Thực hiện chính sách khuyến khích cán bộ, nhân viên tích cực học tập,
nâng cao trình độ: Chỉ có thể bằng con đường phát triển tri thức thì tưng cán bộ
nhân viên mới đủ sức đáp ứng yêu cầu về hội nhập và theo kịp sự phát triển của
thế giới về tài chính và ngân hàng quốc tế, nhất là về lĩnh vực TTQT, sự bất
đồng về ngôn ngữ và trình độ có thể gây ra những hậu quả khó lường.
Thực hiện chính sách thu hút nhân tài: Với một chuẩn mực đặt ra về
chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ và chuyên gia TTQT, NH cần có một
chính sách tiền lương thích hợp, một chế độ đãi ngộ học tập nhất định để khuyến
khích cán bộ phấn đấu tốt hơn, tâm huyết với nghề hơn, tránh được tình trạng
nhân viên giỏi chạy sang các ngân hàng nước ngoài hoặc các tổ chức tài chính
khác. Đồng thời sẽ thu hút được chuyên gia có kinh nghiệm TTQT về làm việc
cho NH.
Hai là, Đầu tư cho việc phát triển các chương trình ứng dụng công nghệ:
Ban lãnh đạo công ty cần mạnh dạn xem xét, đầu tư nâng cấp và mua mới hệ
thống máy tính cũng như các phần mềm, các ứng dụng công nghệ phục vụ trực
tiếp cho quá trình thực hiện nghiệp vụ trong TTQT cũng như kiểm soát, quản lý
hoạt động trong toàn hệ thống NH.
95 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2972 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng TMCP xăng dầu Petrolimex - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rước khi quyết định chiết khấu bộ chứng từ như: Uy tín nhà xuất khẩu, thực
trạng hoạt động và khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu nếu bộ chứng từ đó không
được thanh toán, khả năng thanh toán của NH mở, trị giá bộ chứng từ, loại hàng
hoá và mức độ rủi ro biến động tỷ giá của hàng hoá đó trên thị trường, mối quan
62
hệ giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Đối với các L/C có điều khoản mập
mờ, không rõ ràng, dễ phát sinh tranh chấp thì ngân hàng không nên chiết khấu
bộ chứng từ vì khả năng rủi ro rất cao.
NH cần nắm vững tình hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà xuất
khẩu trước khi quyết định chiết khấu. NH phục vụ nhà xuất khẩu khi không chiết
khấu bộ chứng từ mà chỉ gửi bộ chứng từ đến NH mở để đòi tiền, khi đó NH
thông báo chỉ đóng vai trò chuyển chứng từ và không chị trách nhiệm gì về bộ
chứng từ có được thanh toán hay không. Nếu NH phục vụ nhà xuất khẩu đồng ý
chiết khấu bộ chứng từ thì NH này đóng vai trò là NH chiết khấu .Vì vậy, nếu
nhà xuất khẩu không uy tín và không có khả năng thanh toán thì NH chiết khấu
sẽ gánh chịu rủi ro. Ngoài ra, việc nắm vững nhà xuất khẩu giúp NH chiết khấu
yên tâm hơn trong việc tài trợ doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu.
NH chiết khấu cần nghiên cứu kỹ và tuân thủ các quy định trong UCP khi
thực hiện chiết khấu, thận trọng trong khâu kiểm tra chứng từ. Ngoài ra, cũng
cần nắm vững những quy định trong eUCP, ISBP…để có thể áp dụng và vận
hành nó vào thực tiễn một cách trôi chảy, hạn chế tối đa việc phát sinh tranh
chấp do bất đồng quan điểm về bất hợp lệ chứng từ, nhằm tạo điều kiện cho hoạt
động TTQT được phát triển an toàn và hiệu quả.
Đối với phương thức nhờ thu
Áp dụng một biện pháp đảm bảo kèm theo trong những trường hợp ứng
trước tiền hàng cho các bộ chứng từ nhờ thu. Trong quy trình thanh toán nhờ thu
của PG Bank, NH sẽ chiết khấu chứng từ nhờ thu D/A trên cơ sở đã được NH
nước ngoài điện báo ngày chấp nhận đáo hạn, NH thu hộ là NH có uy tín, tuy
nhiên không có một điều luật quốc tế nào ràng buộc trách nhiệm của các NH. Vì
vậy, trong thực tiễn phát sinh rất nhiều bộ chứng từ nhờ thu hàng xuất của khách
hàng Việt Nam, mặc dù đã được người mua chấp nhận thanh toán, nhưng đến
ngày đáo hạn, việc thanh toán không được thực hiện đúng như cam kết, thường
thì sau ngày đáo hạn hàng tháng trời người bán mới nhận được tiền. Bộ chứng từ
nhờ thu hàng xuất không có một cơ sở pháp lý đảm bảo an toàn trong thanh toán
63
cho NH. Còn với bộ chứng từ nhờ thu D/P, NH sẽ chiết khấu với thời gian tối đa
60 ngày, nhưng trong thực tế, các bộ chứng từ nhờ thu D/P cũng bị người mua trì
hoãn, kéo dài thờ gian thanh toán. Do đó, trước khi quyết định chiết khấu , NH
cần xem xét kỹ khả năng tài chính của từng khách hàng mà quyết định, hoặc nên
áp dụng, kèm theo các biện pháp đảm bảo an toàn khác như cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh. Có như vậy mới mang lại hiệu quả cho NH trong khả năng thu hồi vốn,
thu được nợ và tiền lãi trên số tiền ứng trước, giảm thiểu được rủi ro.
Đối với phương thức chuyển tiền
NH cần xem xét và lựa chọn NH thanh toán phù hợp. Thông thường
những lần chuyển tiền qua PG Bank và NH nhận tiền có cùng quan hệ tài khoản
thì khách hàng không bị thu phí hoặc khoản phí là rất nhỏ. Nếu NH không quan
tâm tới vấn đề này mà thanh toán vòng vo qua các NH trung gian sẽ gây lãng phí
cho khách hàng. Để thực hiện biện pháp này, NH phải thường xuyên quan tâm,
đối chiếu D/Anh sách NH đại lý để tìm những NH thích hợp cho từng thị trường.
Với biện pháp này, NH sẽ thu hút được các doanh nghiệp tin tưởng và đến thanh
toán ngày càng nhiều.
Cuối cùng, để thực hiện việc quản trị rủi ro có hiệu quả thiết thực, NH cần
đúc kết kinh nghiệm trong xử lý nghiệp vụ TTQT, viết thành một cuốn cẩm nang
hệ thống các tình huống rủi ro và biện pháp xử lý nghiệp vụ. Với cuốn cẩm nang
này sẽ giúp cho cán bộ TTQT hạn chế được tình trạng sai sót trùng lặp, biết cách
xử lý với các tình huống đặc thù. Nhờ đó, chất lượng của hoạt động TTQT được
nâng cao và hiệu quả mang lại sẽ tăng theo.
2.1.2. Hoàn thiện mô hình quản lý điều hành hoạt động TTQT
Thực hiện theo quyết định của Tổng giám đốc PG Bank kèm theo quyết
định 570-08/QĐ-TGĐ về quy trình thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại áp
dụng toàn hệ thống NH, hoạt động TTQT được tổ chức theo mô hình thanh toán
tập trung. Trụ sở chính của Ngân hàng là đầu mối tập trung các giao dịch thanh
toán quốc tế giữa các chi nhánh trong hệ thống Ngân hàng với các tổ chức tài
64
chính khác trong và ngoài nước. Mô hình này đã phát huy được hiệu quả trong
năm hoạt động vừa qua. Bên cạnh đó, mô hình này cũng tồn tại một số hạn chế
nhất định về tốc độ xử lý, hạn chế tính chủ động của chi nhánh, áp lực công việc
nặng nề cho nhân viên tại Hội sở chính…Chính vì vậy, trong thời gian tới, NH
cần nghiên cứu, hoàn thiện quy trình TTQT trong mô hình thanh toán tập trung.
