Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân sách trên địa bàn huyện Đăk tô, tỉnh Kon Tum

Trong thời gian tới, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giá cả và cơ quan Tài chính trong việc quản lý chi mua sắm tài sản của các cơ quan hành chính sự nghiệp, đặc biệt là chi mua sắm máy thiết bị tài sản trong các dự án đầu tư xây dựng cơ bản thì chắc chắn sẽ giảm được chi Ngân sách và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Ngoài ra, việc quản lý chặt chẽ chi cho đền bù thiệt hại khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng xây dựng, chi cho việc thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hoá cho miền núi, hải đảo, đồng bào dân tộc; chi trợ giá cho việc thực hiện chính sách xã hội, công tác tuyên truyền.Thông qua việc kết hợp chặt chẽ giảm quản lý giá cả và quản lý Tài chính thì cũng sẽ giảm được chi cho Ngân sách, bảo đảm thực hiện chi đúng chính sách, sử dụng nguồn vốn trợ giá, trợ cước có hiệu quả. Thứ ba, phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng quản lý giá cả nhằm thúc đẩy tăng năng suất lao động, giảm chi phí nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó tăng thu cho Ngân sách. Tóm lại, quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách giá, cơ chế quản lý giá và hệ thống giá ở nước ta trong thời gian vừa qua đã góp phần giải quyết một phần khó khăn cho Ngân sách Nhà nước. Trong thời gian tới, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính Phủ, ngành giá sẽ có sự kết hợp chặt chẽ hơn với ngành Tài chính để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giá cả, góp phần thực hiện tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội. 3.6. Hoàn thiện cơ chế sổ sách hoá đơn chứng từ Công tác sổ sách hoá đơn chứng từ là việc ghi chép, phản ánh điều hành, quản lý, sử dụng Ngân sách. Nó là công cụ để các cấp Ngân sách nhìn nhận, xem xét lại việc quản lý Ngân sách của mình và dự kiến kế hoạch Ngân sách năm sau. Đó cũng là phương tiện tối ưu để thực hiện kiểm tra, thanh tra công tác Ngân sách. Tuy nhiên, trong tình hình mới đã có nhiều thay đổi, chế độ sổ sách, hoá đơn, chứng từ đã không còn phù hợp nữa, tạo trở ngại trong kế toán Ngân sách. Do vậy, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền, nhiệm vụ nhanh chóng sửa đổi, bổ sung những bất cập, lạc hậu cho phù hợp, tiện lợi. ĐẠI HỌC

pdf82 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân sách trên địa bàn huyện Đăk tô, tỉnh Kon Tum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và nguyên nhân trong công tác quản lý ngân sách huyện Đăk Tô 2.4.2.1. Công tác lập dự toán Các đơn vị lập dự toán còn chậm, dẫn đến công tác tổng hợp dự toán ngân sách huyện chưa kịp thời theo quy định. Phân bổ dự toán cho các đơn vị mang tính định mức theo quy định. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 48 2.4.2.2. Về chấp hành dự toán Công tác phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan có chức năng chưa chặt chẽ, chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý các đối tượng nợ thuế, có nhiều đối tượng chây ì, trốn thuế, gây thất thoát nguồn thu. Việc bổ sung dự toán chi còn nhiều, gây khó khăn trong việc quản lý theo dự toán. Cơ cấu chi ngân sách cho xây dựng cơ bản trong tổng chi ngân sách huyện hàng năm tuy có tăng về số tuyệt đối nhưng chiếm tỷ lệ còn thấp trong tổng chi ngân sách. Về nguyên tắc dự phòng chi ngân sách để chi cho các nhiệm vụ phòng chống thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn,... Tuy nhiên, do nguồn vốn ngân sách huyện chưa cân đối được nhiệm vụ chi thường xuyên nên đã sử dụng nguồn chi này để bổ sung dự toán cho các đơn vị, địa phương, trái với quy định hiện hành. 2.4.2.3. Về công tác quyết toán ngân sách huyện Qua kiểm tra thực tế cho thấy công tác quyết toán ngân sách đúng quy định nhưng đạt chất lượng chưa cao. Việc tổ chức xét duyệt và thẩm định quyết toán của các đơn vị dự toán cấp I và cơ quan tài chính thường chậm, chất lượng chưa cao. 2.4.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra Công tác thanh tra, kiểm tra chưa có sự phối hợp chặt chẽ, xử lý sai phạm chưa triệt để, có những sai phạm được phát hiện nhưng đối tượng vi phạm chưa thực hiện qua nhiều năm nhưng huyện cũng không có biện pháp xử lý nghiêm. Thu ngân sách chưa thực sự dựa trên nền tảng phát triển kinh tế và hiệu quả kinh tế, số thu còn bị ảnh hưởng bởi thu khác ngân sách còn cao như: Thu bán hàng tịch thu lâm sản, thu vi phạm hành chính trong quản lý lâm sản, xử lý các phương tiện vi phạm vận chuyển buôn bán lâm sản... do đó tính bền vững không cao. Tình trạng thất thu trốn thuế, kiểm soát nguồn thu chưa thật chặt chẽ: Tình trạng thất thu thuế cả về số hộ và doanh số trốn thuế vẫn còn diễn ra, nhiều hộ chưa kê khai theo đúng doanh thu và mức thuế phải nộp. Chi ngân sách còn dàn trải, chưa tập trung nên vai trò là công cụ điều hành việc phát triển kinh tế- xã hội của Ngân sách Nhà nước còn yếu. Những hạn chế này do những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau: ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 49 Nguyên nhân chủ quan Do trong khâu lập dự toán còn chưa đi sát tại các đơn vị dự toán, chưa quan tâm tới các yếu tố tăng trưởng kinh tế, trượt giá ...Việc giao kế hoạch còn chưa căn cứ vào kế hoạch của các đơn vị. Trong công tác thu và khai thác thu còn bỏ sót, chưa khai thác triệt để, chưa có biện pháp xử lý mạnh đối với các đối tượng trốn lậu thuế và các khoản đóng góp khác. Ngoài ra, việc để nợ đọng thuế từ năm này qua năm khác vẫn nổi cộm. Trong công tác quản lý chi Ngân sách còn lỏng lẻo, khả năng kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước còn chưa cao dẫn đến một số khoản chi không đúng đối tượng, nhiệm vụ được giao. Các nguồn chi sự nghiệp kinh tế tuy bước đầu đã được cải thiện đáng kể nhưng còn nhỏ, công tác thực hiện dự án, phê duyệt quyết toán các dự án còn chưa kịp thời cho nên một số công trình đã hoàn thành nhưng chưa có hồ sơ hoàn công. Việc thực hiện Luật ngân sách nhà nước, các chế độ, chính sách, Pháp lệnh kế toán thống kê đôi khi còn sai lệch. Công tác tuyên truyền phổ biến các chính sách pháp luật về thuế chưa sâu rộng và thường xuyên, cán bộ làm công tác tuyên truyền và khả năng hướng dẫn, truyền đạt còn hạn chế, chưa giải thích, làm cho các đối tượng nộp thuế thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ nộp thuế. Trình độ, năng lực ý thức trách nhiệm công việc của hầu hết cán bộ hợp đồng uỷ nhiệm thu ở các xã, thị trấn còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ thuế còn yếu cả về năng lực, một số còn thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa nắm chắc địa bàn, nắm chắc tình hình biến động của các hộ sản xuất kinh