Kinh doanh ngoại hối là một hoạt động đóng vai trò quan trọng đối
với các Ngân hàng thương mại trong việc góp phần gia tăng nguồn thu cũng
như hỗ trợ, thúc đẩy các nghiệp cụ khác phát triển. Tuy nhiên, do tính chất
phức tạp và nhạy cảm mà hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng tiềm ẩn rất
nhiều rủi ro cho các Ngân hàng thương mại.
Trong những năm qua, tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, các
nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đã từng bước được hình thành và phát triển,
bước đẩu tạo nên những kết quả đáng khích lệ. Các giao dịch giao ngay, giao
dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi được triển khai đã giúp các Ngân hàng trong
việc cân bằng trạng thái ngoại hối, giúp giảm thiểu rủi ro tỷ giá, giảm sức ép
cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Giao dịch quyền chọn đã qua giai đoạn thực
hiện thí điểm và đang được Ngân hàng Nhà Nước tiếp tục nghiên cứu để đưa
ra những quy định pháp lý chung hướng dẫn các Ngân hàng thực hiện. Đồng
thời với việc phát triển các nghiệp vụ kinh doanh, các Ngân hàng thương mại
Việt Nam cũng đã có sự đầu tư đáng kể vào việc nâng cao công nghệ, đào tạo
nhân lực, đổi mới phương thức tổ chức quản lý kinh doanh nhằm đáp ứng các
yêu cầu phát triển.
83 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 4442 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và một số giải pháp phòng ngừa rủi ro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ổn định trong thời gian dài, hầu như không có biến
động lớn, thậm chí có lúc tỷ giá USD và JPY so với VND đứng yên hoặc
giảm. Do đó, việc duy trì trạng thái ngoại tệ đoản đối với USD và JPY là bình
thường. Thứ hai, đặc điểm của thị trường ngoại hối Việt Nam thời gian này là
theo hướng một chiều, cầu về ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ, do vậy mà
doanh số mua vào nhỏ hơn doanh số bán ra và điều này dẫn tới trạng thái
47
ngoại tệ của các ngân hàng thường ở trạng thái đoản. Thứ ba, lãi suất cho vay
VND thường cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của USD, EUR và JPY
(lãi suất thực của VND dương), vì thế các ngân hàng sẵn sàng bán ngoại tệ
đổi lấy nội tệ và cho vay nội tệ để hưởng lãi suất cao, đến hạn hoàn trả ngoại
tệ họ sẽ mua ngoại tệ vào và khoản lãi thu được từ cho vay VND luôn lớn hơn
khoản thua lỗ do tỷ giá tăng (tức là VND mất giá) trong khi chính sách tỷ giá
mà NHNN theo đuổi lại ổn định trong thời gian dài và vì thế trạng thái ngoại
tệ các ngân hàng thường đoản.
Từ cuối năm 2006 đến những tháng đầu quý I/2008, trạng thái ngoại
tệ của các NHTM Việt Nam lại ở tình huống ngược lại, đó là nó luôn ở mức
dư thừa. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Thứ nhất là nguồn cung ngoại
tệ cho các NHTM tăng nhanh là do thị trường chứng khoán Việt Nam thời
gian qua phát triển với tốc độ khá nóng. Điều đó khiến cho các nhà đầu tư
nước ngoài đổ xô vào thị trường Việt Nam. Họ chuyển USD vào Việt Nam và
chuyển đổi ra VND để kinh doanh chứng khoán dẫn đến cung ngoại tệ tăng
mạnh. Thứ hai là, ngoài nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì nguồn vốn đầu tư trực
tiếp FDI thực hiện trong năm 2007 cũng như trong quý I năm 2008 tăng cao.
Trong quý I năm 2008, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, cả nước đã
thu hút thêm đạt 5,436 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 31% so với cùng kỳ
năm 2007 đã làm tăng nguồn cung USD của các NHTM. Thứ ba, do Cục dự
trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm lãi suất đã làm cho USD giảm giá
mạnh so với các tiền tệ như EUR, JPY… cũng làm cho dòng vốn đầu tư
chuyển từ USD sang VND.
Tất cả những lý do trên đã làm cho trạng thái ngoại tệ của các NHTM
Việt Nam khi đó luôn ở trong tình trạng dư thừa. Trong khi đó, để tránh áp
lực lạm phát, NHNN không mua số ngoại tệ dư thừa này đã khiến cho tỷ giá
48
USD/VND liên tục suy giảm. Và chính điều này lại làm tăng khả năng xảy ra
rủi ro tỷ giá cho các NHTM.
Cuối năm 2008 và bước sang năm 2009, thị trường ngoại hối diễn
biến phức tạp khi cung ngoại tệ từ phía các NHTM không đáp ứng đủ so với
cầu ngoại tệ. Sự căng thẳng ngoại tệ trên thị trường có thể lý giải bởi hai
nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất là do sự tháo lui của các dòng vốn đầu tư trực
tiếp (năm 2008) ra khỏi Việt Nam đặc biệt trong các tháng 5, 6, 10, 11 đã tạo
sức ép lên nguồn ngoại tệ đẩy tỷ giá lên cao. Nguyên nhân thứ hai và xuyên
suốt những biến động tỷ giá chính là tâm lý găm giữ ngoại tệ trong doanh
nghiệp và dân cư. Đặc biệt năm 2009, triển khai các gói hỗ trợ lãi suất, các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã chuyển từ vay ngoại tệ sang vay bằng
nội tệ, thậm chí có những doanh nghiệp còn vay nội tệ để mua ngoại tệ trả nợ
trước hạn. Chính những nguyên nhân này đã khiến cho thị trường ngoại tệ
càng trở nên căng thẳng. Năm 2009, nhiều NHTM Việt Nam rơi vào tình
trạng thiếu ngoại tệ để bán, thừa ngoại tệ để cho vay. Trong khi lãi huy động
ngoại tệ vẫn phải trả nhưng lại không thu được lãi nhờ cho vay, nhiều ngân
hàng càng lâm vào tình trạng mất cân đối về trạng thái, nguy cơ gặp rủi ro tỷ
giá lớn. Đứng trước những khó khăn thách thức đó, năm 2009, NHNN đã phải
tìm nhiều biện pháp để hỗ trợ các NHTM, góp phần ổn định thị trường ngoại
hối. Cho đến nay, các NHTM Việt Nam đã dần ổn định và cân bằng được
trạng thái ngoại tệ nhờ những biện pháp can thiệp mạnh của NHNN như hỗ
trợ bằng cách bán ngoại tệ, tăng tỷ giá, giảm biên độ dao động tỷ giá, tăng lãi
suất tiền gửi ngoại tệ.
Như vậy có thể thấy rằng, trong thời gian qua các NHTM Việt Nam
luôn ở trong tình trạng mất cân đối về trạng thái ngoại tệ, nguy cơ gặp rủi ro
tỷ giá là rất lớn.
49
2.1.2. Rủi ro do môi trường thông tin
Ở Việt Nam, do việc ứng dụng công nghệ vào công tác dự báo còn
hạn chế nên hoạt động kinh doanh đầu tư phụ thuộc rất lớn vào yếu tố tâm lý
chủ quan, mà tâm lý này lại bị tác động rất mạnh mẽ từ những thông tin bên
ngoài. Mặt khác, việc công khai minh bạch hoá các thông tin của nhiều
NHTM Việt Nam còn hạn chế nên các đối tác và các nhà đầu tư, các khách
hàng cá nhân, doanh nghiệp không nắm được những thông tin chính thức từ
phía ngân hàng mà chủ yếu lại chỉ nhận được các thông tin không có sự xác
nhận của ngân hàng nên thường thiếu chính xác và không chỉ có đối tác chịu
ảnh hưởng mà trong rất nhiều trường hợp chính bản thân các NHTM đó lại
chịu rủi ro nhiều hơn. Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam cũng gặp phải
những rủi ro do thiếu thông tin về đối tác hay thông tin để phục vụ công tác
dự báo hoặc những rủi ro khi đối thủ cạnh tranh hoặc kẻ xấu cố ý tung ra
những tin đồn thất thiệt.