Đặc biệt, cần có sự phân bổ công việc một cách hợp lý giữa chi nhánh và Hội sở
chính, tận dụng được nguồn lực cán bộ, nhân viên một cách hiệu quả nhất. Làm
được như vậy, hiệu quả kinh doanh của phòng TTQT và TTTM của NH sẽ được
cải thiện và nâng cao.
2.1.3. Có chính sách kinh doanh ngoại hối linh hoạt gắn liền với dịch
vụ TTQT và tín dụng.
Hiện nay, cạnh tranh trong lĩnh vực TTQT giữa các ngân hàng Việt Nam
và một số ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có những lúc khá gay gắt. Để giải
quyết mối quan hệ này, Ngân hàng xăng dầu cần có một chính sách kinh doanh
ngoại hối linh hoạt cả về hình thức và tỷ giá.
Cần đa dạng hoá và phát triển được các loại hình nghiệp vụ kinh doanh
ngoại tệ như: Nghiệp vụ giao ngay, nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi,
nghiệp vụ Arbitrage…Để làm được điều này, phải đào tạo cán bộ ngân hàng am
hiểu tường tận các kỹ năng nghiệp vụ này để có thể tư vấn tốt cho khách hàng
ngay từ khi nắm bắt được họ có nhu cầu mở L/C hàng nhập hoặc ký được hợp
đồng xuất khẩu và có L/C xuất khẩu. Thông qua đó, ngân hàng kinh doanh được
cả hai dịch vụ: Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ TTQT. Ngoài ra ngân
hàng cần có sự phối kết hợp giữa nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và nghiệp vụ tín
dụng với nghiệp vụ TTQT nhằm thu hút khách hàng tập trung thanh toán tiền
hàng xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Ngân hàng sẽ cung ứng dịch vụ tín dụng
nhập khẩu hoặc tài trợ xuất khẩu với một số điều kiện ưu đãi cho các doanh
nghiệp tập trung tín dụng, TTQT và kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng. Đây
chính là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả TTQT. Để làm được điều này,
65
cần có sự phối kết hợp giữa các bộ phận nghiệp vụ tại ngân hàng, mỗi bộ phận
nghiệp vụ cần thống nhất quan điểm vì lợi ích chung của ngân hàng mà có sự
thông báo kịp thời cho nhau những thông tin cần thiết về khách hàng để kịp thời
ngăn chặn rủi ro cũng như phục vụ tốt cho khách hàng. Thông qua hoạt động cho
vay, khách hàng thanh toán tiền hàng nhập khẩu hoặc thu mua hàng xuất khẩu tái
tạo ngoại tệ thu về, ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận một tỷ giá mua, bán
thích hợp, phù hợp cơ chế thị trường, chắc chắn khách hàng sẽ tự nguyện thanh
toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng, hiệu quả mang lại sẽ nhiều hơn vì ngân hàng
thu được hiệu quả cả về nghiệp vụ tín dụng, kinh doanh và TTQT.
2.1.4. Thực hiện kiểm toán hoạt động TTQT
Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, nhu cầu kiểm toán các dự án nước ngoài theo luật, theo các chương
trình tín dụng, phát triển, viện trợ quốc tế là khách quan và ngày càng tăng. Sự
phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức kinh doanh
tập thể, các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải có dịch vụ kiểm toán
độc lập. Hiện nay nghiệp vụ kiểm toán đã đang phát triển và rất nhiều các công
tu kiểm toán đã ra đời. Cùng với sự phát triển của hoạt động kiểm toán, công tác
kiểm toán cũng được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm hơn, bộ phận kiểm
toán của các NH còn nhận thêm trọng trách kiểm toán nội bộ và vai trò, trách
nhiệm của bộ phận kiểm toán nội bộ được nâng cao hơn.
Kiểm toán nội bộ là hoạt động nội kiểm có độc lập cao tại các cơ quan,có
chức năng chính là kiểm tra, đánh giá các hoạt động tài chính, phi tài chính nhằm
bảo vệ tài sản cho các doanh nghiệp cũng như đảm bảo được độ chính xác và độ
tin cậy của sổ sách kế toán, nâng cao hiệu quả các hoạt động trong doanh nghiệp
và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế cơ sở. Hiện nay,
nghiệp vụ kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thực hiện ba chức năng chính là:
Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Ngoài
ra, thông qua quá trình kiểm toán, kiểm toán nội bộ còn có chức năng tư vấn
66
trong nội bộ ngân hàng, đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả cơ cấu tổ chức cũng như quy trình nghiệp vụ của ngân hàng.
Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ là kiểm toán tất cả các quá trình hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, bao gồm mọi quy trình hoạt động kinh doanh. Tuy
nhiên trong thời gian qua, công tác kiểm tra, kiểm soát cũng như kiểm toán nội
bộ tại ngân hàng thường chú trọng tới công tác tín dụng, công tác kế toán, chưa
có một chương trình kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất chuyên sâu trong lĩnh vực
TTQT. Hoạt động TTQT là một hoạt động quan trọng của ngân hàng quốc tế thì
hoạt động này cũng cần có sự quan tâm, kiểm tra giám sát chặt chẽ của ngân
hàng. Nhất là trong xu thế hội nhập như hiện nay, hoạt động TTQT càng đa dạng
và phức tạp, rủi ro càng cao, yêu cầu kiểm toán cho hoạt động TTQT cần được
đặt ra cho các NH nói chung và PG Bank nói riêng.
Để bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại ngân hàng có đủ kỹ năng cần
thiết trên các mặt nghiệp vụ, phục vụ cho công tác được giao có chất lượng và
hiệu quả. Cán bộ kiểm tra phải là những người được đào tạo chuyên sâu trong
lĩnh vực TTQT, đào tạo toàn diện về nghiệp vụ, và có kiến thức thực tế trong
lĩnh vực TTQT. Chỉ khi được trang bị kiến thức cả về lý luận và thực tế thì bộ
phận kiểm tra nội bộ mới mạnh dạn xây dựng chương trình cho hoạt động này.
Khi hoạt động này được quan tâm đúng mức thì mức độ sai sót sẽ giảm đi và
hiệu quả sẽ được cải thiện rất nhiều.
2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng
2.2.1. Đa dạng hoá dịch vụ TTQT thông qua việc áp dụng các phương
thức thanh toán chưa được sử dụng phổ biến ở Việt Nam
Đa dạng hoá dịch vụ TTQT là một trong những giải pháp thiết thực,
không chỉ để mở rộng, phát triển dịch vụ TTQT mà còn là giải pháp hạn chế rủi
ro TTQT nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần
mạnh dạn triển khai một số nghiệp vụ TTQT chưa được áp dụng phổ biến tại
Việt Nam
67
Một là, triển khai và tư vấn cho khách hàng sử dụng nghiệp vụ thanh toán
đổi chứng từ trả tiền CAD (Cash Against Document) trong thanh toán hàng
xuất.
Nghiệp vụ thanh toán đổi chứng từ trả tiền ngay là phương thức mà nhà
nhập khẩu yêu cầu ngân hàng mở tài khoản ký thác (Trust Account) để thanh
toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu khi họ xuất trình đầy đủ chứng từ theo yêu cầu.
Nhà xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sẽ xuất trình bộ chứng từ
cho ngân hàng để nhận tiền thanh toán.
