Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, khi nguồn viện trợ nước ngoài bị cắt giảm đột ngột, nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn eo hẹp, việc huy động nguồn vốn tiềm ẩn trong dân chưa nhiều, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành một chủ trương cấp thiết được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của chính sách đổi mới; vừa là sản phẩm của đường lối đổi mới, vừa là động lực thúc đẩy đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Luồng vốn FDI đã góp phần bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, đem lại những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đất nước.
Là một tỉnh miền núi với điều kiện kinh tế còn khó khăn, Thái Nguyên có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn để phục vụ phát triển kinh tế, tiếp tục thực hiện tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. So với các tỉnh miền núi khác, Thái Nguyên có vị trí địa lý thuận lợi với nhiều lợi thế so sánh và tiềm năng phát triển kinh tế. Công tác thu hút vốn FDI những năm qua đã đạt được những kết quả nhất định. Các dự án FDI hoạt động trên địa bàn tỉnh đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, xúc tiến chuyển giao công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Sự có mặt của các doanh nghiệp FDI đẩy mạnh cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo động lực phát triển. Tuy nhiên, so với thế mạnh và những tiềm năng của tỉnh, kết quả thu hút vốn FDI của Thái Nguyên còn nhiều hạn chế với số lượng dự án và tổng quy mô vốn đăng ký quá nhỏ so với mức trung bình của cả nước. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Thái Nguyên năm 2008 đứng ở nhóm cuối bảng xếp hạng (53/64 tỉnh thành phố cả nước) cho thấy chất lượng cạnh tranh của tỉnh rất thấp và khả năng thu hút đầu tư kém. Vì vậy, vấn đề hết sức cần thiết đặt ra cho tỉnh Thái Nguyên là tỉnh cần có những giải pháp phù hợp nhằm tăng tính hấp dẫn đầu tư của tỉnh đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để góp phần đưa tỉnh trở thành một tỉnh công nghiệp trước năm 2020.
Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên” để làm khóa luận tốt nghiệp của mình
Chương 1
TIỀM NĂNG THU HÚT NGUỒN VỐN FDI CỦA TỈNH
THÁI NGUYÊN
1.1. Đặc điểm kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
1.1.1.2. Địa hình
1.1.1.3. Khí hậu
1.1.1.4. Cơ cấu đất đai
1.1.2. Điều kiện văn hóa – xã hội
1.1.2.1. Đơn vị hành chính
1.1.2.2. Dân cư và phân bố dân cư
1.1.3. Cơ sở hạ tầng
1.1.3.1. Giao thông vận tải
1.1.3.2. Hệ thống điện
1.1.3.3. Hệ thống bưu chính viễn thông
1.1.3.4. Hệ thống nước sạch
1.1.4. Điều kiện kinh tế
1.1.4.1. Vị trí kinh tế của tỉnh
1.1.4.2. Tốc độ phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế
1.2. Tiềm năng thu hút nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên
1.2.1. Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên
1.2.1.1. Tiềm năng về nông – lâm nghiệp
1.2.1.2. Tiềm năng về tài nguyên khoáng sản
1.2.1.3. Tiềm năng về du lịch
1.2.2. Tiềm năng về nguồn nhân lực
1.2.3. Tiềm năng về kinh tế
1.3. Một số chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư của tỉnh Thái Nguyên
1.3.1. Công bố công khai
1.3.2. Hướng dẫn hỗ trợ nhà đầu tư
1.3.3. Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng
1.3.4. Ưu đãi về giá thuê đất và miễn tiền thuê đất
1.3.5. Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
1.3.6. Ưu đãi về miễn thuế nhập khẩu
1.3.7. Ưu đãi về miễn thuế giá trị gia tăng
Chương 2
THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN FDI CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Tình hình thu hút nguồn vốn FDI
2.1.1. Quy mô vốn và quy mô bình quân dự án
2.1.2. Cơ cấu vốn FDI đăng ký
2.1.2.1 Cơ cấu vốn đăng ký phân theo ngành nghề
2.1.2.4. Cơ cấu vốn đăng ký phân theo đối tác đầu tư
2.2. Tình hình sử dụng nguồn vốn FDI
2.2.1.Quy mô vốn thực hiện
2.2.2. Cơ cấu vốn FDI thực hiện
2.2.2.1. Cơ cấu vốn thực hiện phân theo ngành nghề
2.2.2.2. Cơ cấu vốn thực hiện phân theo địa bàn đầu tư
2.2.2.3. Cơ cấu vốn thực hiện phân theo hình thức đầu tư
2.3. Những đóng góp và hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thái Nguyên
2.3.1. Những đóng góp
2.3.1.1. FDI là nguồn vốn bổ sung cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
2.3.1.2. FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp
2.3.1.3. FDI góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ
2.3.1.4. FDI góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực
2.3.2. Những hạn chế
2.3.2.1. Số lượng các dự án và tổng vốn đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh
2.3.2.3. Tiến độ triển khai các dự án đầu tư chậm, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện thấp
2.3.2.4. Sự mất cân đối về ngành nghề, địa bàn
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ
SỬ DỤNG NGUỒN VỐN FDI CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1. Phương hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên
3.1.2. Phương hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên
3.1.2.1. Tăng cường thu hút nguồn vốn FDI vào ngành công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến)
3.1.2.2. Thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI vào ngành dịch vụ
3.1.2.3. Tập trung thu hút nguồn vốn FDI từ các đối tác có tiềm năng lớn về vốn và công nghệ
3.2. Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ các ngành, các cấp về đầu tư nước ngoài.