Năm 2009, khi nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, mức lạm
phát cao, nhiều kẻ đầu cơ đã lợi dụng những biến động của thị trường tài
chính để tung ra những tin đồn về việc VND mất giá. Hàng loạt những nguồn
cung ngoại hối thường xuyên cho các NHTM như nguồn thu từ xuất khẩu của
các doanh nghiệp, kiều hối của dân cư…đã bị găm lại các tài khoản tiền gửi.
Điều này đã góp phần gây ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ tại các NHTM,
ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh ngoại hối khi các ngân hàng này
thiếu ngoại tệ để bán, thừa ngoại tệ để cho vay. Tuy sự việc này giờ đây đã
được phân tích làm rõ bởi những chuyên gia kinh tế nhưng đã để lại bài học
về công tác quản trị rủi ro thông tin đối với các ngân hàng.
Nhắc tới rủi ro do tin đồn thất thiệt trong hoạt động của ngân hàng,
chắc hẳn không ai không biết đến trường hợp của ngân hàng ACB. Đây là
trường hợp đầu tiên gặp phải sự cố tin đồn trong hoạt động của hệ thống ngân
50
hàng Việt Nam. Câu chuyện xảy ra khi vài ngày trước 14/10/2003, có một tin
không chính thức là Tổng giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) đã tham lam
công quỹ làm thụt két ngân hàng rồi bỏ trốn và sau đó bị bắt bỏ tù. Thậm chí
một số khách hàng còn nhận được các cuộc điện thoại cho hay ngân hàng đã
“phá sản”. Tâm lý lo ngại đã dấy lên trong một số khách hàng. Thông tin
được “truyền tai” bỗng lan nhanh như một thứ “bệnh dịch”. Hậu quả là hàng
loạt các khách hàng của ACB ùn ùn kéo đến rút tiền tại hội sở và một số chi
nhánh của ACB tại TP. Hồ Chí Minh. Ngân hàng phải đối mặt với tình trạng
thụt két nghiêm trọng khi lượng tiền rút ra khoảng 600 – 700 tỷ trong đó có
khoảng 16 triệu USD được chi trả khách hàng là người dân. Hoạt động của
ACB đã bị rối loạn trong mấy ngày trong đó có cả các hoạt động kinh doanh
ngoại hối và các hoạt động tín dụng khác. Vụ việc chỉ kết thúc khi Tổng giám
đốc ACB và thống đốc Ngân hàng Nhà nước trả lời trực tuyến với độc giả
trên mạng VnExpress. NHNN đã phải phát hàng ngàn tờ thông báo phủ nhận
tin đồn có kèm theo ảnh của lãnh đạo ACB tới tay của khách hàng chờ rút
tiền. Thống đốc NHNN đã cam kết hỗ trợ đầy đủ mọi yêu cầu về VND, ngoại
tệ và vàng cho ACB để chi trả cho khách hàng. Vụ việc dần đã được giải
quyết ổn thoả nhưng có một điều không thể phủ nhận rằng dù tin đồn đã được
dập tắt nhưng ACB đã phải mất khá nhiều thời gian và công sức sau đó để ổn
định lại hoạt động kinh doanh và lấy lại uy tín của mình. Sóng gió đã qua
nhưng khó có thể chắc chắn rằng những sự cố như vậy có xảy ra nữa hay
không. Sự việc này không chỉ để lại bài học kinh nghiệm cho ACB nói riêng
mà còn là bài học cho toàn ngành ngân hàng nói chung trong công tác quản trị
rủi ro thông tin.
2.1.3. Rủi ro đạo đức
Loại rủi ro này có thể được gây ra từ phía các nhà quản lý ngân hàng
hoặc từ phía các cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại hối. Đối với các nhà
51
quản lý ngân hàng, rủi ro này xảy ra khi một số nhà quản lý ham lợi cá nhân
mà cố tình vi phạm những quy định của ngân hàng. Hoặc rủi ro cũng có thể
xảy ra khi tại nhiều NHTM Việt Nam, việc phân định chức năng hoạt động
kinh doanh ngoại hối còn chưa rõ ràng thậm chí nghiệp vụ này lại được giao
cho một phòng ban không chuyên khác hay một số cá nhân đảm nhiệm. Sẽ
không có gì đáng bàn nếu như những cá nhân này thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên vấn đề sẽ đáng phải lưu tâm nếu như những
người này vì hám lợi, tha hoá về đạo đức mà bắt tay với kẻ xấu để bòn rút tài
sản của ngân hàng. Còn đối với các cán bộ trực tiếp hoạt động kinh doanh
ngoại hối, rủi ro đạo đức xảy ra khi những cán bộ này làm việc thiếu ý thức
trách nhiệm hoặc lợi dụng quyền hạn mà thực hiện những nghiệp vụ không
được phép. Trường hợp ở chi nhánh ngân hàng Công thương Hải Phòng là
một ví dụ. Từ năm 2003, người được giao quyền thực hiện nghiệp vụ mua bán
ngoại tệ với ngân hàng Công thương Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác
là phó phòng tài trợ thương mại. Mặc dù biết là không được phép nhưng
người này vẫn thực hiện giao dịch ngoại tệ với ít nhất ba ngân hàng nước
ngoài trong đó có ngân hàng ABN Amro của Hà Lan và những thua lỗ lớn
của chi nhánh này đều xuất phát từ những giao dịch với ngân hàng trên. Trong
vụ việc này có dấu hiệu cho thấy có sự thông đồng móc ngoặc của một số cán
bộ, nhân viên của hai ngân hàng này, có 4 hợp đồng ký kết mà không thanh
toán, có 26 giao dịch có tỷ giá vượt ra ngoài biên độ (tỷ giá này không có thật
trên thị trường ngoại tệ tại thời điểm giao dịch). Điều khó hiểu hơn nữa là
trong tổng số 504 hợp đồng có 83 hợp đồng mới chỉ có ABN- AMBRO Hà
Nội ký, còn ngân hàng Công thương Hải Phòng chưa ký nhưng vẫn chuyển
tiền thanh toán cho nhau. Như vậy có thể thấy rằng, việc ký kết hợp đồng chỉ
là hình thức, hoạt động mua bán là không có thật. Vụ việc này xảy ra đã rung
lên hồi chuông cảnh báo về rủi ro đạo đức trong các ngân hàng đồng thời
cũng cảnh báo về những bất cập trong khâu quản lý, tổ chức tại mỗi ngân
52
hàng bởi nếu làm tốt công tác quản lý, giám sát thường xuyên thì vụ việc trên
đã không thể xảy ra trong suốt hai năm mà Hội sở chính vẫn không hề hay
biết.
Hay như vụ thụt két 50.000 USD của ngân hàng Vietcombank, chi
nhánh Đà Nẵng xảy ra vào tháng 2/2009 cũng xuất phát từ vấn đề đạo đức .
Sự việc xảy ra khi một cán bộ ngân hàng lợi dụng công nghệ cao, dùng mã
giao dịch viên của mình đột nhập vào tài khoản ngân hàng của khách hàng để
tìm cách rút tiền. Tất nhiên là sự việc sau đó cũng đã bị phát giác nhưng nó đã
để lại bài học về công tác quản trị rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng trong thời kì công nghệ hiện đại.
Bên cạnh những nguyên nhân xuất phát từ phía bên trong, các ngân
hàng cũng có thể gặp phải rủi ro đạo đức từ phía đối tác/ khách hàng khi ngân
hàng không giám sát được đầy đủ, kích thích người này dùng không đúng
mục đích như đã cam kết với ngân hàng.
