1. Kết luận
Sau quá trình nghiên cứu bằng thực nghiệm tôi đưa ra một số kết luận
sau:
Chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) là loại nấm có giá trị kinh tế
cao, dinh dưỡng cao, phù hợp với điều kiện nuôi trồng nhiều đợt ở nước ta.
Chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) có thể đạt năng suất rất cao
(80,95%) nếu nuôi trồng trong điều kiện phù hợp. Năng suất nấm cao hay
thấp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, kĩ thuật nuôi trồng có
đảm bảo hay không.
Với 4 công thức thí nghiệm tôi có thể đưa ra kết luận như sau: Công
thức 4 (CT4) là công thức có môi trường dinh dưỡng tốt nhất, tối ưu nhất cho
sự phát triển của hệ sợi nấm và cho năng suất cao nhât so với các công thức
khác. Và từ kết luận của mình tôi đã bước đầu xây dựng quy trình kĩ thuật
nuôi trồng nấm sò trắng (Pleurotus florida).
2. Kiến nghị
Đề tài chỉ nghiên cứu trên nguồn nguyên liệu chính là mùn cưa, ngoài
ra có bổ sung thêm bông và một số phụ gia khác. Hơn nữa, do thời gian
không cho phép nên tôi chỉ có thể đưa ra những kết quả thực nghiệm ban đầu.
Vì vậy, đề nghị tiếp tục nghiên cứu nếu có thời gian.
48 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 6088 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng nấm sò trắng (pleurotus florida) trên giá thể mùn cưa bồ đề, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
....................................................................................................33
1. Kết luận. ........................................................................................................................................33
2. Kiến nghị.......................................................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................ 34
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Các chữ viết tắt Nội dung
1 CT1 Công thức 1
2 CT2 Công thức 2
3 CT3 Công thức 3
4 CT4 Công thức 4
5 W Độ ẩm
6 t Nhiệt độ C
7 X Năng suất
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Nội dung Trang
Bảng 2.1. Các công thức thực nghiệm 20
Bảng 3.2. Thời gian sinh trưởng, phát triển của hệ sợi nấm sò trắng trên các môi trường
dinh dưỡng khác nhau
23
Bảng 3.3. Mật độ và đặc điểm của hệ sợi trong các công thức 25
Bảng 3.4. Khả năng nhiễm mốc ở các bịch ươm 25
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của nhiệt độ tới sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm sò
trắng
26
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của độ ẩm nguyên liệu đến sự sinh trưởng của hệ sợi 28
Bảng 3.7. Thời gian ra quả thể ở các công thức 30
Bang 3.8. Kết quả thu hái nấm sò 30
Bảng 3.9. Năng suất thu hoặch nấm sò trong mỗi đợt trên mỗi công thức 31
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN ix
DANH MỤC CÁC HÌNH
Nội dung Trang
Hình 3.1. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến thời gian ăn
sợi của chủng nấm sò trắng
24
Hình 3.2. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự sinh trưởng, phát triển của
hệ sợi (t là nhiệt độ C)
27
Hình 3.3. Biểu đồ so sánh năng suất trung bình của mỗi công thức trong cả 3 đợt thí
nghiệm
32
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu cuộc sống của con người không
chỉ đơn giản ở vấn đề ăn, ở mà còn phải đáp ứng và cải thiện chất lượng cuộc
sống ngày càng cao.
Các loại nấm ăn là nguồn thực phẩm bổ dưỡng, quý giá với hàm lượng
protein cao, chỉ sau thịt và cá. Thành phần axit amin phong phú, có đủ loại
axit amin không thay thế. Bên cạnh đó còn có các thành phần gluxit, vitamin,
khoáng chất, axit béo (chủ yếu là axit không no, axit hữu cơ) [5].
Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn nhiều đặc tính biệt dược, có khả
năng phòng và chữa các bệnh như hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh
đường ruột, tẩy máu xấu.... Ngoài ra, đã có một số nghiên cứu cho rằng, nấm
ăn còn có khả năng góp phần chữa bệnh ung thư. Tuy nhiên hướng nghiên
cứu này còn nhiều kì vọng ở tương lai [6], [13].
Về ẩm thực, nấm ăn được chế biến thành nhiều món từ chay đến mặn
và mệnh danh là thứ thực phẩm vừa là “rau sạch”, vừa là “thịt sạch”.
Tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương như mùn cưa, rơm,
rạ... từ nhiều năm trở lại đây nhiều mô hình trồng nấm đã được đưa ra và đang
đem lại hiệu quả kinh tế, giúp người dân xoá đói giảm nghèo và từng bước
nâng cao chất lượng cuộc sống. Vì vậy, trồng nấm không những đem lại hiệu
quả kinh tế cao, hơn nữa lại góp phần xử lý những sản phẩm phế thải công
nghiệp, nông nghiệp nên nghề nấm còn góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao
chất lượng cuộc sống con người.
Nghề nuôi trồng nấm là nghề với tương lai đầy triển vọng. Sự thật là
chỉ trong vài năm gần đây mà nhiều người nhờ trồng nấm đã giàu lên nhanh
chóng.
Nhu cầu sử dụng nấm ăn trong xã hội ngày càng cao trong khi kỹ thuật
nuôi trồng nấm đơn giản, cơ chất sử dụng chủ yếu từ nguồn phế thải nông
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 2
nghiệp, xí nghiệp sản xuất gỗ, quá trình nuôi trồng quay vòng nhanh, việc
trồng nấm đem lại lợi ích kinh tế cao. Đây là lợi thế ở các vùng nông thôn,
việc trồng nấm dễ dàng lại ổn định công ăn việc làm cho người dân nói riêng
và đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội nói chung. Vì vậy
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và
phát triển của chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) trên giá thể mùn cưa
bồ đề ”.
2. Mục tiêu của đề tài.
2.1. Tìm hiểu khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng nấm sò
trắng trên giá thể mùn cưa bồ đề.
2.2. Tiến hành tuyển chọn được môi trường thích hợp cho sự phát triển
của nấm sò trắng, góp phần tăng sản lượng và giá trị kinh tế của chủng nấm.
3. Ý nghĩa của đề tài.
3.1. Ý nghĩa khoa học.
Trên cơ sở nuôi trồng nấm trên một số môi trường khác nhau, tiến hành
xác định điều kiện nuôi trồng thích hợp nhất trong từng giai đoạn phát triển,
góp phần củng cố quy trình công nghệ nuôi trồng nấm sò trắng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để góp phần phát triển công
nghệ nuôi trồng nấm, góp phần trồng nấm hiệu quả hơn, góp phần tăng chất
lượng nấm và góp phần tận dụng những phế liệu nông, lâm nghiệp có nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường, tạo nên nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng, có giá trị
dược học và kinh tế cao, đồng thời góp phần giúp giải quyết công ăn việc làm
cho lao động dư thừa ở các vùng nông thôn.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc của nấm.
Trong một thời gian dài, các nhà phân loại học đã xếp nấm là thành
viên của giới thực vật. Sự phân loại này chủ yếu được dựa trên sự tương đồng
trong cách sống giữa nấm và thực vật. Cả nấm và thực vật chủ yếu đều không
di động, hình thái và môi trường sống có nhiều điểm giống nhau. Thêm nữa,
cả hai đều có thành tế bào, điều mà giới động vật không có. Tuy nhiên, hiện
nay nấm lại được công nhận là một giới riêng biệt với thực vật hay động vật,
chúng đã tách ra và xuất hiện xấp xỉ hơn một tỷ năm trước. Nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra những sự giống và khác về đặc điểm hình thái, sinh hóa và di truyền
giữa nấm và các giới.
Hiện tại nấm được chia làm 7 ngành:
- Ngành Chytridiomycota hay Chytrid (Nấm roi - nấm trứng): Chúng
tồn tại rải rác khắp nới trên thế giới. Chytrid sẽ sản sinh ra những bào tử động
mà có khả năng di chuyển linh động trong môi trường nước với một tiên mao
duy nhất. Vì thế một số nhà phân loại học đã phân loại chúng là những động
vật nguyên sinh.
