Sản xuất lúa vẫn chưa đặt vào trong hệ thống sản xuất có hiệu quả, chủ yếu sản
xuất tự cung tự cấp là chính, do đó tính bền vững còn chưa ổn định, tần suất mất màu còn
cao.
- Điều kiện phát triển kinh tế xã hội của xã tốt. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng của xã
phát triển chưa toàn diện. Phần lớn nhân dân xã có trình độ văn hóa và nhận thức chưa
đồng đều, nên còn khó khăn trong việc tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng
vào sản xuất để đưa năng suất lúa tăng cao.
- Việc cơ giới hóa trong sản xuất lúa còn ở mức độ thấp, chủ yếu là ở khâu làm đất.
- Hệ thống thủy lợi tuy đã được nâng cấp, song còn nhiều hạn chế và bất cập.
- Giá của các yếu tố đầu vào cao và không ổn định gây ảnh hưởng không nhỏ đến
tâm lý đầu tư của người dân.
- Cần chú ý sử dụng phân chuồng, phân xanh để nâng cao độ phì nhiêu của đất.
- Điều kiện thời tiết không thuận lợi. Tình hình sâu bệnh xuất hiện nhiều trong các
giai đoạn phát triển của cây lúa, nhưng ở mỗi thời kỳ, mỗi giống lúa mức độ sâu hại là
khác nhau ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển làm giảm năng suất và chất lượng
của cây lúa. Các loại sâu bênh hại chủ yếu là do rầy nâu, rầy lùn sọc đen, bệnh sâu cuốn lá
gây ra.
- Người nông dân thường bán lúa cho các ốt xay xát nhỏ, hoặc là những người thu
gom nhỏ của địa phương và bán tại nhà nên tình trạng bị ép giá vẫn diễn ra và khó kiểm
soát trên địa bàn.
Với một số nhận xét và giải pháp khắc phục trên, tôi hy vọng sẽ góp được một
phần nhỏ bé của mình vào công tác nâng cao hiệu quả sản xuất lúa tại địa phương.
II. KIẾN NGHỊ
Đối với nhà nước
Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và đối với nông nghiệp nói
riêng là quản lý trên tầm vĩ mô, nhà nước có thể dùng các chính sách vĩ mô để khuyến
khích thúc đẩy sản xuất lúa phát triển bằng cách ban hành, thực thi và giám sát kiểm tra
việc thực hiện các chủ trương chính sách mà mình đưa ra. Các chính sách liên quan để
Đại học Ki
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hiệu quả kinh tế một số giống lúa lai vụ đông xuân ở xã Đô Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dạn đầu tư mà không sợ lúa
tốt cây quá dẫn tới bị lốp. Điều này chứng tỏ các hộ trồng Khoa phong 36 đã mạnh dạn
đầu tư hơn các hộ trồng Nhị ưu 986. Khoản chi phí dịch vụ chúng ta thấy cũng thấy có sự
chênh lệch giữa hai giống lúa, sản xuất lúa Nhị ưu 986 hộ phải bỏ ra 126,26 nghìn đồng
và sản xuất Khoa phong 36 là 136,55 nghìn đồng, có sự chênh lệch này là do các hộ sản
xuất lúa Khoa phong sử dụng máy móc nhiều hơn, còn các hộ trồng Nhị ưu 986 thì sử
dụng trâu,bò nhiều hơn. Để sản xuất một sào Nhị ưu 986 hộ phải bỏ ra 5,93 công lao
động gia đình và sản xuất Khoa phong là 5,67 công, có sự chênh lệch này là do các hộ sản
xuất lúa Khoa phong 36 sản xuất theo đúng quy trình kỹ thuật, thêm vào đó cây mạ của
lúa Khoa phong to hơn nên đã làm giảm được thời gian cấy, chi phí lao động gia đình bỏ
ra ít hơn.
2.3.4 Kết quả và hiệu quả sản xuất lúa lai
Hình thức sản xuất của các nông hộ được điều tra là hình thức sản xuất kinh tế hộ
tự cung tự cấp là chính. Lợi nhuận chưa phải là mục tiêu tối cao, mục tiêu tối cao của hình
thức kinh tế này là phục vụ nhu cầu bản thân và chỉ đem bán ra thị trường những sản
phẩm dư thừa. Do đó trong đề tài của mình tôi đã không chọn chỉ tiêu lợi nhuận bình quân
và chỉ tiêu thu nhập hỗn hợp MI (MI= VA – Thuế - Khấu). Tôi cũng không sử dụng chỉ
tiêu này vì không cần thiết khi ở địa phương sản xuất nông nghiệp đã được miễn thuế, và
khấu hao bình quân là bằng nhau. Từ đặc điểm này tôi lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá kết
quả sản xuất nông nghiệp bao gồm: tổng giá trị sản xuất trên sào, giá trị gia tăng trên
sào...
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
46
Hiệu quả kinh tế là tiền đề đánh giá hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh là
cơ sở cho việc lựa chọn phương án tối ưu trong sản xuất. Nó phản ánh kết quả làm ăn của
doanh nghiệp hay của hộ nông dân. Để biết kết quả và hiệu quả sản xuất lúa tôi tiến hành
xử lý só liệu theo vụ Đông Xuân cho hai loại giống lúa Nhị ưu 986 và Khoa phong 36.
Bảng 13: Kết quả và hiệu quả sản xuất lúa lai
(tính bình quân sào)
Chỉ tiêu ĐVT Nhị Ưu 986 Khoa phong 36 BQ
GO 1000đ 1.323,00 1.487,25 1.405,13
IC 1000đ 549,76 558,61 554,19
VA 1000đ 773,24 928,64 850,94
GO/IC 1000đ 2,41 2,66 2,54
VA/IC Lần 1,41 1,66 1,54
VA/GO Lần 0,58 0,62 0,61
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng giá trị sản xuất bình quân trên sào của giống
Khoa phong 36 trong một vụ là 1.487,25 nghìn đồng/sào, tương ứng Nhị ưu 986 là 1.323
nghìn đồng trên sào, như vậy tổng giá trị sản xuất của giống lúa Khoa phong 36 cao hơn
giống Nhị ưu 986, điều này là do năng suất của luá Khoa phong 36 cao hơn lúa Nhị ưu
986.
Về chi phí trung gian IC là những chi phí vật chất và chi phí dịch vụ dùng cho sản
xuất. Nó là một chỉ tiêu quan trọng trong việc phản ánh hiệu quả kinh tế cho sản xuất lúa
của nông hộ. Qua bảng số liệu ta thấy chi phí trung gian của hai giống lúa là tương đương
nhau. Về cơ bản khi tiến hành sản xuất người nông dân phải đầu tư một khoản chi phí khá
lớn cho việc bón phân hóa học, mặc dù các hộ cũng đã có một lượng phân chuồng để bón
cho lúa, giống lúa là một khoản cũng khá lớn tron chi phí trung gian của hộ. Ở giống
Khoa phong 36 thì chi phí trung gian trên một sào lớn hơn lúa Nhị Ưu 986. Bình quân
Đại
học
K n
h tế
Hu
ế
47
trên một sào lúa Nhị ưu 986 phải chi phí 549,76 nghìn đồng/sào và ở giống lúa Khoa
phong 36 là 558,61 nghìn đồng/sào.
Với mức tổng giá trị sản xuất GO và chi phí trung gian IC như vậy nên giá trị gia
tăng có sự khác biệt giữa 2 giống lúa. Bình quân giá trị gia tăng VA của giống Khoa
phong 36 là 928,64 nghìn đồng trên sào trong khi đó giống Nhị ưu 986 là 773,24 nghìn
đồng/sào.
Khi tiến hành so sánh các chỉ tiêu hiệu quả ta cũng thấy được chỉ tiêu GO/IC bình
quân của cá giống lúa cũng có sự khác nhau. Với giống lúa Nhị ưu 986 con số này là 2,41
lần tức là cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được 2,41 đồng giá trị sản xuất. Chỉ tiêu này ở
giống lúa Khoa phong 36 cao hơn đạt mức 2,66 lần.
