabe Shinichi , De facto dollarization and its effect on financal development and economic growth of Cambodia, Lao PRD and Viet Nam, 2007 47. Yến Trang , “Năm 2013: Thắng đậm về tỉ gia va thị trường vàng”, ( 7989.html), cập nhật 29/2/2013. 48. Yên Trang, “Quản lý vàng miếng nhìn từ thế giới”, nguoiduatin.vn, ( cập nhật 20/1/2013.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftoan_van_a17256_0592.pdf
Luận văn liên quan