Việc hiện đại hoá công nghệ NH là một kế hoạch mang tính chất dài hạn,
một chiến lƣợc phát triển tổng quát nên chỉ riêng ngành NH thì khó có thể
thực hiện đƣợc. Do đó, để hiện đại hoá công nghệ thành công thì một đòi hỏi
tất yếu là phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nƣớc.
NHNN cần phải quản lý, giám sát chặt chẽ, thẩm định chính xác các
chƣơng trình đầu tƣ cũng nhƣ các hợp đồng mua bán công nghệ, trang thiết bị
máy móc với nƣớc ngoài để tránh biến thị trƣờng Việt Nam thành “bãi rác
công nghiệp” gây lãng phí nguồn ngoại tệ quốc gia. Có nhƣ vậy, công nghệ
NH Việt Nam mới có điều kiện phát triển theo kịp trình độ trong khu vực và
trên thế giới, từ đó phục vụ tốt cho mọi hoạt động kinh doanh NH, trong đó có
hoạt động Factoring.
111 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3294 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiệp vụ bao thanh toán (Factoring) và giải pháp phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam (VCB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à động lực của tăng
trƣởng kinh tế, mở rộng đầu ra cho sản xuất, tạo kênh thu ngoại tệ để NK máy
móc, nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu sản xuất
và tiêu dùng trong nƣớc, mà còn tạo cơ hội thuận lợi cho hoạt động Factoring
quốc tế, bởi vì nó là cơ sở để nghiệp vụ này tồn tại và phát triển.
66
1.2. Sự dịch chuyển tỷ trọng của các phƣơng thức thanh toán quốc tế
Để hoạt động Factoring quốc tế có thể phát triển, một yếu tố quan trọng là
phải hình thành nhu cầu đối với hoạt động này. Đến lƣợt nó, nhu cầu này lại
phụ thuộc vào phƣơng thức TTQT đƣợc sử dụng. Factoring quốc tế là một
hình thức tài trợ và bảo hiểm rủi ro tín dụng, đồng thời đảm bảo quyền lợi
đƣợc nhận thanh toán đúng hạn của những nhà XK lựa chọn phƣơng thức ghi
sổ (chuyển tiền sau khi giao hàng). Hơn thế nữa, gần đây các nhà Factor cũng
đã cung cấp dịch vụ Factoring cho các nhà XK sử dụng phƣơng thức D/A
nhƣng chủ yếu các giao dịch Factoring vẫn thƣờng áp dụng cho các trƣờng
hợp sử dụng phƣơng thức ghi sổ do nhu cầu cần đƣợc bảo hiểm rủi ro thanh
toán từ phía ngƣời mua của những nhà XK cấp thiết hơn. Trƣớc đây, tỷ trọng
của L/C chiếm ƣu thế hơn trong tổng doanh số hàng nhập thì nay lại có xu
hƣớng giảm dần. Thay vào đó là sự tăng lên không ngừng của hình thức
chuyển tiền. Tại VCB, năm 2006 doanh số chuyển tiền đạt 40,593,126.55
USD chiếm trên 50% tỷ trọng thanh toán quốc tế. Và L/C nhập
là11,569,744.00 USD chiếm khoảng 21,61%. Điều này có thể giải thích là do
trƣớc đây, khi DN Việt Nam nhập hàng, phía nƣớc ngoài thƣờng không tin
tƣởng vào khả năng thanh toán của DN Việt Nam nên yêu cầu thanh toán
bằng tín dụng chứng từ để ràng buộc trách nhiệm của NH, tăng sự an toàn cho
họ. Nhƣng hiện nay, các DN Việt Nam đã làm ăn buôn bán quen với phía
nƣớc ngoài, đã ngày một tạo uy tín và sự tin tƣởng lẫn nhau nên đã chuyển
sang phƣơng thức thanh toán chuyển tiền trả sau đơn giản hơn, tiết kiệm chi
phí, thời gian thủ tục.
Còn đối với hàng xuất, chuyển tiền cũng vẫn là phƣơng thức chiếm tỷ
trọng lớn nhất khoảng gần 80% tỷ trọng thanh toán hàng xuất tại VCB trong
khi L/C chỉ chiếm khoảng hơn 10%. Bởi vì hàng hóa của VN thƣờng có luồng
tiền chảy tới những thị trƣờng đã phát triển ở mức độ cao, ƣu thế của nhà NK
là rất lớn chính vì vậy các DN Việt Nam đặc biệt là các DN mới bƣớc vào
67
thƣơng trƣờng quốc tế, nếu muốn bán đƣợc hàng thì phải sẵn sàng chấp nhận
yêu cầu do phía nƣớc ngoài đƣa ra tức là thanh toán bằng phƣơng thức
chuyển tiền sau khi giao hàng (ghi sổ). Hơn thế nữa, có một số DN kinh
doanh XNK lâu đời với những khách hàng có uy tín nên đã chuyển sang
phƣơng thức chuyển tiền hoặc nhờ thu thay vì phƣơng thức tín dụng chứng từ
để tiết kiệm chi phí.
Nhƣ vậy, thanh toán theo phƣơng thức ghi sổ đang ngày càng trở nên phổ
biến hơn. Điều này có nghĩa rằng, sẽ có ngày càng nhiều các nhà XK coi
Factoring nhƣ là một công cụ hữu hiệu để giải quyết vấn đề thanh khoản, thu
nợ và quản lý tín dụng. Những nhà XK sẽ nhận ra rằng Factoring có thể giúp
họ trở nên cạnh tranh hơn trong bối cảnh thị trƣờng thế giới khốc liệt. Còn
những nhà NK thì đƣợc mua hàng theo một phƣơng thức thanh toán có lợi mà
vẫn đảm bảo quyền lợi cho nhà cung cấp, tạo điều kiện duy trì mối quan hệ
làm ăn lâu dài. Rõ ràng, Factoring trở thành một xu thế tất yếu trong thƣơng
mại quốc tế.
1.3. VCB là thành viên của Hiệp hội Factoring quốc tế lớn nhất thế giới
Ngày 10/10/2005, VCB đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nhà Factor
quốc tế FCI, hiệp hội Factoring quốc tế lớn nhất thế giới. Sự kiện này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nó đem lại cho VCB rất nhiều lợi thế:
Thứ nhất, với tƣ cách là nhà cung cấp Factoring XK, VCB đƣợc quyền
truy cập vào mạng lƣới các nhà Factor NK tại 62 quốc gia. Tại mỗi quốc gia
VCB có quyền chọn một nhà Factor NK có chất lƣợng dịch vụ tốt nhất.
Thứ hai, VCB có thể đƣợc 234 thành viên còn lại trong mạnh lƣới chọn
làm nhà Factor đại lý tại Việt Nam.
Thứ ba, cán bộ Factoring của VCB đƣợc tham gia những khoá đào tạo
chuyên sâu về Factoring, đồng thời có thể đến học việc tại các thành viên
khác của Hiệp hội.
68
Thứ tư, hoạt động Factoring của VCB đƣợc bảo vệ bởi một hệ thống luật chặt
chẽ. FCI sẽ đứng ra giải quyết tranh chấp khi cần thiết, đảm bảo quyền lợi cho
VCB.
Với những thuận lợi đó, khả năng chiếm lĩnh thị trƣờng là rất lớn. Ngoài
ra, VCB sẽ có thêm đƣợc nhiều kinh nghiệm nhờ vào sự cộng tác gần gũi với
các nhà Factor nƣớc ngoài, những công ty đã có kinh nghiệm làm việc trong
rất nhiều năm và đã đạt đƣợc những vị trí hàng đầu tại các thị trƣờng phát
triển. Sự chuyển giao những bí quyết thành công đó sẽ hỗ trợ VCB rất nhiều
trong việc phát triển nghiệp vụ Factoring.
1.4. VCB là ngân hàng có uy tín trên trƣờng quốc tế
Trong hoạt động NH nói chung cũng nhƣ trong tài trợ Factoring nói riêng,
uy tín quốc tế là một trong những yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định
đến sự thành công của mỗi NH. Bởi uy tín ảnh hƣởng đến khả năng cạnh
tranh trong việc thu hút khách hàng, đồng thời tạo cơ hội đƣợc các nhà Factor
nƣớc ngoài chọn làm đại lý tại Việt Nam.