- Ngành Blastocladiomycota trước đây từng được cho là một nhánh
phân loại của Chytridiomycota. Những dữ liệu phân tử và đặc điểm siêu cấu
trúc gần đây đã đưa Blastocladiomycota vào một nhánh riêng giống như với
các ngành Zygomycota, Glomeromycota và Dikarya. Blastocladiomycetes là
những sinh vật hoại sinh hoặc kí sinh của tất cả các nhóm sinh vật nhân
chuẩn.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 4
- Ngành Neocallimastigomycota: Những thành viên của ngành nhỏ này
là những sinh vật kị khí, sống trong hệ thống tiêu hóa của những động vật ăn
cỏ lớn và cũng có thể sống ở môi trường nước và mặt đất.
- Ngành Zygomycota (nấm tiếp hợp) có hai lớp: Zygomycetes và
Trichomycetes. Loài mốc bánh mì đen (Rhizopus stolonifer) là loài phổ biến
thuộc ngành này. Những nghiên cứu phát sinh loài phân tử đã chỉ ra rằng nấm
tiếp hợp là nhóm đa ngành và có thể có cận ngành trong nhóm phân loại này.
- Ngành Glomeromycota là những nấm tạo ra nấm rễ mút phân nhánh
ở thực vật bậc cao. Sự cộng sinh này đã có từ cổ đại, với những bằng chứng
cho thấy đã có từ 400 triệu năm về trước.
- Phân giới Dikarya bao gồm hai ngành Ascomycota và Basidiomycota
khi cả hai ngành đều có nhân kép, chúng có thể dạng sợi hoặc đơn bào, nhưng
không bao giờ có lông roi. Dikarya được gọi là "Nấm bậc cao", cho dù có
nhiều loài sinh sản vô tính được phân loại vào nấm mốc trong các tài liệu
trước đây.
Ngành Ascomycota (nấm túi hay nấm nang). Chúng tạo ra những bào
tử giảm phân gọi là bào tử nang, được chứa trong một cấu trúc đặc biệt có
dạng giống túi gọi là nang (ascus). Nhiều loài nấm nang chỉ trải qua quá trình
sinh sản vô tính (ở nấm gọi là anamorph), tuy nhiên, những dữ liệu phân tử đã
giúp nhận dạng được những giai đoạn hữu tính (teleomorph) gần nhất của
chúng ở nấm nang.
Ngành Basidiomycota (Nấm đảm), sản xuất ra những bào tử đảm chứa
trong những thân hình dùi gọi là đảm. Đa phần những loài nấm lớn đều thuộc
ngành này [15].
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 5
1.2. Sự phát triển của nghề trồng nấm, giá trị dinh dưỡng và giá trị dược
liệu của nấm ăn đối với con người.
1.2.1. Sự phát triển của nghề trồng nấm.
Nấm ăn đã được nghiên cứu nuôi trồng từ rất xa xưa. Theo các tài liệu
khảo cổ thì từ thời đại đồ đá cũ (5000 - 4000 năm trước công nguyên) những
cư dân nguyên thuỷ ở Trung Quốc đã biết thu lượm và sử dụng nhiều loại
nấm ăn từ thiên nhiên. Năm 300 trước công nguyên nấm ăn đã được xác định
là thức ăn quí trong cung đình Trung Hoa. Năm 200 - 100 trước công nguyên,
trong sách “Thần nông bản thảo binh” đã miêu tả tỉ mỉ hình thái, tính năng,
công dụng của các loại nấm dùng làm thuốc chữa bệnh hoặc dùng để bồi
dưỡng sức khoẻ như thanh chi, xích chi, hoàng chi, bạch chi, hắc chi, tử chi,
phục linh, trư linh, tàm nhĩ, ngu mộc nhĩ[2].
Ngành sản xuất nấm ăn đã hình thành và phát triển trên thế giới từ hàng
trăm năm. Hiện nay có khoảng 2.000 loài nấm ăn được, trong đó có 80 loài
nấm ăn ngon và được nghiên cứu nuôi trồng nhân tạo (UNESSCO- 2004).
Việc nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát triển mạnh
mẽ và đã trở thành một ngành công nghiệp thực phẩm thực thụ [11].
Vấn đề nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Ở nhiều nước phát triển như Hà Lan, Pháp, Ý, Nhật Bản, Mỹ,
Đức...nghề trồng nấm đã được cơ giới hóa cao, từ khâu xử lý nguyên liệu đến
thu hái, chế biến nấm đều do máy móc thực hiện. Những “nhà máy” sản xuất
nấm này có công suất từ 200 - 1000 tấn/ năm [12].
Các nơi ở khu vực Châu Á như Đài Loan, Trung Quốc, Malaixia,
Indonexia, Singapo, Triều Tiên, Thái Lan. Nghề trồng nấm cũng phát triển
rất mạnh mẽ. Một số loại nấm ăn được trồng khá phổ biến [9].
Ở Việt Nam sản xuất nấm được xem là ngành mang lại hiệu quả kinh tế
cao thu hút sự tham gia của nhiều bà con nông dân. Trồng nấm được xem như
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 6
một nghề mang lại hiệu quả kinh tế góp phần giải quyết công ăn việc làm, xoá
đói giảm nghèo. Cùng với sự đóng góp tích cực của các nhà khoa học từ khâu
cung cấp giống đến việc chuyển giao công nghệ nuôi trồng, chế biến sản
phẩm đã giúp nông dân có thêm thu nhập từ nghề nấm. Những thành công
nhiều mặt về nghiên cứu chọn tạo các chủng nấm ăn có giá trị và xây dựng
qui trình nuôi trồng nấm dễ áp dụng, rẻ tiền đã đem lại nhiều ý nghĩa lớn về
mặt kinh tế, xã hội [14].
Một số cơ sở nghiên cứu như Trung tâm Công nghệ sinh học thực vật -
Viện di truyền nông nghiệp, Trung tâm Công nghệ sinh học - Đại học Quốc
gia Hà nội, Khoa Sinh học - Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu và chuyển giao một số quy trình sản xuất nấm phù hợp với điều
kiện thực tế ở nông thôn.
Một số tỉnh, huyện đã xây dựng được các trung tâm, cơ sở sản xuất
giống nấm cấp II, cấp III cung cấp cho nông dân. Xây dựng được các phong
trào nuôi trồng nấm tương đối rộng khắp trong địa bàn cả nước, góp phần tạo
ra công ăn việc làm, thu nhập cho nông dân và sản phẩm cho xã hội. Bước
đầu hình thành được thị trường tiêu thụ nấm tươi trong nước có thể cạnh tranh
với sản phẩm của nước ngoài.
1.2.2. Giá trị dinh dưỡng và dược liệu của nấm ăn.
Trong rất nhiều loại thực phẩm mà thiên nhiên giành cho con người thì
nấm là một trong những loại thức ăn vừa giàu chất dinh dưỡng vừa có khả
năng ngừa bệnh hiệu quả. Nấm ăn được là những loại nấm lớn, không độc
hại, được dùng làm thực phẩm từ rất lâu đời.
Nấm ăn và nấm dùng làm dược liệu có rất sẵn trong tự nhiên. Tuy
nhiên bên cạnh các nấm có giá trị dinh dưỡng cao, có hương vị thơm ngon
hoặc có giá trị chữa bệnh, bồi bổ sức khỏe, trong rừng hoặc ngoài cánh đồng
còn không ít các loài nấm độc, có thể gây ngộ độc chết người. Chính vì vậy từ
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 7
lâu trên thế giới đã xuất hiện nghề trồng nấm với các giống nấm đã được chọn
lọc, để vừa đảm bảo an toàn, vừa có nấm chất lượng cao vừa sản xuất được
trên quy mô lớn.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu nuôi trồng nấm ăn có bước
phát triển nhảy vọt ở nhiều nước. Các nhà khoa học Trung Quốc đã tìm được
trên 720 loài nấm ăn và trong số này có tới trên 30 loài đã được nuôi trồng
nhân tạo một cách có hiệu quả ở các quy mô khác nhau. Ngoài ra trên thế giới
còn có tới trên 300 loài nấm lớn đã được xác minh là có giá trị dược liệu, có
khoảng 20 loài đã có thể nuôi trồng nhân tạo.