Chỉ tiêu VA/IC là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất, chỉ tiêu này
khi so sánh giữa hai giống lúa thì cao nhất là ở giống Khoa phong 36 đạt 1,41 lần. Khi
cùng đầu tư một chi phí trung gian thì ở giống lúa Khoa phong 36 tạo ra 2,66 đồng giá trị
sản xuất và 1,66 đồng giá trị gia tăng, ở giống lúa Nhị ưu 986 đã tạo ra 2,41 đồng giá trị
sản xuất và 1,41 đồng giá trị gia tăng.
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng rõ ràng hiệu quả mà giống lúa Khoa phong 36
mang lại là lớn hơn so với giống Nhị ưu 986 qua điều tra tôi thấy do việc đầu tư một cách
phù hợp, cùng với việc sản xuất tuân theo đúng quy trình sản xuất hơn nên các hộ trồng
giống lúa Khoa phong 36 mang lại kết quả hiệu quả cao hơn giống lúa Nhị ưu 986. Rõ
ràng với kết quả này thì trong tương lại nó sẽ là lựa chọn phù hợp để trở thành giống lúa
chủ lực tại địa phương. Với người nông dân thì vụ Đông Xuân luôn là vụ lúa quan trọng
nhất trong năm, vì vậy việc nghiên cứu để hạn chế tối thiểu rủi ro kết hợp với đầu tư
phòng trừ sâu bệnh tăng năng suất sẽ có ý nghĩa rất quan trọng góp phần nâng cao thu
nhập và đời sống của người dân.
Để khẳng định lại một lần nữa hiệu quả kinh tế của lúa lại tôi tiến hành so sánh
hiệu quả kinh tế của lúa lai với lúa địa phương thông qua điều tra các hộ nông dân và thu
được bảng số liệu sau:
Đại
học
Kin
h tế
H
ế
48
Bảng 14: So sánh hiệu quả kinh tế của giống lúa lai với lúa giống lúa địa phương
(tính bình quân sào)
Chỉ tiêu Lúa lai Lúa địa phương
GO 1.405,13 840,00
IC 554,19 420,70
VA 850,94 419,30
GO/IC 2,54 2,00
VA/IC 1,54 1,00
VA/GO 0,61 0,50
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng giá trị sản xuất bình quân trên sào của
lúa lai là1.405,13 nghìn đồng/sào, tương ứng lúa địa phương 840 nghìn đồng trên sào,
như vậy tổng giá trị sản xuất của giống lai cao hơn giống địa phương, gấp 1,67 lần, điều
này là do ngoài năng suất cao thì giá lúa lai còn cao hơn lúa địa phương từ hai đến ba giá.
Qua bảng số liệu ta thấy chi phí trung gian của hai giống lúa là tương đương nhau.
Về cơ bản khi tiến hành sản xuất người nông dân phải đầu tư một khoản chi phí khá lớn
cho việc bón phân hóa học, mặc dù các hộ cũng đã có một lượng phân chuồng để bón cho
lúa, giống lúa là một khoản cũng khá lớn tron chi phí trung gian của hộ, giá giống lúa lai
cao hơn rất nhiều so với giống lúa địa phương, giá một cân giống lúa lai khoảng 62.000 –
69.000 đồng, trong khi đó giá của giống lúa địa phương khoảng 10 nghìn đồng/Kg. Ở
giống lúa lai thì chi phí trung gian trên một sào lớn hơn lúa địa phương. Bình quân trên
một sào lúa lai phải chi phí 554,19 nghìn đồng/sào và ở giống lúa địa phương là 420,70
nghìn đồng/sào.
Với mức tổng giá trị sản xuất GO và chi phí trung gian IC như vậy nên giá trị gia
tăng có sự khác biệt giữa hai giống lúa. Bình quân giá trị gia tăng VA của lúa lai là
850,94 nghìn đồng trên sào trong khi đó giống địa phương là 419,30 nghìn đồng/sào.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
49
Khi tiến hành so sánh các chỉ tiêu hiệu quả ta cũng thấy được chỉ tiêu GO/IC bình
quân của cá giống lúa cũng có sự khác nhau. Với giống lúa lai con số này là 2,54 lần tức
là cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được 2,54 đồng giá trị sản xuất. Chỉ tiêu này ở giống
lúa địa phương cao hơn đạt mức 2,00 lần.
Chỉ tiêu VA/IC là chỉ tiêu quan trong để đánh giá hiệu quả sản xuất, chỉ tiêu này
khi so sánh giữa hai giống lúa thì cao nhất là ở giống lua lai đạt 1,54 lần. Khi cùng đầu tư
một chi phí trung gian thì ở giống lúa lai tạo ra 2,54 đồng giá trị sản xuất và 1,54 đồng giá
trị gia tăng, ở giống lúa địa phương đã tạo ra 2,00 đồng giá trị sản xuất và 1,00 đồng giá
trị gia tăng.
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng rõ ràng hiệu quả mà giống lúa lai mang lại là lớn
hơn so với giống địa phương qua điều tra tôi thấy do việc đầu tư một cách phù hợp, cùng
với việc sản xuất tuân theo đúng quy trình sản xuất hơn nên các hộ trồng giống lúa lai
mang lại kết quả hiệu quả cao hơn giống lúa địa phương. Rõ ràng với kết quả này thì
trong tương lai nó sẽ là lựa chọn phù hợp để trở thành giống lúa chủ lực tại địa phương.
Với người nông dân thì vụ Đông Xuân luôn là vụ lúa quan trọng nhất trong năm, vì vậy
việc nghiên cứu để hạn chế tối thiểu rủi ro kết hợp với đầu tư phòng trừ sâu bệnh tăng
năng suất sẽ có ý nghĩa rất quan trọng góp phần nâng cao thu nhập và đời sống của người
dân.
2.3.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả sản xuất lúa lai
2.3.5.1 Ảnh hưởng của quy mô đất đai
Trong sản xuất nông nghiệp, quỹ đất có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của các
nông hộ. Nếu có quỹ đất đáp ứng nhu cầu sản xuất cùng với hoạt động lao động được tổ
chức tốt, trình độ thâm canh cao thì mức thu nhập sẽ được nâng lên, cải thiện tốt cuộc
sống. Ngược lại, đất đai bị hạn chế thì không thể mở rộng quy mô sản xuất. Để tìm hiểu
rõ mức độ ảnh hưởng của quỹ đất sản xuất đến thu nhập của các hộ sản xuất lúa, chúng ta
theo dõi bảng 15
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
50
Bảng 15: Ảnh hưởng của quy mô đất đai đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa lai
(tính bình quân sào)
Khoảng
cách tổ
Số hộ GO
(1000đ)
IC
(1000đ)
VA
(1000đ)
GO/IC
(lần)
VA/IC
(lần)
VA/GO
(1000đ)Hộ %
3,67 18 22,50 1.342,50 566,58 775,92 2,37 1,37 0,58
3,67-5,83 44 55,00 1.414,43 557,23 857,20 2,54 1,54 0,61
5,83 18 22,50 1.445,00 534,37 910,63 2,70 1,70 0,63
BQC 80 100,00 1405,13 554,19 850,94 2,54 1,54 0,61
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010)
Tổ I: có diện tích bình quân < 3,67 sào; có 18 hộ, chiếm 22,50 %. Giá trị sản xuất
bình quân trên một sào của các hộ trong tổ đạt được là 1.342,50 nghìn đồng. Giá trị gia
tăng bình quân trên sào là đạt được là 775,92 nghìn đồng, thấp nhất trong ba tổ. Chi phí
trung gian bình quân mà các hộ trong tổ bỏ ra là 566,58 nghìn đồng cao nhất trong ba tổ.
Hai chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất trên chi phí trung gian và giá trị gia tăng trên chi phí
trung gian lần lượt đạt 2,37 lần và 1,37 lần, tức là nếu các hộ trong tổ bỏ ra một đồng chi
phí trung gian thì thu được 2,37 đồng giá trị sản xuất và 1,37 đồng giá trị gia tăng.
Tổ II: có diện tích bình quân nằm trong nữa khoảng 3,67 – 4,04 sào; có 44 hộ,
chiếm 55 %. Giá trị sản xuất bình quân sào của các hộ trong tổ II đạt được là 1.414,43
nghìn đồng.Giá trị gia tăng mà các hộ trong tổ thu được khi sản xuất một sào lúa là
857,20 nghìn đồng/sào, đứng thứ hai trong ba tổ. Khi bỏ ra một đồng chi phí trung gian
thì các hộ thu được 2,54 đồng giá trị sản xuất và 1,54 đồng giá trị gia tăng.