Trong phương thức thanh toán CAD, ngân hàng là trung gian thanh toán,
giữ hộ tiền hàng cho hai bên mua, bán và hưởng phí dịch vụ thanh toán. Người
mua bảo đảm không bị mất tiền nếu người bán không giao hàng, không thực hiện
theo thoả thuận giữa hai bên. Người bán đảm bảo thu được tiền hàng ngay khi
giao hàng mà không sợ rủi ro có thể phát sinh từ người mua.
Hiện nay phương thức thanh toán CAD ít được các doanh nghiệp Việt
Nam biết đến và sử dụng trong TTQT, một vài doanh nghiệp xuất nhập khẩu
cũng bắt đầu quan tâm đến phương thức này nhưng vì non yếu nghiệp vụ TTQT
nên khi ký kết hợp đồng quy định áp dụng phương thức thanh toán CAD nhưng
điều kiện thanh toán lại không phù hợp với phương thức thanh toán này. Với vai
trò là ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu, ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng:
Kỹ thuật nghiệpvụ của phương thức thanh toán này;
Trường hợp nào nên áp dụng
Những điều khoản phạt, tỷ lệ phạt vi phạm điều kiện thanh toán cần
ghi rõ trong hợp đồng.
Quy trình nghiệp vụ của phương thức CAD:
(1): Nhà nhập khẩu tới ngân hàng phục vụ người xuất khẩu ký một bản
ghi nhớ, đồng thời ký quỹ 100% trị giá thương vụ để mở tài khoản ký thác, đồng
thời thực hiện ký qũy 100% giá trị thương vụ để mở tài khoản ký thác. Bản ghi
nhớ sẽ là cơ sở để ngân hàng trả tiền theo chỉ định của nhà nhập khẩu.
Một số nội dung chính của bản ghi nhớ:
68
Nhà nhập khẩu cam kết ký qũy đủ 100% trị giá thương vụ.
Các chứng từ mà nhà xuất khẩu xuất trình khi lĩnh tiền ở ngân hàng.
Thời hạn thanh toán.
Mức phí dịch vụ mà ngân hàng được hưởng và ai phải trả phí này.
(2): Ngân hàng thông báo cho nhà xuất khẩu rằng nhà nhập khẩu đã ký quỹ,
tài khoản ký thác đã bắt đầu hoạt động.
(3): Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu dưới sự kiểm soát của đại
diện nhà nhập khẩu.
(4): Nhà xuất khẩu xuất trình chứng từ cho ngân hàng mà nhà nhập khẩu ký
quỹ để rút tiền.
(5): Ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ của bộ chứng từ và trả tiền cho nhà xuất
khẩu
(6): Ngân hàng giao bộ chứng từ cho đại diện nhà nhập khẩu.
Áp dụng phương thức thanh toán CAD vừa an toàn cho nhà xuất khẩu,
vừa giúp ngân hàng thu được một khoản phí dịch vụ khá trôi chảy và dễ dàng mà
không bị ràng buộc phải kiểm tra chứng từ như phương thức thanh toán bằng
L/C, không bị chiếm dụng vốn trong thanh toán bằng phương thức nhờ thu. Vì
vậy, ngân hàng nên kết hợp với các cuộc hội nghị khách hàng để tuyên truyền,
hướng dẫn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu am hiểu và áp dụng nó trong
thực tiễn. Hiện nay, phương thức này cũng đang phát sinh ở một số chi nhánh
của PG Bank và thực tiễn phát sinh cũng không theo đúng quy trình trên mà còn
có các quy định khác về việc ký quỹ tuỳ theo mối quan hệ giữa hai bên. Tuy
nhiên, nó chưa được ngân hàng xếp vào trong các quy trình hướng dẫn của
ngành.
Hai là, mạnh dạn áp dụng nghiệp vụ L/C điều khoản đỏ trong phương
thức thanh toán L/C
Trong phương thức thanh toán L/C có quy định nhiều loại thư tín dụng,
nhưng trong thực tế hiện nay hầu như các ngân hàng Việt Nam chỉ phát sinh vài
trường hợp thông dụng như L/C trả ngay, L/C trả chậm, hiện nay loại thư tín
69
dụng có điều khoản đỏ chưa được sử dụng phổ biến ở Việt Nam và hầu như ở
Ngân hàng PG Bank chưa phát sinh nghiệp vụ này.
L/C điều khoản đỏ là loại thư tín dụng có điều kiện đặc biệt là cho phép
người hưởng lợi được ứng trước một số tiền nhất định trong tổng số tiền của L/C
đã mở trước khi xuất trình chứng từ. Thực chất, đây là phương thức tài trợ vốn
cho nhà xuất khẩu trước khi giao hàng.
Đối với loại thư tín dụng có điều khoản đỏ cần phân biệt từng trường hợp
ứng trước, ứng trước từ ngân hàng thông báo hoặc ứng trước từ ngân hàng mở.
Ngân hàng cần nắm vững loại nghiệp vụ này và tư vấn cho người xuất khẩu khi
ký hợp đồng. Cụ thể, đứng dưới góc độ là ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu,
ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng xuất khẩu chọn L/C có điều khoản đỏ cho
phép đòi tiền hoàn trả ngay từ phía ngân hàng mở. Vì chỉ có như thế nhà xuất
khẩu mới tận dụng được nguồn vốn từ ngân hàng nước ngoài. Mặt khác đây là
cam kết của người mua đồng ý ứng trước cho người bán thì số tiền này phải
được nhận ngay từ phía người mua. Còn nếu ứng trước từ phía NH thông báo thì
đây chính là điều khoản cho vay ứng trước tiền hàng mà khoản vay này được
đảm bảo hoàn trả từ ngân hàng mở. Tóm lại, việc am hiểu thông lệ quốc tế, nắm
vững các loại L/C để tư vấn và xử lý nghiệp vụ TTQT sẽ giúp hoạt động TTQT
được phát triển và mở rộng được nhiều loại hình nghiệp vụ và kết quả là hiệu
quả hoạt động TTQT tại ngân hàng sẽ được nâng cao.
Ba là, áp dụng nghiệp vụ Bao thanh toán Factoring trong hoạt động
TTQT.
Factoring được hiểu là “một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải mua, bán hàng hóa đã
được bên bán bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán
hàng.”( Quy chế hoạt động bao thanh toán do NH nhà nước ban hành theo QD số
1096/2004/QD-NHNN ngày 6/9/2004)
Từ khái niệm trên có thể thấy được một số đặc điểm của nghiệp vụ
Factoring như: Factoring liên quan đến hợp đồng mua bán các khoản phải thu
70
chưa đến hạn; Nhà Factor tài trợ cho người bán bằng cách ứng trước tiền; Nhà
Factor cung cấp dịch vụ quản lý sổ sách kế toán bán hàng và tiến hành thu nợ khi
đến hạn; Nhà Factor đảm nhận rủi ro tín dụng thay cho nhà xuất khẩu.
Factoring bao gồm hai loại là Factoring nội địa và Factoring quốc tế
Factoring nội địa được sử dụng trong trường hợp cả người mua và người
bán ở cùng một quốc gia, thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ với
nhau trong phạm vi biên giới quốc gia đó.
Factoring quốc tế là dịch vụ bao thanh toán cấp cho người mua và người
bán ở hai quốc gia khác nhau sử dụng phương thức thanh toán Ghi sổ, D/A hay
D/OT. Factoring quốc tế về bản chất, cung cấp tất cả những tiện ích giống như
Factoring nội địa như: Tài trợ ứng trước các khoản phải thu, Quản lý sổ sách kế
toán bán hàng và dịch vụ thu nợ, Đảm bảo rủi ro tín dụng từ phía người mua. Sự
khác biệt giữa Factoring quốc tế với Factoring nội địa là có sự tham gia thêm của
nhà Factor đại lý. Nhà Factor đại lý thường có trụ sở đặt tại nước người nhập
khẩu và thường là thành viên trong cùng hiệp hội Factoring quốc tế. Nhà Factor
đại lý được ủy quyền thu nợ từ nhà nhập khẩu và bảo lãnh về khả năng thanh
toán của nhà nhập khẩu.