Nước ta là một nước công nghiệp với nguồn phế phẩm giàu chất xơ và
chất gỗ hết sức phong phú. Tỷ lệ nông dân chiếm phần lớn dân số, lại có nhiều
thời gian nông nhàn và rất muốn có thêm nghề phụ để nâng cao thu nhập. Nước
ta lại có nhiều vùng khí hậu không giống nhau và vì vậy có thể trồng nấm
quanh năm với hàng chục loại nấm ăn và nấm dược liệu khác nhau [1].
1.2.2.1. Giá trị dinh dưỡng của nấm.
Nấm ăn là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, có hàm lượng protein
cao và ít chất béo, chứa nhiều vitamin nhóm B và C. Nấm cũng giàu nguyên
tố vi lượng, như sắt, selen, natri, kali, magie và phốt pho [3].
* Protein:
Nếu so sánh thì hàm lượng protein trong 1kg nấm Mỡ tương đương với
2kg thịt lợn nạc, cao hơn 1kg thịt bò (Ngô Thục Trân, 1987) so với một số loại
rau thì ở nấm tươi có chứa protein cao gấp 12 lần. Hơn nữa nguồn protein từ
nấm còn có lợi ích là không chứa cholesterol như nguồn protein từ động vật.
Trong nấm có khoảng 17 - 19 loại amino axit. Trong đó có đủ 9 loại
amino axit không thay thế. Theo tài liệu thống kê trong 9 loại nấm thường
dùng như nấm mỡ, nấm hương, nấm kim châm, nấm sò, nấm mộc nhĩ đen,
mộc nhĩ trắng, nấm đầu khỉ có tổng hàm lượng amino axit bình quân là
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 8
15,76% (theo trọng lượng khô) hàm lượng amino axit không thay thế là
6,43% chiếm 40,53% tổng số hàm lượng amino axit. Hiện nay người ta đã chế
biến một số đồ uống từ nấm ăn nhằm cung cấp trực tiếp các amino axit cần
thiết cho cơ thể như nước uống từ nấm ngân nhĩ [5].
* Nucleic axit:
Nucleic axit là chất cao phân tử có tác dụng quan trọng trong quá trình
sinh trưởng và sinh sản của cá thể sinh vật và cũng là vật chất cơ bản của di
truyền. Trong nấm mỡ, nấm sò, nấm rơm hàm lượng nucleic axit đạt tới 5,4 -
8,8% (trọng lượng khô) (Trương Thụ Đình, 1982). Theo tài liệu của Liên hợp
quốc (1970) mỗi ngày người trưởng thành cần khoảng 4g nucleic axit trong
đó 2g có thể lấy từ vi sinh vật, vì vậy ăn nấm tươi là nguồn cung cấp rất tốt
nucleic axit cho cơ thể [3].
* Lipit:
Hàm lượng chất béo thô trong nấm ăn dao động từ 1% tới 15- 20% theo
trọng lượng khô, nhưng tất cả đều thuộc các axit béo không no như mono, đi,
tri - gricerit, steral, sterol ester và phốt pho lipit (Holtz và Schider, 1971).
Trong bào tử nấm linh chi, chất béo không no gồm axit oleic (55,2%) linoleic
axit (16,5%) palmitic (19,8%) (Trần Thế Cường, 1997). Sử dụng nấm có các
axit béo không no hoàn toàn có lợi cho sức khỏe con người [5].
* Gluxit và cellulozơ:
Trong nấm ăn có tới 30 - 93% là chất gluxit nó không chỉ là chất dinh
dưỡng mà còn là chất đa đường (polisaccarit) và hợp chất của đa đường có tác
dụng chữa bệnh, nhất là chống khối u.
Thành phần cellulose trong nấm ăn bình quân là 8%. Cellulozơ của
nấm có tác dụng chống lại sự kết lắng của muối mật và làm giảm hàm lượng
cholesterol trong máu nhờ đó mà phòng được sỏi thận và huyết áp cao. Do đó
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 9
thường xuyên ăn các loại nấm như nấm hương, nấm mỡ, nấm rơm, nấm
sòrất có lợi cho sức khỏe.
* Vitamin và khoáng chất:
Vitamin là loại hợp chất hữu cơ không thể thiếu được trong cuộc sống
của con người mà phần lớn vitamin phải do thức ăn cung cấp. Trong nấm ăn
có nguồn vitamin phong phú, nhất là B1, B2, C, PP, B6, folic axit, caroten
dưới các dạng hợp chất thiamin, riboflavin, niacin, biotin, ascorbic axit
(Gacomini, 1957). Sử dụng nấm ăn ta có thể khắc phục được các chứng bệnh
viêm thần kinh, viêm mép, viêm đầu lưỡi, bại huyết, nóng trong.
Hàm lượng chất khoáng trong nấm dao động từ 3 - 10% trung bình là
7%, các loại nấm mọc trên rơm chứa ít chất khoáng hơn so với nấm sống trên
cây gỗ. Thành phần khoáng chủ yếu là P, Na, K. Nấm hương, nấm mỡ, nấm
sò chứa nhiều K có lợi cho sức khỏe người già. Nấm mỡ có chứa nhiều P, Na,
K rất tốt cho quá trình trao đổi chất ở hệ thần kinh của con người [10].
1.2.2.2. Giá trị dược liệu của nấm.
Ngoài giá trị cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, nấm ăn
còn có nhiều tác dụng dược lý khá phong phú như:
Tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể: Các polisaccarit trong nấm
có khả năng hoạt hóa miễn dịch tế bào, thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát
triển của tế bào lympho, kích hoạt tế bào lympho T và lympho B. Nấm linh
chi, nấm vân chi, nấm đầu khỉ và mộc nhĩ đen còn có tác dụng nâng cao năng
lực hoạt động của đại thực bào.
Kháng ung thư và kháng virus: Trên thực nghiệm, hầu hết các loại nấm
ăn đều có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Với nấm hương,
nấm linh chi và nấm trư linh, tác dụng này đã được khảo sát và khẳng định trên
lâm sàng. Nhiều loại nấm ăn có công năng kích thích cơ thể sản sinh interferon,
nhờ đó ức chế được quá trình sinh trưởng và lưu chuyển của virut [13].
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 10
Dự phòng và trị liệu các bệnh tim mạch: Nấm ăn có tác dụng điều tiết
công năng tim mạch, làm tăng lưu lượng máu động mạch vành, hạ thấp oxi
tiêu thụ và cải thiện tình trạng thiếu máu cơ tim. Các loại nấm như ngân nhĩ
(mộc nhĩ trắng), mộc nhĩ đen, nấm đầu khỉ, nấm hương, đông trùng hạ thảo...
đều có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipit máu, làm hạ lượng cholesterol,
triglycerit và beta - lipoprotein trong huyết thanh. Ngoài ra, nấm linh chi, nấm
mỡ, nấm rơm, nấm kim châm, ngân nhĩ, mộc nhĩ đen còn có tác dụng làm hạ
huyết áp.
Giải độc và bảo vệ tế bào gan: Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiều loại
nấm ăn có tác dụng giải độc và bảo vệ tế bào gan rất tốt. Ví như nấm hương
và nấm linh chi có khả năng làm giảm thiểu tác hại đối với tế bào gan của các
chất như cacbon tetrachlorit, thioacetamit và prednison, làm tăng hàm lượng
glucogen trong gan và hạ thấp men gan. Nấm bạch linh và trư linh có tác
dụng lợi niệu, kiện tỳ, an thần, thường được dùng trong những đơn thuốc
đông dược điều trị viêm gan cấp tính.
Kiện tỳ dưỡng vị: Nấm đầu khỉ có khả năng lợi tạng phủ, trợ tiêu hóa, có
tác dụng rõ rệt trong trị liệu các chứng bệnh như chán ăn, rối loạn tiêu hóa,
viêm loét dạ dày tá tràng. Nấm bình có tác dụng ích khí sát trùng, phòng chống
viêm gan, viêm loét dạ dày tá tràng, sỏi mật. Nấm kim châm và nấm kim phúc
chứa nhiều arginin, có công dụng phòng chống viêm gan và loét dạ dày.