Tổ III: có diện tích bình quân >= 4,04 sào; có 18 hộ, chiếm 22,50 %. Giá trị sản
xuất và giá trị gia tăng bình quân mà các hộ trong tổ đạt được tương ứng là 1.445 nghìn
đồng và 910,63 nghìn đồng. Chỉ tiêu giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC) và
giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) lần lượt đạt 2,7 lần và 1,7 lần.
Qua phân tích trên ta thấy, các chỉ tiêu hiệu quả tăng dần từ tổ I tới tổ III, tức là
tăng theo quy mô đất đai. Phản ánh hiệu quả sử dụng vốn tăng theo quy mô. Tổ III sản
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
51
xuất có hiệu quả nhất nguyên nhân là do các hộ ở tổ III sản xuất trên quỹ đất lớn nhất nên
đã tiết kiệm được chi phí, còn những hộ khác do có ít đất phục vụ cho gieo trồng nên kết
quả đem lại chỉ ở mức thấp.
Số liệu ở bảng 14 đã phản ánh thực trạng sản xuất lúa ở địa bàn nghiên cứu. Những
hộ có diện tích từ 3,67- 5,83 sào chiếm tỷ lệ nhiều nhất, chiếm 44 hộ trong tổng số 80 hộ
điều tra, tương ứng 22,50. Đây là tổ có diện tích lớn thứ hai trong 3 tổ, và giá trị gia tăng
bình quân đạt 857,20 nghìn đồng/sào. Có được kết quả này là nhờ vào kỹ thuật canh tác
tốt, quỹ đất của các hộ này vừa đủ để họ chú trọng đầu tư tăng năng suất, tổ này có mức
đầu tư cao nhất và giá trị gia tăng đứng thứ hai trong ba tổ. Những hộ có diện tích gieo
trồng lớn (từ 5,38 sào trở lên) thì đã được các nông hộ đặc biệt chú trọng đầu tư, sản xuất
trên diện tích đất lớn nên bà con đã tiết kiệm được chi phí, chi phí trung gian bình quân là
534,37 nghìn đồng/sào, thấp nhất trong ba tổ, tổng giá trị sản xuất bình quân là 1445
nghìn đồng/sào cao nhất trong ba tổ và nhờ vậy nên giá trị gia tăng bình quân đạt mức cao
nhất là 910,63 nghìn đồng/sào, giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) là 1,70 lần,
nghĩa là cứ bỏ ra 1 đồng chi phí thì hộ sản xuất lúa với diện tích lớn sẽ thu được 1,70
đồng giá trị gia tăng, và chỉ tiêu giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) của tổ này
cũng là cao nhất trong ba tổ. Trong khi đó, những hộ có quỹ đất gieo trồng dưới 3,67 sào
là tổ có IC cao thứ hai trong ba tổ nhưng do đầu tư hiệu quả chưa cao nên tổng giá trị sản
xuất bình quân chỉ đạt được là1342,50 nghìn đồng/sào, thấp nhất trong ba tổ, và do đó
làm cho giá trị gia tăng bình quân chỉ đạt 775,92 ngìn đồng/sào, thấp nhất trong ba tổ, chỉ
tiêu giá trị gia tăng trên tổng giá trị sản xuất (VA/GO) lần lượt là 1,37 và 0,58 hai chỉ tiêu
này của tổ II cũng thấp nhất trong ba tổ.
Như vậy, qua sự phân tích cho thấy các hộ có diện tích trồng lúa ở tổ III đat kết
quả và hiệu quả cao nhất, còn những hộ khác do có ít đất phục vụ cho gieo trồng nên kết
quả đem lại chỉ ở mức thấp.
Trong điều kiện kinh tế hộ tại địa bàn, mặc dù dồn điền đổi thửa để tăng quy mô
diện tích trên một thửa ruộng nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi tình trạng manh
mún ruộng đất. Điều này khiến cho khả năng tiết kiệm chi phí theo quy mô gặp hạn chế.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
52
Vấn đề tập trung ruộng đất ở mức cao hơn chỉ giải quyết được khi phát triển các ngành
nghề phụ tại địa phương, người dân chỉ chịu sang nhượng đất đai khi làm nghề phụ có
hiệu quả hơn mà thôi.
2.3.5.2 Ảnh hưởng của chi phí trung gian
Chi phí trung gian là một bộ phận trong tổng giá trị sản xuất. Ở phạm vi đề tài, chi
phí trung gian bao gồm các chi phí như: giống, phân bón, thuốc hóa học, chi phí dịch vụ...
Các yếu tố trên ít nhiều đều ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả sản xuất. Nếu xem xét ảnh
hưởng của từng nhân tố bằng phương pháp phân tổ thì rất phức tạp và khó theo dõi. Ở đây
tôi phân tổ thống kê theo chi phí trung gian để xem xét ảnh hưởng của chi phí trung gian
tới tới hiệu quả sản xuất một cách chung nhất, tức chỉ xem được xu hướng chứ không
phải là cụ thể hóa ảnh hưởng của từng thành tố trong chi phí trung gian tới kết quả cũng
như hiệu quả sản xuất lúa. Kết quả này được trình bày trong bảng 15
Bảng 16: Ảnh hưởng của chi phi trung gian đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa lai
(tính bình quân sào)
Khoảng
cách tổ
(1000 đ)
Số hộ
GO IC VA GO/IC VA/IC VA/GOHộ %
513 32 40 1.371,09 475,51 895,58 2,88 1,88 0,65
513-636 31 38,75 1.425,48 549,33 876,15 2,59 1,59 0,61
636 17 21,25 1.432,06 711,13 720,93 2,01 1,01 0,50
BQC 80 100 1405,13 554,19 850,94 2,54 1,54 0,61
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010)
Tổ I: có mức đầu tư chi phí trung gian bình quân <513 nghìn đồng/sào, có 32 hộ,
chiếm 40 %. Chi phí trung gian bình quân đạt mức 475,51 nghìn đồng/sào, thấp nhất
trong ba tổ. Trong khi đó giá trị gia tăng bình quân đạt 895,58 nghìn đồng/sào, là con số
cao nhất trong ba tổ. Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC), giá trị
gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) lần lượt đạt 2,88 lần và 1,88 lần. Tức là cứ bỏ ra
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
53
một đồng chi phí trung gian thì các hộ trong tổ này thu được 2,88 đồng giá trị sản xuất và
1,88 đồng giá trị gia tăng.
Tổ II: có mức đầu tư chi phí trung gian bình quân nằm trong nửa khoảng 513.000-
636.000 đồng/sào, có 31 hộ, chiếm 38,75 %. Chi phí trung gian bình quân cao hơn so với
tổ I, đạt mức 549,33 nghìn đồng. Trong khi đó giá trị gia tăng đạt được lại thấp hơn tổ I,
và đạt 876,15 nghìn đồng/sào. Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất trên chi phí trung gian
(GO/IC), gia trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) lần lượt đạt 2,59 lần và 1,59 lần,
cả hai chỉ tiêu này đều thấp hơn so với tổ I.
Tổ III: có mức đầu tư chi phí trung gian bình quân >= 636 nghìn đồng/sào, có 17
hộ, chiếm 21,25 %. Chi phí trung gian bình quân đạt mức 711,13 nghìn đồng/ sào, cao
nhất trong ba tổ. Nhưng giá trị gia tăng lại thấp nhất trong ba tổ, chỉ đạt 720,93 nghìn
đồng/sào. Hai chỉ tiêu hiệu quả giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC), giá trị gia
tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) lần lượt đạt 2,01 lần và 1,01 lần, tức là cứ bỏ ra một
đồng chi phí trung gian thì các hộ trong tổ này thu được 2,01 đồng giá trị sản xuất và 1,01
đồng giá trị gia tăng. Hai chỉ tiêu này của tổ đạt được là thấp nhất trong ba tổ.
