Tư tưởng giáo dục hoàn chỉnh của Khổng Tử không chỉ có giá trị thời Xuân Thu - Chiến Quốc mà cho đến ngày nay nó vẫn con giữ nguyên giá trị về giáo dục đào tạo con người, đặc biệt là con người trong bộ máy nhà nứoc ở Việt Nam nói riêng và các nước phương Đông nói chung. Kế thừa tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử (dù không phải là trực tiếp), kế thừa nền tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh giáo dục Việt Nam đã và đang có những bước chuyển mình nhằm phát huy hết vai trò chức năng của mình trong cải tạo xã hội, xây dựng đất nước. Phó giáo sư Bùi Hiền nhìn nhận đánh giá về nền giáo dục hiện nay trên tạp chí khoa giáo số 8 năm 2004 khẳng định chất lượng giáo dục: "chưa thể vừa ý, song cần tự tin". PGS.TS Bùi Hiền phân tích thực trạng giáo dục hiện nay về chất lượng chưa phù hợp với mục tiêu ở nhiều mặt, trong đó "thừa nhiều kiến thức lý thuyết sách vở thiếu kỹ năng nghề nghiệp, kém kỹ năng sống, thụ động làm theo khuôn mẫu, thiếu tính chủ động sáng tạo, thể chất chậm phát triển, thẩm mỹ pha tạp nhiều, lối sống thiên về thực hiện,. tất cả các mặt yếu kém này đang cản trở chất lượng giáo dục tiếp cận với mục tiêu giáo dục". Nhưng điều đó cũng không thể phủ nhận những thành quả mà giáo dục nước ta mang lại "trong 20 năm đổi mới, đất nước đã có một thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia gánh vác trên 50% công việc trên moik lĩnh vực đời sống - kinh tế. tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của nước ta đều thuộc loại hàng đầu trong khu vực, được cả Thế giới đánh giá cao chẳng nhẽ lại do một đội ngũ công nhân, kĩ sư, nông dân, doanh nhân. non kém về mọi mặt làm nên?''.
Điều đó, khẳng định được vai trò của nền giáo dục đang đổi mới của Việt Nam. Nói như thế không có nghĩa là nền giáo dục Việt Nam hoàn thiện, mà phải thấy được những chỗ yếu kém để khắc phục nhằm hoàn thiện nền giáo dục phát huy tối đa vai trò của giáo dục trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nghị quyết đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định: vấn đề giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH - HĐH đất nước. Giáo dục, đào tạo còn được coi là “máy cái” tạo sự phát triển của đất nước. Chìa khoá để thực hiện có hiệu quả quan điểm giáo dục của Khổng Tử nhằm xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại chính là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Đây là nhiệm vụ cơ bản và bao trùm sự nghiệp xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại.
40 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 5546 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Kế thừa những tư tưởng giáo dục về giáo dục của Khổng Tử trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giáo dục và trưởng thành lên từ tầng lớp thứ dân, nhờ hết lòng học đạo, học giỏi, thông qua thi cử hoặc tiến cử mà ra làm quan. Tiêu chí đầu tiên phân biệt kẻ sĩ với thường dân chính ở sự chuyên tâm học đạo. Nếu người dân thường chăm lo đến sản xuất vật chất, mưu cầu miếng cơm manh áo thì kẻ sĩ chỉ chú trọng việc học đạo và tu dưỡng tinh thần. “Kẻ sĩ mà chỉ mong được ăn mặc sung sướng thì chẳng đáng là kẻ sĩ vậy”(Luận ngữ).
Thực tế, không phải kẻ sĩ nào cũng làm tròn bổn phận. Không ít kẻ sĩ “giả danh đạo lý” để mưu cầu bổng lộc, lợi ích cá nhân. Việc giáo dục kẻ sĩ bộc lộ tính hai mặt: vừa mang tính tiến bộ vừa mang tính hoà hoãn mâu thuẫn. Vì thế, có lúc bị biến chất cái hay, cái nhân bản trong ý đồ giáo dục ban đầu Khổng Tử đưa ra.
Cùng với giáo dục kẻ sĩ, giáo dục người “quân tử” là vấn đề quan trọng nhất Khổng Tử hướng tới. Quân tử là những người có tài, có đức mà do đó họ có địa vị bề trên dẫn dắt số đông người kém, tài mọn bên dưới gọi là tiểu nhân. Như vậy, quân tử có địa vị, có nhân cách và vai trò lớn trong xã hội.
Người quân tử hướng tới giá trị tinh thần còn tiểu nhân luôn bị các nhu cầu vật dục chi phối, sai khiến. Cái nhìn thể hiện hạn chế của tư tưởng giáo dục Khổng Tử khi chỉ trọng mặt tinh thần “nhân, lễ, nghĩa, trí”, mà chưa thấy vai trò của hoạt động vật chất.
Nhân cách Khổng Tử muốn hướng tới là quân tử, nhưng ông vẫn nói mình chưa thực hiện được đạo người quân tử. Theo Khổng Tử, người quân tử phải giữ được bốn điều: “Đối với người là tự mình khiêm cung, đối với bậc quân trưởng thì một lòng kính trọng, thường đem ân huệ mà thi thố cho dân, sai khiến dân một cách phải nghĩa”.
Có thể nói, mô hình nhân cách người quân tử là niềm tự hào trong giáo dục Khổng Tử cũng như Nho giáo ở xã hội phong kiến. Nhưng chính họ, ở phương diện nào đó, là người bảo thủ, cố hữu dẫn đến sự trì trệ kéo dài chế độ phong kiến phương Đông.
Nội dung đào tạo là truyền bá cho mọi người hiểu và thực hiện đạo làm người. Đó là đạo vua - tôi, đạo cha - con, đạo chồng - vợ, đạo anh - em, đạo bằng - hữu, đạo thầy - trò... làm cho con người hữu đạo, nhà nhà hữu đạo, cá nước hữu đạo, thiên hạ hữư đạo. Khổng Tử thiên về giáo dục, chính trị, đạo dức.
Đào tạo con người được chú trọng trước hết đến khía cạnh nhận thức theo phương châm "tiên học lễ, hậu học văn". Đây là nội dung cơ bản của Nho giáo. "Lễ" là phạm trù có từ rất lâu. Thời thượng cổ "lễ" được hiểu sự cúng tế thần linh, thời Tây Chu, Chu Công định lễ để duy trì trật tự xã hội là "tổng pháp", lễ lúc đó có nội dung chính trị, sang các đời sau lễ được mở rộng ra là phong tục tập quán. Đến đời Đông Chu, Khổng Tử sử dụng "lễ" để chỉ nội dung mới là luân lý, là kỷ luật tinh thần. Ông sửa đổi lễ nhà Chu cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Về hình thức, lễ chỉ là một trong năm điều Ngũ thường (nhân - lễ - nghĩa - trí - tín) nhưng về thực chất nó vẫn giữ vai trò chi phối. Do đó bất kỳ người nào cũng phải thực hiện "lễ", đó là cơ sở để phân biệt phải, trái, đúng, sai. Theo Khổng Tử giáo dục đạo đức là hàng đầu, "bất chi lễ, vô dĩ lập dã", nếu không học lễ thì chẳng biết cách đứng được với đời. Tuỳ việc phân chia khả năng nhận thức của con người, Khổng Tử chia nội dung giáo dục thành hai loại tương ứng.
- Bậc hạng trung trở lên thì giảng đạo lý cao sang, đạo đức, ngôn ngữ, chính trị, văn học.
- Bậc thấp đến bậc vừa thì chủ yếu dạy Lục nghệ :lễ, nhạc, xạ, ngư, thư, số.
