Đối với khách hàng là tổ chức kinh tế: trong những năm qua tỷ trọng tiền gửi
của tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng chưa cao. Đây là
nguồn vốn có chi phí thấp giúp ngân hàng có thể cắt giảm chi phí huy động, tăng lợi
nhuận nên việc tăng nguồn vốn này là điều hết sức cần thiết, ngân hàng nên áp dụng
các biện pháp như: nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo thanh toán nhanh,
rút ngắn thời gian giao dịch, tạo lòng tin cho khách hàng, nâng cao uy tín của ngân
hàng. Cải tiến phong cách giao dịch để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, giữ
khách hàng hiện có và thu hút thêm khách hàng mới.
♦ Đối với khách hàng là cá nhân, hộ sản xuất: trong tất cả nguồn vốn mà ngân
hàng huy động được, tiền gửi của dân cư luôn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Để có thể huy
động được tối đa nguồn vốn này, ngân hàng nên sử dụng các biện pháp như: làm tốt
công tác vận động trực tiếp trên địa bàn hoặc gián tiếp qua các phương tiện thông tin
đại chúng. Đơn giản hóa các thủ tục giao dịch giúp cho người dân dễ dàng thực hiện
với ngân hàng, rút ngắn thời gian giao dịch.
Ngân hàng nên có phòng marketing riêng nhằm phân tích, phân loại khách
hàng, điều này không những giúp ngân hàng hiểu được nhu cầu của thị trường mà còn
giúp ngân hàng có chiến lược kinh doanh phù hợp, nhạy bén.
♦ Với công tác cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn: trong những năm qua, ngân
hàng Lộc Hà luôn diễn ra tình trạng tổng dư nợ lớn hơn rất nhiều lần so với tổng
nguồn vốn huy động được, do đó ngân hàng cần cân đối giữa huy động vốn và sử dụng
vốn, đảm bảo sự tương ứng về thời hạn và lãi suất cho nguồn vốn nào thì cho vay loại
hình đó, và nếu có nguồn vốn ngắn hạn có tính ổn định cao thì ngân hàng có thể sử
dụng để cho vay trung hoặc dài hạn, tuy nhiên việc sử dụng vốn này phải có một tỷ lệ
nhất định. Khi thực hiện cho vay, các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra,
phân tích chất lượng những khoản cho vay, kịp thời xử lý những phát sinh gây ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng cũng như phải tuân thủ nghiêm ngặt
các tỷ lệ giới hạn an toàn vốn trong kinh doanh được quy định theo luật NHNN.
♦ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ: với xu thế của một ngân hàng hiện đại
ngày nay, việc đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tại chi nhánh sẽ tác
động trực tiếp tới chất lượng huy động vốn. Tuy trình độ của cán bộ trong ngân hàng
ngày càng được nâng cao song việc có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng
của khách hàng cũng như sự phát triển của công nghệ đòi hỏi các cán bộ, nhân viên
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích hoạt động huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lộc Hà - Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
007 2008 2009
So sánh
2008/2007 2009/2008
ST % ST % ST % +(-) %tăng(giảm) +(-)
%
tăng(giảm)
1. Tiền gửi
Kho bạc Nhà
nước
3045.465 12.942 18727 25.498 11308.08499 11.599 15681.535 514.914 -7418.915009 -39.616
2. Tiền gửi
TCKT,TCTD 470.64 2 2234 3.042 4.839527 0.005 1763.36 374.673 -2229.160473 -99.783
3. Tiền gửi
dân cư 20015.9 85.058 52485 71.461 86180.86761 88.396 32469.105 162.217 33695.86761 64.201
Tổng 23532 100 73446 100 97493.79212 100 49914 212.111 24047.79212 32.742
(Nguồn: Bảng tổng hợp số liệu hàng năm của ngân hàng)
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 56
Đây được coi là rủi ro ngoài mong muốn của ngân hàng bởi sự tác động của thị
trường tài chính, tuy nhiên điều này cũng cho thấy đây thật sự là vấn đề mà ngân hàng
cần phải khắc phục: việc quan hệ với khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính của ngân hàng vẫn chưa tốt, ngân hàng chưa thật sự tạo được uy tín hoàn toàn
đối với các doanh nghiệp trong khu vực, bởi nếu trong hoàn cảnh khó khăn của kinh
tế, nếu ngân hàng tạo được niềm tin đối với các tổ chức thì các đơn vị cũng không
muốn ngân hàng gặp khó khăn từ đó mà ảnh hưởng đến quan hệ của đôi bên cũng như
không thể rút hết toàn bộ vốn từ ngân hàng chỉ vì lợi ích của riêng mình. Tuy nhiên,
nhìn vào bảng chúng ta cũng thấy rằng cuối năm 2009, các TCKT, TCTD đã rút gần
hết nguồn vốn của mình tại chi nhánh, tổng số dư tiền gửi mà các tổ chức còn tại ngân
hàng vào những ngày cuối năm chỉ còn hơn 4 triệu đồng.