Qua kết quả phân tích trên ta thấy, tổ I có mức đầu tư chi phí trung gian bình quân
thấp nhất nhưng hiệu quả đạt được là cao nhất. Có được thành tích này là nhờ hiểu biết kỹ
thuật thâm canh của các hộ trong tổ này. Trong khi đó các hộ thuộc tổ II và III có mức
đầu tư chi phí trung gian cao hơn nhưng hiệu quả đạt được lại thấp hơn tổ I. Điều này
chứng tỏ các hộ ở hai tổ này đầu tư chi phí trung gian chưa hợp lý. Tốc độ tăng chi phí
trung gian nhanh hơn tốc độ tăng của tổng giá trị sản xuất, làm lãng phí vốn đầu tư cho
sản xuất lúa cũng như cho ngành nông nghiệp. Kết quả không chỉ như thế mà còn làm cho
đất đai ngày càng hoang hóa, bạc màu, mất cân bằng sinh thái. Như thế làm tổn hại đến
khả năng sản xuất trong tương lai. Trước thực trạng, này yêu cầu đặt ra là phải sử dụng
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý, cân đối, đúng kỹ thuật, chọn các loại giống có
năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu sâu bệnh, chịu rét tốt. Ngoài những nguyên nhân
chủ quan làm cho kết quả mà tổ II và tổ III thu được thấp còn do các nguyên nhân khách
quan như: sâu bệnh, lúa trỗ gặp rét dẫn đến mất mùa, làm giảm năng suất. Do đó, phải tạo
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
54
điều kiện thuận lợi một cách toàn diện để khắc phục cả nguyên nhân khách quan lẫn
nguyên nhân chủ quan. Có như vậy mới tăng năng suất, tăng giá trị sản xuất, tăng giá trị
gia tăng, mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện và nâng cao đời
sống cho bà con.
2.3.5.3 Ảnh hưởng của các yếu tố khác
* Ảnh hưởng của thời tiết khí hậu
Sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng chịu ảnh hưởng của thời
tiết khí hậu. Thời tiết thuận lợi thì cho năng suất cao ổn định, ngược lại nếu thời tiết xấ,
thường xuyên xảy ra thiên tai, thì hiệu quả kinh tế đạt được rất thấp hoặc có thể mất trắng.
Điều kiện thời tiết khí hậu ở xã Đô Thành trong thời gian vừa qua có những diễn
biến bất lợi cho sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Đối với sản
xuất lúa vào vụ Đông Xuân có hiện tượng rét đậm, rét hại kéo dài làm cho cây lúa chậm
phát triển, ảnh hưởng tới năng suất. Nếu như thời tiết thuận lợi hơn thì kết quả sản xuất
lúa ở địa phương đạt được có thể cao hơn.
* Ảnh hưởng của đất đai
Được sự ưu đãi của thiên nhiên nên đa số đất đai của xã màu mỡ hơn so với các
khu vực lân cận. Yếu tố này đã góp phần làm cho năng suất lúa của xã cao hơn so với mặt
bằng chung của toàn huyện. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở địa bàn xã.
* Ảnh hưởng của kỹ thuật người sản xuất
Đối với sản xuất nông nghiệp, hầu hết lao động là những bộ phận có trình độ dân
trí thấp, kiến thức nông nghiệp hạn chế, sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm truyền thống và các phương tiện thô sơ nên năng suất thấp. Xuất phát từ yêu cầu
nâng cao kiến thức cho người sản xuất, hiện nay hầu hết các địa phương đều có cán bộ
khuyến nông. Việc tiếp thu kiến thức kỹ thuật nông nghiệp thông qua các đợt tập huấn, có
ý nghĩa rất tốt đối với nâng cao năng suất cây trồng. Đặc biệt đối với cây lúa, việc học hỏi
cách trồng, bón phân đúng kỹ thuật, đưa giống mới vào sản xuất là rất quan trọng.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
55
* Ảnh hưởng của thị trường, giá cả đầu vào và đầu ra
Trong những năm gần đây lúa đã trở thành nông sản có tính hàng hóa cao của
người dân nơi đây, do đó nó chịu ảnh hưởng của thị trường và giá cả. Cũng như mọi
ngành sản xuất sự biến động của giá sản phẩm và giá đầu vào đều làm thay đổi kết quả và
hiệu quả sản xuất. Sự không ổn định của thị trường sản phẩm lúa và thị trường các yếu tố
đầu vào đặc biệt là phân bón ảnh hưởng lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất.
Theo điều tra giá phân bón cao nhất vào thời điểm người nông dân bắt đầu bước
vào thời vụ gieo trồng. Điều này gây áp lực lớn tới đầu tư thâm canh sản xuất của hộ nông
dân. Còn giá lúa cao nhất là vào thời điểm giáp hạt, khi lượng cung ứng trên thị trường
còn ít, lúc này lúa dự trữ của các hộ nông dân không còn nhiều nên việc tăng giá trị sản
xuất bình quân trên sào từ việc tăng giá bán lúa cao này cũng không làm cho tổng giá trị
sản xuất lúa tăng lên nhiều. Vào thời điểm thu hoạch lúa, lượng lúa cung ứng trên thị
trường nhiều nên giá cả thấp, tuy nhiên người nông dân vẫn phải bán để lấy tiền mua
phân bón, giống cho vụ sản xuất sau, hoặc để trả tiền mua chịu vật tư ở vụ trước.
Việc biến động giá do nhiều nguyên nhân mà bản thân người sản xuất không thể tự
mình khắc phục được. Do đó để giúp người dân ổn định và phát triển sản xuất, nâng cao
hiệu quả sản xuất cần có sự hỗ trợ của nhiều ngành, nhiều cấp.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
56
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT LÚA LAI Ở XÃ ĐÔ THÀNH
3.1 ĐỊNH HƯỚNG
Xã Đô Thành, huyện Yên Thành là một xã đồng bằng, có sự phát triển đa dạng các
lĩnh kinh tế. Song sự phát triển đó chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của xã. Với
xu hướng giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành nghề dịch vụ. Về nội
ngành nông nghiệp, giảm dần tỷ trọng của ngành trồng trọt, tăng dần tỷ trọng của ngành
chăn nuôi; giảm tỷ trọng của ngành trồng, tăng dần tỷ trọng của cây công nghiệp ngắn
ngày. Tuy nhiên, cây lúa vẫn là cây lương thực chủ lực trên địa bàn xã. Chịu ảnh hưởng
chung cuả thời tiết của khu vực miền Trung , nhưng với bản tính cần cù, chịu thương chịu
khó, kinh nghiệm sản xuất lâu đời của người dân địa phương, sự quan tâm và hỗ trợ của
chính quyền địa phương về kỹ thuật vốn, cây lúa vần là nguồn thu nhập chính của người
dân địa phương. Trong thời gian vừa qua, nhằm nâng cao năng suất cây lúa chính quyền
địa phương, đặc biệt là HTX đã đưa về những giống lúa lai với năng suất cao và phẩm
chất tốt như: Nhị ưu 986, Khoa phong 36.... Góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống cho người dân. Đồng thời nhu cầu về lúa gạo ở cả địa bàn và cả nước hiện nay ngày
càng cao. Từ những điều trên, đinh hướng chung cho sản xuất lúa của địa phương là: phát
triển nông nghiệp cả về chiều rộng và chiều sâu, chú trọng đầu tư thâm canh tăng năng
suất, đầu tư một cách hợp lý, đầu tư chuyển giao khoa học kỹ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Để làm được điều đó trước hết xã cần nâng cấp quy hoạch hệ thống thủy lợi, bố trí
hệ thống kênh mương nhằm chủ động chống, chống hạn. Bên cạnh đó còn phải quy hoạch
giao thông nội đồng, tiến hành dồn đổi thửa để đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp
một cách dễ dàng hơn, đồng thời cần tích cực chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người
sản xuất, nghiênn cứu, thử nghiệm đưa những giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao,
kháng sâu bênh và phù hợp với điều kiện đất đai của xã vào trong sản xuất.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
57
Hiện nay theo khuyến cáo thì dư lượng thuốc hóa học trong đất, trong nước là khá
cao điều này làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Vì vậy trong thời gian tới cùng với
việ đầu tư thâm canh thì cần có những biện pháp cụ thể để hạn chế những ảnh hưởng xấu
của sản xuất lúa đến môi trường.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Qua quá trình điều tra, tìm hiểu, để có thể rút ra được những giải pháp thiết thực
khắc phục được những khó khăn trong sản xuất lúa của xã, cần thiết phải nằm rõ được
những khó khăn cũng như nguyện vọng của người dân địa phương.