Factoring quốc tế là một trong những nghiệp vụ hỗ trợ xuất khẩu tiên tiến,
đang được sử dụng phổ biến ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển trên
thế giới và hiện nay cũng đang được một số các NHTM Việt Nam áp dụng như
Vietcombank, Sacombank, NH TMCP Hằng Hải…
Thực hiện dịch vụ này, nhà xuất khẩu có được một số thuận lợi sau:
Cho phép nhà xuất khẩu bán hàng theo phương thức thanh toán Ghi
sổ và D/A, nghĩa là nhà nhập khẩu được cấp tín dụng thương mại, do
đó làm tăng năng lực xuất khẩu và cạnh tranh của nhà xuất khẩu
Nhà xuất khẩu giảm thiểu rủi ro không được thanh toán bởi nhà nhập
khẩu bởi rủi ro này đã được nhà Factoring nhập khẩu bảo lãnh.
Nhà xuất khẩu được tài trợ ngay sau khi bán hàng làm cho việc bán
hàng trở nên giống với trả tiền ngay. Điều này làm tăng khả năng
71
thanh khoản và tăng vòng quay vốn, từ đó tăng được doanh số bán
hàng.
Mọi chứng từ sổ sách, giám sát các khoản phải thu của nhà xuất khẩu
đều được giao cho nhà Factor quản lý. Nhà xuất khẩu cũng không
phải đi thu hồi nợ.
Như vậy, thực hiện nghiệp vụ này rủi ro của nhà xuất khẩu đã chuyển
sang cho tổ chức Factoring.
Đối với NH khi thực hiện vai trò là nhà Factor thì NH cần phải tìm hiểu
kỹ lưỡng về người bán và người mua, đảm bảo chắc chắn rằng các khoản phải
thu là hợp lý và có thể được thanh toán. Cụ thể, trong hợp đồng bao thanh toán
giữa nhà Factoring và người bán cần có đủ các điều kiện như:
Người bán cam kết bán các khoản phải thu với các điều kiện và điều
khoản quy định trong hợp đồng bao thanh toán.
Người bán đảm bảo rằng các khoản phải thu là hợp lệ, khả thi và
không có tranh chấp. Người bán cũng phải cam kết sẽ giải quyết các
tranh chấp, bồi thường các thiệt hại và các khoản khấu trừ liên quan
đến các hóa đơn đã bán cho nhà Factor.
Tóm lại, Factoring quốc tế là một trong những phương thức tài trợ ngoại
thương cho nhà xuất khẩu, mang lại nhiều lợi ích cho nhà xuất khẩu. Hiện nay,
đa số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm
trong lĩnh vực TTQT. Nếu ngân hàng mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng nghiệp
vụ này vào thực tiễn sẽ mang lại hiệu quả thiết thực cho cả ngân hàng và cho
toàn xã hội. Nó không những hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,
giúp họ mở rộng hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho hàng Việt Nam cạnh
tranh trên thị trường thế giới mà còn mang lại hiệu quả hoạt động TTQT cho
ngân hàng rất nhiều. Vì đây là dịch vụ mà ngân hàng sẽ gánh chịu rủi ro tín dụng
thay cho nhà xuất khẩu nên khoản phí dịch vụ Factoring khá cao. Tuy nhiên, để
có thể vận dụng phương thức thanh toán này một cách trôi chảy, các nhà lãnh
72
đạo ngân hàng cần phải trang bị kiến thức cho cán bộ làm công tác TTQT cả về
lý luận và thực tiễn áp dụng của nghiệp vụ này trước khi vận hành vào thực tiễn.
2.2.2. Thực hiện chiến lược Marketing ngân hàng
Hiệu quả hoạt động ngân hàng, khả năng tồn tại và phát triển của ngân
hàng phụ thuộc vào khách hàng, vào sự tín nhiệm của cả người gửi lẫn người
vay và cả những người sử dụng dịch vụ ngân hàng. Đây chính là cơ sở để hình
thành hoạt động marketing ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng Việt Nam đã bắt
đầu quan tâm tới công tác marketing ngân hàng. PG Bank cũng đã thành lập
phòng marketing để nghiên cứu thị trường, nắm bắt hoạt động của khách hàng
nhằm tham mưu tốt cho ban lãnh đạo trong phát triển hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Tuy nhiên hoạt động này chưa được phát triển, chưa được quan tâm đúng
mức, chưa đủ tầm đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường.
Để xây dựng và thực hiện chiến lược marketing ngân hàng mang lại hiệu
quả thiết thực, ngân hàng cần có chính sách khách hàng linh hoạt. Đây là một
trong những bộ phận chủ chốt của marketing ngân hàng. Với cơ chế thị trường
hiện nay, ngân hàng không thể ngồi chờ khách hàng đến với mình mà ngân hàng
phải tìm đến khách hàng, tiếp cận trực tiếp với khách hàng để có quan hệ tốt với
họ, qua đó ngân hàng sẽ nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, giới thiệu với họ
những sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng có khả năng cung ứng cho họ, giúp họ
hiểu hơn về các dịch vụ ngân hàng quốc tế, các khả năng ngân hàng có thể giúp
họ kinh doanh trên thương trường quốc tế. Chỉ khi nắm bắt, am hiểu về các dịch
vụ của ngân hàng, thấy được chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho họ,
khách hàng mới yên tâm giao dịch với khách hàng, trung thành và hợp tác với
ngân hàng, và thông qua họ, ngân hàng có thể thu hút khách hàng mới.
Bên cạnh chính sách khách hàng, phải thực hiện khuyếch trương, quảng
cáo về hoạt động của ngân hàng một cách có hệ thống, quảng cáo theo sản phẩm,
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm giới thiệu tiện ích của từng
sản phẩm mà ngân hàng đã, đang và sẽ cung cấp cho khách hàng, giúp mọi đối
73
tượng khách hàng, từ dân cư đến doanh nghiệp có thể hiểu hơn về các nghiệp vụ
của ngân hàng.
Muốn làm được điều này, ngân hàng phải trang bị các kiến thức, kinh
nghiệm và nghệ thuật tiếp cận khách hàng không chỉ cho bản thân từng nhà lãnh
đạo mà còn cho cả nhân viên ngân hàng, phải đào tạo đội ngũ cán bộ làm công
tác khách hàng chuyên nghiệp. Đặc biệt là phải đào tạo được đội ngũ chuyên gia
marketing ngân hàng. Có như vậy, cán bộ ngân hàng mới có thể nhận thức, đánh
giá được các quy luật khách hàng của nền kinh tế thị trường, mới có khả năng sử
dụng hữu hiệu các kỹ thuật marketing vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại.
Mục tiêu cuối cùng của marketing ngân hàng là mang lại hiệu quả kinh
doanh ngân hàng, hiệu quả về doanh thu hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt
động TTQT nói riêng, hiệu quả về uy tín và thế mạnh trên thương trường kinh
doanh. Vì vậy, để thực hiện chiến lược marketing ngân hàng của mình, ngân
hàng cần có nguồn kinh phí thích đáng dùng cho hoạt động này.