Với tiền gửi dân cư, đây chủ yếu là nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền
gửi tiết kiệm là nguồn vốn có tính ổn định cao nhất và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn huy động và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thực hiện đầu tư.
Đây là nguồn tiền của dân cư chưa sử dụng đến đem gửi vào ngân hàng để lấy lãi. Nó
thực sự là nguồn tiềm năng dồi dào cho ngân hàng khi chuyển sang cơ chế hạch toán
kinh doanh.
Trong những năm vừa qua, ngân hàng Lộc Hà luôn nỗ lực xây dựng chính sách
thu hút nguồn vốn hợp lý: điều chỉnh lãi suất tiền gửi, khuyến khích người dân gửi tiền
vào ngân hàng, cải tiến phương thức giao dich, chính vì thế nguồn vốn tiền gửi của dân
cư không ngừng tăng và luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn.
Qua bảng ta thấy nguồn tiền gửi này tăng đều qua các năm. Năm 2007 chiếm tỷ
lệ 85%, năm 2008 tỷ lệ là 71%, giá trị tương ứng là 52485 triệu, tăng 32469.105 triệu
hay tăng 162% so với năm 2007. Năm 2009, nguồn tiền này lại chiếm 88%, tăng
33695 triệu tương ứng tăng 64% so với năm trước đó.
Đại
họ
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 57
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ tiền gửi dân cư và tổng tiền gửi qua 3 năm 2007-2009
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Năm
Ti
ền
g
ử
i
Tiền gửi dân cư
Tổng tiền gửi
Thực tế cho thấy tiềm năng từ dân cư là rất lớn, qua các năm nguồn tiền gửi của
dân cư tại chi nhánh luôn tăng với tốc độ tăng khá nhanh, điều này có lợi cho ngân
hàng bởi vì ngân hàng có cơ sở nguồn vốn để cho vay với thời gian tương đối dài, lãi
suất cao hơn và có kế hoạch thu hồi vốn đúng hạn. Lượng tiền gửi của dân cư không
ngừng tăng thể hiện sự tin tưởng của nhân dân với ngân hàng và mục đích gửi tiền để
hưởng lợi nhuận, phản ánh chính sách khách hàng đúng đắn đi đôi với hoạt động
quảng bá các sản phẩm tiện ích của ngân hàng.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, tỷ trọng nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân cư
tăng qua các năm song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Khi thu nhập cuộc
sống tăng lên, người dân có điều kiện để tích luỹ và từ đó nguồn tiền gửi của họ cũng
tăng lên nhưng đồng thời nền kinh tế phát triển tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh
doanh, mang đến nhiều cơ hội đầu tư hơn cho tất cả mọi người với số vốn không nhất
thiết phải quá lớn. Thêm vào đó trong tương lai không xa, với sự phát triển của nền
kinh tế như hiện nay thì việc thành lập thêm ngân hàng tham gia hoạt động trên thị
trường tài chính là rất lớn, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, khiến công tác huy động
vốn từ dân cư của ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa nhằm củng cố sức mạnh cho
ngân hàng và giữ thế chủ động trong kinh doanh, đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày
một tăng của nền kinh tế.