2.1.4. Rủi ro do trình độ tác nghiệp.
Thực tế ở Việt Nam, số lượng cán bộ kinh doanh ngoại hối có trình
độ hiểu biết, tinh thông nghiệp vụ, có kinh nghiệm, giỏi ngoại ngữ còn khá
khiêm tốn. Cũng chính vì vậy, tại các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn còn tình
trạng cán bộ kinh doanh ngoại hối chưa qua đào tạo chính quy nghiệp vụ, kỹ
năng nghiệp vụ và kinh nghiệm còn hạn chế được sử dụng vào những vị trí
quan trọng trong kinh doanh ngoại hối. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh ngoại
hối là một hoạt động còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên số lượng người có hiểu
biết về nghiệp vụ, pháp luật và quy trình giao dịch cũng không nhiều. Vì vậy,
rủi ro do việc chưa thành thạo hoặc kỹ thuật nghiệp vụ không tốt, không nắm
rõ các quy định của pháp luật là điều thường thấy trong hệ thống các NHTM
Việt Nam.
53
2.1.5. Rủi ro do vận hành
Nhìn chung, hạ tầng cơ sở kỹ thuật công nghệ tại các NHTM Việt
Nam tuy đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn khá lạc hậu so với thế giới.
Ở hầu hết các ngân hàng, tốc độ đường truyền còn chậm nên không xây dựng
được cơ sở dữ liệu tập trung, không thể quản lý trực tuyến thống nhất luồng
tiền và trạng thái ngoại hối của toàn bộ hệ thống, vì vậy ở hầu hết các NHTM
Việt Nam chủ yếu quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối của mình bằng các
báo cáo. Mà thực tế, quá trình quản lý bằng báo cáo tốn kém cả về mặt thời
gian và chi phí nhưng lại bị phụ thuộc vào nhận định chủ quan của người trực
tiếp kiểm tra. Điều này có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng khi quá trình kiểm
tra, soát xét của con người có thể có sự nhầm lẫn, thiếu chính xác. Hơn nữa
việc không thể quản lý trực tuyến thống nhất luồng tiền và trạng thái ngoại
hối của toàn bộ hệ thống có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối về trạng thái
ngoại tệ cũng có thể khiến cho các ngân hàng gặp phải rủi ro khi tỷ giá biến
động mạnh.
2.1.6. Rủi ro do quản lý
Đây là rủi ro xuất phát từ quá trình quản lý con người, quản lý hoạt
động kinh doanh ngoại hối. Thực tế, ở các NHTM Việt Nam, mô hình quản lý
trong kinh doanh ngoại hối là phi tập trung, tức là rủi ro được quản lý ở từng
chi nhánh. Vì thế rủi ro trong kinh doanh này dễ xuất phát từ khâu quản lý
giữa hội sở và chi nhánh, giữa cấp trên và cấp dưới trong điều kiện việc kiểm
tra giám sát không thường xuyên.
Năm 2009, hiện tượng nhiều đại lý, bàn thu đổi ngoại tệ đã bị rút giấy
phép hoạt động đã để lại cho các Ngân hàng bài học về công tác quản lý hoạt
động kinh doanh. Việc lỏng lẻo trong công tác kiểm tra giám sát của các ngân
hàng đã tạo điều kiện để các chi nhánh này hoạt động kinh doanh cả những
nghiệp vụ không được cho phép kinh doanh. Điều đặc biệt là công tác kiểm
54
tra giám sát chỉ được thực hiện sát sao khi có sự căng thẳng ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối và nhiều NHTM có trạng thái ngoại tệ âm.
Trở lại với vụ thua lỗ của chi nhánh ngân hàng Công thương Hải
Phòng bị phát hiện năm 2006, ta có thể thấy rõ hơn những bất cập trong khâu
quản lý. Thực tế, theo quy định của Thống đốc NHNN và Tổng Giám đốc
Ngân hàng Công thương Việt Nam thì chi nhánh ngân hàng Công thương tại
các tỉnh, thành phố chỉ được phép mua ngoại tệ và bán lại cho khách hàng
trong nước, ngoài ra không được phép thực hiện các giao dịch khác. Tuy
nhiên, bất chấp những quy định đó, tư năm 2003 đến năm 2006, chi nhánh
ngân hàng Công thương Hải Phòng đã kinh doanh ngoại tệ trái phép dưới
hình thức mua bán chuyển đổi giữa đồng USD với một số ngoại tệ mạnh. Nếu
như làm tốt khâu quản lý trên toàn bộ hệ thống ngân hàng thì Hội sở Ngân
hàng Công thương Việt Nam không thể không biết được hoạt động của chi
nhánh Hải Phòng và những hợp đồng mua bán không có thật đó chắc chắn sẽ
bị phát hiện sớm chứ không thể tiến hành suôn sẻ trong suốt hai năm trời.
2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh
doanh ngoại hối tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Từ thực trạng các rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh ngoại
hối, các NHTM Việt Nam cần đúc rút kinh nghiệm và đưa ra các biện pháp để
phòng ngừa rủi ro khi triển khai hoạt động này. Trên thực tế thì một số biện
pháp phòng ngừa rủi ro cũng đã được áp dụng tại các NHTM Việt Nam, bao
gồm các biện pháp về kỹ thuật nghiệp vụ, các biện pháp về đào tạo con người,
các biện pháp về công nghệ.
- Đối với các biện pháp về kỹ thuật nghiệp vụ:
Với các công cụ quản trị rủi ro, các NHTM Việt Nam ngày càng linh
hoạt hơn trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
55
kinh doanh ngoại hối. Tuy nhiên phổ biến nhất hiện nay vẫn là biện pháp
quản lý rủi ro bằng hạn mức. Cách quản lý này một phần đã giúp các ngân
hàng phòng tránh được rủi ro do biến động tỷ giá. Tuy nhiên, công tác quản lý
rủi ro bằng hạn mức này thực tế lại tỏ ra chưa thực sự có hiệu quả vì các
NHTM chủ yếu mới xây dựng hạn mức cho từng nhân viên kinh doanh và
toàn bộ ngân hàng còn hạn mức với các kỳ hạn thì chưa phổ biến trong khi đó
thực tế cho thấy rằng trạng thái ngoại hối kỳ hạn vẫn có thể tồn tại rất nhiều
rủi ro.
Với các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro, việc áp dụng các
công cụ này cũng còn khá hạn chế. Cũng có thể hiểu nguyên nhân của vấn đề
này là do các ngân hàng chủ yếu là cung cấp dịch vụ cho khách hàng còn kinh
doanh cho bản thân mình thì ít. Trong khi đó, phần lớn khách hàng của các
Ngân hàng chưa quen sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro nên
các nghiệp vụ này cũng chưa thực sự phát triển mạnh.
- Đối với các biện pháp đào tạo nguồn nhân lực:
Tại nhiều NHTM Việt Nam hiện nay, các khoá học để nâng cao trình
độ, kỹ năng cho các cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại hối đã được quan
tâm tổ chức. Các khoá học có khi còn được tổ chức với sự tham gia của các
chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực này thậm chí còn có cả các chuyên gia
của một số ngân hàng nước ngoài có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, xét một
các toàn diện thì công tác đào tạo cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại hối
tại các NHTM chưa được quan tâm thường xuyên. Các biện pháp về con
người chưa chú trọng nhiều tới việc làm thế nào để giảm thiểu rủi ro đạo đức
trong khi đây là loại rủi ro đang ngày một gia tăng.