Như vậy, nội dung đào tạo không chỉ là tri thức sách vở mà còn là những hoạt động trong cuộc sống. Những nội dung ấy thể hiện qua Tứ thư, Ngũ Kinh cụ thể:
- Sách "đại học": sách học để làm quan, bàn đến những vấn đề dạy và học như thế nào.
- Sách "trung dung": đề cập đến cách cư xử, xử thế giữa người với người.
- Sách "luận ngữ": chủ yếu là học trò ghi chép và luận bàn những điều Khổng Tử dạy.
- Mạnh Tử: đề cập chủ yếu đến mối quan hệ vua - tôi, xây dựng một nền chính trị hợp lòng dân.
- Kinh Dịch: nói lên sự biến đổi theo đạo, đó là nhân - trung - chính, tức là theo lẽ phải, theo quy luật của tạo hoá để sửa mình.
- Kinh Thư: sách chép những lời vua - tôi dạy bảo khuyên răn nhau từ thời Nghiêu Thuấn đến Đông Chu.
- Kinh Thi: là bộ sách tập hợp các bài thơ ca (305) từ thời Thượng cổ tới thời vua Bình Vương nhà Chu, gồm ba bộ phận: phong, nhã, tùng. Sách nói về mười năm quốc phong tình cảm của con người với thiên nhiên, xã hội, và với con người. Người Trung Quốc quan niệm "thi" quan trọng bởi vì "thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tại đạo".
- Kinh Lễ: là bộ sách ghi chép những nghi lễ, tế tự của con người thời ấy
- Kinh Xuân Thu: do Khổng Tử viết, ghi chép vài sự kiện từ thời Lỗ Uẩn Công đến Lỗ Ai Công. Sách chứa nhiều tri thức về thiên văn học.
- Nhạc: làm cho lòng người hưng khởi.
Trong đó, Khổng Tử chú trọng đến Kinh Thi, Kinh Thư và Kinh Lễ bởi vì:
- Kinh Thi: giúp người ta mở rộng tri thức.
- Kinh Thư: dạy việc trị nước.
- Kinh Lễ: dạy người ở đời có qui lễ, phép tắc.
Tóm lại nội dung giáo dục cơ bản của Khổng Tử là thông qua sách vở để giáo dục chính trị - đạo đức, giáo dục đạo làm người (chỉ đối với tầng lớp trên, còn đối với tầng lớp dưới biết "đạo" để làm theo, phục tùng theo mà thôi). Hạn chế ở chỗ ít đề cập đến giáo dục khoa học kỹ thuật.
1.3.5. Những nguyên lý và phương pháp giáo dục.
- Dạy phù hợp với điều kiện tâm sinh lý, chứ không có tính cách võ đoán trước tiên phải nuôi cho tình cảm nảy nở rồi mới ước thúc vào khuôn phép "Ta 15 tuổi để chí vào sự học, đến 30 thì giữ vững được trí không còn thay đổi, 40 hết nghi hoặc, 50 biết được thiên mệnh, 60 thì tai nghe đã thuận đạo trời, 70 thì tuỳ theo lòng muốn mà không ra ngoài phép tắc tức là nhập diệu vào hoà điệu đạo lý Thiên địa nhân vậy" (Luận ngữ - vi chính - 4). Sau đó phải điều hoà các sự mâu thuẫn xung đột ở thâm tâm "Khởi hứng bằng Kinh Thi, uốn nắn bằng kỷ luật phép tắc, hoàn thành ở nhạc" (Luận ngữ - thái bá - 8). Vì thơ ca làm cho tính tình nảy nở phong phú nhất là thơ ca có ý vị song một khi tính tình đã bồng bột thì phải đưa vào khuôn phép kỷ luật để khỏi vọng động dâm đãng. "Tình" rồi đến "lý", cả hai chuyển hoá đến nhau, thành một tâm hồn quân bình đầy đủ.
- Học phải đi đôi với hành
Theo Khổng Tử học phải đi đôi với thực hành "học nhi thời tập chỉ" (Luận ngữ - học nhi - 1) - học lý thuyết mà luôn luôn thực nghiệm, tập lại như chim non tập bay. Học tập phải có suy nghĩ tư lự chứ không phải chỉ đọc, thuộc lòng nhớ sách như vẹt "học nhi bất tư tắc võng, thư nhi bất học tắc đãi'' tức là học mà chẳng suy nghĩ thì viển vông mờ mịt khó hiểu. Suy nghĩ không có mục đích nhất định không đi đôi với sự học thì nguy khốn. (Luận ngữ - Vi chánh - 15) có như thế thì mới biết được điều mới, trí sáng kiến mới mở mang. Vậy học phải biết được điều mới, trí sáng kiến mới mở mang "ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vĩ sư hỹ" (Luận ngữ...). Ôn lại điều cũ mà biết được điều mới, phải "nhật tri kỳ sở vở, nguyệt vở vong kỳ sở năng, khả vi hiếu học dã di hỹ" - mỗi ngày biết được điều mình chưa biết, mỗi tháng không quen điều mình đã biết, có thể là người ham học vậy (tử trương - 5).
Khổng Tử chú trọng giáo dục con người toàn diện, một nhân cách đầy đủ cho nên trong cái lục nghệ giáo dục trừ lễ nhạc ra còn cả phần vận động sinh hoạt nữa, như sạ (bắn), ngự (cưỡi ngựa), thư (học, viết, vẽ) và số (học tính toán). Thông Lục nghệ là một người có sự giáo dục đầy dủ cả lý thuyết lẫn thực hành, sẵn sàng ra đời, đem cái kinh luận để kinh doanh, tế thế "Bác học chi, thẩm vấn chi thận tư chi minh biện chi, đốc hành chi. Hữu phất học, học chi phất năng, phất thố dã. Hữu phất vấn, vấn chi phất, tri phất thố dã Hữu phất tư, tư chi phất đắc phất thố dã. Hữu phất biện biện chi phất minh phất thố dã. Hữu phất hành, hành chi phất đốc phất thố dã. Nhân nhất năng chi kỷ bách chi. Nhân thập năng chi kỷ thiên chi. Quả năng thử đạo hỹ, tuy ngu tất minh, tuy nhu tất cương". (Trung Dung). Như vậy, học cho rộng, tìm tòi nhiều, suy nghĩ cẩn thận, biện bạch sáng suốt, hành động nỗ lực. Có điều chưa học mà chưa có thể làm được, thì không bỏ dở. Có điều không hỏi, hỏi mà chưa biết không bỏ dở. Người ta có thể được một điều mình có thể lấy trăm điều. Người ta có thể được mười điều, mình có thể lấy ngàn điều. Nếu thực giữ được cái đạo ấy thì dù có là người ngu đần cùng trở nên minh triết. Dù có là hạng nhu nhược ắt cũng trở nên cương quyết. Đấy là một quan niệm tối cao về giáo dục lý tưởng của họ Khổng.
- Quá trình giáo dục là quá trình trao đổi giữa thầy và trò. Trò hỏi thầy đáp hoặc thầy hỏi trò thưa, nhằm phát huy tính năng động chủ quan và sự độc lập sáng tạo của người học. Khổng Tử nói "kẻ nào không bực tức vì không hiểu được, thì ta không chỉ bảo cho mà biết được. Kẻ nào chẳng hậm hực vì không tỏ ý kiến của mình, thì ta chẳng khai phát cho mà nói ra được... kẻ nào đã biết rõ một góc nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn cả ba góc kia, thì ta chẳng dạy cho kẻ ấy nữa" (Luận ngữ - thuật nhi 8). Ông yêu cầu người học phải biết quan sát tinh tường và biết suy luận từ một vật mà biết những sự vật khác, từ cái này mà biết cái kia "biết một mối mà thông suốt tất cả" (Luận ngữ - Vệ Linh Công 2). Do đó địa điểm giáo dục của Khổng Tử không cố định lúc ở trong nhà, lúc dưới bóng cây, lúc chu du ngoại cảnh.