3.2.2. Xây dựng các cơ chế chính sách của tỉnh trong công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.2.3. Làm tốt công tác quy hoạch đầu tư
3.2.4. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư
3.2.5. Tiếp tục thực hiện cơ chế “một cửa” đối với nhà đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục hành chính
3.2.6. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.2.7. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tham gia vào các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.2.8. Tiếp tục đầu tư nâng cấp các điều kiện về cơ sở hạ tầng
KẾT LUẬN
74 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2746 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ngoại Thương: Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình thành đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Thái Nguyên cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong tỉnh không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
2.3.2. Những hạn chế
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Thái Nguyên còn những mặt hạn chế như sau:
2.3.2.1. Số lượng các dự án và tổng vốn đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh
Về số dự án FDI, với một tỉnh có đầy đủ các tiềm năng như Thái Nguyên mà hiện nay các dự án FDI chỉ dừng lại ở con số rất khiêm tốn: 26 dự án. Nếu so sánh với 11 tỉnh trong khu vực Đông Bắc bộ gồm: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang và Phú Thọ thì đến hết năm 2007 Thái Nguyên đứng thứ 6 về số dự án Tổng cục Thống kê
. Nếu như sự so sánh này đặt trong mối tương quan với các điều kiện tự nhiên, con người, các nguồn lực phát triển khác thì có thể thấy Thái Nguyên có rất nhiều ưu thế, vì thế vị trí thứ 6 là vị trí hoàn toàn không tương xứng với tiềm năng sẵn có của tỉnh.
Về lượng vốn đầu tư, thực hiện thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 1993, đến nay tỉnh mới chỉ thu hút được 324.9 triệu USD. Tính đến hết năm 2007, tỉnh Thái Nguyên đứng thứ 27 trong cả nước, đứng thứ 3 trong khu vực Đông Bắc bộ về quy mô vốn đầu tư đăng ký (theo Tổng cục thống kê). Tuy nhiên, có 2 dự án với mức vốn đầu tư đăng ký lớn nhất là dự án khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo và dự án hồ điều hòa Xương Rồng vẫn chưa đi vào hoạt động.
Tóm lại, sau hơn 20 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, tỉnh Thái Nguyên mới thu hút được 26 dự án với tổng vốn đầu tư trên 324 triệu USD. Kết quả này hoàn toàn chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Với nhiều lợi thế và tiềm năng như đã phân tích ở trên, lẽ ra tỉnh Thái Nguyên phải thu hút được nhiều hơn số dự án cũng như tổng vốn đầu tư.
2.3.2.2. Quy mô vốn bình quân một dự án nhỏ
Như trên đã trình bày, quy mô bình quân mỗi dự án của tỉnh Thái Nguyên quá nhỏ so với mức bình quân chung của cả nước nếu loại trừ dự án Núi Pháo của Singapore, và dự án Hồ điều hòa Xương Rồng của Nhật Bản. Nếu loại trừ 2 dự án này thì quy mô bình quân một dự án ở mức rất thấp, chỉ là 3,2 triệu USD/ dự án.
2.3.2.3. Tiến độ triển khai các dự án đầu tư chậm, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện thấp
Trong số 26 dự án FDI còn hiệu lực tại tỉnh Thái Nguyên, chỉ có 13 dự án chiếm 50% thuộc loại triển khai, hoạt động bình thường không có vướng mắc, chỉ chiếm 16,29% tổng số vốn đăng ký. Số dự án gặp khó khăn, vướng mắc thuộc thẩm quyền giải quyết của tỉnh chiếm 38,46% số dự án. Số dự án vướng mắc vượt thẩm quyền giải quyết của tỉnh, cần sự hỗ trợ của Trung ương chỉ có 1 nhưng lại chiếm tới 45,24% tổng vốn đăng ký. Bảng 2.13 sẽ cho thấy rõ tình hình thực hiện các dự án FDI tại Thái Nguyên.
Bảng 2.13: Tình hình thực hiện các dự án FDI của tỉnh Thái Nguyên
Tình trạng dự án
Số
dự án
Tỷ trọng
(%)
Vốn đầu tư
đăng ký
(nghìn USD)
Tỷ trọng
(%)
Bình thường
18
69,23
58.420,5
17,97
Vướng mắc thuộc thẩm quyền của tỉnh
5
19,23
115.745
35,62
Vướng mắc thuộc thẩm quyền của Trung ương
1
3,85
147.000
45,24
Không triển khai
2
7,69
3.800
1,17
Tổng
26
100
324.965,5
100
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Nguyên
Như vậy, quá trình triển khai các dự án FDI còn chậm và gặp nhiều khó khăn cần tỉnh phải có những biện pháp hỗ trợ triển khai có hiệu quả.
Xét về tỷ lệ giải ngân, vốn thực hiện của tỉnh chỉ đạt 141,9 triệu USD, tỷ lệ giải ngân tương ứng là 43,7% trong cả giai đoạn. Vốn thực hiện của tỉnh nhỏ kéo theo tỷ lệ giải ngân thấp là do 2 dự án với số vốn đăng ký lớn là dự án khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo và dự án hồ điều hòa Xương Rồng vẫn đang gặp khó khăn.
2.3.2.4. Sự mất cân đối về ngành nghề, địa bàn
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội thuận lợi, do đó thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công là nơi tập trung nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất, lần lượt chiếm 34,62% và 30,77% số dự án (xem biểu đồ 2.1). Trong khi đó, các huyện vùng núi, vùng sâu, vùng xa, những nơi cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương đã có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, thành phố và thị xã có trình độ phát triển cao thì thu hút được FDI nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả tỉnh. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Biểu đồ 2.6: Vốn FDI tại Thái Nguyên phân theo ngành xét theo
số dự án
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Nguyên
Biểu đồ 2.7: Vốn FDI tại Thái Nguyên phân theo ngành xét theo
số vốn đăng ký
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Nguyên
Hầu hết các dự án FDI tại Thái Nguyên đều tập trung vào ngành Công nghiệp – Xây dựng, chiếm tới 73% số dự án và 66,17% tổng vốn đăng ký. Các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ còn ít, với vốn đầu tư 109.9 triệu USD, chiếm 33,83% tổng vốn đăng ký. Du lịch là lĩnh vực có nhiều tiềm năng nhưng cho tới nay mới có 4 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện. Do vậy, ngành du lịch Thái Nguyên vẫn trong tình trạng chậm phát triển.