* Về thuận lợi trong sản xuất lúa tại địa phương
- Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, Ban nông nghiệp, Ban chủ
nhiệm HTX, Ban cán sự các xóm chỉ đạo sâu sát, kịp thời tới người nông dân. Hệ thống
cơ chế, chính sách của nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển sản xuất lúa.
- Có nhiều giống lúa mới năng suất cao được đưa vào sản xuất
- Đất đai màu mỡ, phù hợp với canh tác lúa nước.
- Bà con nông dân tận dụng được nhiều loại sản phẩm phụ.
- Có lịch thời vụ gieo trồng sát đúng, cộng thêm vào kinh nghiệm trồng lúa lâu đời
và sự sáng tạo trong sản xuất của người dân.
- Giao thông nông thôn, các công trình thủy lợi đang dần được hoàn thiện.
- Sản xuất lúa ngày càng phát triển để đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng
cao ở cả trong nước và xuất khẩu.
* Về khó khăn trong sản xuất lúa
- Thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bênh sâu hại nhiều, chất lượng thuốc sâu và
thuốc cỏ chưa cao. Bên cạnh đó, thiếu kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất cũng là những
khó khăn cản trở sản xuất của người nông dân.
- Chất lượng giống còn thấp. Nguyên nhân là trong vụ Đông Xuân mạ bị chết
nhiều, nhiều người phải mua lại giống để bắc mạ lại, điều này gây khó khăn cho người
dân rất lớn, vì tiền giống lúa lai không phải rẻ. Hầu hết là lượng giống lấy từ công ty
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
58
giống cây trồng Trung ương không rõ nguồn gốc, xuất xứ và không chứng minh được nơi
sản xuất giống.
- Hệ thống thủy lợi vẫn chưa chủ động trong việc tưới tiêu, nhiều diện tích lúa vẫn
bị thiếu nước vào mùa khô và ngập úng vào mùa mưa.
- Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn ít, ruộng đất manh mún nhỏ
lẻ, gây khó khăn cho canh tác và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trong sản xuất.
- Tình trạng ép giá vẫn đang diễn ra trong tiêu thụ sản phẩm lúa gạo. Hiện nay
chưa có một công tư nào chính thức đứng ra thu mua lúa của bà con nông dân, thông tin
về giá cả, thông tin về thị trường chưa đến được với người nông dân. Người dân chủ yếu
bán cho những người thu gom nhỏ của địa phương.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, bà con nông dân cũng có rất nhiều nguyện
vọng, mong muốn đối với chính quyền địa phương để có những giải pháp thiết thực giúp
người dân trong sản xuất lúa. Điều họ mong muốn nhất là diệt trừ được sâu bệnh, sâu hại,
tiếp đó là đầu tư thủy lợi, thông tin giá cả, thị trường tiêu thụ... Nếu các HTX đứng ra thu
mua và bao tiêu sản phẩm thì sẽ vừa được lợi cho dân, đồng thời sẽ mở rộng dịch vụ nông
nghiệp cho HTX.
Xuất phát từ những điều trên tôi đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất
và hiệu quả sản xuất lúa của địa phương như sau:
3.2.1 Giải pháp về kỹ thuật
Các kỹ thuật về khâu chọn giống, bón phân, chăm sóc... như thế nào có ảnh hưởng
rất lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất. Nhận thức được điều đó nên tôi xin đưa ra các
biện pháp cụ thể sau:
3.2.1.1 Đối với giống lúa
Giống là yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến năng suất, chất lượng và giá trị
của sản phẩm. Vì vậy, việc lựa chọn giống để đưa vào sản xuất là rất quan trọng.Khi đã
chọn được giống lúa phù hợp thì việc gieo cấy với mật độ phải hợp lý. Mật độ và kỹ thuật
gieo cấy phụ thuộc vào giống lúa, thời vụ, đất và dinh dưỡng, tuổi mạ, chất lượng mạ,
trình độ thâm canh... Mật độ quá dày hoặc quá thưa đều ảnh hưởng tới năng suất, đồng
Đại
học
K n
h tế
Hu
ế
59
thời ảnh hưởng tới sự phát sinh và phát triển của sâu bệnh và cỏ dại. Các ruộng lúa quá
dày thường khép hàng sớm, gây nên độ ẩm cao, tạo điều kiện cho rầy nâu và bệnh khô
vằn phát sinh phá hại mạnh vào cuối vụ. Do vậy mật độ gieo trồng không phù hợp sẽ làm
tăng thêm chi phí vè thuốc cỏ, sâu bệnh và chăm sóc. Vấn đề đặt ra là phải phổ biến kỹ
thuật gieo trồng cho từng loại giống lúa tới người dân trước mỗi vụ gieo trồng.
3.2.1.2 Đối với phân bón
Để đạt được kết quả cao trong quá trình sản xuất thì các hộ nông dân cần phải kết
hợp bón cả phân hữu cơ và vô cơ. Bón phân phải tuân theo nguyên tắc bón đúng liều
lượng, đúng liều lượng, đúng kỹ thuật. Hiện nay thì hầu hết các hộ cũng đã nắm được kỹ
thuật bón đúng thời điểm đúng quy định. Mỗi giai đoạn sinh trưởng của cây lúa có nhu
cầu khác nhau về phân bón. Song liều lượng bón phân còn phải tùy thuộc vào giống lúa,
chất đất.
3.2.1.3 Đối với thuốc hóa học
Sâu bệnh là mối đe dọa của những người sản xuất nông nghiệp nói chung và người
trồng lúa nói riêng. Việc sử dụng thuốc hóa học một cách hợp lý sẽ giảm được chi phí,
giữ được cân bằng sinh học trên đồng ruộng, hạn chế ô nhiễm môi trường. Việc lạm dụng
thuốc quá nhiều sẽ ảnh hưởng tới môi trường, chất lượng sản phẩm và gây ra hiện tượng
kháng thuốc nên hiệu quả đạt được không cao. Vì vậy cần phổ biến biện pháp phòng trừ
sâu bệnh tổng hợp IPM đến toàn thể bà con nông dân.
3.2.2 Giải pháp về đất đai
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, hiện nay ở xã Đô Thành việc giao
quyền sử dụng đất bình quân và bị phân tán manh mún, nếu không có phương cách phù
hợp thì điều đó sẽ gây cản trở cho quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất vào người có
vốn, có khả năng và trình độ sản xuất kinh doanh tốt. Chúng ta đang hướng đến một nền
sản xuất hàng hóa trình độ cao, một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước trong đó có các thành phần kinh tế được bình đẳng trước
pháp luật. Việc tích tụ và tập trung ruộng đất được đặt ra như là yêu cầu cấp bách từ thực
tế khách quan đó. Điều này cho phép dần dần kinh tế hộ nông dân tự cung tự cấp sang
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
60
kinh tế nông trại, trang trại, tạo điều kiện ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất kinh doanh nông nghiệp, kích thích việc di chuyển vốn và lao động sang phát
triển các ngành nghề khác.
Vì những vấn đề đó, việc giải quyết ruộng đất trong nông thôn phải tạo cơ sở cho
việc phát triển kinh tế hộ bà đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Nông dân yên tâm bỏ sức lao động và vốn đầu tư vào ruộng đất.
- Tạo điều kiện tích tụ ruộng đất và ruộng đất thực sự trở thành yếu tố quan trọng
của việc vận động theo xu hướng kinh doanh sản xuất hàng hóa.
- Thúc đẩy phân công lao động ở nông thôn.
- Thúc đẩy đưa nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa.
- Không xáo trộn gây ảnh hưởng đến sự phát triển của từng hộ nông dân nhưng
phải đảm bảo sự công bằng, sự tôn trọng lịch sử và góp phần thực hiện tốt các yêu cầu
nêu trên.