- Phương pháp nêu gương: Khổng Tử thường lấy những tấm gương tốt để dạy học trò. Vua đạm bạc đó là Vua Vũ "Vua Vũ ta không chê trách vào đâu được. Ăn uống đạm bạc mà tế quỷ thần rất hậu. Y phục xấu mà sửa mũ áo tế rất đẹp. Cung thất nhỏ hẹp mà hết sức mở mang ngòi lạch. Vua Vũ ta không chê trách vào đâu được" (Thái Bá 2). Vua khiêm nhường "cao cả thay! Vua Thuấn, vua Vũ có được thiên hạ, mà chẳng lấy đó làm vui" (Thái bá 18). Theo Khổng Tử vua Thuấn - Nghiêu là bậc thánh. Người học trò chăm chỉ là "trò Hồi, trong ba tháng, lòng không lìa đạo nhân. Ngoài ra, các trò khác chỉ đạt đến đạo nhân trong một ngày hay trong một tháng là cùng" (Ung dã - 5). Do đó khi có người hỏi Khổng Tử về các học trò, Khổng Tử thưa "có Nhan Hồi là người ham học, chẳng may mất sớm, nay không còn ai cả" (Tiên tiến - 6). Còn Bá Di, Thúc Tề theo Khổng Tử "bất niệm cựu ác, oán ly dụng hy" (không nhớ đến những điều xấu của người nên ít ai oán ghét). (công dã tràng - 12). Người giữ gìn tốt đạo huynh đệ đó là "Yến Bình Trọng khéo giao - kết bạn lâu ngày mà vẫn giữ cung kính" (công dã tràng - 16). Phê phán Vi - Sinh Cao không phải là người ngay thẳng mà mua ân huệ cho mình, dành điều tốt cho mình "ai bảo Vi Sinh Cao là người ngay thẳng ? Có người đến xin giấm. Vi Sinh Cao xin giấm của nhà hàng xóm cho đó" (công dã tràng -13).
Tóm lại, theo Khổng Tử tuỳ từng trường hợp, tuỳ từng người mà bảo coi hướng đi, cách làm cái công phu thực hiện theo guơng mẫu thời xưa như Văn Vương, Chu Công, Công Nhu, Nghiêu-Thuấn,Vũ Thang...trong hoàn cảnh mới "Ôn có tri tân". Phương pháp giáo dục của Khổng Tử vẫn có giá trị cho dến ngày nay.
1.3.6. Yêu cầu đối với người dạy và người học
Từ việc phân chia đối tượng, mục đích giáo dục và phương pháp giáo dục, như vậy, Khổng Tử đã đề ra những đòi hỏi đối với người dạy và học sau:
Đối với người thầy phải luôn làm gương về phẩm chất và phong cách học tập, người là người thực hành trước tiên những gì mình dạy cho học trò để học trò thấy đó mà làm theo (Vi chánh 13). Thầy dạy phải tận tình cởi mở không giấu diếm học trò "ta có biết rộng chăng! Ta không biết rộng. Nhưng có người thô lỗ hỏi đến ta, dù không biết gì, ta cũng phát động hai đầu mối dẫn giải cho hết lẽ" (Tử hãn - 7). Học trò cho rằng đạo của đức Khổng cao sâu không theo kịp, cho nên nghi ngờ Ngài giấu diếm kiến thức, Khổng Tử cho rằng "hai ba gã cho ta giấu điều gì chăng?. Ta không giấu diếm gì cả! Ta không làm việc gì mà chẳng bảo cho hai ba gã biết, ấy là Khưu này vậy". (Thuật nhi - 23). Cả đời Khổng Tử sống với đạo lý "Ta là người khi chưa hiểu đạo lý thì phát phẫn quên ăn, khi hiểu được đạo lý thì vui vẻ quên lo, mà chẳng biết tuổi già sắp đến với mình" (Thuật nhi - 18).
Khổng Tử cho rằng thầy không được nghiêm khắc, thái quá bởi vì quá trình giáo dục là quá trình trao đổi giữa thầy và trò, nên thầy không được nghiêm khắc, thái quá làm cho rụt rè e sợ nhưng không phải thế mà trò quên mình là trò bỏ qua lễ giáo.
Đối với người học trò, phải biến cái mình học thành nhu cầu "biết đạo không bằng ưa đạo, ưa đạo không bằng vui với đạo" (Luận ngữ.....) hay "Buổi sáng được nghe đạo lý, buổi tối dù chết cũng được vậy" (Lý nhân - 8). Trong quá trình học tập, phải kết hợp với suy nghĩ "học mà chẳng suy nghĩ thì mờ mịt, suy nghĩ mà không học thì nguy hại" (Vi chánh - 15). Học phải kết hợp với thực tiễn, phải thận trọng trong việc học hỏi "nên nghe nhiều điều hay, nhưng còn nghi ngờ điều gì, hãy để khuyết đừng nói vội, còn nghe được điều gì chắc chắn, cũng nên thận trọng lời nói, thì ít người quở trách. Nên thấy nhiều điều hay, nhưng điều gì chưa chắc chắn hãy để khuyết đó đừng làm vội, còn thấy được điều gì chắc chắn cũng nên cẩn thận trong việc làm, thì ít sự ăn năn. Lời nói ít người quở trách, việc làm ít sự ăn năn bổng lộc tự nhiên ở trong đó" (Vi chánh - 18). Học phải ôn cũ biết mới và phải học ở mọi lúc mọi nơi, phải đi từ thấp đến cao, cố gắng vươn lên "học như chẳng theo kịp, còn sợ bỏ mất" (Thái bá - 17). Điều cốt lõi nhất phải xác định được mục đích học "học để làm quan giúp đời. Người đời nay học vì người" (Hiến Vân - 25).
Tóm lại, từ việc xác định phải giáo hoá con người trở thành "hữu đạo" để ổn định trật tự xã hội, đưa xã hội "loạn" trở về "thịnh", Khổng Tử đã xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về giáo dục từ quan niệm về con người, phân chia đối tượng giáo dục để xác định phương pháp giáo dục phù hợp đến yêu cầu về người thầy, người học. Khổng Tử xứng đáng nhà giáo dục lớn của xã hội đương thời, học thuyết giáo dục củ Khổng Tử đã góp phần vào kho tàng giáo dục của nhân loại. Những nguyên lý giáo dục của ông còn mang những giá trị trong sự nghiệp giáo dục hiện nay.
Nhìn một cách tổng thể, mục tiêu giáo dục của Khổng Tử là bồi dưỡng người “nhân”, “quân tử”, bồi dưỡng để ra làm quan, điều hoà mâu thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ” phục vụ cho mục đích chính trị. Nhưng do thực tiễn dạy học lâu dài nên về mặt quan điểm giáo dục và ohương pháp dạy học Khổng Tử có những tư tưởng duy vật chất phác tiến bộ. Đó là sự phản ánh kinh nghiệm thực tiễn dạy học và yêu cầu về mặt nghề nghiệp giáo dục của Khổng Tử. Những tư tưởng đó có ảnh hưởng tích cực với sự phát triển của học thuyết giáo dục cũng như sự nghiệp giáo dục Trung Quốc và các nước khác sau này. Những nhà Nho làm nghề dạy học đã kế thừa tư tưởng hợp lý của Khổng Tử để phát triển nền giáo dục. Vì thế có thể khẳng định rằng Khổng Tử thật sự là một nhà giáo dục kiệt xuất đương thời.