- Đối với các biện pháp về công nghệ:
56
Để phục vụ tốt hơn cho hoạt động kinh doanh ngoại hối, trong những
năm qua các NHTM đã cố gắng nâng cấp công nghệ tạo điều kiện cho các
giao dịch kinh doanh ngoại hối diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên,
xét về tầm quan trọng của công nghệ đối với hoạt động kinh doanh này của
các ngân hàng thì có thể nhận thấy rằng các biện pháp về công nghệ vẫn chưa
thực sự được đầu tư đúng mức. Điều này được thể hiện rõ nhất ở việc các giao
dịch chủ yếu được thể hiện bằng văn bản, các công cụ, phần mềm dự báo rủi
ro chưa đáp ứng đủ, thông tin thiếu cập nhật, thiếu chính xác…
Qua những đánh giá về thực trạng hoạt động KDNH và công tác
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động này tại các NHTM Việt Nam có thể thấy
rằng trong những năm qua, các NHTM Việt Nam cũng đã nỗ lực rất nhiều
trong việc thúc đẩy phát triển các nghiệp vụ đồng thời nâng cao công tác quản
trị rủi ro trong hoạt động này. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan
cũng như chủ quan mà công tác phòng ngừa rủi ro trong KDNH tại các
NHTM Việt Nam trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Do đó, trong thời
gian tới, các NHTM Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để cải thiện và nâng
cao công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh này.
Tóm tắt chƣơng II:
Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động KDNH đồng thời với
việc phân tích một số rủi ro thường gặp trong KDNH, tác giả đã đưa ra những
đánh giá về thành tựu và hạn chế trong việc triển khai hoạt động KDNH cũng
như việc phòng ngừa rủi ro trong KDNH tại các NHTM Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, trong chương này, tác giả cũng đưa ra những
nhận định về cơ hội và thách thức trong hoạt động KDNH của các NHTM
Việt Nam trong môi trường đầy tính cạnh tranh hiện nay. Đây chính là cơ sở
cho những giải pháp và kiến nghị sẽ được trình bày ở chương III.
57
CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Định hƣớng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối của các Ngân
hàng thƣơng mại Việt Nam trong thời gian tới.
Theo cam kết khi gia nhập WTO, kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011,
Việt Nam phải có nghĩa vụ đối xử như nhau đối với các NHTM Việt Nam và
các ngân hàng nước ngoài. Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường là điều có
thể nhìn thấy được. Vì thế, các NHTM Việt Nam cần xác định cho mình một
lối đi riêng để thích ứng với môi trường cạnh tranh mới. Theo đó hoạt động
kinh doanh ngoại hối của các NHTM nói riêng cũng cần phải có những định
hướng cụ thể để phát triển vững chắc, tránh những rủi ro mới phát sinh do hội
nhập.
Theo định hướng phát triển từ nay cho tới năm 2020, Việt Nam chú
trọng phát triển dịch vụ ngoại hối trong các tầng lớp dân cư. Cụ thể là, Việt
Nam tập trung tối đa các nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng
tốt nhất các nhu cầu chi tiêu ngoại tệ hợp lý của các doanh nghiệp và cá nhân,
đồng thời kiểm soát một cách có hiệu quả chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh
tế góp phần giảm bớt tình trạng đôla hoá. Bảo đảm quyền sở hữu, mua bán và
sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp và cá nhân theo quy định của pháp
luật.
Mặt khác Việt Nam sẽ tiếp tục tạo điều kiện khuyến khích tối đa
luồng tiền kiều hối chuyển về nước. Đa dạng hoá các hình thức huy động kiều
hối chuyển về như qua ngân hàng, qua tài khoản của các tổ chức, cá nhân; đẩy
mạnh quan hệ hợp tác với nước ngoài, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng
như chuyển nhanh, chuyển trả trực tiếp, giảm phí chuyển tiền, đơn giản hoá
58
các thủ tục nhận tiền, mạng lưới chi trả phát triển rộng khắp. Song song với
quá trình tăng cường các tiện ích trong quản lý ngoại hối, cần hạn chế tiến tới
xoá bỏ tín dụng ngoại tệ, trước mắt là tín dụng ngoại tệ ngắn hạn.
Về mặt dài hạn, để chống tình trạng đôla hoá, cần thực hiện chính
sách kiều hối cho phép người thụ hưởng nhận bằng ngoại tệ nhưng chỉ được
rút ra bằng tiền đồng đi kèm chính sách tỷ giá hợp lý khuyến khích người thụ
hưởng bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng thông qua chế độ tỷ giá linh hoạt.
Bên cạnh đó chính sách tiết kiệm ngoại tệ cũng phải thống nhất chỉ cho phép
người gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng, số ngoại tệ trên tài khoản được
phép chi tiêu ở nước ngoài hoặc thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng để
bảo toàn vốn nhưng khi rút ra để chi tiêu trong nước chỉ thực hiện bằng tiền
đồng với tỷ giá hợp lý, khuyến khích khách hàng bán cho ngân hàng.
2. Các giải pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với
các NHTM Việt Nam.
2.1. Hoàn thiện công cụ quản lý rủi ro bằng hạn mức
Để giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả kinh doanh ngoại hối thì việc
các NHTM thực hiện các biện pháp phân bổ hạn mức giao dịch là rất cần
thiết. Biện pháp phân bổ hạn mức giao dịch chủ yếu dựa trên kinh nghiệm,
trình độ, năng lực kinh doanh khác nhau của từng cán bộ kinh doanh ngoại
hối. Tuy nhiên trong thời gian qua việc phân bổ các hạn mức này tại các
NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế. Do vậy trong thời gian tới, các NHTM
cần phải nhanh chóng hoàn thiện hơn công cụ quản lý hữu hiệu này.
Trước mắt, các NHTM vẫn phải tiếp tục xây dựng hạn mức chung
cho cả phòng kinh doanh, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức chung cho từng cán
bộ kinh doanh cụ thể. Nguyên tắc phân bổ hạn mức chung cho từng cán bộ
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh trên thị
59
trường ngoại hối của họ. Theo đó, những nhà kinh doanh chuyên nghiệp,
thâm niên, đã gặt hái được nhiều thành công phải trở thành những nhân viên
kinh doanh chính, được giao hạn mức nhiều hơn những người mới thực hiện
nghiệp vụ. Hơn nữa, các NHTM cũng phải có những quy định hạn mức theo
các đồng tiền kinh doanh. Điều này là vô cùng cần thiết vì các ngoại tệ trên
thị trường có các mức độ biến động khác nhau do đó xác suất xảy ra rủi ro đối
với từng ngoại tệ cũng không giống nhau. Những đồng tiền ít biến động hơn
thì hạn mức có thể cao hơn còn những đồng tiền biến động mạnh hơn thì xây
dựng hạn mức thấp hơn.
Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam cũng đã phần nào xây
dựng được các loại hạn mức cho từng cán bộ giao dịch, từng bàn giao dịch và
cho toàn ngân hàng. Tuy nhiên nếu ngân hàng có nhiều giao dịch, đặc biệt là
các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi mà vì lý do nào đó không được tính ngay vào
trạng thái ngoại hối thì trạng thái ngoại hối đó sẽ không chính xác. Vì vậy, đối
với các NHTM Việt Nam, việc xây dựng hạn mức cho từng loại nghiệp vụ cụ
thể, ví dụ hạn mức giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi là việc làm cần thiết. Trong
đó, để quản lý rủi ro tỷ giá tốt hơn, các nhà kinh doanh kỳ hạn còn phải duy
trì hạn mức cho từng kỳ hạn cụ thể theo quy tắc kỳ hạn càng dài thì hạn mức
càng thấp.