Sau 20 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được những kết quả nhất định trong thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, là một tỉnh có rất nhiều tiềm năng và thế mạnh, lẽ ra tỉnh phải thu hút được nhiều hơn nữa các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể thấy một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế của tỉnh Thái Nguyên trong việc thu hút nguồn vốn FDI, đó là:
Trước hết, hệ thống cấu trúc hạ tầng của tỉnh còn nhiều yếu kém, sự yếu kém này không chỉ ở khu vực nông thôn, miền núi mà cả ở khu vực thành thị. Đơn cử như hạ tầng giao thông của tỉnh, nhìn chung, tỷ lệ mặt đường rải nhựa, đổ bê tông còn thấp. Tính đến hết năm 2005, tỷ lệ này mới đạt 20,4% (riêng hệ thống đường quốc lộ được rải nhựa 100%), đặc biệt đường xã, phường chỉ đạt 11%, còn lại đường đá hoặc đường cấp phối (trong đó đường đất chiếm 67,1%). Tỷ lệ mặt đường xấu nhìn chung cao (54,5%). Tình trạng yếu kém về cấu trúc hạ tầng như giao thông, cấp nước, tài chính, ngân hàng… đã làm cho các nhà đầu tư không ít băn khoăn.
Hai là, nhận thức về công tác thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được quan tâm quán triệt sâu sắc trong đội ngũ cán bộ của tỉnh. Mặc dù luật đầu tư nước ngoài đã được thực hiện hơn 20 năm, ở Thái Nguyên dự án liên doanh đầu tiên được cấp giấy phép đầu tư từ năm 1993, nhưng cho đến nay nhận thức về nguồn vốn đầu tư quan trọng này ở cán bộ các ngành, các cấp của tỉnh chưa thật sự sâu sắc, do vậy chưa tạo được sự thống nhất cao trong các nỗ lực của tỉnh nhằm thu hút được nhiều các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong các Nghị quyết của các cấp uỷ Đảng và Hội đồng nhân dân các cấp từ tỉnh đến huyện, thành phố, thị xã, các sở, ban, ngành hầu như ít đề cập hoặc đề cập qua loa về phát triển kinh tế đối ngoại, về hợp tác đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Kế tiếp là, công tác quản lý Nhà nước về hợp tác đầu tư nước ngoài còn không ít bất cập, yếu kém thể hiện trên các mặt như công tác quy hoạch đầu tư tiến hành còn yếu, chưa xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên đầu tư, các dự án ưu tiên đầu tư; chưa xây dựng được các chính sách ưu đãi, hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài khi họ đến với Thái Nguyên; chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ giỏi về quản lý hợp tác đầu tư nước ngoài cũng như chưa đào tạo được những cán bộ giỏi về nghiệp vụ, thông thạo ngoại ngữ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Môi trường đầu tư của tỉnh chưa thật sự thông thoáng, chưa có tính cạnh tranh cao so với các tỉnh khác.
Cuối cùng, một hạn chế không thể không đề cập đến chính là việc tỉnh chưa quan tâm thích đáng đến khâu vận động đầu tư, công tác thông tin, quảng cáo giới thiệu về tiềm năng và các cơ hội đầu tư của tỉnh chưa được chú trọng đúng mức. Các thông tin giới thiệu trên trang web chưa được cập nhật thường xuyên, nội dung thể hiện chưa đa dạng, phong phú. Các tiềm năng và cơ hội đầu tư của tỉnh được giới thiệu trên trang web nội dung còn nghèo nàn, sơ sài. Cùng với đó là các thông tin về điều kiện đầu tư như các ưu đãi đầu tư, giá thuê mặt bằng đầu tư… đều không được đăng tải trên trang web chính của tỉnh. Đây là một hạn chế lớn đối trong việc quảng bá, giới thiệu tỉnh với các đối tác đầu tư.
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ
SỬ DỤNG NGUỒN VỐN FDI CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1. Phương hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên
Theo “Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020“, định hướng phát triển kinh tế – xã hội đến 2010 và tầm nhìn 2020 của tỉnh là: phát triển kinh tế – xã hội Thái Nguyên trong thế chủ động hội nhập cạnh tranh quốc tế, trong quá trình đổi mới toàn diện của đất nước, trong sự hợp tác chặt chẽ với các địa phương trong cả nước; phát triển kinh tế nhiều thành phần, giải phóng và phát huy mọi nguồn lực nhằm tạo động lực phát triển với tốc độ nhanh, hiệu quả và bền vững; từng bước chuyển dịch và hiện đại hóa cơ cấu kinh tế theo hướng: thúc đẩy nhanh phát triển khu vực dịch vụ, đặc biệt là du lịch, thương mại, giáo dục, y tế, tài chính; phát triển các ngành công nghiệp như công nghiệp khai khoáng, luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, chế biến lương thực thực phẩm, lâm sản...
Mục tiêu tổng quát là: đưa Thái Nguyên ra khỏi tình trạng chậm phát triển. Phấn đấu đưa mức GDP bình quân đầu người năm 2010 của tỉnh gần bằng mức trung bình của cả nước. Đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và hiệu quả hơn các thời kỳ trước; nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh. Tạo nền tảng để đến trước 2020 Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp và dịch vụ. Đảm bảo tỉnh có một cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động hiện đại, hiệu quả với các sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh cao cả trong công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh cả về vật chất lẫn tinh thần. Mục tiêu tổng quát trên đã được cụ thể hóa thông qua một số chỉ tiêu sau:
- GDP/ người tính theo USD giá hiện hành đạt trên 800 USD vào năm 2010, bằng khoảng 77% mức bình quân của cả nước (1.050 USD) và khoảng 2.200 – 2.300 USD vào năm 2020, bằng mức bình quân của cả nước.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt bình quân 11 – 12% trong giai đoạn 2011 – 2020. Trong đó, nông – lâm – thủy sản tăng trưởng khoảng 5 – 5,5%; công nghiệp – xây dựng khoảng 13,5 – 14,5%; dịch vụ khoảng 12 – 13% trong cả giai đoạn 2006 – 2020.