Cùng với sự mở rộng mạng lƣới ngân hàng đại lý, quy trình TTQT ngày
càng hoàn thiện và hiệu quả hơn đã tạo cho VCB một lợi thế nhất định trên
trƣờng quốc tế. VCB luôn là ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất về hoạt động
TTQT trong hệ thống NHTM Việt Nam. Đồng thời cũng là ngân hàng nhận
đƣợc nhiều giải thƣởng nhất do các đối tác có uy tín và tạp chí nƣớc ngoài
trao tặng. NHNT là NHTM duy nhất tại VN đƣợc tạp chí “The Banker” – tạp
chí NH uy tín trong giới tài chính quốc tế của Anh bình chọn là “NH tốt nhất
Việt Nam” liên tục 5 năm 2000 – 2004. Năm 2007, NHNT đƣợc bầu chọn là
“NH cung cấp dịch vụ ngoại hối cho doanh nghiệp tốt nhất năm 2007” do tạp
chí Asia Money bình chọn.
Bên cạnh đó, VCB cũng có lƣợng khách hàng chủ yếu là các khách hàng
lớn, khách hàng truyền thống. Đó là các DN thành công hàng đầu Việt Nam
thuộc các ngành dầu khí, bƣu chính viễn thông, hàng không, các DN XNK và
69
các NH lớn có uy tín ở nƣớc ngoài…Trong đó, VCB có mối quan hệ hết sức
gắn bó với các DNXNK do VCB luôn cung cấp cho nhóm khách hàng này
những sản phẩm dịch vụ TTQT có chất lƣợng cao, tốc độ thanh toán nhanh,
đảm bảo quyền lợi cho DN. Với lƣợng khách hàng lớn và uy tín nhƣ vậy, khả
năng phát triển nghiệp vụ Factoring là rất tốt.
70
2. Khó khăn
2.1. Môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện
Factoring là một nghiệp vụ đa dạng cung ứng nhiều loại dịch vụ hấp dẫn
cho khách hàng song để thực hiện đƣợc nghiệp vụ này là không đơn giản vì
những yếu tố xuất phát từ hành lang pháp lý cho hoạt động NH nói chung và
nghiệp vụ này nói riêng còn nhiều bất cập. Mãi đến cuối năm 2004, Quy chế
hoạt động bao thanh toán của các TCTD mới ra đời. Mặt tích cực của quy chế
này đã quy định đƣợc hai vấn đề cơ bản trong Factoring, đó là thừa nhận
quyền chuyển nhƣợng và quyền đƣợc chuyển nhƣợng các KPT của các bên
tham gia và quy định ngƣời mua phải có nghiã vụ thanh toán các khoản phải
thu cho nhà Factor. Tuy nhiên, việc quy chế định nghĩa Factoring chỉ là một
phƣơng thức cấp tín dụng đã khiến toàn bộ nội dung quy chế này lệch ra khỏi
bản chất của nghiệp vụ Factoring. Nên chăng NHNN VN nghiên cứu để xây
dựng một quy chế ngắn gọn, chính xác. đề cập đến những yêu cầu cơ bản của
Factoring.
2.2. Vấn đề thiếu thông tin
Cơ sở hạ tầng của một hệ thống tài chính có thể đóng một vai trò quyết
định đến sự phát triển của hoạt động Factoring. Vì trong một môi trƣờng thiếu
thông tin, thời gian thực hiện một quy trình tài trợ, chi phí của việc thực hiện
tài trợ và tỷ lệ không thanh toán sẽ cao hơn. Trong khi đó, thiếu thông tin lại
đang là một vấn đề bức xúc của cả NHTM VN và các DN, là một trong những
nguyên nhân gây ra khối lƣợng nợ xấu khổng lồ hiện nay cũng nhƣ việc
chiếm dụng vốn không có khả năng hoàn trả giữa các DN với nhau.
Tại VN, mới chỉ có Trung tâm thông tin tín dụng CIC thuộc NHNN quản
lý là chuyên cung cấp thông tin cho các NHTM. Song cho đến nay CIC vẫn
chƣa trở thành nguồn cung cấp thông tin, đầy đủ, tin cậy và hiệu quả cho việc
phòng ngừa rủi ro. Đặc biệt là những thông tin về hoạt động thanh toán của
các DN còn thiếu, mà những thông tin này lại đóng vai trò then chốt trong
71
việc đánh giá khả năng thanh toán của DN để từ đó đƣa ra quyết định tài trợ
hợp lý.
Việc khắc phục những vấn đề thiếu thông tin nhƣ trên không thể thực hiện
đƣợc ngay, nên đây vẫn là nhân tố ảnh huởng đến sự phát triển nghiệp vụ
Factoring của NH các NH nói chung và VCB nói riêng.
2.3. Những khó khăn trong công tác Marketing
Tại VN, Factoring còn là một nghiệp vụ mới mẻ, không những đối với các
DN mà còn thậm chí ngay cả các NH trong thời gian gần đây mới bắt đầu tìm
hiểu và triển khai áp dụng. Trong khi đó, các DNVN hầu hết đều đang cần
vốn và đang cần đƣợc tài trợ do đó họ sẵn sàng tìm đến bất kỳ TCTD nào có
thể cung ứng vốn cho họ kịp thời. Tuy nhiên, trở ngai lớn nhất là nhận thức
của phần lớn các DN ở VN cộng với môi trƣờng kinh tế không ổn định rất
khó thuyết phục đƣợc cho họ nhận biết đƣợc những lợi ích mà Factoring có
thể mang lại về mặt lâu dài qua các dịch vụ phong phú đa dạng của Factoring.
Do đó, sẽ khiến họ dè dặt hơn trong mối quan hệ này, thậm chí có thể hiểu sai
về hoạt động Factoring nếu không có phƣơng pháp hƣớng dẫn thích hợp.
2.4. Vấn đề kiểm toán với các doanh nghiệp
Ở VN phần lớn các báo cáo hàng năm của các DN chƣa có kiểm toán độc
lâp ký xác nhận nên đã gây không ít khó khăn trong việc xác định tình hình
tài chính, kết quả hoạt động của DN, do đó khó có thể thuyết phục các đối tác
nƣớc ngoài khi muốn thiết lập mối quan hệ làm ăn. Trong việc “sàng lọc “
khách hàng để quyết định ký kết hợp đồng Factoring và tỏa thuận mức tài trợ
cho các DN, nếu các báo các tài chính không có chữ ký của kiểm toán viên
độc lập sẽ gây khó khăn cho nhà Factor trong việc xác định tình hình tài chính
và hiệu quả kinh doanh của DN.
3. Đánh giá chung
Hoạt động XNK - động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam - vẫn
đang ngày một khởi sắc, đặc biệt sau khi VN gia nhập tổ chức thƣơng mại thế
72
giới WTO. Cùng với nó là, tốc độ tăng trƣởng phƣơng thức thanh toán TDCT
giảm xuống, sự tăng lên về tỷ trọng phƣơng thức thanh toán ghi sổ. Những lợi
ích từ việc tham gia vào hiệp hội các nhà Factor quốc tế FCI - cộng với thế
mạnh sẵn có của VCB trong hoạt động TTQT và tài trợ XNK, sẽ là những
nhân tố tạo thuận lợi cho sự phát triển cùa nghiệp vụ Factoring trong thời gian
tới.
Tuy nhiên, trƣớc mắt vẫn còn tồn tại những khó khăn ảnh hƣởng đến khả
năng phát triển nghiệp vụ này, trong đó có thể kể đến nhƣ: hành lang pháp
của VN còn quá hẹp, cơ sở dữ liệu thông tin ở VN còn quá nghèo nàn, những
khó khăn trong hoạt động Marketing cho các DNVN hay những hạn chế trong
vấn đề kiểm toán các báo cáo tài chính của các DNVN. Chính vì thế, để
nghiệp vụ này hoạt động hiệu quả cần có những giải pháp kịp thời để khắc
phục những trở ngại trƣớc mắt là rất cần thiết.
II. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ FACTORING TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM
1. Đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn cho VCB
Con ngƣời luôn là yếu tố then chốt, đóng vai trò quyết định đối với mọi sự
phát triển. Thực tế đã chứng minh sự yếu kém trong năng lực điều hành và
năng lực chuyên môn của các nhà quản trị cũng nhƣ của đội ngũ nhân viên là
nguyên nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Mặt khác, trong
xu thế hội nhập của mọi hoạt động kinh doanh NH mà đi đầu là các nghiệp vụ
NH đối ngoại trong đó có nghiệp vụ Factoring , VCB cần phải gấp rút hơn
nữa trong việc xây dựng, đào tạo cho mình một đội ngũ các nhà quản trị có
năng lực, một đội ngũ cán bộ nghiệp vụ giỏi về chuyên môn, trong sáng về
đạo đức.
Để làm đƣợc nhƣ vậy, VCB cần xây dựng một chiến lƣợc nhân sự từ khâu
tuyển chọn tới khâu đào tạo, bồi dƣỡng và sử dụng đội ngũ nhân sự này.
Muốn vậy, VCB cần quan tâm đến những vấn đề sau:
73
Trước hết, trong công tác tuyển chọn cán bộ, cần xây dựng hệ thống chuẩn
mực nhất định, tránh tình trạng tuỳ tiện, dễ dãi dẫn đến việc tuyển dụng một
đội ngũ cán bộ thiếu năng lực chuyên môn, thiếu đạo đức gây rủi ro trong
hoạt động kinh doanh NH sau này. Sau quá trình tuyển chọn, cần bố trí nhân
sự theo đúng năng lực và chuyên môn, nghiệp vụ đƣợc đào tạo để tạo điều
kiện giúp cho cán bộ NH có điều kiện bộc lộ, phát huy hết khả năng của mình
để cống hiến cho NH. VCB nên mạnh dạn sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ là
những ngƣời có năng lực và tinh thần trách nhiệm đối với công việc, tuy
nhiên nên cân nhắc kỹ trƣớc khi quyết định bố trí họ vào những vị trí chủ chốt
của NH bởi những cán bộ trẻ là những ngƣời chƣa có hoặc có rất ít kinh
nghiệm về hoạt động thực tiễn của NH.
Thứ hai, sau khi tuyển chọn, VCB cần đặc biệt quan tâm tới công tác đào
tạo. Đối với hoạt động Factoring công tác đào tạo cần tập trung vào việc trang
bị kiến thức cho cán bộ NH không chỉ về nghiệp vụ Factoring, về thông lệ và
tập quán quốc tế, các điều kiện thƣơng mại quốc tế, kiến thức về pháp luật
quốc gia mà còn phải chú trọng trang bị cho cán bộ một trình độ ngoại ngữ
nhất định. Do đó, trong công tác đào tạo, VCB nên tiến hành các việc làm cụ
thể nhƣ sau:
Thƣờng xuyên cử nhân viên đi đào tạo về chuyên môn và ngoại ngữ
trong và ngoại nƣớc. Cần tiến hành đƣa cán bộ có năng lực đi khảo sát ở các
nƣớc tiên tiến đang áp dụng loại hình nghiệp vụ này để học hỏi kinh nghiệm
và các kỹ thuật chuyên môn. Các nhà quản lý tham gia thƣờng xuyên các
cuộc hội thảo của FCI để trao đổi học hỏi những kinh nghiệm quốc tế.
Tổ chức các khoá đào tạo tại chỗ nhằm trang bị kiến thức chuyên môn
và kiến thức pháp luật cho đội ngũ nhân viên dƣới hình thức mời các chuyên
gia giàu kinh nghiệm giảng dạy.
74
Tổ chức các lớp tập huấn nội bộ. VCB nên định kì mở các lớp đào tạo
nghiệp vụ mới, công nghệ mới cho cán bộ NH nói chung và cán bộ Factoring
nói riêng.
Thứ ba, có quy chế sát hạch về chất lƣợng cán bộ định kì. Việc tổ chức
kiểm tra thƣờng xuyên nhƣ vậy một mặt giúp NH đánh giá đƣợc trình độ cán
bộ từ đó có những điều chỉnh sắp xếp công việc phù hợp hơn, mặt khác có tác
dụng khuyến khích cán bộ không ngừng nâng cao trình độ để đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao của công việc. Có nhƣ vậy mới giảm đƣợc rủi ro tác nghiệp
trong hoạt động Factoring, để hoạt động này diễn ra trôi chảy có chât lƣợng
đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh việc kiểm tra, đánh giá bồi dƣỡng nghiệp vụ cho cán bộ, VCB
cũng cần chú trọng tới việc xây dựng một đội ngũ các nhà quản trị có tài và
có tâm thực sự. Một đội ngũ lãnh đạo có năng lực điều hành, giỏi về chuyên
môn, trong sáng về đạo đức một mặt có khả năng điều hành tốt mọi hoạt động
của NH, mặt khác có tác dụng khuyến khích những cán bộ cấp dƣới làm việc
hiệu quả hơn, từ đó phát triển mọi hoạt động kinh doanh của NH. Nhất là
trong giai đoạn đầu phát triển nghiệp vụ Factoring quốc tế, nếu không có một
sự quản lý tài tình và một chiến lƣợc tiếp thị hiệu quả thì sẽ không thể phổ
biến và phát triển đƣợc nghiệp vụ, thậm chí sẽ dễ dàng đi đến thất bại.
Thứ tư, có chế độ đãi ngộ xứng đáng về lƣơng, thƣởng đối với cán bộ có
nhiều thành tích trong công tác, đồng thời xử phạt nghiêm minh đối với
những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, có những biểu hiện lợi dụng
nghiệp vụ chuyên môn vi phạm pháp luật nhằm thu lợi riêng, gây ảnh hƣởng
đến uy tín của VCB.
Nhìn chung dù ở thời đại nào, trong bất kỳ hoạt động nào, nhân tố con
ngƣời cũng đều đƣợc xem nhƣ là động lực của sự phát triển. Chỉ trên cơ sở có
đƣợc một đội ngũ cán bộ có tài và có tâm thực sự, hoạt động Factoring mới có
75
thể diễn ra nhanh chóng, an toàn, nhờ đó góp phần nâng cao uy tín, mở rộng
thị phần cho VCB.
2. Hoàn thiện nghiệp vụ Factoring tại VCB
2.1. Xây dựng quy trình thực hiện Factoring một cách hợp lý
Hoạt động Factoring còn khá mới mẻ với cán bộ ngân hàng, vì vậy việc
xây dựng quy trình thực hiện cho phù hợp, chặt chẽ, đồng bộ là khá quan
trọng.VCB cần căn cứ vào quy trình chung của hoạt động Factoring và tình
hình các hoạt động liên quan mật thiết nhƣ tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh
doanh ngoại tệ… để có đƣợc một quy trình thống nhất.
Hiện nay, VCB đã tự xây dựng cho mình quy trình nghiệp vụ Factoring.
Mặc dù vậy, do đây là một nghiệp vụ mới đƣợc phổ biến tại Việt Nam nên
chắc chắn trong quá trình áp dụng sẽ gặp không ít những khó khăn còn chƣa
thể lƣờng trƣớc đƣợc, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn chƣa
phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam còn dè dặt và chƣa có những hiểu biết
cần thiết về nghiệp vụ Factoring. Do đó, quy trình này cần đƣợc xây dựng và
thƣờng xuyên sửa đổi theo hƣớng ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng những
nhu cầu của quá trình hội nhập và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì
thế, trong thời gian tới, VCB cần nghiên cứu lại các quy trình này để chuẩn
hoá và ngày càng hoàn thiện, ngang tầm với các nhà Factor trong khu vực và
trên thế giới.
VCB cần xây dựng một số tiêu chí cụ thể trong việc xác định năng lực
cũng nhƣ uy tín, tình hình sản xuất kinh doanh của nhà nhập khẩu.
2.2. Điều chỉnh lại hệ thống phí thực hiện Factoring hiện nay
Phí của VCB là khá ƣu đãi, tuy nhiên vẫn còn khá cao. Điều này đã hạn
chế số lƣợng các doanh nghiệp tham gia đồng thời làm chậm sự phát triển của
76
dịch vụ Factoring. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này,VCB cần phải tiến
hành rà soát lại hệ thống phí Factoring, điều chỉnh phù hợp, đảm bảo minh
bạch, cạnh tranh lành mạnh, tránh các khoản thu bất hợp lý của VCB đối với
khách hàng và hạn chế hiện tƣợng tiêu cực trong hoạt động ngân hàng.