Hạ đường máu và chống phóng xạ: Khá nhiều loại nấm ăn có tác dụng
làm hạ đường máu như ngân nhĩ, đông trùng hạ thảo, nấm linh chi... Cơ chế
làm giảm đường huyết của đông trùng hạ thảo là kích thích tuyến tụy bài tiết
insulin. Ngoài công dụng điều chỉnh đường máu, các polisaccarit B và C
trong nấm linh chi còn có tác dụng chống phóng xạ.
Thanh trừ các gốc tự do và chống lão hóa: Gốc tự do là các sản phẩm
có hại của quá trình chuyển hóa tế bào. Nhiều loại nấm ăn như nấm linh chi,
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 11
mộc nhĩ đen, ngân nhĩ... có tác dụng thanh trừ các sản phẩm này, làm giảm
chất mỡ trong cơ thể, từ đó có khả năng làm chậm quá trình lão hóa và kéo
dài tuổi thọ.
Ngoài ra, nhiều loại nấm ăn còn có tác dụng an thần, trấn tĩnh, rất có lợi
cho việc điều chỉnh hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Gần đây, nhiều
nhà khoa học còn phát hiện thấy một số loại nấm ăn có tác dụng phòng chống
AIDS ở mức độ nhất định, thông qua khả năng nâng cao năng lực miễn dịch
của cơ thể [6].
1.3. Nấm sò và vấn đề nuôi trồng nấm sò.
1.3.1. Giới thiệu chung về nấm sò.
Nấm sò là tên gọi chung cho các loài thuộc giống Pleurotus. Nấm sò
thường có nhiều chủng loại khác nhau, chúng khác nhau về màu sắc, hình
dạng, khả năng thích nghi với các điều kiện nhiệt độ khác nhau.
Nấm sò có nhiều tên gọi: Nấm sò, nấm trắng, nấm dai, nấm bào ngư.
Nấm sò thuộc nhóm nấm dị dưỡng, sống hoại sinh, phá hoại gỗ và háo đường,
được trồng tại Việt Nam khoảng 20 năm nay, trên nhiều nguồn nguyên liệu
khác nhau, nấm sò luôn phát triển tốt. Theo kết quả nghiên cứu từ ngành chức
năng ở nhiều địa phương, nấm sò trồng trên rơm rạ, bã mía, mạt cưa, lõi ngô...
đều đạt hiệu suất sinh học cao.
Nấm sò là loài nấm dễ trồng, cho năng suất cao, phẩm chất ngon, có
nhiều đặc tính. Tính về thành phần dinh dưỡng, nấm sò có nhiều chất
đường cao hơn nấm rơm, nấm mỡ, nấm đông cô. Nấm sò cũng chứa nhiều
hàm lượng đạm, chất khoáng. Ngoài ra, kết quả của các nhà nghiên cứu cho
thấy trong nấm sò có chất kháng sinh là pleurotin, ức chế hoạt động của vi
khuẩn gram dương. Nấm sò còn chứa hai polisacarit có hoạt tính kháng ung
bướu, đồng thời, nấm còn chứa nhiều axit folic, rất cần cho những người bị
thiếu máu [2].
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 12
Tên khoa học: Pleurotus ostreatus
Tên tiếng Anh: Oyster Mushroom
Tên khác: Nấm tai lệch, nấm bào ngư, nấm bèo, nấm xòe, nấm dai, nấm
hương chân ngắn, nấm hào, ....
1.3.2. Đặc điểm sinh học của nấm sò.
Nấm sò có 2 nhóm lớn: Nhóm chịu nhiệt (nấm kết quả thể từ 20 - 300C)
và nhóm chịu lạnh (nấm kết quả thể từ 15 - 250C).
Nấm sò có đặc điểm chung là tai nấm có dạng phễu lệch, phiến nấm
mang bào tử kéo dài xuống đến chân, cuống nấm gần gốc có lớp lông nhỏ
mịn. Tai nấm sò khi còn non có màu sậm hoặc tối, nhưng khi trưởng thành
màu trở nên sáng hơn.
Chu trình sống bắt đầu từ đảm bào tử hữu tính nẩy mầm cho hệ sợi tơ
dinh dưỡng sơ cấp và thứ cấp, “kết thúc” bằng việc hình thành cơ quan sinh
sản là tai nấm. tai nấm lại sinh đảm bào tử và chu trình sống lại tiếp tục.
Quả thể nấm phát triển qua nhiều giai đoạn:
Dạng san hô ----> dạng dùi trống ----> dạng phễu ---->d ạng phễu lệch -
---> dạng lá lục bình.
Từ giai đoạn phễu sang phễu lệch có sự thay đổi về chất (giá trị dinh
dưỡng tăng), còn từ giai đoạn phễu lệch sang dạng lá có sự nhảy vọt về khối
lượng (trọng lượng tăng). Vì vậy thu hái nấm bào ngư nên chọn lúc tai nấm
vừa chuyển sang dạng lá.
Mũ nấm lúc đầu lồi lên, khi già mõm nhiều hay ít, mặt mũ nhẵn bóng,
mép mũ cuộn vào trong, sau vươn lên. Mũ có màu xám - nâu sẫm tới màu
nhạt. Thịt nấm dày, màu trắng. Cuống nấm ngắn, mọc từng cái một, có khi
mọc sít nhau gần như chung một gốc; cuống phủ lông mịn hoặc nhẵn, màu
nhạt hơn mũ, đôi khi trắng xám.
Bộ phận dùng: Quả thể Pleurotus tươi hoặc đã chế biến khô.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 13
Thành phần hoá học: Nấm tươi chứa 90,4% nước, 4% protid, 3,4%
glucid, 3,3% vitamin PP, 4mg% vitamin C [8].
1.3.3. Quy trình công nghệ.
Nấm sò được trồng gần như quanh năm nhưng năng suất mùa vụ khác
nhau, vụ nấm sò năng suất cao nhất là trồng từ tháng 11, 12 năm trước và
tháng 1 năm sau. Vụ nấm sò năng suất thấp nhất là tháng 5, 6, 7.
Ngoài yếu tố dinh dưỡng từ các chất có trong nguyên liệu trồng nấm
thì sự tăng trưởng và phát triển của nấm có liên quan đến nhiều yếu tố khác
nhau như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, pH, oxi....
- Nhiệt độ:
Nấm sò có 16 chủng nấm sò chia làm 3 nhóm lớn:
+ Nhóm chịu lạnh OSI: (OSI1,OSI2...). Nhiệt độ ra quả thể bình
thường là 11 - 180C. Mùa đông miền bắc Việt Nam nấm phát triển bình
thường.
+ Nhóm Hy (Hy1, Hy2...). Nhiệt độ ra quả thể bình thường là 15 - 220C.
+ Nhóm chịu nhiệt F (F1,F2...). Nhiệt độ ra quả thể bình thường là
15 - 300C.
- Độ ẩm:
Độ ẩm rất quan trọng đối với sự phát triển sợi và quả thể nấm. Trong
giai đoạn tăng trưởng sợi, độ ẩm nguyên liệu yêu cầu từ 50 - 60%, còn độ
ẩm không khí không được nhỏ hơn 70%. Ở giai đoạn tưới đón nấm ra quả
thể, độ ẩm không khí tốt nhất là 70 - 95%. Ở độ ẩm không khí 50%, nấm
ngừng phát triển và chết, nếu nấm ở dạng phễu lệch và dạng lá thì sẽ bị khô
mặt và cháy vàng bìa mũ nấm. Nhưng nếu độ ẩm lớn hơn 95%, tai nấm dễ bị
nhũn và rủ xuống.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 14
- pH:
Nấm sò có khả năng chịu đựng sự giao động pH tương đối tốt. Tuy
nhiên pH thích hợp đối với hầu hết các loài nấm sò trong khoảng 5 - 7.
- Ánh sáng:
Yếu tố này chỉ cần thiết trong giai đoạn ra quả thể nhằm kích thích nụ
nấm phát triển. Nhà nuôi trồng nấm cần có ánh sáng khoảng 200 - 300 lux
(ánh sáng khuếch tán - ánh sáng phòng).