- GDP bình quân đầu người đạt trên 800 USD vào năm 2010, 1.300 - 1.400 USD vào năm 2015 và 2.200 - 2.300 USD vào năm 2020
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản), cụ thể: công nghiệp và xây dựng chiếm 45%, dịch vụ chiếm 38 - 39%, nông nghiệp chiếm 16 - 17% vào năm 2010; tương ứng đạt 46 - 47%, 39 - 40%, 13 - 14% vào năm 2015; đạt 47 - 48%, 42 - 43%, 9 - 10% vào năm 2020
- Kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 65 - 66 triệu USD vào năm 2010, đạt trên 132 triệu USD vào năm 2015 và trên 250 triệu USD vào năm 2020; tốc độ tăng xuất khẩu bình quân trong cả thời kỳ 2006 - 2020 đạt 15 - 16%/năm
3.1.2. Phương hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên
Việc thu hút các dự án FDI trong thời gian tới sẽ chủ yếu tập trung vào khai thác các thế mạnh của tỉnh, cụ thể đó là các lĩnh vực công nghiệp, khai thác nguyên nhiên liệu. Các dự án được khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là cây chè - một định hướng đẩy mạnh xuất khẩu cho tỉnh và dịch vụ - ngành kinh tế có nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác.
Các dự án FDI vẫn tiếp tục là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Trong thời gian tới, nhu cầu về vốn của tỉnh vẫn rất lớn, đặc biệt cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nguồn vốn ngân sách cấp có hạn, nguồn vốn trong tỉnh chưa lớn. Vì vậy, vốn đầu tư nước ngoài đi kèm với khoa học công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý sẽ giúp tỉnh có điều kiện phát triển nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách phát triển với các địa phương khác. Một phương hướng rõ ràng trong thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của các dự án FDI tại Thái Nguyên, giúp địa phương hoàn thành các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
3.1.2.1. Tăng cường thu hút nguồn vốn FDI vào ngành công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến)
Công nghệ vốn là ngành truyền thống và có thế mạnh của tỉnh Thái Nguyên. Khu công nghiệp Gang thép với cơ sở hạ tầng được xây dựng khá hoàn chỉnh và mới được hiện đại hóa nhờ sự hỗ trợ của Trung Quốc. Bên cạnh đó là hệ thống các nhà máy, xí nghiệp khai khoáng các tài nguyên phục vụ cho ngành công nghiệp luyện thép. Tỉnh còn có một trữ lượng phong phú các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các kim loại quý hiếm như: quặng sắt, titan, các kim loại màu... Đây là điều kiện để phát triển ngành công nghiệp nặng địa phương.
Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến nông sản cũng được tỉnh chú trọng. Thái Nguyên vốn nổi tiếng với cây chè Tân Cương và được coi là đặc sản của vùng. Tuy nhiên, để chế biến cây chè thành một sản phẩm có thương hiệu, uy tín và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài thì chưa có doanh nghiệp nào làm được. Người trồng chè vẫn đang trong tình trạng bị các tư thương „mua rẻ bán đắt“ ; một số doanh nghiệp trồng và khai thác chè với công nghệ còn ở trình độ thấp, tiềm lực về tài chính còn hạn chế nên công nghiệp chế biến chè chưa thực sự phát triển.
Ngoài ra, công nghiệp chế biến lâm sản, thịt lợn sữa xuất khẩu... chưa cao nên hạn chế khả năng phát triển của các ngành này. Mặt khác, nó làm giảm giá trị các sản phẩm nông lâm sản và do đó ảnh hưởng đến thu nhập của người dân cũng như sự đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Nhận thức được tiềm năng và cơ hội đó, UBND tỉnh cũng đã có những chủ trương thể hiện rõ ràng định hướng cho thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI vào lĩnh vực công nghiệp, khai thác các thế mạnh của địa phương:
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp, trong đó nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp, khai thác tối đa thế mạnh của địa phương.
- Ưu tiên các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, chú trọng đến công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực công nghiệp, khuyến khích chuyển giao công nghệ hiện đại trên cơ sở phù hợp với trình độ nền kinh tế địa phương.
Thực hiện chủ trương nói trên và những mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh đến năm 2020, công nghiệp là ngành giữ vị trí then chốt chiếm tỷ trọng tới 45% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp là 22%/ năm và nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp là 19.093 tỷ đồng, chiếm tới 70% trong tổng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế giai đoạn 2006 – 2010. Để đạt được những thành tựu đó đòi hỏi tỉnh phải hết sức ưu tiên thu hút vào sử dụng nguồn vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp.
3.1.2.2. Thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI vào ngành dịch vụ
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh đến năm 2010, dịch vụ là ngành kinh tế có vai trò hết sức quan trọng, chiếm tỷ trọng tới 38,5% trong cơ cấu kinh tế. Vì vậy, Thái Nguyên đã đưa ra những định hướng nhằm thu hút các dự án FDI vào lĩnh vực này.
Dịch vụ là ngành kinh tế có vai trò rất lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, là động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Dù vậy, dịch vụ vốn là ngành kinh tế nhạy cảm và có nhiều rủi ro. Các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực này phải được sàng lọc một cách kỹ lưỡng để không ảnh hưởng đến các yếu tố văn hóa xã hội. Mặt khác, nền tảng để phát triển ngành dịch vụ ở Thái Nguyên còn thiếu và yếu. Nếu Thái Nguyên thu hút một cách ồ ạt, thiếu chọn lọc các dự án FDI vào ngành dịch vụ thì có thể gây khó khăn cho công tác quy hoạch trong dài hạn của địa phương và trong công tác quản lý. Vì vậy, thu hút một cách chọn lọc các dự án đã được tỉnh đặt ra như một định hướng cho các dự án FDI vào ngành dịch vụ. Để đáp ứng yêu cầu đó, tỉnh đã tiến hành nghiên cứu thăm dò thị trường và đưa ra bản chào về đầu tư vào các dự án trọng điểm của tỉnh.
3.1.2.3. Tập trung thu hút nguồn vốn FDI từ các đối tác có tiềm năng lớn về vốn và công nghệ
Để nhanh chóng „đi tắt đón đầu“, thu hẹp khoảng cách trong phát triển kinh tế so với các địa phương khác và so với mặt bằng chung của cả nước, Thái Nguyên đã nêu rõ quan điểm là thu hút các dự án FDI có quy mô lớn và công nghệ hiện đại. Để thực hiện điều đó, đòi hỏi địa phương phải tăng cường thu hút các dự án FDI từ các đối tác có tiềm năng lớn về vốn và công nghệ.