Các hạn mức quan trọng mà các NHTM cần phải xây dựng là:
- Hạn mức giao dịch trong ngày: cho phép kiểm soát tổng giá trị
giao dịch trong ngày ứng với một giao dịch viên, từ đó hạn chế việc giao dịch
viên này thực hiện nghiệp vụ quá mạo hiểm có thể gặp rủi ro thua lỗ lớn.
- Hạn mức trạng thái qua đêm: không kiểm soát tổng giá trị giao
dịch trong ngày của mỗi giao dịch viên nhưng hạn chế trạng thái ngoại tệ qua
đêm (vào thời điểm cuối ngày) của giao dịch viên đó. Điều này nhằm hạn chế
các rủi ro tỷ giá trong giao dịch giao ngay.
60
- Hạn mức đối với các trạng thái kỳ hạn: cho phép kiểm soát trạng
thái của một loại ngoại tệ nào đó mà nhân viên kinh doanh ngoại hối được
phép thực hiện giao dịch mua bán đối với một kỳ hạn nhất định. Việc xây
dựng hạn mức cho các trạng thái kỳ hạn là vô cùng cần thiết. Vì NHTM có
thể chịu thiệt hại lớn nếu như trong tương lai, tỷ giá của một loại ngoại tệ nào
đó biến động mạnh và nhân viên kinh doanh ngoại hối để trạng thái ngoại hối
quá cao đối với ngoại tệ đó.
- Hạn mức đối với khách hàng: nhằm tránh những rủi ro đối tác
không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ. Các NHTM có thể đánh
giá năng lực tài chính, uy tín, các mối quan hệ của đối tác hay khách hàng từ
đó quy định hạn mức giao dịch tối đa thực hiện với đối tác hay khách hàng
đó.
2.2. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh và đa dạng hoá các
nghiệp vụ kinh doanh.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam chủ yếu kinh doanh một số loại ngoại
tệ mạnh như USD, CHF, HKD, AUD, CAD, EUR,… nhưng giao dịch bằng
USD vẫn chiếm một tỷ trọng lớn bởi USD vẫn là đồng ngoại tệ mạnh, được
chấp nhận thanh toán phổ biến nhất tại tất cả các thị trường trong nước cũng
như quốc tế. Song trên thực tế, thời gian qua những biến động về kinh tế,
chính trị đã làm cho đồng USD liên tục mất giá so với EUR và JPY. Do đó,
các NHTM cũng nên tính đến việc kinh doanh các đồng tiền này nhiều hơn.
Việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh này có ý nghĩa trong việc phân
tán rủi ro. Nếu chỉ tập trung vào đồng USD thì khi tỷ giá VND/USD biến
động theo hướng bất lợi sẽ dẫn đến những khoản lỗ trong kinh doanh ngoại
hối mà không có nguồn để bù đắp. Tất nhiên rằng việc đa dạng hoá các loại
ngoại tệ cũng cần phải tính đến nhu cầu của khách hàng để từ đó có chiến
lược kinh doanh cho phù hợp.
61
Bên cạnh việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các ngân hàng cũng cần
phải đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối. Hiện nay trên thị
trường ngoại hối, các NHTM chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ giao ngay, kỳ
hạn và hoán đổi còn nghiệp vụ quyền chọn, theo quyết định của NHNN, mới
dừng giai đoạn thí điểm từ tháng 3/2009; nghiệp vụ tương lai chưa thực hiện
được do tính phức tạp và hạn chế về nguồn lực, công nghệ. Vì vậy trong thời
gian tới, cùng với nỗ lực hoàn thiện các công cụ pháp lý của NHNN, các
NHTM cũng cần có những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng các công
cụ này. Một mặt cũng là để phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các
NHTM, mặt khác cũng là đẩy mạnh việc phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh
ngoại hối tại chính các ngân hàng này.
2.3. Đổi mới công tác quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại hối.
Trong số các rủi ro có yếu tố con người, rủi ro đạo đức tại các NHTM
Việt Nam chiếm tỷ trong khá cao. Như đã phân tích ở phần trước, một phần
nguyên nhân dẫn tới rủi ro này là những yếu kém về mặt đạo đức của một số
cán bộ, nhân viên trong ngân hàng, mặt khác nó cũng là hậu quả của công tác
quản lý, tổ chức chưa rõ ràng minh bạch nên nhiều người đã lợi dụng kẽ hở
đó để tư lợi cá nhân. Vì vậy để tác động và làm giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động ngân hàng nói chung và giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối nói riêng thì ở từng đơn vị ngân hàng, công tác quản lý, tổ
chức hoạt động phải được hoàn thiện hơn nữa.
Giải pháp cho vấn đề này là các NHTM có hoạt động kinh doanh
ngoại hối thì phải có phòng ban chịu trách nhiệm riêng về hoạt động này và
độc lập về nhân lực với các phòng ban khác. Đặc biệt đối với các ngân hàng
có các phòng, chi nhánh được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối thì càng
cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tránh tình trạng hoạt
động vượt giới hạn cho phép, gây ra trạng thái mở quá lớn khiến ngân hàng
62
dễ gặp rủi ro tỷ giá. Đối với công tác quản lý con người, các cán bộ kinh
doanh được giao hạn mức giao dịch cụ thể và phải là người chịu trách nhiệm
cuối cùng về lãi lỗ trong hoạt động của mình và bảo đảm rằng hoạt động của
mình luôn nằm trong giới hạn quản lý rủi ro cho phép hay có thể kiểm soát
được.
2.4. Nhóm giải pháp về công nghệ.
Việc ứng dụng các công nghệ hiện đại vào hoạt động kinh doanh
ngoại hối đã giúp các ngân hàng không những tiết kiệm được thời gian, chi
phí quản lý mà còn giúp giảm thiểu được những rủi ro do biến động tỷ giá, rủi
ro do quản lý, tổ chức. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, việc ứng dụng công
nghệ vào hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các NHTM lại chưa được quan
tâm đầu tư đúng mực. Vì vậy trước hết, các ngân hàng cần phải tăng ngân
sách cho việc ứng dụng các công nghệ vào hoạt động kinh doanh này. Việc
đảm bảo các yếu tố: tốc độ và tính liên tục, hiệu quả của hoạt động kinh
doanh ngoại hối đòi hỏi các ngân hàng cần phải nâng cấp hệ thống máy tính
và máy chủ hội sở chính và các chi nhánh, nâng cấp tốc độ đường truyền để
thông tin được truyền tải nhanh chóng, quản lý thống nhất khách hàng và
trạng thái ngoại hối, cập nhật thường xuyên các hệ thống cơ sở hạ tầng công
nghệ mạng, truyền thông và các thiết bị chuyên dụng bảo mật, các giải pháp
an ninh mạng để thông tin không bị rò rỉ cho kẻ xấu lợi dụng. Mặt khác, như
những phân tích trên, một phần nguyên nhân dẫn tới rủi ro đối với các NHTM
trong hoạt động kinh doanh ngoại hối là do trình độ ứng dụng công nghệ chưa
cao, các hợp đồng giao dịch chủ yếu là trên giấy tờ nên thường phát sinh
những sai sót vô ý hoặc cố ý. Do đó các ngân hàng phải nhanh chóng đa dạng
hoá nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo an toàn cho các loại phương tiện giao
dịch ứng dụng công nghệ như fax, telex, mạng vi tính…Như vậy hiệu quả
kinh doanh ngoại hối mới được đảm bảo tốt hơn và giảm thiểu được rủi ro do
63
các giao dịch bằng giấy tờ, rủi ro do trục trặc trong việc vận hành các phương
tiện đó.
Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam cần phải nghiên cứu ứng dụng
công nghệ trong việc hoàn thiện hệ thống các kênh thông tin như cài đặt các
màn hình tin REUTER tại hội sở, các chi nhánh có khối lượng giao dịch
lớn,... Biện pháp này sẽ giúp các NHTM cập nhật những thông tin nhanh nhất
phục vụ cho những dự đoán chính xác về thị trường đồng thời cũng nhằm
công khai các thông tin trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng
mình để các đối tác nắm được qua đó cũng tránh được những rủi ro do thông
tin không chính xác gây ra.