- Độ thông thoáng:
Nấm cần có oxi để phát triển vì vậy nhà trồng nấm cần có độ thông
thoáng vừa phải, nhưng phải tránh gió lùa trực tiếp.
- Nguyên liệu trồng nấm sò: Nấm bào ngư có thể trồng trên nhiều loại
nguyên liệu như: gỗ khúc, mạc cưa, rơm rạ, bả mía, vỏ cây đậu, cùi bắp,....
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 15
Sơ đồ quy trình công nghệ
Tạo ẩm mùn cưa đã ủ, bảo quản
bằng nước vôi trong pH = 12 -
13, độ ẩm 62-63%, ủ 1 - 2 ngày
Tạo ẩm bông phế loại bằng nước
vôi trong pH = 12 - 13, độ ẩm
65%,ủ 2 - 3 ngày
Phối trộn nguyên liệu, thêm cám ngô, cám gạo, bột nhẹ.
Đóng bịch
Hấp khử trùng 7-8h
Cấy giống
Ươm sợi
Rạch bịch
Chăm sóc, thu hái
Lựa chọn mùn cưa, bông phế loại đạt tiêu chuẩn
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 16
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Trong đề tài này tôi sử dụng giống nấm sò trắng (Pleurotus florida) là
giống nấm cấp II do Trung tâm công nghệ sinh học Viện di truyền nông
nghiệp cung cấp.
2.2. Nội dung nghiên cứu.
- Theo dõi tốc độ sinh trưởng của hệ sợi nấm sò trắng Pleurotus florida.
- Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến sự sinh trưởng, phát triển
của hệ sợi.
- Sự ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường đến sự phát triển hệ sợi và tỉ lệ
nhiễm bệnh trong giai đoạn nuôi sợi.
- So sánh, đánh giá năng suất của chủng nấm sò trắng ở các công thức
thí nghiệm.
2.3. Địa điểm thí nghiệm.
Tiến hành thí nghiệm tại:
- Phòng thí nghiệm của khoa Sinh - KTNN của trường ĐHSP Hà Nội 2.
- Nhà nuôi trồng nấm tại Trung tâm công nghệ sinh học thực vật Viện
di truyền nông nghiệp.
2.4. Bố trí thí nghiệm.
Thí nghiệm chia làm 3 đợt:
- Đợt 1: từ ngày 01/05/2010.
- Đợt 2: từ ngày 01/08/2010.
- Đợt 3: từ ngày 01/11/2010.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 17
Tiến hành thí nghiệm trồng chủng nấm sò trắng trên nguyên liệu mùn
cưa bồ đề có phối trộn phụ gia và nguyên liệu khác theo những công thức
khác nhau trong cùng điều kiện tự nhiên như nhau.
2.5. Chuẩn bị điều kiện nuôi trồng.
2.5.1. Nguyên liệu và phụ gia.
Nguyên liệu sử dụng gồm bông phế loại và mùn cưa:
- Đối với mùn cưa: Yêu cầu mùn cưa phải khô (độ ẩm nhỏ hơn 20%)
không bị mốc, không có tinh dầu, không qua xử lý hóa chất làm trắng hoặc
sạch.
- Đối với bông: Nguyên liệu này là phế liệu của các nhà máy dệt sợi
sau khi đã lấy hết sợi, phần còn lại là hạt và bông vụn. Nguyên liệu này phải
không bị mốc, có độ ẩm thấp, không lẫn tạp chất.
- Phụ gia: Cám gạo, cám ngô, bột nhẹ CaCO3,.
2.5.2. Giống nấm.
Giống nấm sò trắng (Pleurotus florida) được lấy từ quỹ gen của Trung
tâm Công nghệ sinh học thực vật thuộc Viện di truyền nông nghiệp.
2.5.3. Nhà xưởng, các thiết bị vật tư khác.
2.5.3.1. Nhà xưởng.
Phòng cấy giống phải sạch sẽ, thoáng mát. Trước khi cấy giống, phòng
cấy phải được thành trùng toàn bộ bằng cách phun foocmol. Trong phòng
chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cấy giống đã được khử trùng sạch sẽ.
Phòng nuôi sợi sau khi cấy giống phải được bố trí ở nơi khô ráo, sạch
sẽ, thoáng mát, có cửa ra vào và lối đi thuận tiện giữa các gian rộng để tiện
chăm sóc và vận chuyển. Giàn giá nên có nhiều tầng để tăng diện tích; mỗi
giàn nên làm 5 - 7 tầng, mỗi tầng cách nhau 50 - 60cm để xếp các bịch nấm.
Trong phòng nuôi sợi nên duy trì nhiệt độ thường xuyên từ 23 - 270C, độ ẩm
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 18
không khí 65 - 70% là tốt nhất. Đối với giai đoạn nuôi sợi không cần nhiều
ánh sáng vì vậy cần để phòng tối bằng cách che hết các cửa.
Phòng ra quả thể là giai đoạn cuối để chờ thu hoạch nấm, cần có điều
kiện nhiệt độ duy trì ở 25 - 280C, ánh sáng khuếch tán, tức là ánh sáng đủ để
một người bình thường có thể đọc báo được hoặc là ánh sáng điện mờ cố định
từ 5 - 8 giờ/ngày, duy trì độ ẩm không khí từ 85 - 95%. Phòng ra quả thể nên
thiết kế thông thoáng, có nhiều tầng giàn để tăng diện tích sử dụng, có lối đi
lại chăm sóc, thu hoạch và vận chuyển dễ dàng, thuận tiện. Khi thấy sợi tơ đã
ăn trắng túi, tháo bỏ nút bông trên cổ túi, tăng độ thoáng và ánh sáng giúp
kích thích các sợi tơ kết hợp với nhau nhanh hơn, chuẩn bị hình thành quả thể.
Trước và sau mỗi đợt nuôi trồng cần vệ sinh thật tốt trong và xung
quanh khu vực nuôi trồng nấm. Nếu có điều kiện có thể tiến hành đốt bột lưu
huỳnh xông nhà trồng nấm hay phun foocmol với tỉ lệ khoảng 0,5% trước khi
đưa nguyên liệu vào trồng nấm một tuần.
2.5.3.2. Các thiết bị và vật tư khác.
Dụng cụ ủ nguyên liệu: Cào, xẻng, dao,bình phun, bình ô doa, nilon
phủ đống ủ.
Túi nilon chịu nhiệt có kích thước 25 x 35 cm, bông sạch làm nút bông,
chun vòng để cố định nút bông.
Lò hấp nguyên liệu để khử trùng và làm chín nguyên liệu.
Một số dụng cụ và vật tư khác: Xe kéo, dao rạch bịch, thu hái, nhiệt kế
để kiểm tra nhiệt độ, ẩm kế.
2.6. Phương pháp nghiên cứu.
2.6.1. Xử lý nguyên liệu.
Với mùn cưa ta có thể sử dụng vôi hòa vào một bể nước khoảng 1000
lít, sau đó dùng máy đo pH sao cho độ pH của nước vôi là 12 - 13. Sau đó gạn
nước vôi cho vào bình ô doa tưới đều cho nguyên liệu cho đến khi đạt ẩm
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 19
khoảng 67% là được, có thể cảm nhận bằng cảm quan khi dùng tay nắm một
nắm mùn thấy nước thấm ra kẽ tay và khi thả tay ra mà mùn không bị rời rạc
là được.
Với bông có thể ngâm bông nhanh trong dung dịch nước vôi được pha
như trên, vắt nhẹ, ủ lại thành đống, che kín bằng bao dứa hoặc nilon. Dưới
chân đống ủ phải kê cao 10 - 15cm. Giữa đống ủ cắm cọc tre hay gỗ dài
khoảng 1,8m để thông khí. Thời gian ủ 48 - 72 giờ. Khi trồng nấm cần làm
thật tơi nguyên liệu bằng cách dùng tay hoặc cào sắt xé bông vụn.
2.6.2. Phối trộn dinh dưỡng, phụ gia, đóng bịch nguyên liệu.
Chuẩn bị: túi nilon có kích thước 25 x 35cm, dây chun vòng, cổ nút
nhựa, bông dùng làm nút bông.