doanh. Việc tham mưu cho chi cục thuế điều chỉnh thuế định kỳ cho phù hợp với tình hình thực tế sản xuất kinh doanh chưa kịp thời, gây thất thu về thuế. Công tác báo cáo định kỳ tháng quý cuả các đội thuế còn chậm, nội dung báo cáo chưa phản ánh hết tình hình quản lý nguồn thu trên địa bàn. Nên không tham mưu đầy đủ, kịp thời cho các cấp uỷ, chính quyền để đề ra các giải pháp tăng thu, và chống thất thu thuế. Công tác kiểm tra các đối tượng nộp thuế chưa thường xuyên, liên tục nhằm ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 50 giúp đỡ, phát hiện sai sót, uốn nắn kịp thời, do vậy tình trạng nợ đọng thuế vần còn xảy ra. Nguyên nhân khách quan Những bất cập trong phân cấp quản lý Ngân sách còn tồn tại nhiều. Cơ chế phân cấp này đã làm cho Ngân sách huyện ở thế bị động. Những khoản thu phải chuyển giao cho cấp trên còn nhiều, các khoản thu trong điều tiết còn nhỏ. Điều này, dẫn đến các khoản bổ sung từ Ngân sách cấp trên nhiều làm cho việc thực hiện chi chậm trễ không kịp thời. Có thể nói, cơ chế phân cấp hiện tại không tạo ra được thế chủ động trong công tác quản lý Ngân sách huyện. Hệ thống các chỉ tiêu, định mức còn mang tính cứng nhắc, lạc hậu so với thực tế. Nhu cầu chi thường xuyên cho một loại dịch vụ bằng cách chi cho một đối tượng thụ hưởng tiềm năng và có tính đến hệ số khác biệt về chi phí. Chi đầu tư bảo dưỡng phải xác định bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn kĩ thuật cho những cơ sở hạ tầng hiện có như đường bộ, nhà xưởng. Các quy trình thu còn rườm rà, chưa gọn nhẹ, chưa tạo ra cho đối tượng thu sự tự giác trong việc tự tính, tự nộp. Các quy định về hoá đơn chứng từ, sổ sách ghi chép có một số chi tiết đã không phù hợp với hiện tại. Ý thức chấp hành các luật thuế, chính sách thuế của một số hộ kinh doanh đối tượng nộp thuế chưa cao, tình trạng nộp thuế quá chậm vẫn còn diễn ra. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 51 CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH HUYỆN ĐĂK TÔ, TỈNH KON TUM 3.1. Định hướng chung Ngân sách huyện Đăk Tô là một đơn vị hình thành nên NSNN. Do vậy, Ngân sách huyện Đăk Tô phải luôn luôn không ngừng cải cách đổi mới nhằm góp phần tạo nên một NSNN để phát triển nền kinh tế quốc dân. Muốn thực hiện được mục tiêu lớn đó, theo em, ngành quản lý Ngân sách huyện Đăk Tô cần phải vươn tới những định hướng sau: Thứ nhất, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới theo quan điểm của Đảng và Nhà nước là phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, liên kết đầu tư phát triển với các huyện khác, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và đầu tư. Thứ hai, thực hiện cụ thể hoá các chính sách tài chính - tiền tệ, kết hợp với tình hình kinh tế địa phương tạo động lực góp phần phát triển sản xuất ngày càng tăng, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nông thôn. Thứ ba, huy động đến mức cao nhất mọi nguồn lực nhằm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững, tăng cường tiềm lực tài chính địa phương. Mặt khác thực hiện phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả, chú trọng cho đầu tư xây dựng cơ bản, kết hợp với phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đồng thời động viên được mọi thành phần kinh tế, mọi người phát triển sản xuất kinh doanh - cái gốc của sự tăng trưởng kinh tế cũng như sức mạnh tài chính, xây dựng một nền tài chính lành mạnh và an toàn với tăng cường hiệu quả đầu tư làm hạt nhân. Thứ tư, chấp hành hệ thống pháp luật tài chính đảm bảo phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của tài chính nhằm tăng cường trật tự kỷ cương tài chính chống tham nhũng, tham ô, lãng phí làm thất thoát tài sản, tiền vốn của Nhà nước và nhân dân. Thứ năm, đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá hình thức huy động vốn, khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư, quỹ tín dụng để huy động các nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 52 phục vụ đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện có hiệu quả chính sách động viên nhằm khai thác các nguồn thu thông qua thuế, phí và lệ phí từ tất cả các khu vực, bồi dưỡng các nguồn thu. Thứ sáu, đẩy mạnh công tác chống thất thu thuế nhằm tăng thu Ngân sách, tạo nguồn thu vững chắc. Có chính sách tài chính khuyến khích các doanh nghiệp địa phương tăng khả năng tích luỹ, sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, ổn định và tăng trưởng nguồn thu cho Ngân sách. Thứ bảy, chấp hành nghiêm chỉnh Luật NSNN ở tất cả các cấp Ngân sách và các đơn vị dự toán, trong tất cả các khâu từ xây dựng dự toán, phân bổ, phân cấp và điều hành quản lý đến việc thực hiện cấp phát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, quyết toán Ngân sách Huyện, đổi mới cơ cấu Ngân sách Huyện, thực hiện thu, chi Ngân sách theo đúng luật. Đẩy mạnh xã hội hoá một số nội dung chi sự ngiệp giáo dục - đào tạo, y tế xã hội, góp phần giảm nghèo. Thứ tám, đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Phân loại và và định hướng bước đi để thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp, đa dạng hoá hình thức sở hữu. Thứ chín, nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy hành chính. Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý tài chính xuống tận các xã, đảm bảo đủ năng lực phát triển; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức trong hệ thống tài chính . 3.2. Một số giải pháp Trên đây là những định hướng cơ bản cho chiến lược Tài chính quốc gia nói chung và Ngân sách nói riêng. Đó là những mục tiêu mà huyện Đăk Tô phải vươn tới trong tương lai. Để đạt được các mục tiêu đó, theo em, cần có các giải pháp sau: 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác lập dự toán ngân sách Lập dự toán là khâu đầu tiên của quá trình quản lý Ngân sách, chất lượng quản lý Ngân sách phụ thuộc vào khâu lập dự toán. Lập dự toán là việc lên kế hoạch thu, chi Ngân sách cho năm Ngân sách tới, toàn bộ các dự kiến về các khoản thu (thuế, phí, viện trợ ...) và các khoản chi (thường xuyên, phát triển ...) đều được định hình rõ nét. Đó là yêu cầu cơ bản mà khâu lập dự toán cần phải đạt được. Với tư cách là khâu mở đầu, lập dự toán có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý Ngân sách cũng như làm cho Ngân sách có tính ổn định, an toàn và hiệu quả. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 53 Hiểu được tầm quan trọng của xây dựng dự toán, Ngân sách huyện phải chỉ đạo đôn đốc các đơn vị tổ chức, cá nhân lên kế hoạch cụ thể cho Ngân sách. Xây dựng dự toán Ngân sách huyện phải bắt đầu từ tổ, thôn, xóm, đến xã, các phòng, ban, đơn vị hành chính, các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, nhỏ. Cần phải tránh tình trạng bỏ sót nguồn thu, quên nhiệm vụ chi. Khi các trường hợp đó xảy ra sẽ làm cho việc quản lý Ngân sách dẫn đến bị động, ảnh hưởng đến năm Ngân sách và cả các năm sau đó. UBND huyện hằng năm, căn cứ vào hướng dẫn và thông báo số kiểm tra của UBND tỉnh và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện, tiến hành lập dự toán thu, chi Ngân sách địa phương mình. UBND huyện phải chỉ đạo các cơ quan quản lý Ngân sách tiến hành lập dự toán. Thứ nhất, Chi cục thuế lập dự toán thu Ngân sách và cơ sở tính toán từng nguồn thu, dự kiến số thuế giá trị gia tăng phải hoàn trả cho các doanh nghiệp trên địa bàn thuộc phạm vi huyện quản lý gửi cơ quan thuế cấp trên, UBND huyện, Phòng Tài chính- kế hoạch, Ban quản lý các dự án ĐTXDCB. Thứ hai, Ban quản lý các dự án ĐTXDCB chủ trì phối hợp với cơ quan Tài chính tiến hành lập và dự kiến phương án phân bổ dự toán chi ĐTXDCB cho từng đơn vị, dự án thuộc Ngân sách địa phương báo cáo UBND huyện. Đồng thời, Phòng Tài chính- Kế hoạch phối hợp với cơ quan quản lý chương trình quốc gia cùng cấp trong việc lập phương án phân bổ dự toán chi chương trình quốc gia. Thứ ba, Phòng Tài chính - Kế hoạch là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong việc lập dự toán. Phòng Tài chính - Kế hoạch phải năng động, linh hoạt trong việc phối hợp với cơ quan khác để lập dự toán hoàn chỉnh báo cáo UBND huyện và Sở Tài chính. Các cơ quan quản lý Ngân sách phải đôn đốc các doanh nghiệp căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị dự kiến các khoản phải nộp, số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại gửi cơ quan thuế và cơ quan được giao nhiệm vụ thu. Riêng các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài việc đăng ký nộp thuế và dự kiến số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại còn phải lập kế hoạch thu, chi tài chính, mức đề nghị bổ sung vốn lưu động (nếu có nhu cầu), khoản Ngân sách chi hỗ trợ theo chế độ quy định (nếu có ). 3.2.1.1. Nâng cao chất lượng lập dự toán thu ngân sách - Các cơ quan thu trên địa bàn rà soát, đối chiếu, quản lý, phát triển nguồn thu mới và khai thác các nguồn thu hiện có nhằm thu đúng, thu đủ vào NSNN, tạo môi ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 54 trường kinh doanh công bằng, lành mạnh, tránh tình trạng bỏ sót nguồn thu như những năm qua. - Phòng Tài chính- Kế hoạch huyện cần tích cực hơn trong việc hướng dẫn các đơn vị, địa phương, phối hợp với cơ quan thuế đồng cấp lập dự toán thu NSNN trên địa bàn. Dự toán thu phải được xây dựng trên cơ sở tính đúng, đủ các khoản thu theo quy định và phân tích, dự báo về yếu tố tăng trưởng kinh tế, giá cả. - Chủ tịch UBND các xã, thị trấn chỉ đạo bộ phận kế toán lập dự toán thu ngân sách cấp xã phải bám sát vào chế độ, chính sách và tình hình phát triển KT-XH của địa phương. 3.2.1.2. Hoàn thiện công tác lập dự toán chi ngân sách huyện - Đối với các cơ quan, đơn vị, địa phương lập dự toán chi phải bám sát yêu cầu phát triển KT-XH. Lập và gửi dự toán đúng theo quy định. - Phòng Tài chính- Kế hoạch tổng hợp và xây dựng dự toán chi NSNN huyện trên cơ sở dự toán của các cơ quan, đơn vị và UBND các xã, thị trấn đồng thời dự kiến nguồn thu được hưởng để cân đối nhiệm vụ chi. 3.2.2. Hoàn thiện công tác chấp hành ngân sách 3.2.2.1. Hoàn thiện hệ thống thu ngân sách - Chi cục Thuế huyện tập trung hướng dẫn, đưa luật thuế mới vào đời sống nhân dân, thông qua việc tuyên truyền, hướng dẫn. - Áp dụng tin học hóa trong quá trình thu và quản lý thuế. - Tăng cường quản lý thu ở các xã, thị trấn, các khoản thu tại xã phải được nộp đầy đủ, kịp thời vào NSNN có xác nhận của KBNN. - Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan thực hiện thu NSNN. 3.2.2.2. Hoàn thiện công tác chấp hành chi ngân sách huyện - Thực hiện tốt chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí đối với các cơ quan, đơn vị. - Tăng cường kiểm tra việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công. - Thực hiện nghiêm chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu. - Thực hiện nghiêm túc chế độ công khai tài chính; mua sắm, sửa chữa tài sản theo đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ của Nhà nước. - Nâng cao hiệu quả công tác quản lý quy hoạch. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 55 - Chỉ bổ sung dự toán khi đã rà soát, điều chỉnh mà không đủ nguồn. 3.2.3. Hoàn thiện công tác quyết toán ngân sách huyện - Kiểm tra, đối chiếu số liệu hạch toán, kế toán trong năm đảm bảo khớp đúng giữa đơn vị sử dụng ngân sách và KBNN nơi giao dịch. - Rà soát các khoản thu, nộp kịp thời vào ngân sách nhà nước. - Tăng cường trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan quản lý ngân sách cấp huyện và UBND huyện, xã, thị trấn. - Phòng Tài chính- Kế hoạch có kế hoạch xét duyệt, thẩm định số liệu quyết toán để chấn chỉnh các sai phạm kịp thời. - Cần quy định rõ trách nhiệm trong việc quyết toán dự án hoàn thành. Bên cạnh đó cần tăng cường đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ của ban quản lý dự án, nhất là kế toán công trình và chủ đầu tư. 3.2.4. Hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra ngân sách huyện - Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn. - Xây dựng cơ chế phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tài chính, KBNN và đơn vị thụ hưởng ngân sách trong việc sử dụng ngân sách và trong quy trình kiểm soát. 3.2.5. Không ngừng tăng cường kiểm tra, kiểm soát lại tất cả các nguồn thu Như đã trình bày thuế có vai trò quyết định đối với NSNN. Không có nguồn thu sẽ không có Ngân sách. Để nguồn thu không ngừng được phát triển, chúng ta phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát các nguồn thu. Đối với các khoản thu 100% mà Ngân sách huyện được hưởng, cơ quan quản lý phải theo dõi bám sát, đối tượng thu. Từ đó, biết được tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để có thể đưa ra mức thu cao nhất có thể. Trong các nguồn thu của Ngân sách huyện nói riêng và Ngân sách Nhà nước nói chung thì thuế đóng vai trò chủ đạo. Do vậy Chi cục thuế phải thực hiện tốt các giải pháp sau: Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách thuế cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới. Chính sách thuế vừa phải đảm bảo nguồn thu ổn định, vững chắc cho Ngân sách vừa phải bồi dưỡng, phát triển mạnh mẽ nguồn thu, vừa khuyến khích phát triển tối đa sản xuất, kinh doanh của các ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 56 thành phần kinh tế. Thứ hai, bám sát thực tế, lắng nghe ý kiến doanh nghiệp và của nhân dân, tập trung chỉ đạo thông suốt các luật thuế mới bảo đảm thu đúng, thu đủ cho Ngân sách nhưng không được lạm thu đối với cơ sở sản xuất kinh doanh. Có biện pháp thực hiện cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính trong công tác thu thuế, thực hiện công khai minh bạch công tác thu thuế. Khắc phục bằng được những thủ tục chậm trễ, phiền hà, những hành vi tắc trách, tiêu cực trong nghành thuế. Thứ ba, thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp quản lý thu cho sát với yêu cầu, nhiệm vụ mà chính quyền giao, gắn từng địa phương từng lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, bảo đảm quản lý, kiểm soát được toàn bộ các nguồn thu của Ngân sách theo pháp luật. Thứ tư, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thông tin về quản lý kịp thời cho cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở; trong đó, coi trọng việc bồi dưỡng nghiệp vụ, học tập lý luận, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhất là cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải gương mẫu đi đầu; nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có trình độ nghiệp vụ tinh thông và toàn tâm, toàn ý với nhiệm vụ của mình. Cuối cùng, tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức gọn nhẹ, có hiệu lực, có hiệu quả, thực sự trong sạch, vững mạnh, đi đôi với việc chuyển giao đồng bộ Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng. Tạo mọi điều kiện để nhân dân kiểm tra và góp ý xây dựng đội ngũ cán bộ Chi cục Thuế. 3.2.6. Tạo dựng, khai thác, phát triển nguồn thu mới Khác với việc kiểm soát các nguồn thu, việc khai thác nguồn thu ngốn nhiều công sức hơn, đòi hỏi cán bộ quản lý phả i am hiểu, sáng tạo trong các nguồn thu. Trước hết khắc phục tình trạng thất thu, nợ đọng thuế bằng cách tăng cường kiểm tra chống thất thu, chống nợ đọng thuế của NSNN. Để làm tốt nội dung này, song song với sự chỉ đạo điều hành của cấp ủy, UBND, sự hỗ trợ của các ngành là hết sức quan trọng. Cơ quan Thuế cần tham mưu chủ động đề xuất, kiến nghị với UBND và sự hỗ trợ của các nghành mạnh mẽ hơn nữa trong viêc thực hiện thu thuế tại địa phương, kể cả việc kiểm tra chống buôn lâu và gian lận thương mại. Thực hiện các biện pháp, bồi dưỡng các nguồn thu để bù đắp các khoản thu thiếu hụt như tăng cường kiểm tra chống thất thu về hộ, kiểm tra chặt chẽ các khoản ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 57 thuế đầu vào trên các bảng kê của các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, đặc biệt là các đơn vị có số thuế GTGT lớn, phải hoàn thuế. Tiếp tục tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực thi pháp luật thuế nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh phát triển tăng tạo nguồn thu cho ngân sách. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuế mà trọng tâm là hướng dẫn thật cụ thể về nội dung chính sách thuế, quy trình quản lý thuế, cách ghi chép hoá đơn, chứng từ, cách kê khai nộp thuế, miễn giảm, công khai quy trình hoàn thuế để đối tượng nộp thuế tự giác chấp hành tốt nghĩa vụ thuế cho ngân sách. 3.2.7. Tổ chức quản lý thu một cách khoa học, chính xác, đơn giản, dễ hiểu Quy trình thu ngân sách là một khâu quan trọng trong quản lý thu ngân sách đóng vai trò mắt xích. Chúng ta phải tạo được một quy trình tương đối hợp lý: Vừa đảm bảo cho các đối tượng chủ động, tự giác nộp thuế, vừa đảm bảo thu đúng, thu đủ. Quá trình thu ngân sách vừa hiện đại để chính xác, vừa đơn giản, dễ hiểu đối với mọi tầng lớp dân cư. 3.2.8. Tăng cường hiệu quả chi Ngân sách huyện Song song với việc bồi dưỡng, phát triển nguồn thu, các cơ quan quản lý khi thực hiện nhiệm vụ chi cần phải chú ý tới tính hiệu quả, lợi ích. Nếu như thu Ngân sách là để tạo ra Ngân sách thì chi Ngân sách thể hiện tính ưu việt, sức mạnh tài chính của Ngân sách. Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách không chỉ ở các khoản chi phát triển, đầu tư mà ở cả chi thường xuyên. Các khoản chi cho nhân viên khu vực hành chính, công cụ, dụng cụ làm việc, phải được tiết kiệm triệt để. Tính hiệu quả của chi Ngân sách sẽ thể hiện toàn diện trên các mặt cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Thể hiện ở khía cạnh kinh tế, Ngân sách huyện đối với tư cách là "Bàn tay hữu hình" tác động vào nền kinh tế. Thể hiện ở khía cạnh chính trị, Ngân sách huyện mang bản chất giai cấp, phục vụ giai cấp cầm quyền. Thể hiện ở khía cạnh xã hội, Ngân sách huyện có vai trò bù đắp khiếm khuyết của thị trường. Do vậy, khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả của chi Ngân sách, chúng ta phải xây dựng một loạt các chỉ tiêu bao gồm cả định tính và định lượng. Giám sát, giảm thiểu những khoản chi lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm trong mục ĐA ̣I H ỌC KI H T Ế H UÊ ́ 58 tiêu lành mạnh hoá trong tài chính quốc gia. Trước tiên, phải thực hiện ở các khoản chi trường xuyên ở các đơn vị dự toán được Ngân sách cấp phát. Đây là một bước đột phá hết sức khó khăn gắn liền với cải cách hành chính. Tuy nhiên các cơ quan quản lý Ngân sách (Phòng Tài chính - Kế hoạch, Chi cục thuế, Chi cục kho bạc,....) cải cách bộ máy của mình sao cho gọn nhẹ, hiệu quả. Tiếp theo, phải bãi bỏ các khoản chi sai, chi thừa ở bộ phận chi đầu tư phát triển, chi phúc lợi xã hội. Đảng và Nhà nước ta chú trọng quan tâm tới những gia đình chính sách, người nghèo, người cô đơn, người tàn tật,... luôn luôn tạo điều kiện để cho họ sống có ích, tự khẳng định mình. Tuy nhiên, do lợi ích cá nhân, tha hoá đạo đức, một số đối tượng đã làm hồ sơ, giấy tờ không đúng sự thực để được hưởng chính sách phúc lợi của Nhà nước. Do vậy, Phòng Tài chính - Kế hoạch kết hợp với các phòng ban có chức năng khác làm rõ các khoản chi để tránh việc chi nhầm, bỏ sót và chi thừa. Việc chấp hành đúng dự toán để ổn định Ngân sách tạo thế chủ động trong việc quản lý và điều hành Ngân sách. Muốn hoàn thành tốt công tác chấp hành Ngân sách, cơ quan quản lý phải làm tốt khâu dự toán. 3.2.9. Phòng chống, khắc phục triệt để các sai phạm trong các đơn vị Các cơ quan quản lý Ngân sách phải yêu cầu các đơn vị hành chính sự nghiệp sử dụng Ngân sách chấp hành việc lập dự toán, quyết toán các nguồn kinh phí phải đúng nguồn, đúng mức, đúng nội dung chi. Thu và sử dụng các loại phí (học phí, viện phí,...) phải đúng quy định và hạch toán đầy đủ kịp thời vào Ngân sách huyện. Tất cả các đơn vị hành chính sự nghiệp phải chấp hành nghiêm chỉnh Luật NSNN, các Luật thuế và Pháp lệnh kế toán thống kê, chú trọng việc chi theo dự toán, mục, thực hiện đúng chế độ hoá đơn chứng từ, định mức chi (Các đơn vị hành chính sự nghiệp như: trường học, y tế, công chứng,...). Để khắc phục các sai phạm trong cơ quan hành chính sự nghiệp ngoài việc kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, thì các cấp các ngành có liên quan cũng phải xem xét lại hệ thống văn bản, chế tài, kịp thời sửa đổi những văn bản không còn phù hợp. Đồng thời phải nghiên cứu ban hành những văn bản mới cho loại hình nghiệp vụ hành chính mới. Việc làm đó không những tạo hành lang pháp lý cho hoạt động này phát triển đúng hướng mà còn góp phần ngăn chặn những sai phạm trong quản lý. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 59 3.2.10. Nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên Như chúng ta đã biết, cải cách hành chính và cải cách tài chính có trọng tâm là cải cách con người. Kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng hiện đại, phức tạp, do đó, cán bộ quản lý Ngân sách phải đủ trình độ và đạo đức tốt. Trong những năm qua đã không ít những trường hợp thất thu, chi sai, nhằm tư lợi có "bàn tay" của cán bộ quản lý Ngân sách. Do đó, bên cạnh việc đào tạo nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên phải quan tâm đến tư cách đạo đức nữa. Các cán bộ cần có tư cách liêm khiết, chí công vô tư, phục vụ hết mình vì tập thể, vì nhiệm vụ. Bên cạnh đó Ban kiểm tra luôn luôn phải theo dõi giám sát việc quản lý Ngân sách để trình UBND xử lý kịp thời. Để có thể tạo dựng được đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài chúng ta thường phải có biện pháp giáo dục, đào tạo khoa học cho cả lực lượng mới và lực lượng cũ. Đối với các cán bộ cũ, hầu hết đã trải qua thời kì kinh tế tập trung bao cấp, thường đã có tư chất cách mạng tốt, giờ đây cần phải bồi dưỡng những kiến thức mới, hiện đại bằng các hình thức: chuyên tu, tại chức, cao học,... Đối với các cán bộ mới - chủ yếu là học sinh, sinh viên cần chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho họ. Học sinh, sinh viên ngày này ham học hỏi, chịu khó, dễ tiếp thu với những cái mới, không còn phải nghi ngờ gì về trình độ , khả năng làm việc của họ. Tuy nhiên, do tiếp xúc với nền kinh tế thị trường nên tư tưởng "vật chất", thực dụng có ảnh hưởng rất lớn đến con người họ. Do vậy, cùng với nhà trường, các cơ quan phải giáo dục, giúp đỡ họ thật nghiêm khắc, nhiệt tình. UBND và HĐND huyện cũng như các cơ quan quản lý Ngân sách phải luôn có chế độ chính sách thu hút nhân tài thông qua cơ chế tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi, điều kiện sống và làm việc. Cuối cùng, bản thân các cán bộ đang làm cũng như đang học công tác quản lý Ngân sách phải luôn trau dồi đạo đức, nghiệp vụ của mình. Cán bộ nhân viên quản lý Ngân sách phải luôn nhớ rằng mình đang quản lý Ngân sách mang bản chất XHCN, thành quả ngày hôm nay được đánh đổi bằng máu của rất nhiều đồng bào, chúng ta phải biết trân trọng phát triển nó. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 60 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách huyện là một tất yếu, do đòi hỏi của thực tiễn khách quan. Các cơ quan quản lý Ngân sách huyện cần hiểu rõ và từng bước nhanh chóng nâng cao chất lượng quản lý và điều hành Ngân sách. Tuy nhiên, không chỉ ở các huyện, để có thể thực hiện tốt công tác khó khăn này đòi hỏi phải có sự tham gia, góp ý của toàn thể các ban ngành chức năng và quần chúng nhân dân. Do vậy, em xin đưa ra một số kiến nghị sau nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý cấp huyện: 3.1. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước 3.1.1. Về các cấp ngân sách trong hệ thống phân cấp ngân sách Nhà nước Tranh luận về các cấp ngân sách đã từng kéo dài nhiều năm ở nước ta, thực tiễn đang đặt ra vấn đề phải xem lại các cấp Ngân sách. Cơ chế phân cấp quản lý NSNN giữa các cấp chính quyền địa phương nên thiết lập như sau: - Đối với địa bàn các tỉnh hệ thống NSNN nên bao gồm 3 cấp TW, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã sẽ không còn tồn tại để đảm bảo khả năng quản lý của cấp huyện. Khi đó có 2 hướng xử lý: + Thứ nhất, phải có nhiều huyện hơn để có quy mô nhỏ hơn và trong hướng này các nguồn thu và nhiệm vụ chi của cấp huyện thay đổi về cơ bản do gộp cả phần đã phân cấp cho xã trước đây. + Thứ hai, quy mô các huyện vẫn được giữ nguyên và trong huyện có các địa bàn nhỏ hơn, mỗi địa bàn có đại diện hành chính của huyện. Trong trường hợp này đại diện hành chính của hu yện chỉ là một đơn vị dự toán (thuộc Ngân sách cấp huyện). 3.1.2. Xác định thẩm quyền của quốc hội trong việc quyết định dự toán Để khắc phục tính trùng lặp và chồng chéo trong việc quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách của Quốc hội và HĐND các cấp xin đề xuất biện pháp sau: Nhà nước sửa đổi cơ bản các điều có liên quan của Hiến Pháp năm 1992 và sửa đổi cơ bản Luật NSNN. Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định dự toán Ngân sách TW và phân bổ Ngân sách TW (chứ không quyết định NSNN một cách tổng thể như hiện hành nữa). ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 61 Đây là biện pháp khá căn bản về cơ chế quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách ở cả cấp TW và cấp địa phương với định hướng như sau: Thứ nhất, Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách TW cho từng Bộ, cơ quan TW. Quyết định bổ sung từ NSNN cho Ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW; thông qua báo cáo tổng hợp dự toán NSNN. Tương tự, về quyết toán, Quốc hội phê chuẩn quyết toán Ngân sách TW và thông qua báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN. Thứ hai, Quốc hội quyết định các chương trình dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng được đầu tư từ nguồn Ngân sách TW. Thứ ba, Quốc hội quyết định điều chỉnh dự toán Ngân sách TW trong trường hợp cần thiết. Thứ tư, HĐND quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách cấp mình, không bao gồm Ngân sách cấp dưới. HĐND phê chuẩn Ngân sách cấp mình và thông qua báo cáo tổng hợp Ngân sách cấp mình và cấp dưới; điều chỉnh dự toán Ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm trong biện pháp này là: Khi HĐND các cấp hoàn toàn tự chủ quyết định Ngân sách cấp mình thì vai trò quản lý vĩ mô của các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ có bị giảm đi không? Có đảm bảo được nguyên tắc tập trung trong quản lý Ngân sách hay không? Sẽ không đáng lo ngại về vấn đề này, vì Quốc hội đã quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách TW là ngân sách chủ đạo của cả nước một cách trực tiếp, đồng thời đã quyết định mức bổ sung từ Ngân sách TW cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW và thông qua báo cáo tổng hợp dự toán NSNN, thì vẫn bảo đảm dược yêu cầu quản lý vĩ mô và tính thống nhất của nền tài chính Quốc gia. Mặt khác, Quốc hội và các cơ quan TW còn có quyền thực hiện chức năng giám sát tình hình chấp hành Ngân sách địa phương, có quyền ban hành các chính sách chế độ, tiêu chuẩn, định mức thống nhất trong cả nước, buộc các địa phương phải chấp hành. Hơn nữa, cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên (bao gồm cả cấp