Nhìn một cách tổng thể, mục tiêu giáo dục của Khổng Tử là bồi dưỡng người “nhân”, “quân tử”, bồi dưỡng để ra làm quan, điều hoà mâu thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ” phục vụ cho mục đích chính trị. Nhưng do thực tiễn dạy học lâu dài nên về mặt quan điểm giáo dục và ohương pháp dạy học Khổng Tử có những tư tưởng duy vật chất phác tiến bộ. Đó là sự phản ánh kinh nghiệm thực tiễn dạy học và yêu cầu về mặt nghề nghiệp giáo dục của Khổng Tử. Những tư tưởng đó có ảnh hưởng tích cực với sự phát triển của học thuyết giáo dục cũng như sự nghiệp giáo dục Trung Quốc và các nước khác sau này. Những nhà Nho làm nghề dạy học đã kế thừa tư tưởng hợp lý của Khổng Tử để phát triển nền giáo dục. Vì thế có thể khẳng định rằng Khổng Tử thật sự là một nhà giáo dục kiệt xuất đương thời.
Phần 2: KẾ THỪA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
2.1. Sơ lược về nền giáo dục qua các triều đại trong lịch sử Việt Nam
Cùng với sự thăng trầm của xã hội Việt Nam, tư tưởng Nho giáo nói chung và tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử nói riêng trong những giai đoạn lịc sử là khác nhau, bởi vì lúc này ở Việt Nam tồn tại "tam giáo đồng nguyên" trong đó Nho và Phật thay nhau vai trò chủ đạo trong xây dựng xã hội.
Đến thời Trần, con đường khoa cử mở ra để giải quyết đào tạo quan lại đã nhanh chóng chiếm ưu thế. Số người tiến thân bằng con đường cử nghiệp nhiều hơn, danh nho đông đảo hơn cái thời trước. Thời Trần cũng xác định hơn nội dung học tập thi cử là các Kinh điển hình thành vào thời Chu Hy về sau. Trong gần 4 thế kỷ tồn tại của hai vương triều này, chỉ tổ chức được 15 khoa thi, lấy đỗ được 60 người. Triều Hồ tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng cũng tổ chức được ba khoa thi với 15 người đỗ. Sang thời Lê, việc mở các khoa thi để tuyển chọn đội ngũ quan lại mới được chú trọng hơn. Trong 32 năm của ba triều vua Lê: Thái Tổ, Thái Tông và Nhân Tông (1426 - 1459) đã có 9 khoa thi với 107 người được nêu tên trên bảng vàng.
Phải đến thời Lê Thánh Tông, chế độ khoa cử Nho học mới được mở rộng và đi vào nề nếp, bởi thi cử là biện pháp quan trọng nhất để tuyển chọn được tương đối xác đáng đội ngũ quan lại tài năng, làm rường cột cho các hoạt động của nhà nước. Lê Thánh Tông mong muốn tạo được một bộ máy quan lại gồm những con người ưu tú trong giới trí thức Nho học được chọn lọc kỹ càng làm chỗ dựa vững chắc cho triều đình, bởi vậy trong buổi "lễ ăn thề" với thượng thư các bộ vào mùa đông năm Quang thuận thứ 4 (1463), ông dẫn lại lời của Tư Mã Quang "người quân tử là cội gốc để tiến lên việc trị bình, kẻ tiểu nhân là thềm bậc để đi đến hoạ loạn" cho nên "ta và các ngươi đã thề với trời đất dùng người quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chăm không lơi". Việc trong thi cử, trọng nhân tài Nho học dưới thời Lê Thánh Tông còn được lưu lại bằng những tư tưởng đúng đắn trong Văn Bia tiến Sĩ, "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài kén chọn kẻ sĩ, vun chồng nguyên khí là việc đầu tiên. Kẻ sĩ đối với quốc gia quan trọng là thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ sẽ không biết thế nào là cùng việc lớn trong chính trị của đế vương chẳng gì bằng gặp nhân tài, chế độ nhà nước muốn được kỹ càng, tất phải đợi ở bậc thánh. Bởi vì làm chính trị mà không cốt ở nhân tài, chế độ mà không nhờ ở bậc thánh thì mọi việc còn làm cẩu thả, sao có thể đạt tới chính trị phong hoá phồn vinh, văn vật điển chương đầy đủ".
Thể hiện ý nguyện trọng đạo học, trọng khoa cử coi đó là con đường chính để chọn quan lại, hai năm sau khi lên ngôi báu, Lê Thánh Tông đã ban hành nhiều đạo dụ, chiếu chỉ về quy chế thi cử. Cũng như ở các triều vua trước, thời Lê Thánh Tông có hai kỳ là thi hương, lấy học vị hương cống và thi hội (thi ở triều đình) lấy học vị tiến sĩ.
Nhà vua cũng ban hành các chỉ dụ quy định về thi cử .
+ Đối tượng không được dự thi: người làm nghề hát chèo, người phản nghịch, người nguy quan có tiếng xấu cùng con cháu họ và những người phạm tội bất hiếu, bất nghĩa, bất mục, bất luân diêu ngoa .
+Đối với dề mục thi :
.Kì thứ nhất học thi tứ thư, ngũ kinh
.Kì thứ hai thi chiếu, chế,biểu dùng cổ thể lay tứ lục.
.Kì thứ ba thi thơ (Đường luật), phú (Cổ thể hay ly tao).
.Kì thứ tư một bài văn sách, đầu dề hỏi về kinh, sử hay việc đương thời .
Nhìn chung, triều đại Lê Thánh Tông trị vì, nhất là giai đoạn thuộc niên hiệu Hồng Đức, là thời kì phát triển rực rỡ của giáo dục và khoa cử mà đời sau suy tôn là"Giáo dục Hồng Đức", "Khoa cử Hồng Đức", "bản đầu Hồng Đức"...Nhờ khoa cử mà số lượng những võ quan, trọng thần ngày càng bị hạn chế dần. Bản thân các vị võ quan và con em họ muốn tồn tại được trong bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tông đều phải được nâng cao "quan trí" và "văn hoá hoá". Trong khi đó số quan lại xuất thân từ khoa cử liên tục được bổ sung với một số lượng khá đông đảo.Theo thống kê từ sách "Các nhà khoa bảng Việt Nam cho thấy trong 38 năm triều đại Lê Thánh Tông đã tổ chức được 12 khoa thi với 501 người đỗ cùng 9 trạng nguyên, 10 bảng nhãn, 10 thám hoa, 159 Hoàng Giáp và 313 đệ tam giác đồng tiến sĩ xuất thân. Theo Phan Huy Chú "Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức.Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể thua kịp". Những người đỗ đạt qua các kì thi là nguồn chính để tuyển chọn quan lại cho triều đình và một phần lớn bộ máy chính quyền các địa phương. Họ được tôn vinh qua lễ xướng danh, lễ vinh quy bái tổ và lưu tên tuổi trong văn bia ở Văn Miếu. Như vậy, với chủ trương khuyến khích Nho học và một chế độ khoa cử nề nếp, cùng một lúc Lê Thánh Tông đã đạt được hai mục tiêu: thứ nhất, tuyển chọn được những người ưu tú cho bộ máy của nhà nước, thực hiện chuyển giao quyền lực từ quý tộc sang quan lưu nho sĩ, thứ hai đưa được nho giáo xâm nhập sâu vào xã hội, khẳng định rõ đây là nhà nước gắn với việc cai trị của các quan văn và tuân theo những tư tưởng chính trị Nho giáo. Bản thân đội ngũ quan chức thời Hồng Đức là những người thành công trong các kì thi dân sự, cũng có yêu cầu tự nhiên muốn xây dựng một nhà nước trong sạch, có kỉ cương và vững mạnh theo phong cách trí thức của họ.