Sau khi xử lý nguyên liệu tôi tiến hành trộn các nguyên liệu, thêm phụ
gia gồm cám gạo, bột nhẹ CaCO3 theo các công thức khác nhau.
Đảo đều nguyên liệu và phụ gia sau đó đóng bịch, mỗi bịch có trọng
lượng là 1,4kg. Tiến hành đóng 4 công thức, mỗi công thức 30 bịch.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 20
Bảng 2.1: Các công thức thực nghiệm
Tên công
thức
Công thức phối trộn phụ gia Số bịch
Khối lượng
(kg)
CT1
70% mùn cưa + 29% bông +
1% CaCO3
90 126
CT2
70% mùn cưa + 25% bông +
4% cám gạo + 1% CaCO3
90 126
CT3
50% mùn cưa + 49% bông +
1% CaCO3
90 126
CT4
47% mùn cưa + 47% bông +
5% cám gạo + 1% CaCO3
90
126
Yêu cầu bịch nấm sò phải đóng tròn đáy, căng phẳng, chặt tay và
không có nếp nhăn, giãn bịch ở túi nilon.
2.6.3. Khử trùng nguyên liệu.
Sau khi đóng bịch tôi tiến hành hấp bịch nấm bằng lò hấp thủ công.
Nhiệt độ hấp từ 95 - 1000C, duy trì trong 7 - 8 giờ. Khi nhiệt độ trong lò còn
khoảng 50 - 600C thì có thể chuyển bịch ra khỏi lò.
Khử trùng bịch nấm trước khi cấy giống nhằm mục đích tiêu diệt tất cả
các loại tạp khuẩn, các vi sinh vật nấm mốc dại có trong cơ chất trồng nấm.
2.6.4. Cấy giống.
* Chuẩn bị:
- Phòng cấy: phải đảm bảo vệ sinh, khử trùng phòng cấy, box cấy.
- Dụng cụ cấy: que cấy, cồn, đèn cồn, giá để, bông nút, chun, giấy.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 21
- Giống cấy: có mùi thơm dễ chịu, không có mùi chua, không có các
đốm kì lạ.
* Cấy giống:
Trước khi cấy, dùng cồn 700 khử trùng toàn bộ bàn cấy, que cấy, giá
để. Vệ sinh tay bằng cồn 700.
Tháo nút bông, rắc đều nguyên liệu trên bề mặt, sau đó lấy một lượng
bông bằng miệng chén uống nước nút bông rồi quấn dây chun chặt nút bông.
Sau khi cấy giống, bịch giống đưa vào nhà ươm thoáng mát, sạch sẽ.
2.6.5. Ươm sợi và rạch bịch.
Bịch nấm đã được chuyển vào phòng ươm, đặt trên giá theo chiều nút
bông phía trên. Khoảng cách giữa các bịch từ 5 - 10cm, nhà cần thoáng mát
sạch sẽ, không cần ánh sáng. Thời gian ươm từ khi cấy giống cho đến khi sợi
nấm ăn kín bịch.
Rạch bịch: Bịch nấm đã phát triển tốt, sợi nấm ăn kín đáy bịch, ta dùng
dao nhọn, sắc, rạch 4 - 6 đường so le nhau xung quanh bịch, khoảng cách giữa
các đường rạch đều nhau, chiều dài vết rạch 3 - 4cm, sâu khoảng 0,5 cm. Gỡ
nút bông ra, úp miệng túi quay xuống phía dưới và đặt bịch cách nhau 15 -
20cm để khi nấm ra không chạm vào nhau. Sau khoảng một tuần thì nấm bắt
đầu mọc ra.
2.6.6. Chăm sóc, thu hái.
Nếu chưa phát hiện thấy nấm tuyệt đối không được tưới nước vào bịch.
Nếu nhà trồng nấm khô quá thì tiến hành tưới nước xuống nền nhà tạo
độ ẩm cho nấm phát triển nhanh. Sau khi rạch bịch 5 - 7 ngày nấm bắt đầu ra
quả thể, lúc này ta tiến hành tưới nước dạng phun sương lên giàn nấm. Mỗi
ngày tưới 3 - 4 lần tùy độ ẩm trong phòng.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 22
Từ khi xuất hiện đến khi thu hái nấm là 3 - 4 ngày. Hái nấm đúng độ
tuổi sẽ cho chất lượng cao. Sau khi hái phải nhặt sạch chân nấm còn sót lại
trên bịch rồi ép nhẹ bịch cho chặt.
Sau khi thu hái nấm xong thì ngừng tưới nước.
Khi xuất hiện nấm non thì tiến hành chăm sóc như đợt đầu.
2.6.7. Một số điểm lưu ý khi nuôi trồng.
- Nhạy cảm với môi trường: Ngoài tác nhân vật lý như nhiệt độ, độ ẩm,
pH, ánh sáng, nấm sò còn chịu ảnh hưởng bởi các tác nhân khác như thuốc trừ
sâu, kim loại nặng. Trường hợp này tai nấm có thể biến dạng hoặc ngưng ra
quả thể.
- Nếu thấy nấm non héo vàng là do gió lùa trực tiếp vào bịch hoặc độ
thoáng quá kém phải mở cửa cho thoáng.
- Nếu nấm ra nhỏ là do sau khi thu hoạch xong không ép bịch hoặc
nhiệt độ quá cao.
- Nếu nấm ra cuống nhỏ dài là do ánh sáng quá yếu hoặc phòng ngột
ngạt quá.
- Khi nấm còn nhỏ tăng số lần tưới theo độ lớn của nấm sao cho cánh
nấm luôn óng ánh nước. Khi nấm to thì giảm số lần tưới và ngừng tưới nước
trước khi thu hái nấm 5 tiếng.
- Các loại nấm mốc xanh, đen, vàng thường xuất hiện sau khi cấy giống
khoảng 7 ngày. Nguyên nhân do nguyên liệu ủ chưa đủ nhiệt, vệ sinh khu vực
cấy giống không tốt, thời tiết nóng bức, thiếu độ thông thoáng hoặc giống bị
nhiễm bệnh từ trước.
- Nhiễm khuẩn: Do vi khuẩn làm hỏng mũ nấm hoặc quá trình tưới
nước vào các vết rạch, do vệ sinh kém sau thu hái.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 23
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Giai đoạn nuôi sợi.
3.1.1. Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến sự sinh trưởng của hệ
sợi
Thí nghiệm được bố trí trồng trong 3 đợt trên 4 công thức, mỗi công
thức lặp lại 1 lần trong 1 đợt, 1 lần là 30 bịch trên một công thức để theo dõi
thời gian sinh trưởng của hệ sợi nấm trên các công thức.
Để so sánh khả năng sinh trưởng của hệ sợi trên các công thức đó, tính
từ khi cấy giống đến khi sợi ăn kín đáy bịch làm mốc, mỗi bịch nấm sò cao
khoảng 18cm. Kết quả được trình bày ở bảng 3.2 và biểu đồ 3.1.
Bảng 3.2: Thời gian sinh trưởng, phát triển của hệ sợi nấm sò trắng trên các
môi trường dinh dưỡng khác nhau
Công thức Đợt 1 (ngày) Đợt 2 (ngày) Đợt 3 (ngày)
Trung bình
(ngày)
CT1 30 28 25 27,67
CT2 29 25 24 26,00
CT3 27 24 23 24,67
CT4 24 22 20 22,00
Qua bảng 3.1 cho thấy tốc độ phát triển của hệ sợi trên các môi trường
khác nhau là khác nhau. Theo kết quả bảng trên thì thời gian hệ sợi ăn kín đáy
bịch ở công thức 4 là nhanh nhất, trung bình khoảng 22,00 ngày, ở công thức
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 24
1 là chậm nhất, trung bình mất khoảng 27,67 ngày. Tốc độ sinh trưởng trung
bình của hệ sợi chậm nhất là 0,65cm/ngày ở công thức 1 và nhanh nhất là
0,82cm/ngày ở công thức 4.