Các đối tác đã đầu tư vào Thái Nguyên có: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Canada, Singapore, Đài Loan, Đức. Trong đó đối tác Trung Quốc có số dự án chiếm đa số: 13/26 dự án, chiếm 50% số dự án nhưng lại chiếm lượng vốn đầu tư rất thấp, chỉ chiếm 5,57%. Thực tế, các nhà đầu tư Trung Quốc chủ yếu đến từ các tỉnh giáp biên giới với Việt Nam như Vân Nam, Quảng Đông nên khả năng về vốn và công nghệ còn nhiều hạn chế. Các đối tác khác như Nhật Bản, Singapore được coi là những đối tác có tiềm năng khá lớn về vốn và công nghệ lại có rất ít dự án ở địa phương. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc nâng cao năng lực công nghệ cho nền kinh tế địa phương.
Bên cạnh đó, quy mô một dự án phần nào phản ánh khả năng về vốn, công nghệ của nhà đầu tư. Một dự án có quy mô lớn chứng tỏ quy mô sản xuất kinh doanh lớn và có thể đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế địa phương, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Quy mô bình quân một dự án ở Thái Nguyên nhỏ nếu loại trừ dự án Khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo của Singapore và dự án Hồ điều hòa Xương Rồng của Nhật Bản. Vì vậy, định hướng của tỉnh là hướng đến thu hút dự án FDI từ các đối tác có tiềm năng về vốn và công nghệ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và các nước phương Tây để nâng cao trình độ công nghệ cũng như tăng quy mô bình quân một dự án FDI, thực hiện mục tiêu đưa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trở thành thành phần kinh tế quan trọng của địa phương.
3.2. Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ các ngành, các cấp về đầu tư nước ngoài.
Như đã trình bày ở trên, trong các Nghị quyết của các cấp uỷ Đảng và Hội đồng nhân dân các cấp của tỉnh Thái Nguyên rất ít đề cập hoặc đề cập qua loa về phát triển kinh tế đối ngoại, về hợp tác đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một lĩnh vực khá nhạy cảm, không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn liên quan đến các vấn đề an ninh, chính trị. Vì vậy, việc thống nhất nhận thức để ra sự thống nhất trong hành động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp là một việc làm hết sức quan trọng nhằm thu hút FDI vào tỉnh Thái Nguyên. Chính bởi lẽ đó, trong văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17 nội dung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Thái Nguyên đã được đề cập sâu hơn. Đại hội Đảng bộ tỉnh đã giành thời gian thảo luận vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, cho tới nay Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh vẫn chưa có một Nghị quyết chuyên đề về kinh tế đối ngoại trong đó chủ yếu tập trung về lĩnh vực FDI. Cần phải có một Nghị quyết chuyên đề với nội dung cần làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ vai trò của kinh tế đối ngoại, của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Thứ hai, từ tiềm năng, thế mạnh của tỉnh xác định rõ những lĩnh vực ưu tiên đầu tư để từ đó tập trung kêu gọi thu hút vốn FDI vào các lĩnh vực này.
3.2.2. Xây dựng các cơ chế chính sách của tỉnh trong công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài như Luật đầu tư, các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đầu tư, các Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương, tỉnh cần ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp với luật pháp và các điều kiện cụ thể của địa phương, tạo điều kiện thu hút vốn FDI.
Thứ nhất, tỉnh cần ban hành một số các cơ chế, chính sách khuyến khích vận động, xúc tiến đầu tư
Ngân sách tỉnh hàng năm phải giành một khoản kinh phí nhất định cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư như lập dự án, giới thiệu, kêu gọi đầu tư, tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, xuất bản cuốn sách giới thiệu tiềm năng và các cơ hội đầu tư ở Thái Nguyên… phải có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng cường tiếp xúc với các cơ quan Trung ương có liên quan, các tổ chức tư vấn đầu tư, các văn phòng đại diện, các công ty nước ngoài và trực tiếp với các đối tác nước ngoài nhằm tìm kiếm các nhà đầu tư có khả năng hợp tác đầu tư vào tỉnh.
UBND tỉnh cần có các quy định tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của tỉnh ra nước ngoài tìm hiểu thị trường và tìm kiếm các đối tác đầu tư. Trong những năm qua, do có khó khăn về ngân sách, hàng năm số đoàn của tỉnh ra nước ngoài và lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn ít. Thời gian tới, tỉnh cần nghiên cứu tổ chức một số đoàn gồm cả các nhà quản lý, các doanh nghiệp của tỉnh đi nghiên cứu tìm kiếm thị trường và đối tác đầu tư ở một số nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan…
Hiện nay tỉnh Thái Nguyên đang thực hiện đề án “Cải thiện môi trường đầu tư”, tuy nhiên hiệu quả của đề án này phải được thực tiễn bằng các dự án được cấp phép đầu tư và triển khai trên địa bàn tỉnh. Thực sự hiện nay, các cơ chế, chính sách của tỉnh đã và đang được ban hành nhămg tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đến tìm hiểu, cũng như các nhà đầu tư đang triển khai dự án song việc thực hiện đề án cũng cần những khoản kinh phí khá lớn để thực hiện cải thiện một cách đồng bộ cả về cơ chế chính sách và về hạ tầng cơ sở.
Thứ hai, tỉnh cần có những quy định tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài, nhất là các nhà đầu tư hoạt động thuận lợi
Vấn đề cư trú, đi lại của người nước ngoài ở Việt Nam được pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng, tuy nhiên ở một tỉnh miền núi như Thái Nguyên vẫn còn tình trạng là người nước ngoài khó chịu hoặc hiểu lầm về chính sách của ta. Do vậy cần có sự phối hợp tốt giữa các ngành liên quan như công an, ngoại vụ và cơ quan đón tiếp người nước ngoài. Đây là việc tuy không lớn nhưng nếu không chú ý cũng dễ làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, tỉnh cần có cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp của tỉnh trong lĩnh vực hợp tác đầu tư với nước ngoài
Phần lớn các doanh nghiệp của Thái Nguyên đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng về vốn còn hạn chế. Khi liên doanh với nước ngoài, các doanh nghiệp của ta chủ yếu góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất, do vậy tỷ lệ góp vốn thường thấp (chỉ chiếm khoảng 30%) và nhiều khi trách nhiệm của bộ máy quản lý trong công ty liên doanh đối với các khoản đóng góp này gần như không có. Đối với các dự án có khả năng sinh lời lớn, thu hồi vốn nhanh, tỉnh cần có chính sách cho doanh nghiệp của tỉnh vay vốn để nâng cao tỷ lệ góp vốn cũng như trách nhiệm của mình trong công ty liên doanh.