TW) vẫn đảm đương nhiều nhiệm vụ kinh tế- xã hội tại địa phương và đây cũng là vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội tại địa phương. Trong trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 62 quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên chuyển kinh phí từ Ngân sách cấp trên uỷ quyền cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Như vậy, việc HĐND các cấp hoàn toàn tự chủ quyết định Ngân sách cấp mình không làm giảm vai trò quản lý vĩ mô của các cơ quan quản lý cấp trên, cũng như không làm giảm tính tập trung thống nhất. 3.1.3. Hoàn thiện cơ chế phân cấp nguồn thu nhiệm vụ chi cho các cấp Cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương cần ổn định lâu dài, đặc biệt chú trọng cơ chế cho phép các địa phương, cơ sở mở rộng thêm nguồn thu tuỳ theo khả năng đặc thù của mình, phù hợp với quy định của pháp luật. Cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi nên thực hiện như sau: + Về phân cấp nguồn thu: Luật NSNN đã xác định cụ thể các khoản thu từng cấp Ngân sách được hưởng 100%, các nguồn thu điều tiết... Tuy nhiên, những hạn chế của việc phân cấp này cho thấy cần phải hoàn thiện cơ chế này theo hướng: Thứ nhất, nguồn thu Ngân sách mỗi cấp được hưởng 100%. Đây được coi là nguồn thu chủ yếu của các cấp Ngân sách, vì vậy, cần phân cấp mạnh hơn nguồn thu này cho Ngân sách cấp dưới. Mở rộng danh mục đối tượng thu cho Ngân sách cấp huyện, xã và tương đương trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại... với thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, nên mạnh dạn phân cho hai cấp là huyện và xã và để đáp ứng nhu cầu chi tại cơ sở và khuyến khích quan tâm tới các nguồn thu này. Thứ hai, với nguồn thu phân chia giữa các cấp Ngân sách cần hoàn thiện theo hướng: Giảm số lượng các khoản thu phân chia giữa Ngân sách các cấp. + Về phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp Ngân sách: Trước hết, cần rà soát lại toàn bộ các quy định về phân cấp quản lý kinh tế- xã hội hiện hành để xác định rõ các nhiệm vụ quản lý giữa các cấp chính quyền. Trên cơ sở đó sẽ thực hiện việc sửa đổi cơ chế phân cấp nhiệm vụ chi theo 3 nhóm: Nhóm1: Nhóm các nhiệm vụ chi cấp trên chi phối và đảm nhận 100%. Đây là những nhiệm vụ được phân cấp gắn với vai trò chủ đạo, chi phối và điều tiết của Ngân sách cấp trên đối với Ngân sách cấp dưới. Nhóm2: Nhóm các nhiệm vụ chi cấp dưới phải đảm nhận 100% gắn trực tiếp ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 63 với sự chỉ đạo của chính quyền địa phương cấp dưới. Đây là nhiệm vụ chi có tính chất địa phương rõ nét, sát sườn. Cơ sở có điều kiện chăm lo và khả năng thực hiện tốt hơn cấp trên. Nhóm3: Nhóm các nhiệm vụ chi liên đới giữa cấp trên và cấp dưới (Tỉnh với các địa phương). Khi đã phân cấp thì phải phân cấp "trọn gói". Khắc phục tình trạng một đơn vị, một nhiệm vụ mà có nhiều cấp cùng quản lý, cùng chi. Việc phân định nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền cần phải được quy định trong các Luật và phải được chi tiết hoá bằng hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ và thống nhất. 3.1.4. Xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp Để có hệ thống định mức tiêu chuẩn chi tiêu Ngân sách phù hợp cần thực tốt những yêu cầu sau: - Khẩn trương rà soát các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu; xoá bỏ các định mức, tiêu chuẩn chi lạc hậu; ban hành đủ các định mức có tính khoa học và khả thi cần thiết cho quản lý tài chính, Ngân sách. - TW chỉ ban hành các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức chủ yếu, quan trọng thống nhất trong phạm vi toàn quốc, còn địa phương quyết định các định mức phân bổ Ngân sách cho sự nghiệp giáo dục, y tế, sinh hoạt cho cán bộ xã trên cơ sở khung của TW. Các định mức này phải tính theo các đối tượng phục vụ cụ thể. Tất nhiên để đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính Quốc gia, ngoài các chế độ đã được TW phân cấp, địa phương chỉ được quy định chế độ chi riêng theo yêu cầu nhiệm vụ của địa phương. Trong trường hợp này phải đảm bảo: + Phải thực sự là yêu cầu cần thiết của địa phương, cơ sở nhằm thúc đẩy nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. + Phải đảm bảo sự hài hoà với các chế độ của TW. + Khả năng thu cân đối nguồn bằng cách tăng thu, tiết kiệm chi nhưng không ảnh hưởng đến các nguồn chi đã quy định. Quy định sự phối hợp giữa các cơ quan và các cấp, ngành đảm bảo chế độ, tiêu chuẩn, định mức ban hành sát với thực tế, có tính khả thi cao không những phù hợp với điều kiện đặc thù chi của từng ngành, từng lĩnh vực mà còn với điều kiện địa lý, kinh tế- xã hội của từng vùng. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 64 3.1.5. Hoàn thiện cơ chế bổ sung cho Ngân sách Địa phương Xuất phát từ tình hình cụ thể ở Việt Nam, cần hoàn thiện cơ chế bổ sung cho Ngân sách địa phương như sau: + Đối với việc bổ sung Ngân sách địa phương như sau: Cơ chế này chỉ áp dụng đối với các địa phương được xác định là thu thường xuyên không đủ chi thường xuyên. Do đó, còn gọi là cơ chế bổ sung (hỗ trợ) chi thường xuyên. Mục tiêu bổ sung, chi thường xuyên lả để đảm bảo cho tất cả các địa phương có đủ nguồn kinh phí trang trải các nhiệm vụ chi thường xuyên theo đúng các chế độ, tiêu chuẩn, đúng mức đã được cấp trên ban hành. Nhưng do các địa phương có các điều kiện tự nhiên, kĩ thuật - xã hội khác nhau, cho nên cần cộng thêm hệ số cho từng vùng để đảm bảo công bằng. + Đối với cơ chế bổ sung có mục tiêu: Bổ sung có mục tiêu phải căn cứ vào một số yêu cầu: Mức thu nhập bình quân đầu người cả nước; Căn cứ vào số thu (thuế) bình quân đầu người cả nước có tổng thu Ngân sách địa phương và của từng địa phương; căn cứ vào chính sách phát triển vùng động lực, khuyến khích và tạo điều kiện cho các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kĩ thuật - xã hội ở các địa phương đặc biệt khó khăn. Riêng đối với những địa phương có nguồn thu khá, thừa khả năng đảm bảo chi thường xuyên và một phần chi đầu tư phát triển thì Nhà nước có thể xem xét bổ sung một phần cho những công trình trọng điểm với quy mô lớn, đồng thời khuyến khích khai thác để thu hồi vốn... 3.1.6. Hoàn thiện quy trình Ngân sách địa phương Muốn đảm bảo tính độc lập tương đối của địa phương trong việc lập, quyết định dự toán, phân bố và phê chuẩn quyết toán Ngân sách địa phương thì ngoài việc quy định Quốc Hội chỉ quyết định và phân bổ dự toán Ngân sách TW, HĐND quyết định và phân bổ dự toán Ngân sách địa phương, về phía Chính Phủ cần phải bỏ cơ chế giao chỉ tiêu nhiệm vụ thu, chi cho các địa phương, thay vào đó là cơ chế thu, chi theo luật - địa phương phải chấp hành, bởi vì, thu theo kế hoạch là nếp làm quen thuộc của thời kì nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, điều này dễ dẫn đến khả năng lạm thu, không khuyến khích tích tụ vốn để đầu tư phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 65 3.1.7. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý thu, chi Ngân sách xã Muốn thực hiện phân cấp thu, chi cho Ngân sách xã có hiệu quả phải nhận thức đúng về Ngân sách xã, phải có sự quan tâm thường xuyên, chỉ đạo kịp thời của các cấp chính quyền, bảo đảm thực hiện chặt chẽ nghiêm túc các nhiệm vụ, chế độ, tiêu chuẩn định mức thu, chi Ngân sách xã. 3.2. Đổi mới quy trình thu thuế đối với các với các doanh nghiệp Nghiên cứu kết hợp tờ khai thuế đồng thời với việc thanh toán thuế, tiến tới bỏ thông báo thuế, nâng cao ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp, giảm chi phí hành thu thuế. Hệ thống chính sách, thủ tục và các biểu mẫu quy định về thuế cần được nghiên cứu cải tiến thống nhất, đơn giản, dễ hiểu để các doanh nghiệp có thể thực hiện việc tự tính tự khai thuế của mình một cách chính xác, đầy đủ và dễ dàng hơn. Tổ chức sắp xếp lại bộ máy nghành thuế, bổ sung lực lượng cho đội ngũ cán bộ thanh kiểm tra thuế, nâng cao chất lượng đội ngũ này. Bên cạnh đó, cần tăng mức phạt và xử lý thật nghiêm những trường hợp vi phạm chế độ kê khai nộp thuế, cần giao quyền cho cơ quan thuế khởi tố vụ án các vi phạm nghiêm trọng của Luật thuế. Thành lập bộ phận dịch vụ thuế của các doanh nghiệp tại các Cục thuế với chức năng giải thích, hướng dẫn, trả lời các vướng mắc về chính sách cũng như các thủ tục kê khai, tính thuế. Bên cạnh đó, cần phát triển dịch vụ tư vấn thuế. Ở nước ta dịch vụ này còn khá mới mẻ và chỉ có ít một số công ty tư vấn tài chính thực hiện tư vấn thuế giúp người được tư vấn khai thuế sao cho số thuế phải nộp đúng theo Luật và có thể "tiết kiệm" chi phí về thuế. Trên thực tế, có nhiều doanh ngiệp kinh doanh nhiều ngành hàng khác nhau trong khi hệ thống thuế chưa đảm bảo được yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, dễ làm thì tư vấn thuế là hết sức cần thiết. Cần ban hành Luật kế toán để các doanh nghiệp thực hiện chế độ sổ sách chứng từ kế toán theo Luật, cơ quan thuế có căn cứ xác định nghĩa vụ thuế cũng như thuận lợi trong việc điều tra, xử lý vi phạm về thuế. Cơ quan thuế cần trang bị phương tiện làm việc hiện đại như máy tính và tiến hành kết nối thông tin với kho bạc nhà nước. Mặc dù đây là một việc làm cần nhiều chi phí nhưng sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác quản lý thuế. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 66 3.3. Tăng cưòng thanh tra tài chính Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế đang vận theo cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế, nên định hướng của công tác thanh tra nói chung, công tác thanh tra tài chính nói riêng không thể vượt ra ngoài phạm vi chung nhất về phương pháp quản lý một nền kinh tế thị trường. Công tác thanh tra tài chính phải được phát triển để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước về quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế. Thanh tra Tài chính tuy trực thuộc Bộ Tài chính nhưng là thanh tra chuyên lĩnh vực Tài chính, khác với thanh tra nghành, ví dụ như thanh tra Ngân hàng. Công tác thanh tra, kiểm tra Tài chính có thể thực hiện ở hầu hết các nghành các cấp, các đơn vị cơ sở nhằm đảm bảo pháp luật, chế độ tài chính- kế toán được chấp hành nghiêm chỉnh, giữ vững sự lãnh đạo vĩ mô của Nhà nước. Do vậy, thanh tra Tài chính cần sớm được kiện toàn về mọi mặt cả về tổ chức cũng như số lượng và chất lượng thanh tra viên. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay, khi mà nạn tham nhũng, nạn lãng phí của công đang trở thành quốc nạn; hiện tượng mất dân chủ ở địa phương và cơ sở có nơi khá gay gắt thì công tác thanh kiểm tra, giám sát càng cần nhanh chóng kiện toàn để trở thành công cụ quản lý sắc bén của Nhà nước. Công tác thanh tra Tài chính thời gian tới càng tập chung thì hiệu quả càng cao. Hiện tại, theo cơ cấu tổ chức, ngoài thanh tra Tài chính ở Bộ Tài chính còn có thanh tra thuế, thanh tra Kho bạc. Các hệ thống thanh tra này hoạt động chưa có sự gắn kết với nhau, đôi khi còn chồng chéo dẫn tới giảm hiệu lực của công tác thanh tra. Đi đôi với kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của thanh tra Tài chính, pháp lệnh thanh tra được ban hành từ những năm 1990 đến nay cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế càng được sửa đổi. Pháp lệnh sửa đổi cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan thanh tra, tránh tình trạng người đi thanh kiểm tra về Tài chính - kế toán lại không am hiểu gì về công tác Tài chính - kế toán. Việc lựa chọn cán bộ làm công tác thanh tra và nâng cao năng lực thanh tra viên nhằm nâng cao uy tín của tổ chức thanh tra củng là một trọng tâm mà thời gian tới phải làm . ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 67 3.4. Công khai Ngân sách Công khai Ngân sách là nội dung quan trọng trong tiến trình cải cách Ngân sách nhằm đánh giá, kiểm tra, quản lý Ngân sách một cách khách quan. Ngày 20/11/1998, TTCP đã ra Quyết định số 225/1998/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế công khai Tài chính đối với NSNN các cấp đơn vị dự toán Ngân sách, các doanh nghiệp Nhà nước và các quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên, để quyết định này thực sự đi vào cuộc sống cần phải thực hiện các công việc sau: - Các tổ chức, cá nhân được phân công trách nhiệm công khai Ngân sách của cấp mình phải thực sự thấy được sự cần thiết và lợi ích đối với công khai Ngân sách Nhà nước, từ đó tổ chức thực hiện theo đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ. - Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện; các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân giám sát việc thực hiện. Tuyên truyền cho các cán bộ công nhân viên, các tầng lớp nhân dân thấy được lợi ích và phải có trách nhiệm trong việc giám sát thực hiện quản lý, công khai Ngân sách của cơ quan và của địa phương mình. - Phải có hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với những tổ chức, cá nhân không thực hiện đúng các quy định về công khai Ngân sách. - Việc ban hành quyết định này cùng với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã thể hiện được đường lối của Đảng là dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; Thực hiện công bằng, dân chủ trong công tác quản lý Ngân sách Nhà nước, góp phần thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, quan liêu. 3.5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách giá cả Giá cả là một chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế, biểu hiện tình trạng kinh tế, tình trạng Ngân sách. Để ổn định giá cả từ đó