Đại
học
Ki
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 58
Tóm lại, tình trạng vốn huy động của ngân hàng có xu hướng luôn tăng cao và
với tốc độ tăng khá nhanh. Có thể lý giải một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Nguyên nhân hàng đầu và cơ bản nhất là sự thành lập huyện mới đã tạo cơ hội
cho nền kinh tế trong khu vực phát triển hơn, giúp người dân có thu nhập ngày càng
cải thiện. Nhiều gia đình, nhiều người có điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh,
đặc biệt là các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn có thị trường để tiêu thụ
sản phẩm, việc giao lưu giữa các xã trở nên thuận lợi và dễ dàng hơn, từ đó mà người
dân có điều kiện để tích luỹ, vì vậy mà nguồn tiết kiệm bằng tiền cũng lớn hơn. Thực
tế này không chỉ thấy qua kênh tiền gửi ngân hàng, mà còn thấy một lượng vốn không
nhỏ của người dân đầu tư mua bảo hiểm nhân thọ, ... Nhưng kênh ngân hàng vẫn là nơi
thu hút vốn trong dân lớn nhất.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai là, trong các kênh để dành và tiết kiệm: mua
vàng, cất trữ ngoại tệ trong nhà và gửi Đồng Việt Nam tại ngân hàng, thì kênh đầu tư
vào tiền gửi ngân hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả.
Thứ ba, sau một thời gian thành lập và hoạt động, bằng những kết quả mà chi
nhánh ngân hàng Lộc Hà đã đạt được, người dân trong huyện đã thực sự có lòng tin
khi gửi tiền vào ngân hàng, thay cho để dành dưới nhiều hình thức khác nhau tại nhà
hay trong dân cư mà trước đây người dân thường làm. Ngân hàng luôn cố gắng đáp
ứng tốt mọi nhu cầu của khách hàng, các khoản tiền gửi của người dân được hoàn trả
đầy đủ cả gốc và lãi.
Thứ tư là dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Các loại hình tiền gửi đa dạng, như: tiền gửi bậc thang, tiền gửi với lãi suất luỹ tiến,
tiền gửi ngắn hạn, ... tạo sự thuận tiện lựa chọn cho khách hàng, nhất là khách hàng
chưa dự tính chính xác được thời điểm phải sử dụng tiền trong tương lai gần.
Dịch vụ cho khách hàng vay vốn cầm cố bằng chính sổ tiết kiệm của khách
hàng được giải quyết ngay tức thời đã được đông đảo khách hàng biết đến, lựa chọn.
Bởi vì thay cho rút ra trước hạn chịu thiệt về lãi suất thì nay khách hàng cầm cố chính
sổ tiết kiệm đó để vay vốn tại ngân hàng mình gửi với lãi suất ưu đãi. Điều này góp
phần làm cho tiền gửi tại ngân hàng tăng mạnh.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 59
Thứ năm là lãi suất tiền gửi hấp dẫn và được ngân hàng điều chỉnh linh hoạt
theo diễn biến của thị trường, đảm bảo phù hợp với xu thế chung của khu vực và
trong nước.
2.2.3.6 Cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn
Hoạt động huy động vốn với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định chưa đủ để
đánh giá là hoạt động có hiệu quả. Hoạt động huy động vốn là hoạt động khởi đầu
song phải gắn với hoạt động sử dụng vốn, hoạt động huy động vốn phải lấy nhu cầu sử
dụng vốn là mục tiêu. Nếu nguồn vốn huy động thấp không đáp ứng đủ nhu cầu sử
dụng vốn, ngân hàng sẽ mất nhiều cơ hội đầu tư cũng như bỏ qua những khoản lợi
nhuận rất đáng có, không những vậy uy tín của ngân hàng cũng sẽ bị giảm. Ngược lại,
nếu huy động vốn quá nhiều, vượt quá nhu cầu sử dụng vốn sẽ dẫn đến tình trạng ứ
động vốn, khoản vốn ứ động này không những phải chịu một khoản chi phí huy động
mà còn làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Do đó ngân hàng cần phải duy trì sự cân
đối giữa nguồn vốn huy động và nhu cầu sử dụng vốn.
Những năm vừa qua, chi nhánh NHNo & PTNT Lộc hà luôn cố gắng để đáp
ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Bảng 2.8: Quan hệ so sánh giữa huy động vốn và sử dụng vốn
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Thời điểm
mới thành lập
1/7/2007
Đến ngày
31/12/2008
Đến ngày
31/12/2009
Tổng NV huy động (1) 23532 70721 105616
Tổng dư nợ cho vay (2) 83982 158778 234734
Hệ số sử dụng nguồn
(3=2/1*100) 356.884 224.513 222.25
phần thiếu (4=2-1) 60450 88057 129118
(Nguồn: báo cáo số liệu hoạt động từ năm 2007 - năm 2009)
(Nguồn vốn huy động ở trên được tính cả huy động vốn từ phát hành giấy tờ có giá)
Đại
học
Kin
h tế
Huế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 60
Qua bảng trên chúng ta cũng đã thấy rõ được tại sao qua các năm, chi phí lãi
phải trả cho vốn đi vay cấp trên luôn tăng và chiếm tỷ lệ lớn như vậy.