Tóm lại, cùng với thăng trầm của lịch sử Việt Nam, tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử nói riêng Nho giáo nói chung có ảnh hưởng sâu sắc đến nền giáo dục Việt Nam. Đó là giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân, giáo dục nhằm đào tạo tuyển chọn cho đội ngũ quan lại cho triều đình, tạo bộ máy vững chắc. Tuy nhiên ở Việt Nam, do ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên nên các Nho sĩ sau khi đỗ đạt bất mãn trước những bất công của triều đình thường ở ẩn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm...
2.2. Sự kế thừa tư tưởng về giáo dục của Nho giáo nói chung và Khổng Tử nói riêng của Hồ Chí Minh.
Cũng giống như nhiều nhà Nho chân chính, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo dục con người. Kế thừa tinh thần "học không chán, dạy không mỏi" của Khổng tử, ngay từ thời thanh niên Người đã từng làm thầy giáo, rồi thành người chiến sĩ cách mạng, rồi thành nhà chính trị ... và thành người đứng đầu nhà nước, Người luôn quan tâm đến việc giáo dục, đào tạo con người. Nếu trước đây, Khổng Tử thường dạy rằng: nhà cầm quyền phải chăm lo đời sống vật chất cho dân, phải giáo hoá dân, để thực hiện con đường tu - tề- bình - trị các bậc quân vương, người quân tử phải chú trọng đến lời dạy "vị thập niên chí kế thụ môn, vi bách niên chi kế thụ người". Nay vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước phồn vinh giàu mạnh, Hồ Chủ Tịch thường xuyên nhắc nhở "vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trông người" (Hồ Chí Minh toàn tập - 9). Song quan niệm hết sức nhân bản này của Hồ Chí Minh lại không bó hẹp trong phạm vi ngành giáo dục mà được mở rộng ra cho nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội. Có thể khẳng định rằng đây là một tư tưởng mang tầm chiến lược đầu tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất cho mọi sự phát triển.
Phải chăng có sợi dây liên hệ ràng buộc giữa quá khứ và hiện tại. Phải chăng những tư tưởng lớn cũng có những điểm chung; trong học thuyết Nho giáo vấn đề con người là trung tâm thì nay ở tư tưởng Hồ Chí Minh cũng tất cả vì con người. Trước đây nghiên cứu về con người, Khổng Tử chỉ ra rằng "tính tương cận, tập tương viễn" như vậy Khổng Tử đề cao giáo dục và cho rằng nhờ có giáo dục mà việc đưa con người về cái thiện, cái tốt là hiện thực. Nay Hồ Chủ Tịch cũng thường nói con người chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau mà trở nên khác nhau "đồng thời ngay trong mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng" (Hồ Chí Minh toàn tập -10). Người nhấn mạnh "ta phải làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi".
Đối với loại người có thói hư tật xấu, phải lại tổ quốc và nhân dân ta phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện nảy nở để đẩy lùi phần ác chứ không phải đập cho tơi bời. Đối với Người yếu tố giáo dục trong đào tạo con người là quan trọng, bởi vì:
"Lúc ngủ ai cũng như lương thiện
Tỉnh dạy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ đâu phải là có sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
(Hồ Chí Minh toàn tập - 10)
Trong lịch sử tư tưởng của Nho giáo nói chung, của Khổng Tử nói riêng đã thu được những thành tựu đáng kể trong việc đào tạo con người; đó là tạo ra được nhiều nhà Nho chân chính, hết lòng trung với vua, thanh liêm, chính trực, kinh bang tế thế, lưu danh sử sách, hậu thế noi gương như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... Hơn bất cứ người Việt Nam nào, Bác Hồ cảm nhận rất rõ điều đó, Người gìn giữ, nâng niu phát huy và bồi dưỡng nó.
Ở tư tưởng của Khổng Tử điểm sáng là "đức trị", lấy đức sáng để làm mới cho dân Nho giáo, yêu cầu các quân vương, nhà cầm quyền phải tu luyện đức sáng, giữ đạo cương thường, làm gương cho dân, giáo hoá dân để đất nước có kỷ cương, xã hội có trật tự. Trong sự nghiệp cách mạng mới Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng "người cán bộ hiện nay cũng phải giữ gìn đạo đức cách mạng như giữ gìn con ngươi của mắt mình'' như vậy cả Hồ Chí Minh và Khổng Tử đều coi trọng giáo dục đạo đức cho con người, coi đạo đức là gốc, đề cao nghĩa vụ trách nhiệm của con người đối với bản thân - gia đình - xã hội. Bác Hồ nói ''học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân".
Trong các bài nói chuyện, phát biểu, bài viết Người thường sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo. Tuy nhiên, dù cũng dùng các giá trị đạo đức giống nhau nhưng nội dung của chúng đã khác xa; Khổng nho hướng đạo đức con người theo đạo đức phong kiến, theo mô hình phong kiến đẻ nhằm củng cố trật tự xã hội phong kiến, củng cố chế độ vương quyền, chế độ phụ quyền, đòi hỏi con người tuân thủ "cương, thường" trung thành tuyệt đối với vua, coi dân là đối tượng để chăn dắt, sai khiến; Hồ Chí Minh lại hướng đạo đức cán bộ và nhân dân vào lật đổ chế độ phong kiến, xã hội có sự thống trị áp bức,bóc lột, nô dịch, cũng là chuẩn mực "trung", "hiếu" đối với Hồ Chí Minh là không chỉ trung với vua, hiếu thảo với cha mẹ mà còn phải trung với Đảng, hiếu với dân.
Trong giáo dục đạo đức phong kiến, người ta chú trọng đến "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" gọi là "ngũ thường", trong giáo dục đạo đức cách mạng, Người thường nhắc nhở "nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm" là phẩm chất của con người quân tử và của người công dân chân chính.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nhìn chung Nho giáo còn nhiều hạn chế song họ đã xây dựng được một mẫu người lý tưởng "cứng như cây tùng, cây bách" đó là những con người "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khoát" hay "tiên thiên hạ ưu nhi ưu, hậu thiên hạ, lạc nhi lạc". Hồ Chủ Tịch thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ phải rèn luyện để cứng cáp, kiên trung, giữ vững khí tiết "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục". Trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta đã có biết bao tấm gương anh dũng hy sinh, những con người trung liệt... đã hoà tấu thành bản anh hùng ca non sông đất nước.
Nghiên cứu tổng thể học thuyết của Khổng Tử cũng như tư tưởng của Hồ Chí Minh có thể khẳng định rằng giáo dục đào tạo con người, đặc biệt là giáo dục đạo đức là rất quan trọng. Tuy nhiên đối với Khổng Tử đạo đức chổng ngược xuống đất, còn Hồ Chí Minh, con người có đạo đức mới đứng vững được bằng hai chân, ngẩng đầu lên trời. Đạo đức cũ khép con người vào khuôn khổ chật hẹp, khắc kỷ, cam chịu, thắt chặt con người vào trật tự xã hội có đẳng cấp; còn đạo đức mới phá bỏ xiềng xích phong kiến, giải phóng cá nhân con người, phù hợp với xu hướng nhân đạo tiến bộ nhằm đáp ứng sự nghiệp xây dựng xã hội mới độc lập, thống nhất, giàu mạnh và văn minh. Nói như vậy không phải là phủ nhận việc Nho giáo đã có công tạo nên một tinh thần hiếu học, đề cao tri thức.