Cùng với việc đầu tư các trang thiết bị hệ thống, phần mềm công nghệ
hiện đại, đồng bộ thì việc đào tạo cán bộ kỹ thuật cũng phải được quan tâm
đúng mực và thường xuyên.
2.5. Nhóm giải pháp về con người
Tại các NHTM Việt Nam, rủi ro do yếu tố con người ngày một gia
tăng vì vậy các giải pháp giảm thiểu rủi ro do con người mang lại phải được
hết sức chú ý.
Thực tế cho thấy, tại các NHTM Việt Nam, số cán bộ kinh doanh
ngoại hối được đào tạo cơ bản còn hết sức khiêm tốn, một phần còn lại được
chuyển từ các bộ phận khác sang như kế toán, thanh toán quốc tế, nguồn vốn
hay tín dụng. Điều này làm gia tăng rủi ro đạo đức như đã nói ở trên, đồng
thời cũng làm gia tăng thêm rủi ro do trình độ tác nghiệp. Đặc biệt trong thời
gian tới khi các ngân hàng nước ngoài được tự do hoạt động, cạnh tranh trên
thị trường Việt Nam, với tiềm lực tài chính lớn và kinh nghiệm lâu năm trong
hoạt động kinh doanh ngoại hối, kinh nghiệm trong việc đào tạo nhân lực, dự
báo nhóm ngân hàng này sẽ thu hút mạnh chất xám Việt Nam. Vì vậy, các
64
NHTM phải sớm xây dựng cho mình một quy trình đào tạo cán bộ kinh doanh
ngoại hối hợp lý để đảm bảo bộ phận này có đủ năng lực và trình độ đương
đầu với công việc được giao. Theo đó, các khoá đào tạo về nghiệp vụ kinh
doanh ngoại hối phải được tổ chức thường xuyên, cập nhật những thông tin
mới nhất và cần chú trọng tới khâu thực hành và công tác đào tạo phải được
áp dụng cho cả nhân viên mới và nhân viên cũ, từ cấp quản lý đến cấp nhân
viên. Bên cạnh đó, việc tiếp tục cử một số cán bộ chủ chốt, có năng lực và đạo
đức tốt đi tham gia các khoá đào tạo kinh doanh ngoại hối ở nước ngoài để họ
có một tầm nhìn bao quát, nắm được nghiệp vụ kinh doanh, học hỏi kinh
nghiệm và có định hướng thị trường là một việc làm rất cần thiết. Để bổ sung
thêm lớp cán bộ kinh doanh trẻ, năng động, các NHTM có thể thực hiện các
mô hình liên kết đào tạo với các trường đại học có giảng dạy về nghiệp vụ
kinh doanh ngoại hối để tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tập tại ngân hàng,
tuyển dụng những sinh viên có triển vọng. Bên cạnh đó, vấn đề đào tạo trình
độ ngoại ngữ cũng phải được quan tâm đúng mức để có thể linh hoạt hơn
trong các giao dịch ngoại hối.
3. Các kiến nghị.
3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan
- Chính phủ và các Bộ ngành liên quan cần phối hợp triển khai hướng
dẫn các doanh nghiệp các kiến thức về kinh doanh ngoại hối và các biện pháp
phòng ngừa rủi ro tỷ giá giúp các doanh nghiệp nhận thức được vấn đề rủi ro
tỷ giá và chủ động các biện pháp bảo hiểm và giảm thiểu rủi ro bằng các công
cụ phái sinh. Thực tế, các NHTM Việt Nam đã triển khai các sản phẩm phái
sinh đều gặp khó khăn là sự thiếu mặn mà của các doanh nghiệp. Đó là do sự
thiếu am hiểu về sản phẩm phái sinh do còn quá mới mẻ đối với họ, mặt khác
chính sách bảo hộ ngầm tỷ giá USD/VND của Nhà nước đã tạo cho doanh
nghiệp tâm lý ỷ lại, bị động trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
65
Trong thời gian tới, khi chính sách tỷ giá của NHNN tiến tới cơ chế
linh hoạt và theo sát tín hiệu thị trường, các doanh nghiệp sẽ bắt đầu cảm
nhận được rủi ro tỷ giá ngày một lớn Đây chính là lúc chính phủ và các bộ
ngành liên quan cần tiến hành tăng cường trang bị kiến thức phòng ngừa rủi
ro tỷ giá cho các doanh nghiệp bằng các biện pháp như có chính sách khuyến
khích doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm phái sinh, tổ chức các buổi hội
thảo giới thiệu các sản phẩm phái sinh,..
- Cùng với đó, cần rà soát lại thường xuyên các văn bản pháp luật,
phát hiện những vướng mắc và bất cập để kịp thời điều chỉnh tạo điều kiện
cho hoạt động KDNH phát triển hiệu quả, góp phần thúc đẩy các hoạt động
kinh tế khác.
3.2. Kiến nghị đối với NHNN
- Hoàn thiện chính sách tỷ giá
Thời gian qua, nhất là trong năm 2009, diễn biến cung cầu trên thị
trường ngoại hối vô cùng phức tạp, tỷ giá biến động liên tục. Trong năm
2009, NHNN đã phải 2 lần điều chỉnh biên độ giao dịch từ 3% lên 5% theo
quyết định 622/QĐ-NHNN vào tháng 3/2009 và giảm từ 5% xuống còn 3%
theo quyết định số 2666/2009/QĐ-NHNN vào tháng 11/2009, tăng tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng lên 17941 VND/USD. Cũng
năm 2009, trước tình trạng khan hiếm ngoại tệ để giao dịch của các NHTM,
NHNN đã phải hỗ trợ bán ngoại tệ để các NHTM cân đối trạng thái ngoại tệ
và làm giảm tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại tệ.
Từ đầu năm 2010 đến nay, tỷ giá trên thị trường có dấu hiệu tăng trở
lại, thị trường liên ngân hàng thường xuyên giao dịch ở mức giá trần cho
phép, NHNN lại có sự điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng va duy trì
cho đến nay ở mức 18544 VND/USD, đồng thời quy định tăng lãi suất tiền
66
gửi đối với USD lên 1%/năm.
Có thể thấy những nỗ lực của NHNN trong việc thực hiện một chính
sách tỷ giá theo sát cung cầu thị trường, tuy nhiên những giải pháp mà NHNN
đưa ra lại chưa thể hiện được tính chủ động, phần lớn là những giải pháp được
đưa ra trong tình thế bắt buộc. Do đó về lâu dài NHNN cần phải có những
giải pháp đồng bộ để quản lý thị trường ngoại hối, cần tập trung vào công cụ
lãi suất để điều tiết thị trường ngoại hối thay vì quá tập trung vào các quy định
về tỷ giá như trước đây. Cùng với đó, NHNN cần chủ động cập nhật những
thông tin liên quan đến các đồng tiền chủ yếu trong rổ đồng tiền có vị trí quan
trọng trong cơ cấu xuất nhập khẩu, dự trữ ngoại hối, đầu tư và vay trả nợ nước
ngoài của Việt Nam kết hợp với những yếu tố thị trường trong và ngoài nước.
- Nâng cao vai trò của NHNN trên TTNH
Với vai trò là Ngân hàng Trung ương tham gia vào thị trường tiền tệ,
NHNN vừa tham gia với tư cách là thành viên trên thị trường ngoại hối, vừa
với tư cách là người quản lý điều hành thị trường. Để thực hiện vai trò này,
NHNN phải là người mua bán cuối cùng trên thị trường. Song để làm được
điều đó một cách hiệu quả thì không phải đơn giản và phụ thuộc nhiều yếu tố
trong đó quan trọng nhất là tiềm lực tài chính của NHNN.