2.2.3. Phát triển dịch vụ tư vấn
Trong tình hình thực tế hiện nay, đa số các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu
còn thiếu kinh nghiệm trong thương lượng ký hợp đồng ngoại thương, nhất là
các doanh nghiệp tư nhân, mới bước chân vào thương trường quốc tế, thiếu trình
độ chuyên môn về TTQT, non yếu về trình độ ngoại ngữ, không am hiểu về các
điều kiện thương mại quốc tế, thường dẫn đến kết quả là phát sinh tranh chấp,
kiện tụng, kinh doanh kém hiệu quả. Chính vì thế mà công tác tư vấn cho khách
hàng rất quan trọng. Với vai trò tư vấn, ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng
những điều khoản cần, ràng buộc trong hợp đồng, lựa chọn các điều kiện thanh
toán phù hợp với từng phương thức thanh toán, nếu có thể ngân hàng còn tư vấn
cho khách hàng ở những góc độ rộng hơn về hoạt động thương mại xuất nhập
khẩu, về các điều kiện thương mại quốc tế, về kiến thức pháp luật liên quan.
Dịch vụ tư vấn càng phát triển, ngân hàng càng tạo được niềm tin ở khách hàng,
74
sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, sẽ nâng cao hiệu quả
kinh doanh cho ngân hàng rất nhiều.
Việc thực hiện dịch vụ tư vấn khá phức tạp. Nó đòi hỏi một kỹ năng giao
tiếp, một trình độ chuyên môn sâu, nhiều kinh nghiệm được tích luỹ của mỗi
nhân viên ngân hàng, và nhà lãnh đạo ngân hàng. Muốn thực hiện được dịch vụ
này, bản thân từng nhân viên ngân hàng cũng như nhà lãnh đạo cần được thường
xuyên đào tạo và đào tạo lại để thích ứng với cơ chế thị trường đang thay đổi
hằng ngày.
Trong năm qua, Ngân hàng đã tư vấn cho khách hàng về TTQT, nhưng
chưa coi đây là dịch vụ thu phí để tạo doanh thu cho ngân hàng nên chưa xây
dựng biểu phí dịch vụ cho hoạt động này. Vì vậy, trong tương lai nếu coi đây là
một dịch vụ thì ngân hàng phải thu phí và khi đó đã được khách hàng quan tâm
thì khoản phí dịch vụ thu về từ hoạt động này sẽ tăng, tất yếu sẽ gia tăng hiệu
quả cho hoạt động TTQT.
2.2.4. Mở rộng quan hệ ngân hàng đại lý
Trong quá trình xử lý nghiệp vụ TTQT tại ngân hàng, hệ thống ngân hàng
đại lý có đóng góp tích cực trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
TTQT rất nhiều. Thông qua mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, các ngân
hàng sẽ thiết lập mối quan hệ tài khoản, hợp tác trong việc cung cấp thông tin về
tài chính và khách hàng nước ngoài, hỗ trợ các dịch vụ trong quá trình thực hiện
TTQT, hỗ trợ đào tạo cán bộ TTQT… Để có thể hỗ trợ đắc lực cho quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, bên cạnh việc duy trì mối quan hệ tốt với
khách hàng có quan hệ truyền thống, PG Bank cần tích cực, chủ động hơn nữa
trong việc phát triển và mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới,
tiếp cận với các ngân hàng ở nước mà Việt Nam đã và đang có mối quan hệ
thương mại, xây dựng một chiến lược về công tác quan hệ đại lý. Một chiến lược
về quan hệ đại lý sẽ có hiệu quả khi:
Có sự gắn kết công tác quan hệ đại lý với công tác khách hàng.
75
Chủ động tìm kiếm ngân hàng đại lý ở những thị trường mới, thị trường
trong nước mới có thể có quan hệ thương mại và mời chào dịch vụ với họ.
Thường xuyên theo dõi, đánh giá mối quan hệ giữa PG Bank và ngân
hàng đại lý trên các mặt giao dịch, thanh toán để xếp hạng uy tín, lựa chọn ngân
hàng thanh toán có hiệu quả nhất.
Sau khi thiết lập được quan hệ ngân hàng đại lý, PG Bank cần bổ sung kịp
thời các ngân hàng này trên mạng cả về tên, mã Bic Code, Swift Code nhằm
giúp quá trình tra cứu, chọn lựa ngân hàng trong thực hiện nghiệp vụ TTQT tại
các chi nhánh được nhanh chóng và kịp thời hơn.
2.2.5. Mở rộng mạng lưới chân rết ở nước ngoài
Thời gian qua, trong cuộc cạnh tranh không tương sức giữa các ngân hàng
Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài phải kể đến yếu tố mạng lưới chi nhánh
rộng khắp toàn cầu của các ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài với mạng lưới
chi nhánh rộng khắp thế giới, khi mở rộng thị trường đến Việt Nam đã làm cho
thị phần TTQT và kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng Việt Nam bị sụt giảm
đáng kể. Nguyên nhân là do:
Trong thông báo L/C hàng xuất, NH nước ngoài thường yêu cầu thương
nhân nước ngoài mở L/C cho khách hàng xuất khẩu Việt Nam qua ngân hàng
thông báo là chi nhánh của họ ở Việt Nam.
Trong thanh toán L/C hàng xuất trong cùng hệ thống mạng lưới của mình,
việc chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất ngay lúc xuất trình sẽ an toàn hơn, với ưu
thế này ngân hàng nước ngoài sẽ có lợi thế hơn ngân hàng Việt Nam trong
nghiệp vụ chiết khấu miễn truy đòi bộ chứng từ hàng xuất.
Sử dụng các biện pháp giảm phí dịch vụ để mua ngoại tệ giá cao.
Cùng với việc cạnh tranh thị trường với ngân hàng nước ngoài, PG Bank
còn phải đối mặt với một hệ thống các chi nhánh rộng khắp thế giới của các ngân
hàng thương mại Việt Nam, điều này cũng là một thử thách rất lớn.
76
Hiện nay, PG Bank đã thiết lập được một số chi nhánh và văn phòng đại
diện ở nước ngoài, nhưng con số này còn khá khiêm tốn so với một số ngân hàng
trong hệ thống NHTM Việt Nam, và càng ít hơn so với NH nước ngoài. Với việc
mở rộng các chi nhánh ở nước ngoài, tạo một mạng lưới chân rết toàn cầu sẽ
mang đến cho ngân hàng nhiều lợi ích: Chi nhánh NH ở nước ngoài là nơi nắm
bắt thông tin về thị trường và thương nhân nước ngoài để tư vấn cho khách hàng
và khách hàng trong nước thực hiện kinh doanh có lợi nhất, phòng tránh rủi ro
trong kinh doanh, là đầu mối cho NH trong việc tiếp nhận các yêu cầu của khách
hàng, thực hiện trọn quy trình thanh toán cho khách hàng trong và ngoài nước,
nhờ đó sẽ rút ngắn được thời gian thanh toán tiền hàng, tạo hiệu quả kinh doanh
cho cả khách hàng và ngân hàng.
2.3. Giải pháp về công nghệ thông tin
Hoàn thiện các chƣơng trình ứng dụng công nghệ ngân hàng trong
TTQT
Trong xu thế phát triển thương mại điện tử cao như hiện nay, đòi hỏi các
ngân hàng phải quan tâm đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ hiện đại vào
hoạt động NH nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Mặt khác, nhu cầu khách
hàng giao dịch hiện nay ngày càng tăng và đa dạng hơn, do vậy muốn thu hút
khách hàng thì yêu cầu không chỉ chất lượng dịch vụ tốt mà cần phải có công
nghệ ngân hàng mới đáp ứng đủ yêu cầu.