3. Tăng cƣờng hoạt động Marketing của VCB
Ngày nay, Marketing đa trở thành triết lý trong kinh doanh của tất cả mọi
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng. Hoạt động kinh doanh
của ngành NH cũng không nằm ngoài xu thế đó. Đặc biệt trong lĩnh vực NH,
khi sản phẩm dịch vụ là tƣơng đối đồng nhất thì việc áp dụng Marketing một
cách linh hoạt và sáng tạo sẽ đem lại nhiều khả năng giành thắng lợi cạnh
tranh cho các NH. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, các NHTM vẫn chƣa
quan tâm đến hoạt động nay một cách đúng mực, chƣa đủ tầm để đáp ứng
đƣợc yêu cầu của cơ chế thị trƣờng. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các
NHTN nói chung và VCB nói riêng cần xây dựng một chiến lƣợc Marketing
cụ thể và chiến lƣợc này phải đƣợc quán triệt đến từng cán bộ, nhân viên NH.
Trong đó, cần chú trọng những vấn đề sau:
Nghiên cứu thị trƣờng để nắm bắt đƣợc tập quán, thái độ và nhất là
động cơ của khách hàng khi lựa chọn NH. Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng
sự lựa chọn NH của khách hàng thƣờng đƣợc dựa trên cơ sở so sánh các tiêu
chuẩn của NH nhƣ địa điểm, chất lƣợng phục vụ, thái độ phục vụ của nhân
viên, sự thuận tiện và dễ dàng khi giao dịch, hình ảnh về sức mạnh và sự an
toàn của NH…
Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của NH hiện tại và trong tƣơng lai để
thấy đƣợc điểm mạnh cần phát huy và những thiếu sót cần khắc phục.
77
Dự đoán và phân tích hƣớng phát triển của thị trƣờng, nghiên cứu thử
nghiệm để xem xét phản ứng của khách hàng với dịch vụ mới trƣớc khi phổ
biến rộng rãi.
Ngoài ra, để có đƣợc một chiến lƣợc Marketing NH đem lại hiệu quả thiết
thực, VCB cần thực hiện một chính sách khách hàng linh hoạt bởi lẽ chính
sách khách hàng là bộ phận quan trọng nhất trong tổng thể hoạt động
Marketing của NH. Cụ thể:
Thứ nhất, nắm bắt nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó cung cấp những
sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu cuả khách hàng.
Thứ hai, cần duy trì quan hệ với khách hàng truyền thống và thu hút thêm
khách hàng mới.
Thứ ba, thái độ phục vụ khách hàng của các nhân viên giao dịch là cách
quảng cáo tốt nhất, gây ấn tƣợng nhất và có sức thu hút khách hàng nhất với
chi phí thấp nhất. Bởi trong mắt khách hàng, nhân viên là hình ảnh của NH
nên khi thực hiện nghiệp vụ họ không biết chính mình đang làm Marketing.
Do vậy, nhân viên NH cần giữa phong cách phục vụ tận tình, thái độ văn
minh, lịch sự trong giao tiếp với khách hàng.
Đối với Factoring, một nghiệp vụ còn rất mới mẻ ở VN, vấn đề đầu tiên là
phải phổ biến một cách sâu rộng nghiệp vụ này cho các DN, làm sao để họ
thấy đƣợc những lợi ích và cơ hội kinh doanh hiệu quả mà Factoring mang lại
cho họ. VCB có thể thông qua các hình thức quảng cáo đa dạng trên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng nhằm phổ biến đến các DN đặc biệt là các
DN xuất nhập khẩu rằng Factoring là một dịch vụ cần thiết để tổ chức tốt DN
và kinh doanh có hiệu quả, mang lại thành công cho các DN nhất là khi tham
gia vào thị trƣờng thế giới rộng lớn và phức tạp. Phải chứng minh đƣợc số nợ
khó đòi ở các DN không sử dụng Factoring cao hơn so với các DN có sử dụng
dịch vụ này và đặc biệt là những khoản tiền mà Factoring tiết kiệm cho DN
qua các dịch vụ cung ứng. Song song với đó, mức lãi suất và phí dịch vụ
78
Factoring cũng phải hết sức linh hoạt và mang tính cạnh tranh để thu hút đƣợc
khách hàng.
Tóm lại, thực hiện tốt Marketing trong hoạt động NH sẽ giúp VCB nâng
cao uy tín của mình, từ đó sẽ có tác dụng thu hút khách hàng, tạo đà cho hoạt
động Factoring nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung ngày càng phát triển.
4. Đẩy mạnh công tác tƣ vấn cho khách hàng
Trong tình hình thực tế ở VN hiện nay, đa số các nhà kinh doanh XNK còn
thiếu kinh nghiệm trong thƣơng lƣợng kí hợp đồng ngoại thƣơng, nhất là các
DN nhỏ, mới lần đầu bƣớc chân vào thị trƣờng quốc tế, còn hạn chế về ngoại
ngữ, thiếu trình độ chuyên môn về thanh toán quốc tế, cũng nhƣ chƣa có
những hiểu biết đầy đủ, toàn diện về các thông lệ, điều kiện thƣơng mại quốc
tế. Chính vì vậy, phát triển công tác tƣ vấn cho khách hàng ở VCB hiện nay là
vô cùng cần thiết.
Đối với DNXK, VCB nên tiến hành tƣ vấn cho khách hàng về thị trƣờng
XK, uy tín của các đối tác thƣơng mại, cách thức tiến hành giao dịch tốt nhất
để tránh nảy sinh tranh chấp gây ảnh hƣởng đến khả năng chấp nhận thanh
toán sau này.
Đối với DNNK, VCB cần tƣ vấn cho họ thấy những lợi ích căn bản của
DN khi sử dụng phƣơng thức thanh toán ghi sổ, cũng nhƣ tƣ vấn về cách thức
thực hiện thanh toán sao cho tiết kiệm nhất, đồng thời đảm bảo không ảnh
hƣởng đến uy tín tín dụng của mình - khía cạnh rất quan trọng trong hoạt
động thƣơng mại quốc tế.
Nhƣ vây, phát triển dịch vụ tƣ vấn một mặt giúp NH gia tăng đƣợc nguồn
thu dịch vụ, song quan trọng hơn nó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh cho các DN, đồng thời cũng giúp hoạt động Factoring đƣợc tiến hành
một cách trôi chảy, tạo đƣợc niềm tin từ phía khách hàng, thu hút ngày càng
nhiều khách hàng đến với NH, từ đó không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh cho NH.
79
5. Phát triển và mở rộng các hình thức Factoring
Kể từ khi Việt Nam tiến hành mở cửa nền kinh tế, áp lực cạnh tranh trong
nƣớc của nƣớc ta đã tăng lên đáng kể, đối với ngành ngân hàng cũng vậy.
Hiện nay, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, ngày càng nhiều ngân
hàng đƣợc thành lập cũng nhƣ xin giấy phép thành lập. Các NH để có thể tồn
tại trong cuộc cạnh tranh và giành đƣợc thị phần lớn thì phải không ngừng đa
dạng hoá cũng nhƣ cải tiến các loại hình dịch vụ. Nhận thức đƣợc vấn đề này,
VCB cùng đã tiến hành cung cấp nhiều loại hình dịch vụ Factoring nhằm thu
hút đƣợc đông đảo khách hàng cho mình. Tuy nhiên, loại hình Factoring mà
VCB cung cấp vẫn chƣa đáp ứng đƣợc hết nhu cầu của khách hàng. Vì vậy,
để nghiệp vụ Factoring phát huy đƣợc hết các lợi ích của mình, VCB cần phát
triển và mở rộng loại hình dịch vụ này.
5.1. Đa dạng hoá các dịch vụ Factoring trong nƣớc và quốc tế
Có thể nói nhu cầu của các DN Việt Nam hết sức đa dạng thay đổi tuỳ
thuộc vào tính chất ngành nghề. Đặc biệt, với xu hƣớng đa dạng hoá các loại
hình kinh doanh của DN thì việc đa dạng hoá các dịch vụ NH đang là một yêu
cầu nội tại cần thiết. Chính vì vậy, đa dạng hoá các dịch vụ Factoring vừa là
một giải pháp nhằm mở rộng, phát triển hoạt động này đồng thời lại là một
biện pháp rất quan trọng góp phần giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt
động Factoring của VCB.