0
5
10
15
20
25
30
CT1 CT2 CT3 CT4
Trung bình (ngày)
Trung bình (ngày)
Hình 3.1: Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến thời
gian phát triển hệ sợi của chủng nấm sò trắng
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 25
Bảng 3.3: Mật độ và đặc điểm của hệ sợi trong các công thức
Công thức CT1 CT2 CT3 CT4
Mật độ và đặc
điểm của hệ sợi
Hệ sợi mảnh,
trắng, sinh
trưởng rất
chậm, phân
bố không
đều.
Hệ sợi
mảnh, trắng
, sinh trưởng
chậm, phân
bố không
đều.
Hệ sợi
mảnh, trắng,
sinh trưởng
chậm, phân
bố đều.
Hệ sợi dày,
trắng đậm,
sinh trưởng
nhanh, phân
bố đồng đều.
3.1.2. Tỉ lệ bịch nhiễm
Các loại nấm mốc xanh, đen, vàng thường xuất hiện sau khi cấy giống
7 ngày. Nguyên nhân do nguyên liệu ủ chưa đủ nhiệt, vệ sinh khu vực cấy
giống không tốt, thời tiết nóng bức, thiếu độ thông thoáng hoặc giống bị
nhiễm bệnh từ trước.
Khả năng nhiễm mốc ở các bich ươm thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.4: Khả năng nhiễm mốc ở các bịch ươm
Công thức Đợt 1(%) Đợt 2(%) Đợt 3(%)
Trung bình
(%)
CT1 2 2 0 1,11
CT2 3 1 1 1,38
CT3 2 1 0 0,83
CT4 1 2 1 1,11
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 26
Tỉ lệ % bịch nhiễm được tính trên tổng số 360 bịch nguyên liệu trồng
nấm.
Trong tổng số 360 bịch cấy giống có 16 bịch bị nhiễm mốc vàng,
xanh... cho thấy chất lượng thanh trùng, khử trùng nguyên liệu, phòng cấy...
khá tốt, phòng ươm sợi, giống nấm đạt tiêu chuẩn.
Hệ sợi nấm phát triển tương đối tốt. Các bịch nhiễm ở trên hầu như do
bịch nấm bị thủng, không đạt tiêu chuẩn, bịch bị nhiễm sợi dại màu trắng đục.
Ngoài ra còn có thể do điều kiện nhiệt độ khi nuôi trồng nấm đợt 1 và đợt 2
tương đối cao cho sự phát triển tốt nhất của hệ sợi.
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường đến sự sinh trưởng và phát triển
của hệ sợi nấm sò trắng.
Để theo dõi ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường đến sự sinh trưởng của
hệ sợi chúng tôi tiến hành lấy 90 bịch nguyên liệu sau khi cấy giống ở công
thức 4 đưa vào phòng khống chế nhiệt độ để theo dõi ở 3 khoảng nhiệt độ
khác nhau là: 10 - 180C, 18 - 260C, 26 - 340C. Kết quả được trình bày ở bảng
3.5 và hình 3.2.
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của nhiệt độ tới sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi
nấm sò trắng.
Khoảng nhiệt độ Thời gian ăn kín
bịch (ngày)
Tốc độ sinh
trưởng trung
bình (cm/ngày)
Tỉ lệ nhiễm
trung bình (%)
10 - 180C 23 0,78 0,00
18 - 260C 18 1,00 1,11
26 - 340C 24 0,75 5,56
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 27
Hình 3.2: Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự sinh trưởng,
phát triển của hệ sợi (t là nhiệt độ C)
Qua bảng 3.5 và biểu đồ hình 3.2 cho thấy nấm sò trắng sinh trưởng,
phát triển nhanh nhất ở khoảng nhiệt độ 18 - 260C, nấm sò trắng mất khoảng
18 ngày để hệ sợi ăn kín đáy bịch. Trong điều kiện này hệ sợi phát triển đồng
đều, dầy và có màu trắng mượt, tốc độ trung bình hệ sợi phát triển
1,00cm/ngày. Ở khoảng nhiệt độ 10 - 180C nấm sò trắng phát triển chậm
khoảng 23 ngày để hệ sợi ăn kín đáy bịch, tốc độ lan phủ hệ sợi 0,78cm/ngày.
Khoảng nhiệt độ 26 - 340C không thích hợp cho hệ sợi phát triển, vì vậy hệ
sợi phát triển chậm, phải mất 24 ngày để hệ sợi lan tới đáy bịch, tốc độ lan
phủ 0,75cm/ngày. Khoảng nhiệt độ này thích hợp cho các loại nấm mốc phát
triển nên tỉ lệ nhiễm mốc là cao nhất 5,56%.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 28
3.1.4. Ảnh hưởng của độ ẩm nguyên liệu đến sự sinh trưởng của hệ sợi
Để nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm nguyên liệu đến sự sinh trưởng
của hệ sợi và tỉ lệ bịch nhiễm tôi tiến hành trên 90 bịch nguyên liệu ở công
thức 4, sau khi đã cấy giống và chỉnh ẩm ở 3 chế độ ẩm khác nhau:
W = 55 - 60%, W = 60 - 65%, W = 65 - 70%.
Kết quả theo dõi sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm sò trắng
được trình bày ở bảng 3.6:
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của độ ẩm nguyên liệu đến sự sinh trưởng của hệ sợi
Độ ẩm nguyên
liệu (%)
Thời
gian ăn
kín bịch
(ngày)
Tốc độ
sinh
trưởng
trung
bình
(cm/ngày)
Tỉ lệ
nhiễm
(%)
Đặc điểm hệ sợi
W = 55 - 60% 18 1,00 1,11
Hệ sợi đậm, trắng,
tốc độ phát triển
nhanh.
W = 60 - 65% 20 0,90 2,22
Hệ sợi mảnh, tốc độ
phát triển nhanh.
W = 65 - 70% 23 0,78 5,56
Hệ sợi mảnh, tốc độ
phát triển chậm, đầu
sợi có xu hướng co
lại.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 29
Số liệu ở bảng 3.6 cho thấy độ ẩm nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn
đến thời gian ăn kín bịch hay tốc độ lan phủ của hệ sợi.
Ở điều kiện độ ẩm W = 55 - 60%, hệ sợi phát triển rất mạnh, thời gian
ăn kín bịch là ngắn nhất khoảng 18 ngày, hệ sợi đậm, khỏe, trắng, tốc độ lan
phủ trung bình 1,00cm/ngày.
Ở điều kiện độ ẩm W = 60 - 65%, hệ sợi phát triển nhanh, thời gian để
hệ sợi ăn kín đáy bịch là khoảng 20 ngày, tốc độ hệ sợi phát triển nhanh
0,90cm/ngày. Tuy nhiên, ở khoảng nhiệt độ này hệ sợi nấm mảnh.
Ở điều kiện độ ẩm W = 65 - 70%, thời gian hệ sợi ăn kín đáy bịch
khoảng 23 ngày, tốc độ phát triển chậm 0,78cm/ngày. Hệ sợi trong điều kiện
này phát triển yếu, có xu hướng co lại. Đồng thời, khả năng bị nhiễm cũng
cao hơn. Vì vậy, khoảng nhiệt độ này không thích hợp cho sự phát triển của
nấm.
Giai đoạn nuôi sợi của nấm sò trắng phụ thuộc rất nhiều vào cơ chất
nuôi trồng. Qua kết quả nhiên cứu ta thấy công thức 4 (CT4) là công thức cho
tốc độ phát triển hệ sợi cao nhất. Lí do ở đây là do cơ chất nuôi trồng có bổ
sung nguyên liệu và phụ gia với tỉ lệ phù hợp với sự phát triển của nấm.
Qua kết quả thí nghiệm chúng tôi xác định điều kiện nhiệt độ môi
trường phù hợp cho sự phát triển của nấm ở khoảng: t = 18 - 260C, điều kiện
độ ẩm nguyên liệu: W = 55 - 60%.
3.2. Giai đoạn phát triển quả thể và năng suất
Sau khi hệ sợi nấm ăn kín đáy bịch cũng là lúc giai đoạn nuôi sợi kết
thúc. Lúc này chúng tôi tiến hành rạch bịch và chuyển nấm sang phòng chăm
sóc, thu hái.