Từ những vấn đề nêu trên, theo tôi phải thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Thừa nhận ruộng đất là hàng hóa đặc biệt. Khi xem ruộng đất là hàng
hóa, được mua bán, cho thuê không những sẽ tạo cơ hội cho việc tích tụ, tập trung ruộng
đất mà còn là nhân tố phát huy sức mạnh của kinh tế tiền tệ trong việc phá vỡ cấu trúc
kinh tế tự nhiên, từng bước hình thành cấu trúc kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp. Có
như vậy, sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất lúa nói riêng mới có cơ hội phát triển
rộng lớn với quy mô lớn hơn, tập trung hơn và dần dần hình thành các trang trại.
Thứ hai: Thực hiện triệt để chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định. Lâu
dài cho nông dân. Làm tốt điều này sẽ khắc phục được hai vấn đề sau:
- Loại trừ trạng thái không ổn định của người nông dân, giải tỏa về mối lo sợ chính
sách nông nghiệp luôn thay đổi. Củng cố lòng tin của nông dân với sự ổn định của chính
sách ruộng đất.
- Khắc phục khuynh hướng sản xuất theo phương thức truyền thống lạc hậu, không
muốn đầu tư vốn, cải tạo và bảo vệ độ màu mỡ của đất. Kích thích nông dân đi vào đầu tư
thâm canh, mạnh dạn đầu tư nâng cao độ phì nhiêu của đất.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
61
Tuy nhiên, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân cần xác
định căn cứ tính toán để giao đất một cách khoa học, đảm bảo tính công bằng, tránh xáo
động lớn, nhưng phải tính đến thực tế các hộ khác nhau về điều kiện kinh doanh ruộng
đất, cần có sự ưu tiên cho những hộ có điều kiện thuận lợi.
Thứ ba: Nhà nước cần quy định cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của người sử
dụng đất. Với tư cách là người quản lý toàn bộ ruộng đất, Nhà nước một mặt phải thực
hiện tốt việc phân vùng và quy hoạch nông nghiệp. Mặt khác, cần xây dựng các văn bản
pháp quy về quản lý và sử dụng ruộng đất như: các cấp quản lý về ruộng đất, chức năng
và quyền lợi của người sử dụng đất. Xây dựng các chính sách có liên quan đến đất như
thuế sử dụng đất và tài nguyên... Phải xây dựng quy chế chặt chẽ về việc chuyển mục đích
sử dụng đất. Hiện nay có tình trạng phổ biến là đất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp vốn
đã có hạn lại do quá trình đô thị hóa với tốc độ cao nên bị thu hẹp nhiều. Vì vậy phải ngăn
chặn tình trạng các hộ nông dân bán đất được giao để sử dụng vào mục đích khác.
Thứ tư: Cần thực hiện các chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và khuyến
khích tập trung ruộng đất. Sau khi giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân, cần
tạo ra cơ chế tự tổ chức, điều chỉnh nhằm khuyến khích tập trung ruộng đất. Điều này sẽ
tác động manh mẽ đến việc phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp nông thôn.
Thực tế, việc giao ruộng đất hiện nay dẫn đến kết quả ruộng phân chia một cách manh
mún, hộ nông dân khó có thể phát triển sản xuất theo quy mô lớn. Hơn nữa ruộng đất
được chia đều cho các khẩu, các hộ ở nông thôn nhưng hiện nay có một số hộ chuyển
hướng sản xuất kinh doanh sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Việc xác định cơ chế tự
điều chỉnh cho phép quá trình phân công lao động ở nông nghiệp, nông thôn diễn ra
nhanh chóng sẽ hình thành các hộ chuyên, phát huy được lợi thế so sánh và hiệu quả quy
mô của nghành nghề, tạo điều kiện áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất
3.2.3 Giải pháp về khuyến nông
Từ thực trạng phát triển kinh tế của hộ sản xuất lúa cho thấy, cần phải tổ chức chủ
động đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các hộ nông dân nói chung và các hộ sản xuất
lúa nói riêng. Trên cơ sở đó từng hộ đầu tư thâm canh trên ruộng đất được giao. Chỉ có
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
62
như vậy mới tạo ra được bước chuyển biến về chất trong sản xuất, thực sự làm cho quá
trình chuyển hộ nông dân trồng lúa sang sản xuất hàng hóa được thực hiện. Như vậy,
trong điều kiện ngày nay đẩy mạnh công tác khuyến nông là một yêu cầu cấp bách và là
giải pháp hữu hiệu để phát triển ngành sản xuất lúa theo hướng sản xuất hàng hóa.
Trong quá trình khuyến nông cho bà con nông dân, để nội dung công tác khuyến
nông có thể thực hiện được và người nông dân trồng lúa dễ tiếp thu và chấp nhận, công
tác này cần thực hiện theo phương châm: đơn giản, dễ tiếp thu, phải để cho người nông
dân tự thực hành và ghi nhớ bằng trực quan sinh động hơn là phải ghi chép, suy luận từ
sách vở. Làm cho người trồng lúa thấy được kết quả và hiệu quả kinh tế cụ thể của tiến bộ
khoa học kỹ thuật, mọi nội dung cần phải liên quan đến cuộc sống hàng ngày và phù hợp
với tình hình thực tiễn tại địa phương, tất cả đều nhằm nâng cao thu nhập, nâng cao mức
sống, mang lại lợi ích cho nông dân. Vì vậy, hoạt động khuyến nông có thể thực hiện theo
các phương pháp chủ yếu sau:
- Thực hiện mô hình trồng lúa trình diễn trên đồng ruộng sau đó mời người nông
dân đến tham quan, học tập huấn luyện, tập huấn kỹ thuật ngay trên những mô hình trình
diễn, đó là phương pháp lớp đào tạo không chinh thức rất sinh động.
Lựa chọn những hộ trồng lúa giỏi, tiên tiến giúp họ xây dựng mô hình mẫu có hiệu
quả kinh tế cao trên cơ sở đó mời nông dân đến tham quan học tập kinh nghiệm và qua đó
để nông dân tự hội thoại. Mô hình mẫu của nông dân tiên tiến được xem như là một mẫu
mực, một bằng chứng thực tế sinh động, tiếng nói thuyết phục đối với các hộ khác trong
vùng. Phương pháp này gọi là phương pháp "Đám cháy lan".
- Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh truyền
hình, truyền thông nông thôn, báo chí v,v... xây dựng mạng lưới những người làm khuyến
nông được đào tạo có trình độ chuyên môn, có tâm huyết để hướng dẫn cho các hộ nông
dân các kỹ thuật trồng lúa mới có hiệu quả cao.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị các giống lúa mới, kỹ thuật
mới... Ngoài ra, để đảm bảo cho hộ trồng lúa trồng đúng thời vụ, tránh lũ lụt và dịch bệnh
thì địa phương cần có các tổ chức trực tiếp đồng ruộng kiểm tra, khảo sát để đưa ra các
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
63
biện pháp kịp thời và phù hợp; mặt khác phối hợp chặt chẽ với hộ trồng lúa khác trong
công tác khuyến nông nhằm giảm thiểu tối đa những thiên tai và dịch bệnh.
3.2.4 Giải pháp về vốn
Vốn là yếu tố quyết định đến đầu tư, nhiều hộ gia đình do thiếu vốn nên đã đầu tư
không đúng thời điểm hoặc họ phải mua mua chịu phân bón với giá cao hơn nhiều so với
giá trả tiền liền. Song hiện nay việc vay vốn còn rườm rà, phức tạp và khó khăn. Trong
thời gian tới bà con cần mạnh dạn vay vốn để đảm bảo cho sản xuất. Chính quyền địa
phương cần tạo điều kiện cho người dân tiếp cận vốn vay một cách đơn giản, thời gian
vay phải phù hợp với chu trình sản xuất, lãi suất phải phù hợp.
Sau khi tiến hành xác định nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần và hộ gia đình
nông dân được xem là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh những chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về vốn và tín dụng cho phát triển nông nghiệp,
nông thôn những năm qua đã thực sự đi vào cuộc sống của nông dân ở khắp các vùng
trong cả nước. Việc đầu tư vốn cho các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh dịch vụ phục vụ
đời sống và sản xuất đã được cụ thể hóa và có hiệu quả trong từng lĩnh vực. Hiện nay, ở
vùng nông thôn xã Đô Thành số hộ dân nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ khá lớn, thông thường
các hộ này thường thiếu vốn, không những phải vay nặng lãi để đầu tư cho sản xuất mà
còn phải vay mượn để giải quyết đời sống vì vậy họ thường chịu lãi suất cao, tính trạng
bán sản phẩm non hoặc bán sản phẩm ngay khi mới thu hoạch để trả nợ vẫn còn nhiều.