Trong thời gian qua, NHNN tỏ ra khá linh hoạt trong việc điều tiết
TTNH với một loạt các giải pháp đã thực hiện như bán hỗ trợ ngoại tệ, nâng
tỷ giá giao dịch bình quân trên TTLNH, điều chỉnh biên độ tỷ giá…đã tạo ra
những hiệu ứng tích cực làm giảm tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, khơi thông nguồn cung ứng ngoại tệ cho các NHTM.
Trong thời gian tới, NHNN với vai trò là người điều tiết thị trường
cần phải nâng cao hơn nữa vai trò của mình bằng việc tăng cường dự trữ
ngoại tệ, chủ động và phối hợp nhịp nhàng các công cụ điều tiết thị trường để
67
tạo đà cho TTNH phát triển ổn định.
- Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Để hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tác giả
xin kiến nghị các giải pháp sau:
Thứ nhất, NHNN phải thực hiện tốt vai trò là người mua bán cuối
cùng trên thị trường ngoại hối. Bằng những động thái khéo léo, NHNN có thể
đem lại những tác động tích cực cho thị trường ngoại hối khiến cho thị trường
này diễn ra ổn định, nhịp nhàng. Nếu NHNN không can thiệp hoặc can thiệp
chậm với quy mô không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè, chờ đợi của
các NHTM, khiến thị trường ngoại hối rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích
đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá.
Thứ hai, NHNN cần thiết lập một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
có sự tham gia của các công ty môi giới. Đây là một yếu tố rất quan trọng
thúc đẩy thị trường phát triển, là một bộ phận rất quan trọng tại các thị trường
ngoại hối tiên tiến nhưng ở Việt Nam hiện nay chưa có điều kiện phát triển.
Thứ ba, cần mở rộng số lượng thành viên tham gia thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng và tăng cường chất lượng tham gia của các thành viên. Hiện
nay các thành viên tham gia tích cực trên thị trường không nhiều và chủ yếu
diễn ra tình trạng người chuyên đi bán, người chuyên đi mua, làm giảm tính
đặc thù của thị trường ngoại hối và kiềm chế sự phát triển của thị trường này.
- Đối với nghiệp vụ quyền chọn: cần nhanh chóng rút kinh nghiệm và
đưa ra những quy định pháp lý cụ thể để các ngân hàng có cơ sở dựa vào đó
mà triển khai nghiệp vụ này trong hoạt động kinh doanh.
Tóm tắt chƣơng III
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị được tác giả đề xuất nhằm
góp phần làm giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh
68
ngoại hối tại các NHTM Việt Nam. Những giải pháp này xuất phát từ thực
trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối và hoạt động quản lý rủi ro trong kinh
doanh ngoại hối tại các NHTM Việt Nam đã được phân tích trong chương II.
Bên cạnh đó tác giả cũng xin đưa ra một số ý kiến đóng góp cho công
tác quản lý điều hành của NHNN và các Bộ, ngành cơ quan chủ quản để góp
phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại hối trên thị trường Việt Nam phát
triển mạnh mẽ hơn, sôi động và hiệu quả hơn.
69
KẾT LUẬN
Kinh doanh ngoại hối là một hoạt động đóng vai trò quan trọng đối
với các Ngân hàng thương mại trong việc góp phần gia tăng nguồn thu cũng
như hỗ trợ, thúc đẩy các nghiệp cụ khác phát triển. Tuy nhiên, do tính chất
phức tạp và nhạy cảm mà hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng tiềm ẩn rất
nhiều rủi ro cho các Ngân hàng thương mại.
Trong những năm qua, tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, các
nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đã từng bước được hình thành và phát triển,
bước đẩu tạo nên những kết quả đáng khích lệ. Các giao dịch giao ngay, giao
dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi được triển khai đã giúp các Ngân hàng trong
việc cân bằng trạng thái ngoại hối, giúp giảm thiểu rủi ro tỷ giá, giảm sức ép
cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Giao dịch quyền chọn đã qua giai đoạn thực
hiện thí điểm và đang được Ngân hàng Nhà Nước tiếp tục nghiên cứu để đưa
ra những quy định pháp lý chung hướng dẫn các Ngân hàng thực hiện. Đồng
thời với việc phát triển các nghiệp vụ kinh doanh, các Ngân hàng thương mại
Việt Nam cũng đã có sự đầu tư đáng kể vào việc nâng cao công nghệ, đào tạo
nhân lực, đổi mới phương thức tổ chức quản lý kinh doanh nhằm đáp ứng các
yêu cầu phát triển.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế khi các Ngân
hàng chưa có sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, công nghệ ứng dụng tại
nhiều Ngân hàng chưa đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh, công tác quản trị
rủi ro còn nhiều yếu kém.
Nhóm giải pháp mà tác giả đưa ra trong khóa luận chỉ là một số trong
rất nhiều các giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các
70
Ngân hàng thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng xin đưa ra một
số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ để góp phần hoàn
thiện chức năng quản lý của các cơ quan này và tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt
động kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại phát triển.
71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần Tiếng Việt
1. Chính phủ (17/08/1998), Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối
2. Chính phủ (17/01/2001), Nghị định 05/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một
số điều của Nghị định 63/1998/NĐ-CP
3. Chính phủ (18/10/2005), Nghị định 131/2005/NĐ-CP sửa đổi bổ sung
một số điều của Nghị định 63/1998/NĐ-CP
4. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh Tế
Quốc Dân
5. Nguyễn Minh Kiều (1998), Thị trường ngoại hối: Kỹ thuật kinh doanh và
phòng ngừa rủi ro, NXB Tài chính
6. Nguyễn Văn Tiến (2002), Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình
hội nhập, NXB Thống kê
7. Nguyễn Văn Tiến (2005), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế
mở, NXB Thống kê
8. Ủy ban thường vụ quốc hội (13/12/2005), Pháp lệnh ngoại hối số
28/2005/PL-UBTVQH11
9. Tạp chí ngân hàng số 6 (3/2010)
10. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 7 (1/4/1010)
11. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 15 (1/8/2010)
12. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 3+4 (1/2/2010)
13. Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 2 (31). 2009
14. Các trang web:
Ngân hàng nhà nước:
72
NH TMCP Sài Gòn:
NH TMCP Kỹ thương Việt nam: https://www.techcombank.com.vn/,
NH TMCP Ngoại thương Việt nam:
NH TMCP Á Châu:
NH TMCP Xuất Nhập khẩu:
Trang web:
Phần Tiếng Anh
1. Allayannis, Goerge, James Weston. (2001), “The Use of Foreign
Currency Derivatives and Firm Market Value”, Reviews of Financial
Studies 14
2. Marshall (2000), A.P. “Foreign Exchange Risk Management in UK,
USA, and Asia Pacific Multinational Companies”, Journal of
Multinational Management, page 185-211.
3. Sam Y.Cross (1998), All about the Foreign Exchange market in the
United States, Federal Reserve Bank of New York.
4. Trang web: www.dailyfx.com
5. Trang web: www.bloomberg.com
73
PHỤ LỤC
QUY TRÌNH KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Niêm yết tỷ giá
Bộ phận nguồn vốn là nơi lập Bảng niêm yết tỉ giá giao dịch hàng
ngày áp dụng thống nhất cho toàn Ngân hàng. Tỷ giá niêm yết này được tính
toán bằng các kỹ thuật sao cho vừa phù hợp với cung cầu thị trường vừa nằm
trong biên độ giao động cho phép của ngân hàng nhà nước.