Trong 3 năm kể từ khi mới thành lập, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng luôn
lớn hơn so với tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. Cụ thể, ngay thời gian
đầu mới thành lập, tổng dư nợ cho vay đã lớn hơn gấp 3.56 lần so với nguồn vốn huy
động được, thiếu đến 60450 triệu. sang năm 2008, chênh lệch giữa vốn huy động được
và dư nợ có giảm hơn so với năm 2007, tổng dư nợ gấp hơn 2.24 lần so với nguồn vốn
huy động được, thiếu đến 88057 triệu. Năm 2009, dư nợ cho vay gấp hơn 2.22 lần
nguồn vốn huy động, còn thiếu đến 129118 triệu.
Do tính đặc thù của ngân hàng nông nghiệp cho nên mạng lưới hoạt động cho
vay của ngân hàng chủ yếu tập trung vào hộ nông dân, tạo công ăn việc làm cho người
lao động, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra ngân hàng còn mở rộng diện cho
vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên chức, cho vay đối với hộ thiếu vốn sản
xuất thông qua tổ hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, thực hiện đầu tư
Tuy chênh lệch giữa nguồn vào và nguồn ra qua các năm có giảm nhưng nhìn
chung dư nợ cho vay vẫn lớn hơn rất nhiều so với nguồn vốn mà ngân hàng huy động
được. Điều này có thể thấy nhu cầu vay vốn của mọi thành phần kinh tế cũng như của
dân cư trong khu vực là rất lớn. Cho vay càng nhiều tất nhiên lợi nhuận mà ngân hàng
nhận được từ những khoản cho vay này cũng rất lớn, song không phải cứ cho vay
nhiều là tốt mà bên cạnh việc cho vay, ngân hàng cũng cần phải cân đối giữa nguồn
vào và nguồn ra, ở đây chi nhánh đã thực hiện vay thêm ngân hàng cấp trên cũng như
các đơn vị phụ thuộc để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể vay.
Cũng phải đưa ra một nhận định rằng nhu cầu vay vốn của các hộ gia đình, các
đơn vị kinh tế trong huyện lớn hơn rất nhiều so với nhu cầu hưởng lợi ích từ các dịch
vụ hay đơn giản chỉ là hưởng lợi nhuận từ các khoản tiền tiết kiệm. So sánh giữa hai
nguồn vốn này phần nào phản ánh những khó khăn mà chi nhánh ngân hàng Lộc Hà
đang gặp. Một khi huy động được đủ và nhiều nguồn vốn thì mới có khả năng đáp ứng
được nhu cầu vay vốn, song không phải chỉ riêng một mình ngân hàng áp dụng chiến
lược huy động tốt là có thể đạt được chỉ tiêu, mà bên cạnh đó cần phải có nhu cầu xuất
phát từ người dân. Lộc Hà là một huyện được thành lập chưa lâu, nền kinh tế mới chỉ
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 61
đang trên đà phát triển, thu nhập của người dân không ổn định, hoạt động nông nghiệp
lại phụ thuộc vào thời tiết, xét riêng cho một xã thuộc huyện là xã Hộ Độ – một xã mà
quanh năm người dân nơi đây chủ yếu kiếm nguồn thu nhập từ nghề làm muối, trong
khi đó nghề này lại phải hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết, nắng càng nhiều thì muối
càng trắng, càng ngon. Riêng việc cải tạo kho, mua muối đã cần một lượng vốn rất lớn,
do đó hầu hết các hộ gia đình trong xã đều thực hiện vay vốn tại ngân hàng. Hay xét
thêm một xã thuộc huyện là xã Thạch Kim – là một xã miền biển. Hàng năm, để mở
một kho đông lạnh (kho giữ hàng tấn cá được ướp lạnh) các hộ gia đình trong xã phải
tốn hàng tỷ đồng mới có thể đáp ứng được nhu cầu mua bán cá từ khắp nơi, do đó
người dân tại xã cũng chỉ biết vay nguồn vốn từ ngân hàng. Nhu cầu thì lớn, trong khi
tiền gửi lại không đủ để đáp ứng, ngân hàng chỉ còn cách đi vay vốn từ ngân hàng cấp
trên cũng như các đơn vị trực thuộc. Là ngân hàng duy nhất hoạt động trên địa bàn
huyện, do đó nếu ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu vay vốn của người dân để
phát triển kinh tế thì ngân hàng sẽ không tạo dựng được uy tín, do đó ngân hàng phải
tìm cách để có thể đáp ứng được mong muốn của tất cả mọi người. Tổng dư nợ qua
các năm của ngân hàng lớn hơn rất nhiều so với nguồn vốn là xuất phát từ đó.