Thời gian ra quả thể được tính từ lúc rạch bịch và chuyển sang phòng
chăm sóc, thu hái tới khi thu hoăch nấm đợt 1.
Kết quả được thể hiện ở bảng 3.7.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 30
Bảng 3.7: Thời gian ra quả thể ở các công thức
Công thức thí nghiệm CT1 CT2 CT3 CT4
Thời gian ra quả thể 13 11 11 8
Kết quả bảng 3.5 cho thấy ở công thức 4 (CT4) thời gian ra quả thể là
sớm nhất, sau 8 ngày kể từ khi rạch bịch đã xuất hiện quả thể non. Ở công
thức 1, thời gian ra quả thể là muộn nhất, sau 13 ngày. Vì vậy, môi trường
dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến thời gian xuất hiện quả thể của nấm.
Quá trình thu hái được chia thành 3 đợt, mỗi đợt diễn ra trong vòng 6 -
7 ngày, đợt trước cách đợt sau 5 - 7 ngày.
Kết quả thu hái nấm sò ở các đợt thu hái trong mỗi đợt thí nghiệm trên
mỗi công thức thí nghiệm thể hiện ở bảng 3.8:
Bảng 3.8: Kết quả thu hái nấm sò
Công thức Đợt thí
nghiệm 1
(kg)
Đợt thí
nghiệm 2
(kg)
Đợt thí
nghiệm 3
(kg)
Tổng số (kg)
CT1 13 17 23 53
CT2 15 22 27 64
CT3 16 22 28 66
CT4 18 29 34 81
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 31
Đơn vị tính năng suất là số kg nấm tươi ở mỗi công thức thu hoạch
trong mỗi đợt thí nghiệm trên 42 kg nguyên liệu (30 bịch).
Năng suất trung bình ở mỗi công thức được tính bằng trung bình cộng
tổng năng suất ở các đợt thí nghiệm (năng suất kí hiệu là X):
Xtb=(X1+X2+X3)/3
Bảng 3.9: Năng suất thu hoạnh nấm sò trong mỗi đợt thí nghiệm trên
mỗi công thức
Công thức Đợt 1 (%) Đợt 2 (%) Đợt 3 (%)
Trung bình
(%)
CT1 30,95 45,24 54,76 43,65
CT2 35,71 52,38 64,29 50,79
CT3 38,10 52,38 66,67 52,38
CT4 42,86 69,05 80,95 64,29
Từ bảng trên cho thấy năng suất nấm trong mỗi đợt thí nghiệm có sự
chênh lệch đáng kể. Đợt thí nghiệm 1 năng suất nấm thấp nhất do điều kiện
nhiệt độ khí hậu quá cao cho sự phát triển của nấm mà không thể khắc phục.
Đợt thí nghiệm 3 năng suất nấm cao nhất ở tất cả các công thức do điều kiện
môi trường bên ngoài phù hợp với sự phát triển tốt nhất của nấm sò trắng
nghiên cứu.
Ngoài ra ta thấy năng suất nấm thu hoạch ở mỗi công thức khác nhau
có sự khác nhau rõ rệt. Điều này cho thấy năng suất nấm chịu ảnh hưởng lớn
bởi yếu tố môi trường dinh dưỡng.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 32
Trung bình (%)
0
10
20
30
40
50
60
70
C T1 C T2 C T3 C T4
Trung bình (% )
Hình 3.3: Biểu đồ so sánh năng suất trung bình của mỗi công thức
trong cả 3 đợt thí nghiệm
Biểu đồ cho thấy ở công thức 4 (CT4) năng suất nấm là cao nhất do
môi trường dinh dưỡng phong phú, môi trường có bổ sung thêm bông với tỉ lệ
cao. Vì bông là nguyên liệu giàu xenlulozơ lại có cấu trúc dạng sợi tơi xốp
nên khuẩn ti của nấm phát triển trên cơ chất này rất mạnh. Ngoài ra, bổ sung
thêm tỉ lệ nhỏ cám gạo có hàm lượng chất dinh dưỡng cao, cân đối giúp hệ sợi
nấm phát triển dễ dàng. Ở công thức 1 (CT1) thành phần nguyên liệu phần
lớn là mùn cưa, chỉ bổ sung tỉ lệ thấp bông, lại không bổ sung thêm dinh
dưỡng nên hệ sợi nấm phát triển chậm, mảnh hơn.
Kết quả thí nghiệm cho thấy môi trường dinh dưỡng ở công thức 1
(CT1) cho năng suất thấp nhất, môi trường dinh dưỡng ở công thức 4 (CT4)
cho năng suất cao nhất vì đây là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của
nấm sò trắng nghiên cứu.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 33
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sau quá trình nghiên cứu bằng thực nghiệm tôi đưa ra một số kết luận
sau:
Chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) là loại nấm có giá trị kinh tế
cao, dinh dưỡng cao, phù hợp với điều kiện nuôi trồng nhiều đợt ở nước ta.
Chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) có thể đạt năng suất rất cao
(80,95%) nếu nuôi trồng trong điều kiện phù hợp. Năng suất nấm cao hay
thấp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, kĩ thuật nuôi trồng có
đảm bảo hay không.
Với 4 công thức thí nghiệm tôi có thể đưa ra kết luận như sau: Công
thức 4 (CT4) là công thức có môi trường dinh dưỡng tốt nhất, tối ưu nhất cho
sự phát triển của hệ sợi nấm và cho năng suất cao nhât so với các công thức
khác. Và từ kết luận của mình tôi đã bước đầu xây dựng quy trình kĩ thuật
nuôi trồng nấm sò trắng (Pleurotus florida).
2. Kiến nghị
Đề tài chỉ nghiên cứu trên nguồn nguyên liệu chính là mùn cưa, ngoài
ra có bổ sung thêm bông và một số phụ gia khác. Hơn nữa, do thời gian
không cho phép nên tôi chỉ có thể đưa ra những kết quả thực nghiệm ban đầu.
Vì vậy, đề nghị tiếp tục nghiên cứu nếu có thời gian.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lân Dũng (2005), Công nghệ nuôi trồng nấm tập I, Nhà xuất bản
nông nghiệp Hà Nội.
2. Nguyễn Lân Dũng(2009), Công nghệ nuôi trồng nấm tập I, II, Nhà xuất
bản Nông Nghiệp Hà Nội.
3. Nguyễn Hữu Đống, Đinh Xuân Linh, Nguyễn Thị Sơn, Zani Federico
(2005), Nấm ăn cơ sở khoa học và kỹ thuật nuôi trồng, Nhà xuất bản Nông
Nghiệp Hà Nội.
4. Trịnh Tam Kiệt và các tác giả khác (2001), Danh lục các loài thực vật Việt
Nam tập I phần Nấm (trang 218- trang 350), Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
5. Đinh Xuân Linh, Thân Đức Nhã, Nguyễn Hữu Đống, Nguyễn Thị Sơn. Kỹ
thuật trồng, chế biến nấm ăn và nấm dược liệu (2008), tài liệu của Viện Di
Truyền Nông Nghiệp.
6. Đinh Xuân Linh và Cộng sự, “Đánh giá về thực trạng và chiến lược nghiên
cứu, phát triển nấm hiện nay ở Việt Nam” (tháng 12, năm 2008), báo cáo
tham luận tại hội thảo chuyên đề “Sản xuất, chế biến và tiêu thụ Nấm ăn –
nấm dược liệu” Ninh Bình.
7. Paul Staments (1993), Growing Gourmet and Medicinal Mushrooms, first
edition.Ten Speed Press: Berkley.
8.
9.
10.
11. Http:/www.tailieu.vn
12. Http:/www./scribd.com
13.
14.
15.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 35
Một số hình ảnh trong quá trình nuôi trồng nấm sò trắng (Pleurotus florida)
Mùn cưa bồ đề
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 36
Bông phế loại
Ủ mùn cưa
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 37
Ủ bông
Đóng bịch nấm
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 38
Giống nấm cấp II
Giai đoạn ươm sợi
Quả thể non
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2
Hoàng Thị Lan K33C Sinh - KTNN 39
Quả thể trưởng thành
Bịch nhiễm mốc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kl03617_3823.pdf