Trong giao dịch quốc tế, hiện nay hầu hết các ngân hàng đều tham gia
mạng thanh toán liên ngân hàng Swift. Nhờ đó đã rút ngắn được thời gian giao
dịch, nâng cao được hiệu quả trong TTQT. Tuy nhiên nếu chỉ tham gia vào mạng
thanh toán Swift thì chưa đủ, NH cũng cần phải ứng dụng nhiều công nghệ khác
vào lĩnh vực TTQT. Hiện tại PG Bank cũng xây dựng một hệ thống NH lõi
CoreBanking để phục vụ hoạt động giao dịch nội bộ trong hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra, NH cũng nên bổ sung thêm một số ứng dụng công nghệ trong báo cáo
thống kê, hạch toán kế toán…
77
Hiện đại hóa công nghệ thông tin không chỉ đòi hỏi phải có nguồn vốn mà
cần có cả sự năng động của ban lãnh đạo, mạnh dạn đầu tư mua sắm máy móc,
thiết bị, phần mềm hiện đại, cung cấp dịch vụ ngân hàng ảo…Khi sự kết nối giữa
khách hàng và ngân hàng được dễ dàng thì hiệu quả kinh doanh sẽ được cải thiện
đáng kể.
2.4. Giải pháp về con ngƣời
Nâng cao năng lực cho nhà quản trị ngân hàng và chất lƣợng đội ngũ
cán bộ nhân viên TTQT tại Ngân hàng.
Con người là nhân tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp. Thực
tế đã chứng minh mọi rủi ro tác nghiệp do con người gây ra đều ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, sự điều hành yếu kém về năng lực chuyên
môn của các nhà quản lý đều có thể dẫn tới những suy thoái hoạt động kinh
doanh của một ngân hàng. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, để tồn tại và phát
triển được, đòi hỏi ngân hàng phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ và quản lý
có chuyên môn nghiệp vụ và năng lực điều hành trên từng lĩnh vực cụ thể.
Để có thể xây dựng một đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng có đủ tri
thức và năng lực, PG Bank cần xây dựng một chiến lược nhân sự cụ thể. Chiến
lược này bao gồm: Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo điều kiện cho
nguồn nhân lực này đủ sức đáp ứng yêu cầu kinh doanh của ngân hàng.
3. Một số kiến nghị để phát triển hoạt động TTQT tại PG Bank
3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Để phát triển và mở rộng hoạt động TTQT, nâng cao hiệu quả hoạt động
này tại NH không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân ngân hàng mà còn phải có
một hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp của Nhà nước. Các chính sách
kinh tế vĩ mô tác động trực tiếp tới mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ
chức cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu,
một lĩnh vực gắn liền với hoạt động TTQT tại NH. Việc ban hành các chính sách
78
kinh tế hợp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu là điều kiện cần thiết để giúp các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu an tâm, tin tưởng vào nhà nước mà đẩy
mạnh phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Khi hoạt động xuất nhập khẩu
của đất nước ngày càng phát triển thì yêu cầu phục vụ thanh toán trả tiền hoặc
đòi tiền trong TTQT càng nhiều, điều này sẽ giúp phát triển hoạt động TTQT tại
NH rất nhiều, nhờ đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT cho NH. Đồng thời
với một chính sách xuất nhập khẩu hợp lý của Nhà nước sẽ ảnh hưởng tích cực
tới cán cân TTQT của đất nước. Do vậy, với vai trò điều khiển vĩ mô nền kinh tế,
Nhà nước cần quan tâm thực hiện một số vấn đề như:
Một là, xây dựng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
Hoạt động TTQT của NH sẽ an toàn và phát triển có hiệu quả chỉ trên môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định. Một môi trường kinh tế thiếu ổn định sẽ gây tâm lý
e ngại kinh doanh cho các doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp hạn chế xuất
nhập khẩu thì hoạt động TTQT khó có thể phát triển được.
Sự ổn định và phát triển bền vững nền kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật
thiết với các thị trường tài chính. Chỉ khi nền kinh tế phát triển, lạm phát được
kiềm chế, giá trị đồng nội tệ ổn định thì doanh nghiệp mới an tâm, tin tưởng và
tham gia đầu tư vào lĩnh vực xuất nhập khẩu, mới tích cực tìm kiếm thị trường,
tìm kiếm đối tác kinh doanh. Quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp càng phát triển thì hoạt động TTQT sẽ sôi động hơn và hiệu quả hơn.
Hai là, Chính phủ sớm hoàn thiện các văn bản pháp luật hiện hành và
ban hành các văn bản pháp luật mới về hoạt động TTQT.
Mọi hoạt động ngân hàng cần được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy
ra, vì nó chỉ phát triển với hiệu quả cao khi nó được tồn tại trong môi trường
pháp lý hoàn thiện, đặc biệt là hoạt động TTQT, một hoạt động không chỉ liên
quan tới các đối tác trong nước mà còn liên quan tới đối tác nước ngoài. Vì vậy
việc hoàn thiện các văn bản pháp luật hiện hành và sớm ban hành các văn bản
pháp luật riêng cho hoạt động TTQT sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp cũng như
ngân hàng có cơ sở để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
79
Hiện nay trong TTQT, các ngân hàng chủ yếu căn cứ vào các quy tắc thực
hành theo thông lệ quốc tế mà thực hiện như UCP 600, URC 522, ISBP 681,
eUCP 1.1… Quá trình thực hiện nghiệp vụ tất yếu nảy sinh tranh chấp, kiện tụng
nhưng phía Việt Nam chưa có một hành lang pháp lý chặt chẽ cho hoạt động
TTQT. Trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới, bên cạnh việc ngân hàng phải
nỗ lực nghiên cứu học tập, nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn để có đủ
trình độ, các ngân hàng rất cần có sự hỗ trợ của Chính phủ, tạo điều kiện cho NH
chủ động hội nhập nhập nhưng cũng cần có hành lang pháp lý bảo vệ cho hoạt
động TTQT của các NH Việt Nam, giúp NH có cơ sở pháp lý để giải quyết khi
tranh chấp xảy ra. Giao dịch này tuy là của NH, nhưng liên quan tới nhiều bộ
ngành trong nước như: Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, Phòng thương mại
và Công nghiệp Việt Nam…nên cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
hữu quan nhằm tạo sự nhất quán cho việc ban hành cũng như thực thi trong thực
tiễn. Quy chế này không nên đối nghịch với thông lệ quốc tế nhưng phải phù hợp
với các bộ luật của Việt Nam
Ba là, Chính phủ có cơ chế quản lý ngoại hối theo xu hướng khuyến khích
và tạo điều kiện thuận lợi để thị trường ngoại hối trong nước phát triển với đầy
đủ các nghiệp vụ nhằm hỗ trợ cho hoạt động TTQT phát triển.
Thị trường ngoại hối có vai trò bôi trơn và thúc đẩy hoạt động thanh toán
xuất nhập khẩu của nền kinh tế phát triển. Đối với các nhà kinh doanh xuất nhập
khẩu, khi xuất khẩu hàng hoá thu ngoại tệ về, họ sẽ bán số ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối để nhận nội tệ về, và khi nhập khẩu họ sẽ dùng số ngoại tệ họ
có hoặc phải mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để thanh toán tiền hàng. Như
vậy hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia luôn gắn liền với hoạt động của
thị trường ngoại hối. Hiện nay thị trường ngoại hối của Việt Nam cũng khá sôi
động và đang trên đà phát triển, song vẫn còn khá mới và các nghiệp vụ kinh
doanh cũng chưa được đa dạng. Để thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển
hơn, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước thì việc hoàn thiện và
mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối là rất cần thiết. Nó không chỉ giúp
80
cho hoạt động này phát triển hơn, đáp ứng nhu cầu hội nhập mà còn thúc đẩy
hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu phát triển mạnh hơn. Nhờ đó sẽ phát triển
hoạt động TTQT tại NH. Vì vậy, một cơ chế, chính sách thông thoáng của Chính
phủ về điều hành hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu cùng với một cơ chế quản
lý ngoại hối theo xu hướng khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho thị
trường ngoại hối trong nước phát triển sẽ hỗ trợ cho hoạt động TTQT phát triển
và nâng cao hiệu quả của hoạt động.