Trƣớc mắt, trong điều kiện của VCB hiện nay, NH nên mạnh dạn áp dụng
một số dịch vụ Factoring nhƣ: Factoring toàn bộ, Factoring một phần,
Factoring công khai, Factoring kín,. ..Tuy nhiên, trong từng trƣờng hợp cụ thể nên
cung cấp nhiều loại hình thức khác nhau để đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng.
Mở rộng các dịch vụ Factoring nhƣ vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà
XK trong việc nhận tài trợ, thu hồi vốn đồng thời tạo thuận lợi cho nhà NK
trong việc nhập hàng hóa từ phía nƣớc ngoài từ đó góp phần thúc đẩy hoạt
động Factoring của NH phát triển.
80
5.2. Mở rộng khách hàng cung cấp Factoring
VCB mới dừng lại ở mức cung ứng dịch vụ Factoring cho những khách
hàng DN lớn, những khách hàng ruột của NH. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi
nghiệp vụ Factoring vẫn còn là nghiệp vụ mới đối với VCB. Tuy nhiên, để
nghiệp vụ đƣợc phát triển một cách hoàn thiện, VCB cần hƣớng tới mọi
doanh nghiệp có nhu cầu sử dung bao thanh toán đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Bởi thực tế kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới đã chỉ ra
rằng: chính những DN vừa và nhỏ, với quy mô vốn hạn chế mới là đối tƣợng
khách hàng làm nên sự thành công của nghiệp vụ Factoring này.
5.3. Ƣu tiên và phát triển dịch vụ Factoring cho các doanh nghiệp XK
VCB tiếp tục ƣu tiên thực hiện Factoring với doanh nghiệp xuất khẩu vừa
và nhỏ. Đối với Factoring quốc tế, từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy Factoring
hàng xuất sang các thị trƣờng phát triển: Mỹ, EU dễ dàng hơn nhiều so với
Factoring nội địa. Là nhà Factor xuất khẩu trong quy trình Factoring quốc tế
hai đại lý, VCB không cần phải có hệ thống thông tin thật mạnh. Trong khi tại
các thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam với cơ sở hạ tầng thông tin đáng tin
cậy, nhà Factor nhập khẩu dễ dàng thẩm định ngƣời nhập khẩu và đƣa ra bảo
hiểm rủi ro tín dụng cho ngƣời xuất khẩu Việt Nam. VCB trên cơ sở đó cung
cấp dịch vụ ứng trƣớc, quản lý sổ cái mà không chịu rủi ro rừ ngƣời nhập
khẩu. Chính vì vậy, trƣớc mắt VCB nên tập trung vào thực hiện nghiệp vụ
Factoring với vai trò là nhà Factor xuất khẩu.
6. Mở rộng quan hệ Factor đại lý
Quan hệ Factor đại lý thực chất là quan hệ giữa một nhà Factor trong nƣớc
với nhà Factor nƣớc ngoài trong việc làm đại lý Factoring cho nhau trên cơ sở
hai bên cùng có lợi. Nhà Factor nƣớc ngoài có thể cùng một hiệp hội, hoặc
thuộc các hiệp hội khác nhau, tuy nhiên các nhà Factor thƣờng ƣu tiên lựa
chọn các thành viên trong cùng hiệp hội với mình. Trong trƣờng hợp đó, các
81
thành viên mặc dù đã cùng một hiệp hội, song nếu muốn hình thành quan hệ
Factor đại lý, họ vẫn phải ký kết một hợp đồng Factor đại lý với nhau. Chẳng
hạn nhƣ VCB là thành viên của FCI, nếu muốn thiết lập quan hệ với một
thành viên khác của FCI thì sẽ phải ký kết một hợp đồng có tên gọi là “FCI
Interfactor Agreement”.
Quan hệ Factor đại lý càng đƣợc mở rộng thì việc thu hồi nợ càng trở nên
dễ dàng, nhanh chóng. thuận tiện và tiết kiệm. Thực tế đã chứng minh nhà
Factor nào có mạng lƣới Factor đại lý rộng khắp thì cũng có hoạt động
Factoring phát triển. Do đó, trong thời gian tới, bên cạnh việc duy trì tốt mối
quan hệ với các nhà Factor hiện tại, VCB cần tích cực chủ động hơn nữa
trong việc phát triển, mở rộng quan hệ Factor đại lý với các nhà Factor trên
thế giới, tiếp cận với các NH ở các nƣớc mà Việt Nam đã và đang có mối
quan hệ thƣơng mại, xây dựng một lƣợc về công tác đại lý. Một chiến lƣợc
về công tác đại lý chỉ thực sự có hiệu quả khi:
Thứ nhất, có sự gắn kết công tác quan hệ đại lý với quan hệ khách hàng.
Thứ hai, không thụ động ngồi chờ các nhà Factor nƣớc ngoài đến giao
dịch mà phải chủ động chào dịch vụ với họ, nhất là các Factor ở thị trƣờng mà
Việt Nam có quan hệ thƣơng mại.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác thống kê Factoring về hiệu quả kinh doanh và
khả năng giải quyết tranh chấp của các nhà Factor đại lý, đồng thời thƣơng
xuyên theo dõi, đánh giá mối quan hệ với nhà Factor đại lý trên các mặt giao
dịch, thanh toán, thu nợ, bảo hiểm để xếp hạng uy tín, lựa chọn nhà Factor có
hiệu quả nhất. Thông thƣờng, nên chọn các nhà Factor là thành viên của hai tổ
chức Factoring quốc tế lớn nhất trên thế giới là FCI và IFG, ƣu tiên các đại lý
đã là thành viên chính thức, các NH có uy tín hoặc các công ty con của các
NH hay tổ chức tài chính lớn.
7. Thực hiện quản trị rủi ro một cách hiệu quả trong Factoring
82
Rủi ro trong Factoring là một trong những tác nhân không những làm giảm
hiệu quả hoạt động kinh doanh NH mà còn ảnh hƣởng không nhỏ đến uy tín
của NH trên trƣờng quốc tế. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả và phát triển
hoạt động Factoring thì một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đối
với VCB là phải đƣa ra đƣợc các công cụ, các biện pháp quản trị rủi ro thích
hợp trên cơ sở am hiểu thông lệ quốc tế về từng nghiệp vụ Factoring.
Dƣới góc độ là nhà Factor XK:
Trƣớc khi quyết định tài trợ, việc đầu tiên cần làm là kiểm tra tính xác
thực của các hoá đơn, vì đã có không ít các trƣờng hợp nhà XK lập hoá đơn
khống. Khi đã khẳng định đƣợc tính chân thực của các hoá đơn, thực trạng
hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà XK, năng lực tài chính và khả năng
thanh toán của nhà NK, mối quan hệ giữa ngƣời mua và ngƣời bán để xác
định mức tài trợ phù hợp.
Rõ ràng là xác định mức tài trợ cao sẽ giúp NH có đƣợc lợi thế trong cạnh
tranh nhƣng lại đẩy NH vào trạng thái rủi ro trong trƣờng hợp nhà NK không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với NH sau này. Chính vì vậy, việc xác
định mức tài trợ nên đƣợc NH xem xét một cách thận trọng để vừa đảm bảo
tính cạnh tranh lại vừa tránh rủi ro cho NH. Mức tài trợ nên đƣợc xác định
căn cứ vào quan hệ giữa khách hàng và NH, năng lực tài chính và khả năng
thanh toán của nhà NH, khả năng tiêu thụ sản phẩm tiêu trên thị trƣờng trong
thời gian tới, chiều hƣớng biến động giá cả của hàng hoá.
Mặt khác, với vai trò là NH phục vụ ngƣời XK, trong trƣờng hợp này NH
cũng cần có những hỗ trợ, tƣ vấn thích hợp đối với khách hàng để tránh cho
khách hàng do thiếu thận trọng hoặc do trình độ nghiệp vụ còn hạn chế mà
chấp nhận những điều khoản bất lợi do phía NK đƣa ra. Thực hiện dich vụ tƣ
vấn nhƣ vậy vừa có tác dụng ra tăng thu nhập cho NH, vừa giúp khách hàng
tránh đƣợc rủi ro sau này từ đó giúp NH đảm bảo đƣợc phần nào khả năng
thanh toán từ phía nhà NK.