3.2.3. Làm tốt công tác quy hoạch đầu tư
Quy hoạch đầu tư là cơ sở để thu hút và hướng các nhà đầu tư vào những lĩnh vực mà tỉnh ưu tiên, nhằm phát huy các thế mạnh và tiềm năng của tỉnh… trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Thái Nguyên đến 2020, tiến hành công tác quy hoạch đầu tư tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên phát triển. Trên cơ sở kết quả quy hoạch đầu tư xây dựng danh mục dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư vào tỉnh Thái Nguyên thời kỳ 2010 – 2015. Từ đặc điểm và tình hình thực tế của tỉnh Thái Nguyên, công tác quy hoạch đầu tư cần hướng vào các lĩnh vực chính sau đây:
Thứ nhất, quy hoạch đầu tư phát triển cây công nghiệp, mà trước hết là phát triển cây chè. Như đã nói ở các phần trên, chè là cây công nghiệp truyền thống của tỉnh Thái Nguyên, còn nhiều tiềm năng phát triển. Hiện tại, chè Thái Nguyên được chế biến theo 3 phương pháp: phương pháp công nghiệp, phương pháp thủ công truyền thống và phương pháp thủ công kết hợp sử dụng thiết bị cải tiến. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển cây chè cần tập trung vào hai khâu: trồng và chế biến vì hiện ở Thái Nguyên phần lớn các giống chè đều có năng suất chưa cao. Chè xanh Thái Nguyên được người tiêu dùng trong nước đánh giá cao nhưng lại không hợp khẩu vị của người tiêu dùng nước ngoài. Để nâng cao sản lượng chè xuất khẩu, cần thiết phải xây dựng thêm các nhà máy chế biến chè. Tới đây, trong quy hoạch phát triển các nhà máy chế biến chè cần xây dựng một số dự án sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bằng cách này tỉnh Thái Nguyên sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu, bởi vì các nhà đầu tư nước ngoài là người hiểu rõ thị hiếu và khẩu vị của người tiêu dùng nước họ, họ sẽ xây dựng các nhà máy với thiết bị và công nghệ có thể sản xuất ra các loại chè đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Thứ hai, tiến hành quy hoạch đầu tư phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, mà trọng tâm là sản xuất xi măng do hiện nay sản xuất xi măng chưa đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng trên địa bàn cả nước.
Thứ ba, trong lĩnh vực khai thác, thăm dò khoáng sản, cần thiết phải có quy hoạch đầu tư, phải có quy hoạch cụ thể về từng loại khoáng sản: sắt, titan, chì, kẽm… Phải làm rõ các loại khoáng sản ở Thái Nguyên cần thu hút vốn FDI vào thăm dò và khai thác.
Thứ tư, xúc tiến quy hoạch các cụm, khu công nghiệp tập trung, trên cơ sở đó có kế hoạch đầu tư hạ tầng, thu hút đầu tư. Đây là một trong những giải pháp quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Thái Nguyên.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư
Công tác vận động xúc tiến đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư phần lớn đều thiếu thông tin, nhất là các thông tin về các tỉnh miền núi như Thái Nguyên, họ ít có thời gian để gặp gỡ trực tiếp các đối tác Việt Nam nói chung và các của Thái Nguyên nói riêng. Công tác xúc tiến đầu tư được thông qua các hoạt động chính sau đây:
Thứ nhất, tỉnh cần phát hành các ấn phẩm giới thiệu về Thái Nguyên, các tiềm năng và các cơ hội đầu tư của tỉnh, về các chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư khi đến Thái Nguyên thực hiện các dự án đầu tư. Sau nhiều năm tiến hành công tác vận động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh Thái Nguyên mới có một ấn phẩm giới thiệu về Thái Nguyên, nhưng nội dung vẫn còn sơ sài. Đây cũng là nguyên nhân tại sao số các nhà đầu tư nước ngoài đến thăm và khảo sát tại tỉnh còn ít. Trong số các đối tác nước ngoài đến tìm kiếm cơ hội đầu tư lại tỉnh số các nhà đầu tư có dự án được thực hiện rất ít. Từ năm 1994 – 1996, mỗi năm có 30 – 40 nhà đầu tư nước ngoài đến Thái Nguyên, thế mà trong 20 năm qua, mới chỉ có 26 dự án được cấp.
Thứ hai, cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo về các đề tài đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thái Nguyên. Tập trung thu hút đầu tư từ phía Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia như Mỹ, EU… Các doanh nghiệp của tỉnh, các cơ quan quản lý nhà nước (các sở, ngành) phải tích cực tham gia các hội nghị, hội thảo trong nước, quốc tế để tiếp xúc trao đổi với các đối tác nước ngoài, giới thiệu với họ về các khả năng hợp tác của tỉnh và bản thân doanh nghiệp. Đây là những dịp tốt để các nhà đầu tư nước ngoài được tiếp xúc trực tiếp với người Thái Nguyên, hiểu biết về các chủ trương chính sách của tỉnh và khả năng hợp tác của tỉnh. Tại các hội nghị, tỉnh cần chuẩn bị sẵn các ấn phẩm, tài liệu, phim, ảnh… giới thiệu về tỉnh. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh về các lĩnh vực ưu tiên đầu tư với các chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư, kèm theo danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư. Đối với mỗi lĩnh vực quan trọng cần xây dựng các dự án có tính chất giới thiệu gửi cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, phải thường xuyên cập nhật thông tin để truyền tải tới các nhà đầu tư nước ngoài thông qua Internet. Tỉnh cần cập nhật thường xuyên các thông tin trên website với nội dung đầy đủ và phong phú để giới thiệu tiềm năng, thế mạnh, các chủ trương, chính sách, điều kiện ưu đãi đầu tư của tỉnh, các dự án kêu gọi đầu tư.
Thứ tư, UBND tỉnh cùng các cơ quan chuyên môn của mình (các sở, ngành), các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong tỉnh phải tích cực và chủ động tiếp xúc, phối hợp với Bộ, Ngành Trung ương hữu quan, các tổ chức tư vấn đầu tư trong và ngoài nước trong công tác vận động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh. Đặc biệt cần phải thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để giới thiệu và nắm bắt các thông tin về đối tác.