Bốn là, Chính phủ có biện pháp mở rộng quan hệ và ký hiệp định xác lập
quan hệ bảo lãnh thanh toán hàng xuất khẩu với thị trường có nhiều rủi ro.
Hiện nay quá trình xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu của Việt Nam đã mở rộng ra rất nhiều thị trường nước ngoài như
Đông Âu, Châu Phi…Tiềm năng xuất khẩu tới các thị trường này là rất lớn. Tuy
nhiên mức độ rủi ro cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang các thị
trường này cũng rất lớn. Để có thể giảm bớt rủi ro đáng tiếc cho doanh nghiệp
Việt Nam xuất bán được hàng mà vẫn đảm bảo thu được tiền hàng, thu ngoại tệ
về cho đất nước cần có sự bảo lãnh thanh toán của NH nước ngoài. Để làm được
điều này cần có sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc ký kết hiệp định thanh toán
giữa hai nước.
3.2. Kiến nghị với NH nhà nƣớc.
Trong xu thế hội nhập quốc tế về NH, đòi hỏi ngành NH phải tích cực,
chủ động hơn nữa trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt
động NH phù hợp thông lệ quốc tế, hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động
NH nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Thời gian qua, NH nhà nước đã
không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ cho hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Các cơ chế chính sách được xây dựng theo hướng ngày càng thông thoáng, đáp
ứng yêu cầu thực tế của NH, từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Các cơ chế
liên quan đến chính sách tiền tệ ngày càng hoàn thiện, phù hợp diễn biến thị
trường tiền tệ, ổn định được thị trường tiền tệ trong nước. Cơ chế quản lý ngoại
81
hối được đổi mới theo hướng giảm dần sự can thiệp của NH nhà nước đến hoạt
động kinh doanh ngoại hối của tổ chức tín dụng đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các NHTM phát triển dịch vụ kinh doanh ngoại tệ. Sự đổi mới cơ chế điều hành
tỷ giá theo hướng sát với diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường đã góp phần
khuyến khích xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu ngoại têc ho
doanh nghiệp và dân cư, thu hẹp chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị
trường chính thức, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối của nhà nước, thuận lợi
cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của tổ chức tín dụng.
Một là, duy trì chính sách tỷ giá linh hoạt
Những biến động về tỷ giá hối đoái có tác động đến hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động TTQT của
NH. Những năm gần đây, NH Nhà nước đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề này,
ban hành cơ chế điều hành chính sách tỷ giá khá linh hoạt. Việc xây dựng tỷ giá
phù hợp với thị trưrờng đã có tác động tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng hoạt động sôi động, giảm bớt sức ép cung cầu, cải thiện cán cân thanh
toán. Vì vậy NH Nhà nước nên tiếp tục duy trì một chính sách tỷ giá ổn định
nhằm giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu an tâm kinh doanh, mang lại hiệu
quả không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho hoạt động TTQT của NH và cho sự
phát triển kinh tế của đất nước.
Hai là, duy trì chính sách quản lý ngoại hối thông thoáng.
Mọi thay đổi về chính sách quản lý ngoại hối đều ảnh hưởng tới hoạt động
TTQT. Với một chính sách quản lý ngoại hối thông thoáng sẽ khiến cho hoạt
động kinh doanh tiền tệ liên ngân hàng diễn ra sôi động hơn, thông qua đó,
doanh nghiệp sẽ tích cực hơn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới để có
nhiều ngoại tệ. Từ đó, hoạt động TTQT sẽ được phát triển và mở rộng, mang lại
hiệu quả nhiều hơn.
Ba là, có quy chế cho hoạt động mua bán nợ tiền hàng xuất khẩu
Ở Việt Nam hiện nay NH Nhà nước đã có quyết định cho phép việc mua
bán nợ trong nước đối với các tổ chức tín dụng, đối tượng mua bán nợ trong
82
quyết định này chưa bao gồm các hối phiếu, lệnh phiếu, giấy báo liên quan đến
hàng hoá xuất nhập khẩu. NH Nhà nước nên nghiên cứu và sớm ban hành các
quyết định hướng dẫn các NH thực hiện nghiệp vụ này, mở rộng hơn đối tượng
mua bán nợ hiện hành, giúp các NH mạnh dạn hơn trong việc triển khai áp dụng
và phát triển dịch vụ này ở Việt Nam.
Bốn là, có hướng dẫn xử lý nghiệp vụ nhờ thu và CAD trong TTQT.
Hiện nay NHNN chưa ban hành một văn bản hướng dẫn xử lý nghiệp vụ
nhờ thu và CAD thống nhất giữa các NHTM. Các NHTM trong quá trình hoạt
động, tự xây dựng quy trình thực hiện nghiệp vụ của riêng NH đó, điều này gây
khó khăn cho các NH mới cung cấp hoạt động TTQT và cũng là khó khăn cho
khách hàng khi có nhu cầu thực hiện giao dịch ở các NH khác nhau. Đặc biệt với
phương thức thanh toán CAD là một phương thức còn chưa được phổ biến áp
dụng, rất ít các doanh nghiệp Việt Nam biết đến, hoặc một số doanh nghiệp biết
đến thì cũng không dám mạnh dạn áp dụng thì việc ban hành một văn bản hướng
dẫn cụ thể về xử lý nghiệp vụ là rất cần thiết.
3.3. Kiến nghị đối với NH PG Bank
Hoạt động TTQT đã và đang phát huy được vai trò của mình vào hiệu quả
hoạt động kinh doanh chung của NH PG Bank. Để có thể khắc phục được những
hạn chế của hoạt động này đồng thời đẩy mạnh phát triển, mở rộng hoạt động,
nâng cao hiệu quả của hoạt động này, đòi hỏi sự quan tâm và nỗ lực của toàn thể
ban lãnh đạo và nhân viên của NH. Cụ thể, NH cần quan tâm thực hiện một số
vấn đề như:
Một là, xây dựng chiến lược nhân sự cụ thể, bao gồm:
Trong công tác tuyển chọn cán bộ: Ngân hàng cần có một chuẩn mực nhất
định, tránh tình trạn tuỳ tiện, dễ dãi dẫn đến việc thu nhận một đội ngũ cán bộ
thiếu năng lực chuyên môn, thiếu đạo đức và hậu quả là gây tổn thất, mất mát,
ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Sau tuyển chọn cần
giao nhiệm vụ cho cán bộ theo đúng chuyên ngành, chuyên môn nghiệp vụ được
83
đào tạo để giúp cán bộ có điều kiện phát huy năng lực, phục vụ cho ngân hàng.
Tránh tình trạng tuyển dụng không đúng ngành, chưa qua trường lớp, chưa có
kinh nghiệm thực tiễn trong ngành ngân hàng, năng lực chuyên môn còn hạn chế
mà đã vội bố trí vào những vị trí chủ chốt của ngân hàng.
Xây dựng một kế hoạch cụ thể trong công tác đào tạo: Kế hoạch đào tạo
bao gồm: lĩnh vực đào tạo chuyên môn, đối tượng đào tạo, trình độ cần đào tạo,
thời gian đào tạo…Trong TTQT, ngân hàng cần trú trọng đào tạo cán bộ không
chỉ tinh thông nghiệp vụ chuyên môn về TTQT, về thông lệ và tập quán quốc tế,
về điều kiện thương mại quốc tế mà còn phái có một trình độ ngoại ngữ nhất
định. Ngân hàng cũng cần phải đào tạo các chuyên gia TTQT. Để làm được điều
này, NH cần làm một số việc, cụ thể như: Thường xuyên cử nhân viên đi đào tạo
về chuyên môn và ngoại ngữ trong và ngoài nước, Tổ chức đào tạo tại chỗ bằng
cách mời chuyên gia về giảng dạy, Tổ chức tập huấn nội bộ…
Trong năm qua, hầu hết nhân viên cán bộ làm công tác TTQT ở các chi
nhánh của PG Bank đều chưa thông thạo về nghiệp vụ này, chưa được đào tạo
chuyên sâu về lý luận và thực tiễn. Vì vậy mà hầu hết các giao dịch đều phải
chuyển về hội sở chính để xử lý. Việc khẩn trương xây dựng một đội ngũ chuyên
gia ngân hàng giỏi chuyên sâu trên từng lĩnh vực nghiệp vụ ngân hàng, trong đó
có nghiệp vụ TTQT là việc rất cấp thiết và cần làm ngay.