83
Ngoài ra, NH cần nghiên cứu tình hình kinh tế - chính trị của nƣớc NK để
có quyết định tài trợ. Trong trƣờng hợp nƣớc NK có tình hình kinh tế - chính
trị không ổn định, NH không nên thực hiện tài trợ vì khi đó khả năng thanh
toán của nhà NK đối với hàng hoá bấp bênh.
Dƣới góc độ là nhà Fator NK:
Khi nhận đƣợc yêu cầu bảo hiểm rủi ro không thanh toán của ngƣời mua
từ phía nhà Factor XK, NH cũng cần nên phân tích kĩ các yếu tố về sản phẩm,
nhà XK, nhà NK đã chỉ ra trong trƣờng hợp trên. Trong đó, cần đặc biệt thẩm
định kĩ tình hình tài chính, kinh doanh và uy tín tín dụng của nhà NK để từ đó
đánh gía đúng đắn khả năng thanh toán của anh ta, trên cơ sở đó quyết định
chấp nhận bảo hiểm rủi ro.
Một điểm quan trọng cần lƣu ý là để hạn chế đƣợc rủi ro trong quá trình tài
trợ, chấp nhận bảo hiểm rủi ro, công tác thu thập thông tin đƣợc xem nhƣ là
một yếu tố then chốt để có thể đánh giá khách hàng một cách toàn diện. Do
đó, trên cơ sở dữ liệu các khách hàng hiện có của VCB, ban bao thanh toán
nên xây dựng cho mình cơ sở dữ liệu riêng về khách hàng tiềm năng của
Factoring. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với CIC, phòng quan hệ khách hàng và
quan hệ ngân hàng đại lí (hai phòng chuyên môn chịu trách nhiệm xây dựng
hệ thống tính điểm xếp hạng DN và TCDN). Sự kết hợp này sẽ là cơ sở vững
chắc giúp xác đinh uy tín tín dụng của các DN để xúc tiến quá trình tài trợ,
thu nợ hay chấp nhận bảo hiểm rủi ro một cách thành công.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nƣớc (NHNN)
1.1. NHNN cần hoàn thiện khung pháp lý về bao thanh toán
Cũng nhƣ mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động kinh doanh NH chỉ
có thể phát triển và đạt hiệu quả cao trong điều kiện môi trƣờng pháp lý hoàn
thiện. Đặc biệt, đối với hoạt động Factoring quốc tế – một hoạt động không
chỉ liên quan đến yếu tố trong nƣớc mà còn liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài,
84
vấn đề này càng đƣợc thể hiện rõ nét. Chính vì vậy, để phát triển hoạt động
Factoring quốc tế trong hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và VCB nói
riêng, giải pháp đầu tiên cần thực hiện đó là cần nghiên cứu và ban hành các
văn bản về hoạt động Factoring, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của
NH cũng nhƣ của các DN phát triển.
Hiện nay Việt Nam mới chỉ có Quy chế hoạt động Factoring của các tổ
chức tín dụng ban hành ngày 06/09/2004, nội dung còn thiếu và nhiều bất cập.
Chính vì thế, NHNN Việt Nam cần bổ sung xây dựng một quy chế khác chính
xác hơn, hoàn thiện hơn, đáp ứng những yêu cầu cơ bản của luật về dịch vụ
Factoring nhƣ:
Định nghĩa chính xác dịch vụ Factoring theo thông lệ quốc tế, đặc biệt
nhấn mạnh 4 chức năng quan trọng của bao thanh toán
Nêu rõ các điều kiện đối với các tổ chức tín dụng khi muốn cung ứng
dịch vụ Factoring.
Bổ sung quy định về bao thanh toán đối với hàng hoá và/ hoặc dịch vụ
cho phù hợp với các Luật lệ và tập quán về bao thanh toán quốc tế.
Mở rộng phạm vi bao thanh toán kín và bao thanh toán công khai
Phân biệt rõ quan hệ bao thanh toán với các quan hệ tín dụng và quan
hệ bảo lãnh của các tổ chức tín dụng.
Cho phép ngƣời mua đƣợc đòi lại tiền hàng trong trƣờng hợp bên bán
hàng không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, đầy đủ các điều khoản quy
định tại hợp đồng mua, bán hàng, trừ trƣờng hợp đơn vị bao thanh toán cố
tình thanh toán khoản chi trả của bên mua hàng cho bên bán hàng sau khi đã
đƣợc bên mua hàng thông báo về việc bên bán hàng có hành vi vi phạm hợp
đồng mua, bán hàng để phù hợp với các quy định của các tổ chức quốc tế về
bao thanh toán.
85
Bổ sung quy định về “ chuyển giao quyền đòi nợ” từ ngƣời bán hàng
sang đơn vị bao thanh toán.
Quy định ngƣời bán có quyền chuyển nhƣợng tất cả các quyền và lợi
ích liên quan tới các KPT cho nhà Factor mà không cần có sự đồng ý của
ngƣời mua. Nhƣ vậy, nhà Factor sau khi đƣợc ngƣời bán chuyển nhƣợng tất
cả các quyền và lợi ích liên quan tới KPT sẽ có toàn bộ các quyền và lợi ích
hợp pháp của một chủ nợ đối với KPT trong mối quan hệ với ngƣời mua(là
con nợ) và các bên thứ ba. Trong trƣờng hợp ngƣời mua bị mất khả năng
thanh toán, nhà Factor có quyền đối với tài sản của ngƣời mua tƣơng ứng với
số tiền ngƣời mua chƣa thanh toán cho nhà Factor.
Quy định ngƣời mua đƣợc coi là hoàn thành các nghĩa vụ liên quan tới
KPT khi và chỉ khi đã thực hiện các nghĩa vụ này đối với nhà Factor (chứ
không phải với ngƣời bán).
Trong trƣờng hợp nhà Factor có quyền truy đòi lại số tiền đã tạm ứng
hoặc thanh toán cho ngƣời bán, ngƣời bán có nghĩa vụ phải hoàn trả số tiền
trên không chậm trễ. Nếu ngƣời bán mất khả năng hoàn trả, nhà Factor có quyền
đối với tài sản của ngƣời bán tƣơng ứng với số tiền ngƣời bán chƣa hoàn trả.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế
nên đƣợc ban hành theo hƣớng xuất phát từ tình hình thực tiễn của Việt Nam
song cũng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Muốn vậy, việc ban hành cần
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành liên quan nhƣ: NHNN, Bộ
thƣơng mại, Tổng cục hải quan nhằm tạo ra sự đồng bộ, nhất quán trong việc
ban hành và thực thi pháp luật.
1.2. Cần hoàn thiện hơn nữa Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của
NHNN
Để tạo điều kiện cho các DN đƣợc nhận tài trợ từ các nhà Factor, việc thu
thập thông tin để có thể đánh giá khách hàng một cách toàn diện là cần thiết
86
và cấp bách, góp phần hạn chế rủi ro trong quá trình tài trợ. Trên cơ sở những
thông tin cung cấp, các nhà Factor có thể tiến hành phân tích tình hình tài
chính của DN và quyết định nên hay không nên tài trợ hoặc chấp nhận bảo
hiểm rủi ro đối với DN.
Hiện nay CIC là cơ quan duy nhất chuyên cung cấp thông tin cho các
NHTM và thu nhập thông tin từ các nơi này. Song cho đến nay, CIC vẫn chƣa
trở thành nơi tin cậy cung cấp những thông tin chắc chắn và đầy đủ cho việc
phòng ngừa rủi ro hoạt động NH. Do đó, cần phải có những biện pháp tích
cực để hoàn thiện các dịch vụ của CIC, trong đó có thể kể đến:
Cần quy định rõ là theo từng thời kỳ các NHTM phải thông tin đầy đủ
về tình hình tài chính, vay vốn và trả nợ của các DN để CIC theo dõi và cập
nhập số liệu.
Các DN có đăng ký kinh doanh phải nộp cho CIC bảng tổng kết tài sản
có kiểm toán, bản báo cao thu chi và các báo biểu để CIC phân tích và cung
cấp thông tin cho NH và các DN khi cần tìm hiểu đối tác để thiết lập mối
quan hệ kinh doanh.