Tình hình đó luôn đặt họ trong vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Qua nghiên cứu thực tế
có thế rút ra một số nguyên nhân chính của tình trạng trên là:
- Nguồn vốn cho vay của ngân hàng nông nghiệp còn hạn chế, chưa đáp ứng được
nhu cầu vay vốn của hộ nông dân, trong khi đó thì Hợp tác xã tín dụng trong nông thôn
chưa được củng cố.
- Điều kiện cho vay đối với hộ nghèo và nhiều hộ trung bình còn vướng mắc ở
khâu thế chấp vì vậy mà nhiều hộ nông dân không vậy được vốn để phát triển sản xuất
- Nhìn chung chưa huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nông thôn vào
hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của các nông hộ
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
64
Sự thiếu vốn trong sản xuất là một trong những nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự
phát triển của kinh tế hộ hiện nay.
Do vậy, cùng với các giải pháp khác, giải pháp khả thi về vốn có vị trí và ý nghĩa
rất quan trọng đối với các hộ trồng lúa trong thời gian tới.
Theo điều tra thì chi phí trung gian cho một sào lúa là 554,19 nghìn đồng/sào. Tuy
con số này là không lớn nhưng đối với các hộ nghèo và trung bình trên địa bàn xã thì đây
là một khoản chi phí không nhỏ, nó vượt ra ngoài khả năng tích lũy của hộ, nếu vay tư
nhân thì chịu lãi suất rất cao và không ổn định, hoặc là hình thức mua chịu vật tư thì tính
ra so với giá mua chịu thì nó còn cao hơn cả tiền trả lãi vay, nếu vay chủ nậu (dưới hình
thức bán lúa trước) thì không phải chịu lãi suất cao nhưng hộ trồng lúa bị ràng buộc phải
bán lúa cho họ với sự ép giá. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các hộ trồng lúa đòi
hỏi phải có sự quan tâm đúng mức và sự phối hợp chặt chẽ của Nhà nước, của các ngành
và toàn xã hội. Giải pháp về vốn cần tập trung theo hướng chính sau: tăng cường vốn vay,
khắc phục những vướng mắc về điều kiện cho vay: cần nhanh chóng, gọn nhẹ hơn nữa
hơn về thủ tục để giải ngân vốn vay kịp thời vụ sản xuất, cũng như số vốn vay có khả
năng đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho sản xuất, thông qua việc cải tiến điều kiện cho hộ vay
vốn, các tổ chức tài chính của nhà nước cần nghiên cứu và có những giải pháp thích hợp
để cho vay ưu đãi đến những hộ nông dân nghèo.
3.2.5 Giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng
Trong sự phát triển của ngành trồng lúa cần áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
tiên tiến vào quá trình sản xuất. Hệ thống thủy lợi và cơ sở hạ tầng ở các vụ nuôi phải
đảm bảo phục vụ tốt cho sự phát triển của ngành. Đầu tư xây dựng các công trình đòi hỏi
phải có vốn lớn, điều này nằm ngoài khả năng tài chính của các hộ. Do đó, đòi hỏi cần
phải có Nhà nước đầu tư một cách đồng bộ và hợp lý, theo tôi, Nhà nước là người đầu tư
xây dựng những cơ sở hạ tầng lớn như: đắp đê, xây dựng hệ thống kênh mương, cống
rãnh tiêu thoát nước hiện đại ở các cánh đồng trồng lúa.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
65
Ở địa phương cần thường xuyên và chủ động tiến hành công tác thủy lợi, nạo vét
kênh mương để việc tưới tiêu được đảm bảo hơn, tiến hành bê tông hóa tuyến kênh cấp 3,
đầu tư máy bơm phục vụ cho những thửa ruộng khó lấy nước.
3.2.6 Giải pháp về tiêu thụ nông sản
Giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản giúp tạo động lực thúc đẩy các hộ nông dân
đầu tư sản xuất. Tuy nhiên, với sự biến động lớn của thị trường nông sản, sản xuất tự
cung, tự cấp là chủ yếu. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ hẹp, chủ yếu người nông dân chỉ
bán cho những người thu gom nhỏ của địa phương. Chưa có công ty nào chính thức đứng
ra thu mua lúa của người dân. Do đó, tình trạng bị các lái buôn nhỏ ép giá vẫn diễn ra ở
địa phương.
Chính vì vậy, để tạo ra sức mạnh trong sản xuất và tiệu thụ lúa gạo, cần thiết phải:
- Có những công ty đứng ra thu mua lúa
- HTX nên đứng ra thu mua hoặc tìm thị trường tiêu thụ cho lúa gạo địa phương.
- Xây dựng và mở rộng hệ thống chợ nông thôn ở các xã để phục vụ giao lưu, trao
đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn
3.2.7 Mô hình liên kết
- Nhà nông: là chủ thể sản xuất, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, là trung tâm của liên
kết kinh tế, cần sự giúp đỡ của tất cả các chủ thể khác.
- Nhà khoa học (Nhà KH): đó là các viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu, trung
tâm khuyến nông, BVTV, trạm giống, Phòng NN& PTNT bám sát tình hình thực tế của
quá trình sản xuất từ lúc bắc mạ tới lúc thu hoạch, liên kết chặt chẽ với nhà nông, nghiên
cứu, hướng dẫn kỹ thuật và định hướng kỹ thuật cho người nông dân.
- Nhà doanh nghiệp (Nhà DN): bao gồm các doanh nghiệp chế biến, các công ty
thu mua lúa, công ty vật tư, giống, các HTX... trợ giúp nông dân về vốn, vật tư, tiêu thụ
nông sản hàng hóa, hỗ trợ thông tin thị trường, nhất là về nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng, thúc đẩy nhà nông áp dụng những công nghệ mới nhất cho sản xuất có lợi nhuận
cao.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
66
Sơ đồ 1: Mô hình liên kết: Nhà nông, Nhà nước, Nhà KH, Nhà doanh DN và
NH
- Nhà ngân hàng (Nhà NH): bao gồm NHNN &PTNT, NH Chính sách xã hội,
Quỹ tín dụng... tăng cường hỗ trợ vốn, liên kết với nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, cho
vay với lãi suất ưu đãi, định hướng sủa dụng vốn trong phục vụ đầu tư cho sản xuất lúa có
hiệu quả.
- Nhà nước: thực hiện các chính sách vĩ mô về vốn, đất đai, nhân lực tác động trực
tiếp, dẫn dắt, chỉ đường cho hộ nông dân qua các bộ phận chức năng: Sở, Phòng NN
&PTNT, trạm nông- lâm- ngư, trạm giống, trạm bảo vệ thực vật... Tạo môi trường thuận
lợi cho việc thiết lập và phát triển quan hệ liên kết giữa các chủ thể từ mô hình, thúc đẩy
các chủ thể này tăng cường liên kết với người nông dân.
Nhà
nước Nhà DN
Nhà NH
Nhà KH
Nhà
nông
Tăng năng
suất, chất
lượng lúa
Nông
nghiệp,
nông
thôn
hiện
đại và
bền
vững
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
67
Mô hình liên kết cần đảm bảo được tính bền vững và hiệu quả cao, tuân thủ
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, được quy định và ràng buộc rõ ràng trong
hợp đồng liên kết giữa các bên. Hướng đến nông hộ và nền nông nghiệp hiện đại và bền
vững.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
68
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Cùng với xu hướng phát triển chung của đất nước, nhờ tác động tích cực của hàng
loạt chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nền nông nghiệp nông thôn đã có những
chuyển biến tích cực và thu lại những kết quả đáng kể. Qua quá trình nghiên cứu đề tài:
"Hiệu quả kinh tế một số giống lúa lai vụ Đông Xuân ở xã Đô Thành huyện Yên Thành
tỉnh Nghệ An", tôi rút ra một số kết luận sau:
- Trồng lúa là ngành kinh tế quan trọng của vùng nông thôn xã Đô Thành
- Giống lúa lai mang lại kết quả cao hơn giống lúa địa phương. Cụ thể sản xuất một
sào lúa lai bình quân mang lại 1.405,13 nghìn đồng giá trị sản xuất; 850,94 nghìn đồng
giá trị gia tăng. Mức sinh lời chi phí khá cao, nếu đầu tư một đồng vào sản xuất sẽ thu
được 2,54 đồng giá trị sản xuất, 1,54 đồng giá trị gia tăng. So với việc trồng giống lúa địa
phương thì các chỉ tiêu trên cao hơn, cụ thể: giá trị sản xuất cao hơn 67,28%, giá trị gia
tăng cao hơn 102,94%.