Bên cạnh việc đào tạo chuyên môn và ngoại ngữ, NH cũng cần trang bị
kiến thức pháp luật cho cán bộ nhân viên. Vì hiện nay trong TTQT, các NH
không chỉ thực hiện theo thông lệ quốc tế mà còn cần am hiểu các Nghị định,
thông tư hướng dẫn, Quyết định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về quản
lý ngoại hối…để vận dụng vào thực tiễn kinh doanh của NH. Vì vậy, các nhà
quản lý NH cần thường xuyên cập nhật kiến thức và thông tin pháp luật cho cán
bộ NH. Làm được điều này sẽ đảm bảo cho hoạt động ngân hàng phù hợp pháp
luật, tạo được uy tín cho NH.
Kiểm tra định kỳ nghiêm túc về kiến thức của từng nhân viên: Cần kiểm
tra định kỳ kiến thức và khả năng xử lý nghiệp vụ của cán bộ nhân viên, tiếp tục
84
bố trí những nhân viên có năng lực, nhanh nhậy tinh thông trong xử lý nghiệp vụ
ở bộ phận TTQT. Thay thế các nhân viên yếu kém, thiếu tinh thần trách nhiệm.
Thực hiện chính sách khuyến khích cán bộ, nhân viên tích cực học tập,
nâng cao trình độ: Chỉ có thể bằng con đường phát triển tri thức thì tưng cán bộ
nhân viên mới đủ sức đáp ứng yêu cầu về hội nhập và theo kịp sự phát triển của
thế giới về tài chính và ngân hàng quốc tế, nhất là về lĩnh vực TTQT, sự bất
đồng về ngôn ngữ và trình độ có thể gây ra những hậu quả khó lường.
Thực hiện chính sách thu hút nhân tài: Với một chuẩn mực đặt ra về
chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ và chuyên gia TTQT, NH cần có một
chính sách tiền lương thích hợp, một chế độ đãi ngộ học tập nhất định để khuyến
khích cán bộ phấn đấu tốt hơn, tâm huyết với nghề hơn, tránh được tình trạng
nhân viên giỏi chạy sang các ngân hàng nước ngoài hoặc các tổ chức tài chính
khác. Đồng thời sẽ thu hút được chuyên gia có kinh nghiệm TTQT về làm việc
cho NH.
Hai là, Đầu tư cho việc phát triển các chương trình ứng dụng công nghệ:
Ban lãnh đạo công ty cần mạnh dạn xem xét, đầu tư nâng cấp và mua mới hệ
thống máy tính cũng như các phần mềm, các ứng dụng công nghệ phục vụ trực
tiếp cho quá trình thực hiện nghiệp vụ trong TTQT cũng như kiểm soát, quản lý
hoạt động trong toàn hệ thống NH.
85
KẾT LUẬN
Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex là ngân hàng mới trong hoạt động
cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế. Trong năm 2009 và những tháng đầu năm
2010, PG Bank đã có những cố gắng để xây dựng và hoàn thiện mô hình TTQT
tại NH, nâng cao hiệu quả và phát triển hoạt động TTQT, nâng cao uy tín và
năng lực cạnh tranh ngang tầm một ngân hàng quốc tế trong khu vực và trên thế
giới.
Tác giả sau quá trình nghiên cứu sách báo và tìm hiểu thực tế hoạt động
tại NH PG Bank đã cố gắng hoàn thành khoá luận và rút ra một số kết luận sau:
Một là, Hoạt động TTQT tại PG Bank chỉ có thể hoạt động hiệu quả và
phát triển được khi NH am hiểu kiến thức về TTQT và vận dụng một cách linh
hoạt các kiến thức đó vào trong thực tiễn hoạt động của NH.
Hai là, Hoạt động TTQT tại PG Bank tuy có đạt được một số thành tựu
nhất định, nhưng còn bộc lộ nhiều yếu kém trong thực tiễn hoạt động, nhất là
trong công tác quản trị rủi ro, công tác phối hợp hoạt động giữa Hội sở chính và
các chi nhánh và giữa phòng TTQT với các phòng kinh doanh có liên quan.
Ba là, Hoạt động TTQT tại PG Bank có thể khắc phục được những hạn
chế và đạt được mục tiêu phát triển trong những năm tới nếu thực hiện đồng bộ
những biện pháp thích hợp trong công tác quản lý nội bộ, đào tạo nhân sự, phát
triển thị trường.
Bốn là, Để nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT tại NH PG Bank nói riêng
và tại các NHTM Việt Nam nói chung, bên cạnh những nỗ lực của chính các NH
còn rất cần sự chỉ đạo, quan tâm, hướng dẫn của Chính phủ, NHNN và các bộ
ban ngành có liên quan.
Do phạm vi khoá luận có giới hạn, điều kiện nghiên cứu và kiến thức của
tác giả còn nhiều hạn chế, khoá luận chắc chắn không tránh khỏi những sai sót
và khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu
của các thầy cô và các bạn.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Hồng Hải (2009), Hạn chế rủi ro thanh toán quốc tế đối với ngân
hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập, Luận án tiến sỹ
kinh tế , Học viện Ngân hàng, Hà nội.
2. Trầm Thị Xuân Hương (2008), Thanh toán quốc tế cập nhật UCP600,
ISBP 681, Nhà xuất bản lao động xã hội,TP Hồ Chí Minh.
3. Vũ Thúy Nga (2009), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán
quốc tế của ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế,
Học viện Ngân hàng, Hà nội.
4. Lư Kim Ngưu (2005), “Một số ý kiến góp phần hạn chế rủi ro trong
thanh toán quốc tế”,tạp chí Ngân hàng, (3), tr.44-45.
5. Ngân hàng TMCP xăng dầu Petrolimex, “Báo cáo thường niên 2008”
6. Ngân hàng TMCP xăng dầu Petrolimex, “Báo cáo thường niên 2009”
7. Nguyễn Thị Quy, Thanh toán quốc tế bằng L/C các tranh chấp thường
phát sinh và cách giải quyết, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội.
8. Nguyễn Thu Thảo, Hoàng Xuân Quế, Đặng Ngọc Đức (2006), Nghiệp vụ
thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản lao động xã hội, Hà nội
9. Nguyễn Văn Tiến (2007), Thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản thống kê,
Hà nội
10. Nguyễn Văn Tiến (2009), Thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại, Nhà
xuất bản thống kê, Hà nội.
11. Đinh Xuân Trình (2002), Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nhà
xuất bản giáo dục, Hà nội
12. Đinh Xuân Trình (2007), Bộ tập quán quốc tế về L/C, Nhà xuất bản Đại
học kinh tế quốc dân, Hà nội.
87
Tài liệu tiếng Anh
13. International Chamber of Commerce (1995), Uniform Rules for
Collections 522.
14. International Chamber of Commerce (2007), The Uniform Customs and
Practice for Documentary Credits 600.
15. International Chamber of Commerce (2007), International Standard
banking practice for examination of Documents under Documentary
Credit subject UCP 600 2007 ICC.
16. International Chamber of Commerce (2008), Uniforms Rules for bank-
to-bank reimbursements under Documentary Credits.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5345_397.pdf