Kế thừa tinh thần "học không chán, dạy không mỏi", Bác Hồ thường xuyên nhắc nhở cán bộ, nhân dân, các thầy cô giáo và học sinh quan tâm đến việc giáo dục tri thức. Ngay sau ngày tuyên bố giành độc lập, Người đã đề ra 3 nhiệm vụ lớn cho chính quyền non trẻ "diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm". Người từng nói "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" như vậy Bác xếp "giặc dốt" sau giặc đói nhưng lại trước giặc ngoại xâm. Đây là một sự sắp xếp thứ tự có chủ đích của Người. Để diệt giặc dốt Người đã phát động phong trào "bình dân học vụ" mở rộng côg tác giáo dục trong toàn quốc. Trong thư gửi các cháu học sinh nhân ngày khai trường, Bác viết "non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không. Đó chính là nhờ công học tập của các cháu rất nhiều". Có thể nói đối tượng để ''trồng" được Hồ Chí Minh quan tâm nhất là học sinh, sinh viên, thanh niên. Người thường nói "một năm khởi đầu từ mùa xuân. một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội" hay "thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh, suy yếu một phần lớn là do các thanh niên".
Trước đây trong quan niệm đào tạo con người của Khổng Tử, tri thức được giới hạn trong lĩnh vực hẹp như văn chương,chính trị, đạo đức thì trong quan niệm của Hồ Chủ Tich thì tri thức ngày nay toàn diện hơn, đặc biệt là tri thức về khoa học tự nhiên, khoa học ứng dụng. Nếu trong tư tưởng của Khổng Tử hoạt động lao động sản xuất không được coi trọng thì Hồ Chí Minh nhắc nhở "học phải đi đôi với hành, lý luận phải kết hợp với thực tiễn".
Hồ Chủ Tịch thực sự là điển hình mẫu mực trong việc lựa chọn kế thừa những tinh hoa văn hoá Đông - Tây, quá khứ và hiện tại. Đóp thực sự là một cách nhìn biện chứng, có tính phương pháp luận, là những bài học kinh nghiệm cho chúng ta hiện nay, đặc biệt trong chiến lược xây dựng con người mới của Đảng.
Như vậy theo Hồ Chí Minh vai trò mục đích của giáo dục là :
Giáo dục có vai trò to lớn trong việc cải tạo con người cũ xây dựng con người mới để giúp dân cứu nước, để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Theo Người "Trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lí tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là một nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, nhất định phải có học thức, cần phải học văn hoá, chính trị, kĩ thuật. Cần phải học lí luận Mác-Lê Ninkết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày, đạc biệt là phải quan tâm đến việc luyện"tài", rèn" đức" cho cán bộ. Bởi theo Người," có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rát giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những kkhông làm được gì có ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài như ông bụt không làm hại gì xong cũng không lợi gì cho loài người "Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như "cái gốc" của cây, "cái nguồn "của sông. Do đó theo Người" người cách mạng phải có đạo đức , không có đạo đức dù tài giỏi đén mấy cũng không đánh lại được nhân dân".
Mục đích xuyên suốt trọng tâm tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là nhờ con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kì cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phù hợp. ở thời kì chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến toàn quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kì rất cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lí cơ quan, xí nghiệp, trường học, phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không được để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn xúc tích của Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Đó là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, Đảng viên thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên. Người nhấn mạnh "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kế hợp với nhau".
+ Quá trình dạy và học là quá trình trao đổi, Người chỉ rõ: "Mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng và không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến đã tìm thấy chân lý lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý" do đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến khác không nên có thành kiến trái với các ý kiến của mình.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "Trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Người viết: "Công nhân, nông dân, bận làm ăn, nếu dạy không hợp với người học với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tuỳ theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết qủa tốt".
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục. Không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "giáo dục trong nhà trường dù có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng hoàn toàn bằng không ". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc làm..., Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy "Mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: tinh thần vật chất và văn hoá".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hội đều nhằm mục đích "Nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng, nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương pháp này mang tính truyền thống, lại vừa cụ thể thiết thực, luôn gắn với đời sống và thời đại".
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới - nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, giới tính.
Đánh giá chung
Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng quan niệm của ông cha ta, đặc biệt là Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng coi trọng giáo dục với mục đích là đào tạo nhân tài để giúp ích cho xã hội giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân với những phương pháp phù hợp với đối tượng. ở đây Hồ Chí Minh còn kế thừa tư tưởng của Khổng Tử là đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức của bộ máy nhà nước, của những người làm quan bởi vì việc giáo dục phải gắn liền với tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ. Người làm quan không có đạo đức thì dân khổ. Chính vì thế mà Hồ Chí Minh đã nói: người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Người có tài mà không có đức là người vô dụng.
Nhưng Hồ Chí Minh khác hẳn với Khổng Tử. Khổng Tử gắn liền với tầng lớp thống trị, bảo vệ quyền lợi cho tầng lớp thống trị. Còn Hồ Chí Minh luôn gắn mình với đồng bào với quê hương và với nhân loại.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn thấy được vai trò giáo dục của gia đình và xã hội. Đánh giá đúng đắn việc giáo dục đòi hỏi phải kết hợp cả gia đình - nhà trường và xã hội. Đó chính là hệ thống giáo dục hoàn chỉnh trong khi đó Khổng Tử chỉ đề cập đến vai trò của thầy "sư", do đó vai trò của người thầy cao hơn vai trò của gia đình.
Sau cách mạng tháng 8.1945, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào hưởng ứng phong trào "diệt giặc dốt" nhằm nâng cao tri thức cho nhân dân lao động,. đặc biệt là tầng lớp tham gia quản lý xã hội để bắt tay vào kiến tạo đất nước. Trải qua 60 năm củng cố và phát triển nền giáo dục Việt Nam đã được đánh giá là "quốc sách hàng đầu", có những đống góp quan trọng trong xây dựng đất nước, từ tỉ lệ mù chữ 95% (trước Cách mạng tháng 8.1945) đến phổ cập giáo dục tiểu học, rồi phổ cập trung học cơ sở, từ việc nâng cao dân trí đã góp phần đưa đất nước thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn, nắm bắt được khoa học tiên tiến trong nhiều lĩnh vực. Phát huy truyền thống cần cù thông minh của dân tộc, tri thức Việt Nam ngày càng được Thế giới biết đến qua các cuộc thi tài năng trẻ, Olympic quốc tế, cũng như lực lượng học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh ở nước ngoài thể hiện.
Tuy nhiên, nền giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều điều bất cập:
Thứ nhất, vấn đề giáo dục chưa được quan tâm đồng bộ giữa các khu vực, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, từ cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục đến đội ngũ giáo viên... vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện nay, ở vùng sâu, vùng xa của các tỉnh miền Tây Nam Bộ vẫn còn trường tre lá, đi lại khó khăn, gây cản trở cho việc học hành cua các em. Có trường trang thiết bị học tập được phân bổ về lại cất trong kho mà không đem ra sử dụng vì sợ hư hao. Điều đó đã nói lên trình độ quản lý còn quan liêu, thiếu trách nhiệm.
Thứ hai, vấn đề giải quyết đầu ra cho lực lượng trí thức. Nhiều sinh viên, đặc biệt là con gia đình nông dân, phải chắt chiu từng đồng cho con ăn học, mong sao con được đổi đời, bao tiền của đổ vào, nhưng khi ra trường thì không xin được việc làm. Điều đó tạo tâm lý và cái nhìn không đúng đắn về giáo dục, học để làm gì? ngày xưa học để ra làm quan, để cho mẹ được tiếng thơm để giúp đời do đó phải phấn đấu cả đời người họ vẫn cố gắng học tập còn bây giờ học rồi không xin được việc làm hoặc phải làm trái nghề không đúng chuyên môn. Mặt khác, nhà nước đào tạo nhân tài nhưng không biết sử dụng nhân tài cho đúng dẫn đến tình trạng "chảy chất xám" và các công ty nước ngoài, làm lợi cho công ty nước ngoài.