3.2.5. Tiếp tục thực hiện cơ chế “một cửa” đối với nhà đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục hành chính
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc hội sửa đổi nhiều lần để đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ đổi mới. Luật được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là thông thoáng. Tuy nhiên, việc thực hiện triển khai cụ thể luật các nhà đầu tư còn phàn nàn nhiều. Trước đây, để có được giấy phép đầu tư họ phải chạy qua nhiều cửa, vừa mất thời gian, vừa tốn kém tiền của. Trước tình hình đó, Chính phủ đã có biện pháp cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư, thực hiện chế độ “một cửa”. Ở cấp Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án và cấp giấy phép đầu tư. Nhà đầu tư chỉ cần biết một cửa là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ của mỗi dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin ý kiến của các Bộ, Ngành liên quan rồi cấp giấy phép đầu tư trong thời hạn pháp luật quy định. Nhà đầu tư nước ngoài không còn phải chạy “lòng vòng” như trước nữa.
Để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, tỉnh Thái Nguyên đã sớm thực hiện chủ trương “một cửa” của Chính phủ tại Quyết định số 2016/1998/QĐ-UB ngày 9/8/1998, UBND tỉnh đã ban hành bản quy định về quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tiếp đó UBND tỉnh đã giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối tiếp nhận và giải quyết các thủ tục liên quan đến hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Sau khi nhận được hồ sơ hợp lệ của nhà đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm làm việc với các ngành chức năng hữu quan, đồng thời tổ chức các cuộc họp chung với các ngành để thẩm định hồ sơ, thống nhất ý kiến trình UBND tỉnh quyết định cấp giấy phép đầu tư. Nhờ việc áp dụng hình thức “một cửa” này, nhà đầu tư nước ngoài đến Thái Nguyên đều được hướng dẫn đầy đủ cách lập hồ sơ dự án, các trình tự, thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư, thời gian cấp giấy phép đầu tư. Cụ thể, đối với các dự án thông thường chỉ sau 15 ngày kể từ khi nộp đủ hồ sơ dự án hợp lệ, Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ tham mưu trình UBND tỉnh cấp giấy phép đầu tư, đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư thì thời gian đó là 12 ngày.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt chế độ “một cửa” cần phải nâng cao năng lực của cơ quan đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư, đặc biệt là phải kiện toàn đội ngũ cán bộ ở đây. Đồng thời phải trang bị các điều kiện và phương tiện làm việc cần thiết cho bộ phận trực tiếp làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm cho thấy, một cơ quan đầu mối đủ mạnh, biết làm việc với các đối tác nước ngoài, biết xử lý và giải quyết kịp thời những vướng mắc là điều kiện quan trọng giúp cho nhà đầu tư không chỉ nhanh chóng hoàn chỉnh hồ sơ dự án mà cả khi triển khai dự án cũng thuận lợi.
3.2.6. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài
Làm tốt công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động là một yếu tố quan trọng hấp dẫn, thu hút vốn FDI. Việc làm rõ các nội dung quản lý Nhà nước, phân công rõ ràng trách nhiệm và quy định rõ các cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp là điều rất quan trọng trong quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp nhà đầu tư dễ dàng hoàn chỉnh các thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư và các thủ tục triển khai dự án, cũng như tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Ngoài Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh, thì các ngành, các cấp ở Thái Nguyên cũng được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chức năng quản lý của ngành và cấp:
Các Sở quản lý chuyên ngành kinh tế có nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh trong ngành lập các dự án kêu gọi vốn FDI. Phối hợp với các Ngành, các cấp có liên quan giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn FDI.
Các Ngành chức năng tổng hợp có nhiệm vụ phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, các Sở quản lý chuyên ngành kinh tế giúp đỡ các chủ dự án làm các thủ tục liên quan đến việc lập hồ sơ dự án cũng như trong quá trình triển khai thực hiện dự án.
UBND cấp huyện, thị xã có nhiệm vụ bảo đảm trật tự an ninh trên địa bàn tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư triển khai dự án; tham gia vào các công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, phối hợp với các ngành liên quan của tỉnh chỉ đạo xây dựng vùng nguyên liệu cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Làm rõ các nội dung quản lý Nhà nước, phân công rõ ràng trách nhiệm và quy định rõ các cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp là điều rất quan trọng trong quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp nhà đầu tư dễ dàng hoàn chỉnh các thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư và các thủ tục triển khai dự án, cũng như tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả.
3.2.7. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tham gia vào các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến nay, Nhà nước đã hết sức chú trọng khâu đào tạo cán bộ quản lý cũng như cán bộ tham gia các dự án liên doanh với nước ngoài. Hàng loạt các lớp tập huấn ngắn hạn và dài hạn được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức. Hầu hết cán bộ ở các địa phương trong đó có Thái Nguyên gồm những người làm công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, cán bộ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được đào tạo những kiến thức cơ bản về vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài; những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về đầu tư trực tiếp nước ngoài; tình hình thu hút vốn FDI trên thế giới và các nước trong khu vực; nội dung quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài; các bước hình thành dự án, trình tự thủ tục cấp giấy phép đầu tư…
Bên cạnh các khóa đào tạo, chúng ta còn tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề và phát hành Báo Đầu tư nhằm cung cấp thông tin cần thiết cho những người làm công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các Bộ, Ngành Trung ương và các địa phương trên cả nước.
Mặc dù vậy, số người được đào tạo so với yêu cầu còn quá ít, nhất là đào tạo dài hạn, có bài bản lại càng ít hơn. Ở Thái Nguyên, số cán bộ am hiểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài còn rất ít, chỉ tập trung ở cơ quan đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư, còn ở các Sở chuyên ngành thì hầu như không có.