CIC phải là nơi đăng ký theo pháp định tài sản thế chấp các khoản cho
vay/tài trợ của các NH để tránh trƣờng hợp một tài sản đem thế chấp nhiều nơi.
Để các NHTM và các DN nghiêm chỉnh việc nộp các thông tin báo cáo
một cách thƣờng xuyên, đầy đủ, ngoài những biện pháp hành chính bắt buộc,
CIC còn phải chứng minh cho họ thấy những lợi ích của việc làm đó, không
chỉ làm cho nền kinh tế nói chung mà còn phục vụ riêng cho từng DN.
CIC không những là cơ quan cung cấp và thu nhập thông tin đơn thuần
mà còn phải chịu trách nhiệm về những thông tin do mình cung cấp. Nếu
thông tin sai lệch, chậm trễ dẫn đến rủi ro, CIC phải chia sẻ một phần trách
nhiệm bằng cách chịu bồi thƣờng một tỷ lệ một khoản vay/tài trợ. Ngƣợc lại,
CIC cũng có quyền đƣợc hƣởng một mức phí thoả đáng tuỳ theo dịch vụ mình
87
cung cấp. Sự thúc đẩy bằng lợi ích vật chất này sẽ có tác dụng tăng hiệu quả
cho hoạt động của CIC.
NHNN cần đầu tƣ máy móc thiết bị, đào tạo đội ngũ cán bộ cho CIC.
Ngoài ra, cũng phải thấy rằng trong nền kinh tế thị trƣờng sự cạnh tranh
giữa các đơn vị cùng làm một dịch vụ nhƣ nhau sẽ có tác dụng thúc đẩy dịch
vụ này phát triển mạnh mẽ và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Chính vì vậy,
Nhà nƣớc cũng nên tạo điều kiện để các DN tƣ nhân có thể cung ứng dịch vụ
thu thập và cung cấp mọi thông tin, tƣ vấn cho các DN và các tổ chức tín
dụng để phục vụ cho việc phòng chống rủi ro nhƣ hiện nay các nƣớc trên thế
giới đang làm.
1.3. Phối hợp với NHTM tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức trong và
ngoài nƣớc để hiện đại hóa công nghệ ngân hàng
Việc hiện đại hoá công nghệ NH là một kế hoạch mang tính chất dài hạn,
một chiến lƣợc phát triển tổng quát nên chỉ riêng ngành NH thì khó có thể
thực hiện đƣợc. Do đó, để hiện đại hoá công nghệ thành công thì một đòi hỏi
tất yếu là phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nƣớc.
NHNN cần phải quản lý, giám sát chặt chẽ, thẩm định chính xác các
chƣơng trình đầu tƣ cũng nhƣ các hợp đồng mua bán công nghệ, trang thiết bị
máy móc với nƣớc ngoài để tránh biến thị trƣờng Việt Nam thành “bãi rác
công nghiệp” gây lãng phí nguồn ngoại tệ quốc gia. Có nhƣ vậy, công nghệ
NH Việt Nam mới có điều kiện phát triển theo kịp trình độ trong khu vực và
trên thế giới, từ đó phục vụ tốt cho mọi hoạt động kinh doanh NH, trong đó có
hoạt động Factoring.
1.4. NHNN cần tạo điều kiện cho các NHTM ngày càng hoạt động theo cơ
chế thị trƣờng, tăng cƣờng tính độc lập, tự chủ trong kinh doanh
Có nhƣ vậy các NHTM mới thực sự có khả năng phát huy năng lực của
mình trong việc đa dạng hoá và phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng
quốc tế hiện đại, trong đó có bao thanh toán.
88
1.5. NHNN cần có chính sách sử dụng linh hoạt công cụ tỷ giá nhằm
khuyến khích xuất khẩu
Công cụ tỷ giá là một công cụ hữu hiệu để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu.
Khi tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ tăng lên thì giá cả hàng hoá
tính theo đồng nội tệ sẽ trở nên cao hơn, tuy nhiên giá thành sản phẩm sản
xuất trong nƣớc tính theo đồng nội tệ lại không thay đổi, nếu tính ra ngoại tệ
thì lại giảm đi, do đó có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp tham gia
xuất khẩu. Chính sách tỷ giá linh hoạt để vừa khuyến khích xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu song đồng thời vẫn đảm bảo đƣợc sự ổn định của nền kinh tế
vĩ mô, không gây cú sốc lớn và thiệt hại tới các doanh nghiệp nhập khẩu.
2. Với Bộ công thƣơng
2.1. Ổn định và hoàn thiện chính sách thƣơng mại nhằm đẩy mạnh Xuất
khẩu
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách thƣơng mại tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, đơn giản hoá các thủ tục hành
chính, hải quan, thủ tục hoàn thuế.
Chính sách thƣơng mại có ảnh hƣởng rất lớn đối với sự phát triển của hoạt
động Factoring tại Việt Nam. Trong thời gian qua, các văn bản quy định về
chính sách thƣơng mại đặc biệt là trong công tác xuất nhập khẩu, thuế quan,
thƣờng xuyên thay đổi đã khiến các doanh nghiệp bị động trong việc thực
hiện kế hoạch thực hiện kinh doanh, từ đó ảnh hƣởng trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của DN. Điều
này đã gián tiếp ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh của NH nói chung hoạt
động Factoring, đặc biệt là Factoring quốc tế của ngân hàng nói riêng. Vì vậy,
Nhà nƣớc phải tiến hành các biện pháp nhằm ổn định chính sách thƣơng mại
nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, từ
đó, góp phần nâng cao số lƣợng hợp đồng thực hiện Factoring tại Việt Nam.
Song song với việc ổn định chính sách thƣơng mại, cần hoàn thiện chính sách
89
thƣơng mại theo hƣớng khuyến khích xuất khẩu và quản lý chặt chẽ nhập
khẩu. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thƣơng mại với
các thị trƣờng lớn nhƣ Trung Quốc, các nƣớc ASEAN, các nƣớc EU, Nhật.
Thứ hai, Nhà nƣớc cần có chính sách hƣớng đầu tƣ hợp lý vào những
ngành xuất khẩu trọng điểm. Cần có chính sách để doanh nghiệp ƣu tiên đầu
tƣ vốn, công nghệ, lao động cho những ngành, sản phẩm có khả năng xuất
khẩu. Chú trọng đầu tƣ vào các ngành chế biến lƣơng thực, thực phẩm, thuỷ
hải sản công nghệ hoá dầu nhằm tăng tỷ trọng hàng chế biến trong kim ngạch
xuất khẩu. Giá trị gia tăng đƣợc tạo ra trong giai đoạn chế biến rất cao dẫn
đến có sự chênh lệch cao giữa giá trị các mặt hàng thô và các mặt hàng đã qua
chế biến. Nhƣ vậy để tăng thu từ xuất khẩu chúng ta cần đầu tƣ vào ngành
công nghiệp chế biến. Khai thác hiệu quả những lợi thế về tài nguyên, đất đai,
con ngƣời để giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh với hàng hoá trong khu vực và
trên thế giới.
Thứ ba, Nhà nƣớc cần có những biện pháp hỗ trợ có hiệu quả hơn cho các
DN trong nƣớc về vốn, thông tin thị trƣờng. Các DN Việt Nam hầu hết là các
DN vừa và nhỏ thƣờng thiếu vốn, do vậy rất cần Nhà nƣớc hỗ trợ về vốn
thông qua các khoản tín dụng ƣu đãi, quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Hơn nữa, dù đã
trƣởng thành nhiều trong kinh doanh nhƣng các DN Việt Nam vẫn còn thiếu
kinh nghiệm, thiếu am hiểu về thị trƣờng. Do đó, Nhà nƣớc cần hỗ trợ cho các
doanh nghiệp xuất khẩu những thông tin về luật pháp, thị trƣờng và những
yêu cầu về sản phẩm của các nƣớc đối tác để giúp DN có đƣợc những quyết
định kinh doanh phù hợp.
Thứ tư, có chính sách khuyến khích hơn nữa thành phần kinh tế tƣ nhân
tham gia các hoạt động xuất khẩu. Nhiều thành phần kinh tế tham gia xuất
khẩu sẽ khuyến khích cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu sẽ đƣợc nâng lên.