Thứ ba, về phuơng pháp giáo dục. Từ lúc Khổng Tử đề ra học thuyết giáo dục, ông đã nêu cao nguyên lý giáo dục "Học đi đôi với hành". Nhưng thực tế giáo dục của chúng ta là giáo dục chay, cho nên người Việt Nam giỏi về lý thuyết nhưng không giỏi về thực hành, bảy năm học bác sỹ nhưng khi ra thực tập vẫn còn run khi cầm dao, cầm kéo, bảy năm học xây dựng nhưng khi ra trường cần phải mất thêm thời gian để thử việc... Khổng Tử đã đưa ra phương pháp trao đổi giữa thầy và trò thì ngày nay giáo dục Việt Nam mới bắt đầu thực hiện và gọi đó là "cải cách phương phương giáo dục" nhưng điều đó, Khổng Tử đã đưa ra trước đó mấy trục thế kỷ.
Thứ tư, Khổng Tử đã đưa ra nguyên lý "giáo dục phải phù hợp với tâm sinh lý" không được thái quá, gò ép đối tượng, mhưg hiện nay việc giáo dục quá sức nhất là đối với học sinh tiểu học đang làm phổ biến, điều này thể hiện rõ lượng sách vở mà các em phải mang đến trường mỗi ngày. Việc học nhiều môn nhiều thời gian đã chiếm gần hết thời gian vui chơi của các em, chưa kể nhiều phụ huynh còn bắt con em mình học thêm ngoài giờ.
Thứ năm, giáo dục hiện nay hầu như đề cao tri thức nhiều hơn giáo dục về đạo đức, về lễ giáo, đắc biệt là lễ giáo đối với thầy cô. Vị trí vai trò của nguời thày không được đề cao như trước nữa, nó đã bị mai một theo khẩu hiệu "tiên học lễ, hậu học văn" hay "một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy" mà hiện nay còn bắt gặp rất ít trong hệ thống trường học. Điều đó cũng là vấn đề cần nhìn nhận một cách đúng đắn về đạo đức con người.
Như vậy một số phương diện có thể kế thừa và phát huy từ tư tưởng của Khổng Tử trong việc giáo dục con người Việt Nam hiện nay.
Chú trọng giáo dục đạo đức.
Bàn về con người C.Mác khẳng định: Con người là một thể thống nhất giữa những năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Đạo đức là một bộ phận không thể thiếu định hướng năng lực tinh thần phát triển đúng đắn. Hồ Chí Minh, học trò xuất sắc của Mác nhấn mạnh: Nhân cách của con người bao hàm cả tài và đức, trong đó, đức là gốc, tài là quan trọng: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Đặc biệt, với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội nước ta, đời sống con người ngày càng được cải thiện thì đạo đức lại có biểu hiện suy thoái. Nhiều luồng tư tưởng len lỏi vào từng ngõ ngách của đời sống tinh thần. Chuyện con cái bất hiếu, anh em tranh giành tài sản, vợ chồng đối xử tệ bạc đang làm rạn nứt giá trị đạo đức tuyền thống.
Ngoài xã hội, tiêu cực giáo dục trở thành vấn đề nhức nhối. Một bộ phận cán bộ giáo dục biến chất làm ảnh hưởng đến phẩm giá của người làm thầy. Một bộ phận thanh niên, học sinh, sinh viên sống thiếu ý chí, ăn chơi đua đòi, xao nhãng học hành. Đó là thực tế đáng buồn!
Trên con đường xây dựng một xã hội thật sự của con người, vì con người và cho con người, chúng ta phải hạn chế những biểu hiện phi đạo đức nhằm đem lại cho người dân niềm tin vào cuộc sống, sự trong sạch, lành mạnh của xã hội văn minh.
Trở lại lịch sử dân tộc, Hồ Chủ tịch là người tiếp thu, vận dụng một cách linh hoạt tư tưởng của các bậc đi trước. Người phê phán gay gắt tư tưởng cổ hủ, lạc hậu, nhưng cũng đặt vấn đề kế thừa tư tưởng Nho giáo, đặc biệt là giáo dục đạo đức con người.
Tiếp xúc với nhiều nền văn minh trên thế giới, đọc nhiều học thuyết Đông, Tây, Người cho rằng: Học thuyết Mác- Lênin cho người ta con đường làm cách mạng, còn Khổng giáo thì cho con người ta con đường để hoàn thiện nhân cách. Người viết: “Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình bằng cách đọc tác phẩm của Khổng Tử, còn về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”.
Nhiều tư tưởng giáo dục đạo đức của Khổng Tử đã được tiếp thu và Việt hoá, trở thành giá trị tinh thần truyền thống. Thời đại mới, yêu cầu đặt ra với giáo dục đạo đức cũng có hay đổi. Việc xác định kế thừa cái gì và kế thừa như thế nào là rất quan trọng.
Trước hết cần coi trọng giáo dục đạo đức làm người, xa hơn là đạo đức chính trị, lý tưởng là nhiệm vụ cơ bản của mọi quá trình giáo dục. Đảng ta coi trọng giáo dục đạo đức gia đình, nhà trường và xã hội. Đó là giao điểm gặp gỡ của tư tưởng xưa và nay.
Với cá nhân, tư tưởng “tu thân” của Khổng Tử giúp mỗi người tự rèn luyện bản thân mình theo một số chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ vận dụng sao cho phù hợp. Cùng với tư tưởng “chính danh”, học thuyết Khổng Tử còn đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ cá nhân. ở cương vị nào, trước hết mỗi người cần có ý thức, trách nhiệm làm tròn bổn phận của mình.
Thực tế, không ít cán bộ có chức, quyền nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm, làm việc sai quyền hạn. Hơn lúc nào hết, giáo dục phải đáp ứng được yêu cầu của thời đại cũng như niềm mong mỏi của người dân để sớm loại bỏ những “con sâu bỏ rầu nồi canh” đó.
Mục đích giáo dục.
Học tập là để ứng dụng cho có ích với đời, để hoàn thiện nhân cách, để tìm tòi kiến thức, giúp mình, giúp người, giúp đời. Sự nghiệp CNH- HĐH đất nước đòi hỏi con người phải có tri thức, trình độ tay nghề. Do vậy, chúng ta phải học tập tư tưởng :“Học không biết chán, dạy không biết mỏi” của Khổng Tử, “Học, học nữa, học mãi” của Lênin. Đảng ta cũng khẳng định: Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn đức tính cần có của con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Dạy và học trở thành nhu cầu tất yếu.
Thực tế chứng minh: Một xã hội giàu mạnh, văn minh, ổn định, bền vững thì yếu tố phát triển con người toàn diện đặc biệt quan trọng. Khổng Tử chủ trương dạy học cho tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp. Nên, giáo dục hiện nay là sự nghiệp của quần chúng, không phân biệt già trẻ, gái trai. Thấm nhuần quan điểm này đầy đủ và vận dụng khoa học là chiến lược phát triển con người của nước ta hiện nay.
Tư tưởng trọng kỷ cương, phép nước và quy ước của cộng đồng.
Tư tưởng giáo dục Khổng Tử đã thấm sâu vào cuộc sống, biến thành hành động con người sống phải có nhân, có lễ. Nước ta ảnh hưởng khá nhiều văn hoá Trung Hoa cổ đại về nghi lễ, cách ứng xử, trách nhiệm, bổn phận của con người với gia đình, xã hội. Giáo sư Vũ Khiêu đánh giá: “Sự giáo dục của Khổng Tử về lễ đạt mức sâu sắc ở chỗ nó trở thành tiêu chuẩn đánh giá hành vi con người”.