Tình hình phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới đây đòi hỏi tỉnh phải có một đội ngũ cán bộ không chỉ giỏi về nghiệp vụ chuyên môn mà còn phải thông thạo ngoại ngữ. Số cán bộ này cần phải có ở tất cả các Sở chuyên ngành như Tài chính, Tài nguyên và môi trường, Xây dựng và đặc biệt ở cơ quan đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư. Ngoài ra, ở Văn phòng UBND tỉnh cũng cần có một số cán bộ am hiểu về lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp UBND tỉnh theo dõi toàn bộ các hoạt động này trên địa bàn; đồng thời nắm bắt kịp thời các thông tin từ bên ngoài phục vụ cho công tác vận động xúc tiến đầu tư. Ngoài số cán bộ quản lý, tỉnh cũng cần phải lựa chọn, đào tạo một số cán bộ doanh nghiệp của tỉnh để tham gia làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế cho thấy ở các doanh nghiệp liên doanh, nếu cán bộ Việt Nam am hiểu công việc, thông thạo ngoại ngữ, biết cách làm việc với phía nước ngoài thì không những bảo vệ lợi ích của ta mà còn làm cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn.
3.2.8. Tiếp tục đầu tư nâng cấp các điều kiện về cơ sở hạ tầng
Trong những năm qua cơ sở hạ tầng của tỉnh Thái Nguyên như giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông từng bước được cải thiện. Đường quốc lộ 3 nối liền Hà Nội – Thái Nguyên, sân bay quốc tế Nội Bài – Thái Nguyên đã được rải bê tông atphan; ngoài mạng điện cao thế đã có từ trước, năm 1999 đưa vào sử dụng mạng cao thế mới 220 KV. Hệ thống nhà hàng khách sạn từng bước được phát triển đáp ứng yêu cầu ăn ở của người nước ngoài đến làm việc tại Thái Nguyên. Tuy nhiên kết quả cải thiện điều kiện hạ tầng cơ sở nói trên chỉ là bước đầu; cần phải tiếp tục nâng cấp hệ thống đường giao thông liên tỉnh, liên huyện, mở rộng mặt đường quốc lộ 3; đẩy nhanh tiến độ đầu tư đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên nhằm giảm tải cho đường quốc lộ 3 hiện đã mãn tải. Cần phải nâng cao chất lượng phục vụ của mạng bưu chính viễn thông. Đối với các cụm và khu công nghiệp, nhất là khu công nghiệp Sông Công, Nhà nước cần phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài khu công nghiệp bao gồm hệ thống đường xá, điện nước và các khu dân cư. Ngoài ra cũng phải chú trọng tới việc nâng cao chất lượng phục vụ của các khách sạn nhà hàng và mở rộng các dịch vụ vui chơi giải trí… Tất cả những việc làm nói trên là hết sức cần thiết và quan trọng vì cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố hàng đầu hấp dẫn nguồn vốn FDI vào tỉnh.
KẾT LUẬN
Những năm qua, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên. Các dự án FDI thực sự đã đem lại những chuyển biến cho nền kinh tế của tỉnh. Các doanh nghiệp có vốn FDI làm ăn có hiệu quả đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong thời gian sắp tới, nguồn vốn FDI vẫn giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước nói chung và phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Vì vậy, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là hoạt động quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên.
Trong phạm vi cho phép, đề tài đã tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tìm hiểu các điều kiện kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên, từ đó thấy được các tiềm năng cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh. Được thiên nhiên ưu đãi, tỉnh Thái Nguyên có rất nhiều tiềm năng để thu hút nguồn vốn FDI như tiềm năng về nông – lâm nghiệp, tiềm năng về khoáng sản… Cùng với những tiềm năng mà thiên nhiên ban tặng, tỉnh còn ban hành một số chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này như ưu đãi về giá thuê đất, về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh, nhận thấy được những đóng góp cũng như hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh. FDI đã góp phần bổ sung cho nguồn vốn đầu tư xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo công ăn việc làm cho một bộ phận dân cư. Bên cạnh những đóng góp đó, hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn còn một số hạn chế, như số lượng và tổng vốn đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện thấp…
Thứ ba, từ những hạn chế trong công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên, cùng với những định hướng và phương hướng thu hút và sử dụng FDI, đề xuất giải pháp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn quan trọng này.
Trong quá trình nghiên cứu, em đã phần nào phân tích những đóng góp cũng như những tồn tại trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên vì hạn chế về mặt thời gian và nguồn tài liệu nên bài khóa luận của em không tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Qua đây em xin gửi cảm lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, Thạc sĩ Phạm Thị Mai Khanh của trường đại học Ngoại Thương đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành bài khóa luận này!
KẾT LUẬN
Những năm qua, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên. Các dự án FDI thực sự đã đem lại những chuyển biến cho nền kinh tế của tỉnh. Các doanh nghiệp có vốn FDI làm ăn có hiệu quả đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong thời gian sắp tới, nguồn vốn FDI vẫn giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước nói chung và phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Vì vậy, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là hoạt động quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên.
Trong phạm vi cho phép, đề tài đã tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tìm hiểu các điều kiện kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên, từ đó thấy được các tiềm năng cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh. Được thiên nhiên ưu đãi, tỉnh Thái Nguyên có rất nhiều tiềm năng để thu hút nguồn vốn FDI như tiềm năng về nông – lâm nghiệp, tiềm năng về khoáng sản… Cùng với những tiềm năng mà thiên nhiên ban tặng, tỉnh còn ban hành một số chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này như ưu đãi về giá thuê đất, về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh, nhận thấy được những đóng góp cũng như hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh. FDI đã góp phần bổ sung cho nguồn vốn đầu tư xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo công ăn việc làm cho một bộ phận dân cư. Bên cạnh những đóng góp đó, hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn còn một số hạn chế, như số lượng và tổng vốn đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện thấp…
Thứ ba, từ những hạn chế trong công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên, cùng với những định hướng và phương hướng thu hút và sử dụng FDI, đề xuất giải pháp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn quan trọng này.
Trong quá trình nghiên cứu, em đã phần nào phân tích những đóng góp cũng như những tồn tại trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên vì hạn chế về mặt thời gian và nguồn tài liệu nên bài khóa luận của em không tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Qua đây em xin gửi cảm lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, Thạc sĩ Phạm Thị Mai Khanh của trường đại học Ngoại Thương đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành bài khóa luận này!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khóa luận Ngoại Thương- Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI của tỉnh Thái Nguyên.doc