Hơn nữa, phát triển kinh tế tƣ nhân sẽ tận dụng đƣợc nguồn vốn nhàn rỗi dƣ
thừa trong nhân dân để đầu tƣ vào sản xuất, xuất khẩu hàng hoá.
90
2.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về quản lý thông tin tài chính doanh
nghiệp
Cơ quan này có chức năng cập nhập thông tin chính xác thay thế những
thông tin sai lệch, thực hiện công khai minh bạch hoá thông tin. Cơ quan này
sẽ thực hiện chức năng thu thập, tổng hợp, phân tích và cung cấp thông tin
độc lập, khách quan về hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng
hoá và khả năng tài chính của DN, từ đó xếp hạng tín nhiệm cho DN. Thông
qua chỉ số tín nhiệm của DN có thể xác định đƣợc khả năng thanh toán của
DN từ đó xác định giá trị cac khoản phải thu do doanh nghiệp làm chủ nợ, các
chủ thể trong nền kinh tế có thể quyết định có chấp nhận chuyển nhƣợng các
KPT đó hay không các NHTM quyết định có bao thanh toán hay không. Sự ra
đời của trung tâm này là một yêu cầu cần thiết yếu trong xu thế phát triển và
hội nhập kinh tế nƣớc ta. Vì vậy cần sớm triển khai các biện pháp cần thiết để
Trung tâm đi vào hoạt động hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng.
3. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Các doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động tìm hiểu để nắm bắt đƣợc một
dịch vụ mới mẻ và tiện ích nhƣ Factoring, không nên ngần ngại vì chi phí của
dịch vụ này quá cao. Thực chất đây là một dịch vụ trọn gói rất tiện ích với các
doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp cải thiện đƣợc nguồn vốn lƣu động, từ
đó có thể mở rộng hoạt động kinh doanh. Vấn đề chi phí cao bởi nó gồm chi
phí của nhiều dịch vụ tổng hợp.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng nên tạo uy tín với ngân hàng bằng
việc vay trả đúng và đủ. Có nhƣ vậy ngân hàng mới sẵn sàng cung ứng vốn và
những dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tìm hiểu thêm những thị trƣờng mới,
tiềm năng, ổn định, có hiệu quả với những phƣơng án xuất khẩu có chất lƣợng
cao. Khi đó, dịch vụ Factoring sẽ có điều kiện để hỗ trợ cho các doanh nghiệp
xuất khẩu nhiều nhất.
91
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ
Ngoại thƣơng vững vàng về lý luận chính trị đồng thời hiểu biết sâu về
nghiệp vụ ngoại thƣơng và kiến thức về thanh toán quốc tế. Hoạt động
Factoring có rất nhiều rủi ro cho nên việc đào tạo cán bộ ngoại thƣơng là rất
quan trọng. Trên cơ sở đó mới có thể giảm thiểu đƣợc rủi ro và phát triển hoạt
động thƣơng mại quốc tế và hoạt động bao thanh toán quốc tế ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Nghiệp vụ bao thanh toán là một phƣơng thức thanh toán kết hợp giữa các
nghiệp vụ nhƣ tài trợ tín dụng, thanh toán và cung cấp dịch vụ theo dõi, quản
lý nợ (kế toán). Do vậy nó đem lại nhiều tiện ích hơn cho ngƣời sử dụng.
Thêm vào đó, đây còn là một phƣơng thức đảm bảo rủi ro tín dụng cho các
khách hàng doanh nghiệp. Đối với các NHTM VN nói chung và VCB nói
riêng, việc phát triển một nghiệp vụ nhƣ Factoring không những giúp khắc
phục những khó khăn còn tồn tại trong hoạt động NH, mà còn giúp tăng
doanh thu, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, thu hút đƣợc khách hàng, tăng
92
cƣờng khả năng cạnh tranh trƣớc xu thế hội nhập và mở ra khả năng chiếm
lĩnh thị trƣờng.
VCB đã đƣa loại hình dịch vụ này vào cung cấp cho khách hàng làm đa
dạng thêm các sản phẩm dịch vụ. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nghiệp
vụ này, VCB đã gặp không ít khó khăn nhƣ vấn đề về pháp lý, về thông tin,
cũng nhƣ các vấn đề về Marketing, nguồn nhân lực,…Để nghiệp vụ này phát
triển một cách hiệu quả, VCB cần phải tăng cƣờng hoạt động Marketing, phải
nêu bật đƣợc những tiện ích của phƣơng thức thanh toán này so với các
phƣơng thức hiện tại mà doanh nghiệp đang áp dụng, hoàn thiện nghiệp vụ
Factoring,…Thêm vào đó, VCB cũng cần đào tạo bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ
chuyên môn cho nghiệp vụ này vì con ngƣời là yếu tố quyết định trong mọi
tình huống,…Bên cạnh đó, cần phải có sự hỗ trợ của Ngân hàng nhà nƣớc, Bộ
công thƣơng và các doanh nghiệp. Có nhƣ vậy, nghiệp vụ bao thanh toán của
VCB mới thực sự phát triển tƣơng xứng với tiềm lực cũng nhƣ uy tín của
ngân hàng Ngoại thƣơng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo thường niên của ngân hàng Ngoại thương năm 2002 đến 2007
2. Báo cáo tài chính NHNT năm 2002 đến 2007
3. GS. Đinh Xuân Trình (2006) Giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại
thương, NXB Giáo dục Hà Nội.
4. NHNN VN (2004) Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN của thống đốc
ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ
chức tín dụng
93
6. NHNN Việt Nam (2005) Văn bản hướng dẫn số 676/NHNN - CSTT về cơ
cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao thanh toán
của các tổ chức tín dụng
7. Nguyễn Xuân Trƣờng (2006) Bao thanh toán - Một dịch vụ tài chính đầy
triển vọng cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí ngân hàng số 7/2006
8. Nguyễn Văn Hà (2004) Bao thanh toán - Factoring Một hình thức tín dụng
mới tại Việt Nam, Tạp chí phát triển kinh tế tháng 8- 2004
9. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, Thanh toán quốc tế và tài trợ Ngoại thương;
NXB Thống kê, 2008
10. TS. Đặng Thị Nhàn - Cẩm nang về nghiệp vụ bao thanh toán Factoring
và Forfaiting trong tài trợ thương mại quốc tê NXB.Thống Kê năm 2007
11. Châu Giang - Giới thiệu sản phẩm Bao thanh toán - Thị trƣờng Tài chính
tiền tề ra ngày 15/8/2005.
12. Thái Thành - Bao thanh toán - Một hình thức thanh toán mới nhiều triển
vọng.- Tạp chí NHNT- tháng 8/2005
13. Trần Kiên - Đã có mua bán nợ trả chậm - báo đầu tƣ số 58 ra ngày
15/5/2006.
14. Đào Văn Chung và Nguyễn Thu Hằng - Bàn về khả năng áp dụng nghiệp
vụ bao thanh toán xuất khẩu đối với các tổ chức tín dụng - Tạp chí thị trƣờng
tiền tệ ra ngày 1/1/2005
15. TS. Trịnh Quang Tuấn - Quy định về nghiệp vụ bao thanh toán trong luật
quốc tế, tạp chí thị trƣờng tài chính tiền tệ ra ngày 1/4/2005
16. Nguyễn Thanh Tú (TS.GV Khoa Luật Thƣơng mại - ĐH. Luật TP.HCM)
- Một số vấn đề pháp lý về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng,
tạp chí Khoa hoc pháp luật, số 6/2004
Một số các trang web:
+ Bao thanh toán tại VCB
94
+ Bao thanh toán và phƣơng pháp hạch toán – TH.S Nguyễn Trung Lập, Đại
học Duy Tân, 184 – Nguyễn Văn Linh, TP Đà Nẵng.
phuong-phap-hach-toan.html
+ Nguyễn Thùy - Bao thanh toán chƣa phổ biến ở Việt Nam
+ Dịch vụ bao thanh toán
+ Bao thanh toán
+ Đẩy mạnh phát triển bao thanh toán tại Việt Nam
+ Bao thanh toán giúp doanh nghiệp tránh đƣợc rủi ro
+ Ngân hàng và các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp
+
2_1_TICH_L470153550
+
87
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4000_614.pdf