Một chủ trương giáo dục đạo đức, lối sống là dạy con người kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng. Lễ ở đây không chỉ là những quy định của xã hội phong kiến, mà bản thân nó là một phần của văn hoá dân tộc. Hiện nay, xã hội có nhiều biến đổi, thuần phong, mỹ tục bị xem nhẹ. Vậy thì khẩu hiệu: “Tiên học lễ, hậu học văn” vẫn có giá trị khi chúng ta hiểu một cách đúng đắn nội hàm của nó. Giáo dục lễ không chỉ là giáo dục cái chuẩn mực, qui củ của xã hội mà còn là phong tục, tập quán, cách đi đứng, ăn mặc... và cao hơn, hình thành một lẽ sống mới: tiên tiến, hiện đại.
Tư tưởng nhân văn, nhân đạo và phương pháp dạy học linh hoạt, mềm dẻo.
Quan niệm về “nhạc” của Khổng Tử cho chúng ta thấy một lẽ sống rất đẹp, rất nhân sinh. Lòng người cảm hoá với nhạc. Con người và ngoại cảnh hoà lẫn nhau. Khi ngoại cảnh vui vẻ, đẹp đẽ thì lòng người thanh thản. Khi ngoại cảnh đau đớn thì lòng người thương xót. Nhìn người khác vui vẻ, hạnh phúc thì bản thân mình thấy phân trần. Khi người khác buồn bã, khổ sở thì mình cũng xót xa. Từ đó, ta muốn làm việc thiện giúp đỡ họ. Đó là tư tưởng hết sức nhân văn.
Trên cơ sở quan niệm giáo dục, Khổng Tử sử dụng các biện pháp giáo dục linh hoạt, mềm dẻo cho phù hợp từ phương pháp nêu gương đến phương pháp phân loại đối tượng giáo dục...
Ngày nay, giáo dục không thể dập khuôn mô hình cho là tối ưu nào mà phải lựa chọn cách thức dạy và học phù hợp thực tế nước ta. Mỗi người học có đặc điểm tâm, sinh lý riêng mà giáo dục cần chú ý đến. Ngoài học tập kiến thức sách vở, cần phải học mọi nơi, mọi lúc. Học ở gia đình, nhà trường và ngoài xã hội.
Vấn đề nhằm nâng cao nền giáo dục của Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, cần tạo mục đích và động cơ học tập đúng. Khi đã có động cơ học tập, mục đích động cơ học tập đúng đắn thì chất lượng giáo dục đạt hiệu quả cao. Điều đó đòi hỏi cả gia đình - nhà trường - xã hội phát huy hơn nữa vai trò của mình. Đặc biệt là gia đình có vai trò chủ đạo trong việc định hướng học tập cho con em, không gò ép, không tạo tâm lý nặng nề, mà giúp các em hoàn thiện về thể chất bởi vì một trí tuệ thông minh không thể tồn tại trong thân xác gầy yếu. Nhà trường phải thực hiện đầy đủ chức năng giáo dục của mình một cách tâm huyết. Xã hội phải tạo được nhu cầu học tập cho các em từ môi trường giáo dục đến giải quyết việc làm. Điều này không thể một ngày có thể giải quyết được nhưng cũng cần phải suy nghĩ và xem xét nhằm hạn chế "chảy chất xám" vào các nước tư bản. Cần có kế hoạch thu hút vào hệ thống bộ máy Nhà nước thật sự là người có tài năng, đạo đức chứ không phải là con đương thân tộc.
Thứ hai, cần có những chính sách trong đào tạo con người. Trong thực tế, các giải thưởng về thi học sinh giỏi; tài năng trẻ, Olympic quốc tế có giá trị ít hơn nhiều lần so với giá trị giải thưởng các cuộc thi người đẹp.
Thứ ba, cần phát huy hơn nữa nguyên lý "học đi đôi với hành" nhằm nâng cao trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật, ứng dụng khoa học tự nhiên vào đời sống góp phần trang bị cho học sinh, sinh viên khả năng thích ứng cuộc sống, dù không có khả năng học tiếp nữa nhưng có thể đi làm ở các xí nghiệp, công trường. Trong triều đại nhà Lê số lượng Nho tăng cao, họ không làm quan nhưng họ về quê có thê dạy học, bốc thuốc chữa bệnh... nhưng học 12, thậm chí sinh viên khi ra trường không có việc làm, phần lớn lại đi làm thuê, lao động chân tay cực nhọc, thậm chí phải đi học lại những kiến thức cơ bản chuyên ngành như sửa chữa điện, may, đan, thêu...
Thứ tư, cần có những chính sách đúng đắn cho đội ngũ giáo viên nhằm phát huy tâm huyết nghề nghiệp, tránh những vấn đề như tranh nhau dạy thêm, dạy thêm tràn lan, một số giáo viên dạy trong lớp thì cho hết giờ còn các em muốn hiểu rõ thì đi học thêm thầy. Điều đó một phần làm giảm sút uy tín và đạo đức của người thầy.
KẾT LUẬN
Tư tưởng giáo dục hoàn chỉnh của Khổng Tử không chỉ có giá trị thời Xuân Thu - Chiến Quốc mà cho đến ngày nay nó vẫn con giữ nguyên giá trị về giáo dục đào tạo con người, đặc biệt là con người trong bộ máy nhà nứoc ở Việt Nam nói riêng và các nước phương Đông nói chung. Kế thừa tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử (dù không phải là trực tiếp), kế thừa nền tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh giáo dục Việt Nam đã và đang có những bước chuyển mình nhằm phát huy hết vai trò chức năng của mình trong cải tạo xã hội, xây dựng đất nước. Phó giáo sư Bùi Hiền nhìn nhận đánh giá về nền giáo dục hiện nay trên tạp chí khoa giáo số 8 năm 2004 khẳng định chất lượng giáo dục: "chưa thể vừa ý, song cần tự tin". PGS.TS Bùi Hiền phân tích thực trạng giáo dục hiện nay về chất lượng chưa phù hợp với mục tiêu ở nhiều mặt, trong đó "thừa nhiều kiến thức lý thuyết sách vở thiếu kỹ năng nghề nghiệp, kém kỹ năng sống, thụ động làm theo khuôn mẫu, thiếu tính chủ động sáng tạo, thể chất chậm phát triển, thẩm mỹ pha tạp nhiều, lối sống thiên về thực hiện,... tất cả các mặt yếu kém này đang cản trở chất lượng giáo dục tiếp cận với mục tiêu giáo dục". Nhưng điều đó cũng không thể phủ nhận những thành quả mà giáo dục nước ta mang lại "trong 20 năm đổi mới, đất nước đã có một thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia gánh vác trên 50% công việc trên moik lĩnh vực đời sống - kinh tế... tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của nước ta đều thuộc loại hàng đầu trong khu vực, được cả Thế giới đánh giá cao chẳng nhẽ lại do một đội ngũ công nhân, kĩ sư, nông dân, doanh nhân... non kém về mọi mặt làm nên?''.
Điều đó, khẳng định được vai trò của nền giáo dục đang đổi mới của Việt Nam. Nói như thế không có nghĩa là nền giáo dục Việt Nam hoàn thiện, mà phải thấy được những chỗ yếu kém để khắc phục nhằm hoàn thiện nền giáo dục phát huy tối đa vai trò của giáo dục trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nghị quyết đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định: vấn đề giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH - HĐH đất nước. Giáo dục, đào tạo còn được coi là “máy cái” tạo sự phát triển của đất nước. Chìa khoá để thực hiện có hiệu quả quan điểm giáo dục của Khổng Tử nhằm xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại chính là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Đây là nhiệm vụ cơ bản và bao trùm sự nghiệp xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_giao_duc_cua_khong_tu_0615.doc