- Xét hai giống lúa lai Nhị ưu 986 và Khoa phong 36 thì thấy, giống lúa Khoa
phong 36 mang lại kết quả cao hơn, cụ thể: khi trồng một sào lúa Khoa phong 36 đem lại
1.487,25 nghìn đồng giá trị sản xuất; 928,64 nghìn đồng giá trị gia tăng; trong khi đó
giống Nhị ưu 986 mang lại 1.323 nghìn đồng giá trị sản xuất và 773,24 nghìn đồng giá trị
gia tăng.
- Bên cạnh đó, canh tác lúa của người dân địa phương vẫn chưa đạt hiệu quả cao,
chi phí đầu tư cao mà giá trị đạt được lại thấp. Hơn thế nữa, việc đầu tư thâm canh của
người dân vẫn chưa đạt được năng suất tiềm năng vốn có của mỗi giống lúa mà công ty
giống cây trồng Nghệ An công bố.
- Công tác quản lý giống còn yếu, một số giống đã bị thoái hóa vẫn chưa được thay
thế.
Đại
học
Kin
h ế
Hu
ế
69
- Sản xuất lúa vẫn chưa đặt vào trong hệ thống sản xuất có hiệu quả, chủ yếu sản
xuất tự cung tự cấp là chính, do đó tính bền vững còn chưa ổn định, tần suất mất màu còn
cao.
- Điều kiện phát triển kinh tế xã hội của xã tốt. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng của xã
phát triển chưa toàn diện. Phần lớn nhân dân xã có trình độ văn hóa và nhận thức chưa
đồng đều, nên còn khó khăn trong việc tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng
vào sản xuất để đưa năng suất lúa tăng cao.
- Việc cơ giới hóa trong sản xuất lúa còn ở mức độ thấp, chủ yếu là ở khâu làm đất.
- Hệ thống thủy lợi tuy đã được nâng cấp, song còn nhiều hạn chế và bất cập.
- Giá của các yếu tố đầu vào cao và không ổn định gây ảnh hưởng không nhỏ đến
tâm lý đầu tư của người dân.
- Cần chú ý sử dụng phân chuồng, phân xanh để nâng cao độ phì nhiêu của đất.
- Điều kiện thời tiết không thuận lợi. Tình hình sâu bệnh xuất hiện nhiều trong các
giai đoạn phát triển của cây lúa, nhưng ở mỗi thời kỳ, mỗi giống lúa mức độ sâu hại là
khác nhau ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển làm giảm năng suất và chất lượng
của cây lúa. Các loại sâu bênh hại chủ yếu là do rầy nâu, rầy lùn sọc đen, bệnh sâu cuốn lá
gây ra.
- Người nông dân thường bán lúa cho các ốt xay xát nhỏ, hoặc là những người thu
gom nhỏ của địa phương và bán tại nhà nên tình trạng bị ép giá vẫn diễn ra và khó kiểm
soát trên địa bàn.
Với một số nhận xét và giải pháp khắc phục trên, tôi hy vọng sẽ góp được một
phần nhỏ bé của mình vào công tác nâng cao hiệu quả sản xuất lúa tại địa phương.
II. KIẾN NGHỊ
Đối với nhà nước
Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và đối với nông nghiệp nói
riêng là quản lý trên tầm vĩ mô, nhà nước có thể dùng các chính sách vĩ mô để khuyến
khích thúc đẩy sản xuất lúa phát triển bằng cách ban hành, thực thi và giám sát kiểm tra
việc thực hiện các chủ trương chính sách mà mình đưa ra. Các chính sách liên quan để
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
70
phát triển sản xuất lúa bao gồm: chính sách thuế ruộng đất, chính sách hỗ trợ giá đầu vào,
chính sách nhập khẩu nông sản cũng như vật tư nông nghiệp, chính sách khuyến nông,
chính sách tín dụng...nếu các chính sách được sử dụng kịp thời có thể tạo ra những hiệu
quả to lớn đối với nông nghiệp.
Đối với địa phương
Chính quyền địa phương không ngừng phối hợp với các cấp, các ban ngành chức
năng, tổ chức tập huấn nâng cao trình độ cho bà con trong sản xuất. Phối hợp với Nhà
nước và nhân dân tạo nguồn lực để hoàn thiện thủy lợi phục vụ sản xuất. Phát triển nghề
phụ. Tổ chức phối hợp với bà con và các ban chức năng dập tắt dịch hại cây trồng như:
nạn chuột hại, sâu bệnh.
Đối với ban nông nghiệp xã và HTX nông nghiệp xã Đô Thành
Ban nông nghiệp và HTX có vai trò rất quan trọng trong sản xuất lúa. HTX cung
cấp trực tiếp vật tư, giống cho bà con, ban nông nghiệp thì phổ biến kiến thức về kỹ thuật
gieo cấy và chăm sóc cho bà con. Do đó hai phòng ban này cần:
- Đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi và nâng cấp đường giao thông nông thôn
nhằm phục vụ sản xuất tốt hơn.
- Tiếp tục phối hợp với trạm giống cây trồng tiếp tục điều tra về ưu 986 các giống
lúa lai trong đó có giống Nhị ưu 986 và Khoa phong 36, để có thể trồng thêm ở cả vụ Hè
Thu và các chân đất khác nhau.
- Mở rộng các hình thức khuyến nông đến từng hộ trồng lúa.
- Cần phải đi sâu điều tra, tìm hiểu các chỉ tiêu về đánh giá phẩm chất, bổ sung
thêm các nghiên cứu về kỹ thuật của từng giống, trên từng chân đất.
- Nên chuyển diện tích trồng lúa địa phương sang trồng lúa lai mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn.
- Nên đưa giống Khoa phong 36 vào sản xuất đại trà, còn giống Nhị ưu 986 cần
phải khảo nghiệm lại để đưa vào sản xuất. Đồng thời, khảo nghiệm thêm nhiều giống mới
có năng suất cao, phẩm chất tốt.
Đối với các hộ
Đại
học
K n
h tế
Hu
ế
71
Đối với các hộ sản xuất, để nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất lúa nói chung
cần thực hiện đúng các biện pháp kỹ thuật đưa ra. Ngoài ra cần nâng cao kiến thức, kỹ
thuật thâm canh lúa, phối hợp với các ban ngành nhằm sớm phát hiện và phòng trừ sớm
dịch hại cho lúa.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) David colman và Trevol Young (1994), nguyên lý kinh tế nông nghiệp, Nhà xuất
bản nông nghiệp, Hà Nội.
2) PGS.TS Trần Văn Minh, giáo trình cây lương thực, Nhà xuất bản nông nghiệp,
Hà Nội.
3) Nguyễn Hữu Hòa (1995), bài giảng nguyên lý kỹ thuật trồng trọt, Trường Đại
Học Nông Lâm, Huế.
4) PGS.TS. Mai Văn Xuân- PTS. Nguyễn Văn Toàn- PGS.TS. Hoàng Hữu Hòa
(1997), lý thuyết thống kế, Trường Đại Học Kinh Tế, Huế.
5) Ủy Ban Nhân Dân Xã Đô Thành, báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ và phát
triển kinh tế xã hội năm 2008, năm 2009, năm 2010.
6) Ủy Ban Nhân Dân Xã Đô Thành, báo cáo hiện trạng sử dụng đất của xã năm
2008, năm 2009, năm 2010.
7) Tài liệu của phòng thống kê huyện Yên Thành.
8) Khóa luận tốt nghiệp của các khóa trước.
9) Các trang web:- www.google.com
- www.gso.gov.vn
- www.fao.org
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
1Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_kinh_te_mot_so_giong_lai_vu_dong_xuan_o_xa_do_thanh_huyen_yen_thanh_tinh_nghean_0425.pdf