Bảng niêm yết tỉ giá đầu ngày phải được lập và cập nhật vào hệ
thống chương trình quản lý của Ngân hàng trên máy tính chậm nhất là đầu giờ
làm việc của ngày làm việc. Tỷ giá cũng ngay lập tức phải chuyển đi các chi
nhánh và phải nhập tỉ giá vào bảng điện tử của hội sở để các khách hàng có
thể tham chiếu được ngay.
Trong ngày làm việc, nếu có phát sinh biến động lớn về tỉ giá của một
loại ngoại tệ niêm yết nào đó thì phải lập bảng niêm yết tỉ giá giao dịch mới
và thực hiện công bố tỉ giá tương tự như việc công bố tỉ giá đầu ngày làm
việc.
Chi nhánh khi nhận được Bảng niêm yết tỉ giá giao dịch phải cập nhật
ngay vào Bảng niêm yết tỉ giá giao dịch tại quầy giao dịch trực tiếp với khách
hàng và thông báo ngay cho các bộ phận có liên quan thuộc đơn vị mình.
Đối với giao dịch hối đoái giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi, có thể thực
hiện giao dịch theo tỉ giá niêm yết hoặc tỉ giá thương lượng giữa Ngân hàng
với khách hàng hoặc đối tác nhưng phải đảm bảo tỉ giá giao dịch phù hợp với
tỉ giá của thị trường tại thời điểm giao dịch và quy định của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về giao dịch về giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi.
74
2. Thực hiện giao dịch với đối tác hoặc khách hàng
Việc thực hiện giao dịch với đối tác hoặc khách hàng do các chuyên
viên giao dịch (gọi là các Dealer) thực hiện. Các phương tiện được dùng để
thực hiện trong giao dịch là: điện thoại, fax.
3. Tạo dữ liệu giao dịch
Sau khi hoàn tất việc thực hiện giao dịch với đối tác/ khách hàng,
chuyên viên giao dịch phải nhập nội dung của giao dịch vào hệ thống quản lý
giao dịch (trading system) và in ra “Phiếu giao dịch” ngay lập tức để chuyển
sang cho Bộ phận kiểm soát rủi ro.
4. Kiểm soát giao dịch
Ngay sau khi nhận được giao dịch từ hệ thống quản lý giao dịch hoặc
“Phiếu giao dịch” do chuyên viên giao dịch chuyển sang, Bộ phận kiểm soát
rủi ro phải thực hiện các bước sau:
- Kiểm tra tỷ giá giao dịch có phải là tỷ giá công bố hoặc tỷ giá
giao dịch của thị trường hay không;
- Kiểm tra hạn mức của đối tác hoặc khách hàng;
- Kiểm tra tiền cọc (nếu có);
- Kiểm tra hạn mức giao dịch của Dealer.
Trong trường hợp giao dịch không đảm bảo một trong các yêu cầu
trên thì nhân viên kiểm soát rủi ro được quyền không duyệt, và phải tiến hành
lập ngay biên bản vi phạm giao dịch, đồng thời báo cáo kịp thời cho cấp quản
lý trực tiếp của bộ phận kiểm soát rủi ro để xử lý. Khi giao dịch đảm bảo các
điều kiện nêu trên thì nhân viên kiểm soát rủi ro tiến hành duyệt giao dịch trên
hệ thống giao dịch hoặc ký tên trên “phiếu giao dịch” và chuyển sang cho bộ
phận hỗ trợ giao dịch (back office).
75
5. Xác nhận giao dịch
Việc thực hiện xác nhận do nhân viên hỗ trợ giao dịch thực hiện:
- Đối với giao dịch hối đoái giao ngay (spot) chỉ cần xác nhận lại
với đối tác hoặc khách hàng bằng fax, văn bản hoặc điện xác nhận (swift);
- Đối với giao dịch hối đoái kỳ hạn (forward), hoán đổi và quyền
chọn thì ngân hàng và đối tác hoặc khách hàng phải ký kết hợp đồng chi tiết
bằng văn bản hoặc điện xác nhận.
- Đối với các giao dịch được xác nhận bằng hợp đồng: ngân hàng
và đối tác/ khách hàng phải ký hợp đồng ngay khi thực hiện giao dịch và hợp
đồng phải được gửi đi trong ngày giao dịch (căn cứ vào dấu của bưu điện).
Với các giao dịch được xác nhận bằng fax: hợp đồng phải gửi đi ngay sau khi
Dealer tạo dữ liệu giao dịch hoặc sau khi nhận được hợp đồng do đối tác/
khách hàng gửi đến. Tất cả giao dịch trong ngày phải được xác nhận hoàn tất
trong ngày. Còn đối với các giao dịch được xác nhận bằng điện xác nhận: Xác
nhận giao dịch phải gửi đi trong phiên kết nối vào hệ thống swift gần nhất.
Tất cả các giao dịch trong ngày phải được xác nhận hoàn tất trong ngày.
6. Thanh toán giao dịch
Việc thực hiện thanh toán giao dịch do nhân viên hỗ trợ giao dịch
thực hiện.
Giao dịch giao ngay: Việc thanh toán theo thỏa thuận cụ thể về thời
điểm chuyển tiền đối với đối tác/ khách hàng nhưng phải thực hiện và kết
thúc chậm nhất trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo sau ngày cam kết mua
bán.
76
Giao dịch kỳ hạn: Ngày thanh toán là ngày làm việc cuối cùng của kỳ
hạn giao dịch và được ghi rõ trong hợp đồng đã đuợc ký kết. Ngân hàng chỉ
được phép chuyển tiền khi đến hạn thanh toán.
Giao dịch hoán đổi:
- Trường hợp giao dịch hoán đổi gồm hai giao dịch giao ngay thì
việc thanh toán dựa trên ngưyên tắc đã quy định đối với giao dịch giao ngay.
- Trường hợp giao dịch hoán đổi gồm một giao dịch giao ngay và
một giao dịch kỳ hạn thì việc thanh toán dựa trên nguyên tắc đã quy định đối
với giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn.
- Trường hợp giao dịch hoán đổi gồm hai giao dịch kỳ hạn thì việc
thanh toán dựa trên nguyên tắc đã quy định đối với giao dịch kỳ hạn
7. Thanh toán bù trừ
Thanh toán bù trừ là việc chỉ thanh toán phần chênh lệch giữa các
giao dịch mua và các giao dịch bán có cùng cặp tiền tệ hoặc của một loại tiền
tệ của nhiều cặp tiền tệ khác nhau, cùng ngày giá trị thanh toán giữa ngân
hàng với đối tác/ khách hàng. Để thực hiện thanh toán bù trừ, ngân hàng và
đối tác/ khách hàng giao dịch phải có thỏa thuận thanh toán bù trừ bằng văn
bản riêng.
8. Theo dõi thanh toán đi và thanh toán đến
Việc theo dõi thực hiện các khoản tiền thanh toán đi và thanh toán
đến do nhân viên hỗ trợ giao dịch thực hiện.
- Theo dõi thực hiện các khoản tiền thanh toán đến: bao gồm theo
dõi tất cả các khoản tiền thanh toán đến trong ngày căn cứ vào các hợp đồng
giao dịch đã thực hiện với đối tác hoặc khách hàng; đối chiếu nội dung nhận
tiền, số tiền thực nhận với nội dung, số tiền trên hợp đồng giao dịch.
77
- Theo dõi thực hiện các khoản tiền thanh toán đi: bao gồm theo
dõi tất cả các khoản tiền phải thanh toán đi trong ngày căn cứ vào các hợp
đồng giao dịch đã được thực hiện với đối tác/ khách hàng; đối chiếu nội dung
chuyển tiền, số tiền thực chuyển trên chứng từ thanh toán đi với nội dung, số
tiền trên hợp đồng giao dịch.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5311_7772.pdf