tạo cân đối cho Ngân sách cần phải làm tốt các công việc sau: Thứ nhất, bình ổn được giá cả thị trường để góp phần ổn định nguồn thu, chi Ngân sách. Thứ hai, tăng cường quản lý giá bằng các hình thức thích hợp như: Thực hiện quy chế thẩm định giá và đấu thầu trong việc sử dụng nguồn vốn Ngân sách mua sắm các thiết bị, vật tư, tài sản sẽ góp phần làm giảm chi Ngân sách, nâng cao hiệu quả sử ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 68 dụng vốn đầu tư. Trong thời gian tới, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giá cả và cơ quan Tài chính trong việc quản lý chi mua sắm tài sản của các cơ quan hành chính sự nghiệp, đặc biệt là chi mua sắm máy thiết bị tài sản trong các dự án đầu tư xây dựng cơ bản thì chắc chắn sẽ giảm được chi Ngân sách và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Ngoài ra, việc quản lý chặt chẽ chi cho đền bù thiệt hại khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng xây dựng, chi cho việc thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hoá cho miền núi, hải đảo, đồng bào dân tộc; chi trợ giá cho việc thực hiện chính sách xã hội, công tác tuyên truyền...Thông qua việc kết hợp chặt chẽ giảm quản lý giá cả và quản lý Tài chính thì cũng sẽ giảm được chi cho Ngân sách, bảo đảm thực hiện chi đúng chính sách, sử dụng nguồn vốn trợ giá, trợ cước có hiệu quả. Thứ ba, phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng quản lý giá cả nhằm thúc đẩy tăng năng suất lao động, giảm chi phí nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó tăng thu cho Ngân sách. Tóm lại, quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách giá, cơ chế quản lý giá và hệ thống giá ở nước ta trong thời gian vừa qua đã góp phần giải quyết một phần khó khăn cho Ngân sách Nhà nước. Trong thời gian tới, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính Phủ, ngành giá sẽ có sự kết hợp chặt chẽ hơn với ngành Tài chính để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giá cả, góp phần thực hiện tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội. 3.6. Hoàn thiện cơ chế sổ sách hoá đơn chứng từ Công tác sổ sách hoá đơn chứng từ là việc ghi chép, phản ánh điều hành, quản lý, sử dụng Ngân sách. Nó là công cụ để các cấp Ngân sách nhìn nhận, xem xét lại việc quản lý Ngân sách của mình và dự kiến kế hoạch Ngân sách năm sau. Đó cũng là phương tiện tối ưu để thực hiện kiểm tra, thanh tra công tác Ngân sách. Tuy nhiên, trong tình hình mới đã có nhiều thay đổi, chế độ sổ sách, hoá đơn, chứng từ đã không còn phù hợp nữa, tạo trở ngại trong kế toán Ngân sách. Do vậy, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền, nhiệm vụ nhanh chóng sửa đổi, bổ sung những bất cập, lạc hậu cho phù hợp, tiện lợi. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 69 KẾT LUẬN Ngân sách huyện là một bộ phận cấu thành của Ngân sách Nhà nước. Thực hiện quản lý ngân sách huyện là một nhiệm vụ quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách diễn ra được quản lý công khai, chặt chẽ và đúng các quy định pháp luật hiện hành. Nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách là tất yếu, đó là một quá trình lâu dài và sẽ gặp không ít khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi nỗ lực cố gắng của từng cá nhân, từng cơ quan, đơn vị và từng xã, thị trấn thuộc huyện. Ngân sách Nhà nước được coi là huyết mạch của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh, là công cụ để Nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả quản lý nền kinh tế. Thông qua ngân sách, Nhà nước huy động các nguồn lực của xã hội, phân phối và sử dụng cho nhu cầu phát triển kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Vì vậy, việc củng cố, hoàn thiện, lành mạnh hoá hệ thống tài chính quốc gia để phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước Việt Nam nói chung và của huyện Đăk Tô nói riêng trong thời kỳ mới. Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn được trình bày trong luận văn, tôi xin rút ra một số kết luận: - Để tăng cường hiệu lực trong công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với quản lý NSNN cần đổi mới một cách hiệu quả và sâu sắc công cụ quản lý, trong đó đội ngũ cán bộ quản lý là quan trọng nhất. - Để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, nhà nước phải sử dụng một hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô như kế hoạch, chính sách, các công cụ tài chính, pháp luật... Việc sử dụng các công cụ này thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. - Thực hiện quản lý tốt nguồn thu và nhiệm vụ chi ngân sách, đảm bảo chất lượng và hiệu quả, thu đúng và đầy đủ theo quy định pháp luật tạo môi trường kinh ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 70 doanh công bằng giữa các đối tượng kinh doanh, chi ngân sách tiết kiệm, hiệu quả đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cấp chính quyền, từng đơn vị góp phần hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ thúc đẩy huyện Đăk Tô phát triển ngày càng nhanh và bền vững. Thông qua Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách trên địa bàn huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum” tôi muốn nêu những kết quả đạt được và những tồn tại, nguyên nhân trong công tác quản lý ngân sách huyện Đăk Tô, trình bày một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân sách huyện. Tuy nhiên với khả năng hiểu biết của bản thân và thời gian có hạn nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong Quý Thầy, Cô giáo, Quý bạn đọc nhận xét, góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn, với mong muốn đóng góp một phần vào công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện Đăk Tô cho những năm đến. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chi cục Thống kê huyện Đăk Tô (2012), Niên giám thống kê huyện Đăk Tô năm 2011. 2. UBND huyện Đăk Tô, Báo cáo kinh tế xã hội huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum trình tại các kỳ họp hội đồng nhân dân hàng năm từ 2009 – 2011. 3. Phòng Kế hoạch - Tài chính huyện Đăk Tô, Các tập cân đối quyết toán ngân sách địa phương huyện Đăk Tô (2009-2011). 4. Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16 tháng 12 năm 2002. 5. Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Nhà xuất bản công an nhân dân. 6. PGS.TS Nguyễn Hữu Tài (2007),Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, Nxb Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. 7. TS Nguyễn Thị Bất, TS Vũ Duy Hào (2002), Giáo trình quản lý Thuế, Nxb Thống kê Hà Nội. 8. Các website: www.mof.gov.vn; huyendakto.kontum.gov.vn; thuvienphapluat.vn... ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfk43b_khdt_thach_quang_quyen_0669.pdf
Luận văn liên quan