Tóm lại, giữa nguồn vốn huy động và việc sử dụng nguồn vốn của ngân hàng
những năm qua vẫn chưa đạt được độ cân đối, tổng dư nợ cho vay vẫn luôn lớn hơn so
với nguồn vốn mà ngân hàng huy động được tuy qua các năm mức chênh lệch này có
xu hướng giảm. Chi nhánh cần nỗ lực hơn nữa để có thể đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng
vốn của mình nhằm đạt được mục tiêu sinh lời và an toàn trong hoạt động kinh doanh.
2.2.4 Tình hình lãi suất huy động vốn
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Sự dao động của lãi suất ảnh
hưởng trực tiếp đến các quyết định của Chính phủ, cá nhân, doanh nghiệp, ngân hàng
cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế.
Lãi suất là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa người đi vay và
người cho vay, giữa cung và cầu tiền tệ, là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt
động tín dụng ngân hàng.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 62
Tại NHNo & PTNT Lộc Hà, bên cạnh việc áp dụng các hình thức thu hút khách
hàng thì lãi suất huy động là hình thức thu hút mang lại hiệu quả lớn nhất. Đây là vấn
đề hết sức nhạy cảm bởi tính linh hoạt của nó. Để có thể đứng vững trong môi trường
cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, việc áp dụng mức lãi suất vừa hấp dẫn vừa phù hợp
là không hề dễ dàng, để thấy rõ việc thực hiện áp dụng lãi suất huy động tiền gửi của
chi nhánh, chúng ta xem bảng 2.9:
Trong năm 2009, mức lãi suất huy động biến động theo từng ngày, ngoại trừ
nguồn vốn không kỳ hạn thì tất cả các nguồn vốn khác mức lãi suất đều có xu hướng
tăng đều qua các tháng. Vì tính chất của nó nên nguồn vốn không kỳ hạn luôn là
nguồn vốn có mức lãi suất kém hấp dẫn nhất so với các loại hình khác, mức lãi suất có
hướng giảm và ổn định qua các tháng, trong đó lãi suất tiền gửi USD không kỳ hạn
giảm mạnh hơn so với nguồn tiền gửi nội tệ.
Mức lãi suất các loại hình tiền gửi có kỳ hạn nhìn chung biến động không lớn
và tương đối đều, trong đó biến động lớn nhất đó là nguồn vốn trung và dài hạn, đây
cũng là một điều tất yếu bởi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của khách hàng là rất
lớn, ngân hàng tăng dần lãi suất huy động loại hình tiền gửi này là đánh vào tâm lý của
người gửi tiền bởi mức sinh lợi từ nó mang lại.
Với mức lãi suất huy động đã áp dụng trong những năm qua, ngân hàng Lộc hà
đã thu hút được một lượng tiền khá lớn trong khu vực, đáp ứng được phần nào nhu cầu
sử dụng vốn của mình.
Nguyên lý phổ biến về mặt thời hạn sử dụng vốn tín dụng trong cùng một thời
điểm cho vay cho thấy, mức lãi suất cao thường đáp ứng cho nhu cầu vay vốn dài hạn,
lãi suất thấp cần cho việc huy động vốn ngắn hạn. Nhưng không phải lúc nào ngân
hàng cũng phải áp dụng theo một quy tắc nhất định. Nếu trong một giai đoạn nào đó
nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng bị hạn chế thì việc sử dụng mức lãi suất để ngân
hàng có thế đáp ứng được kịp thời nguồn vốn là rất cần thiết.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 63
Bảng 2.9: Tình hình lãi suất huy động tiền gửi theo kỳ hạn các tháng trong năm 2009
ĐVT: VNĐ: %/tháng
USD: %/năm
Loại
tiền VNĐ USD
Tháng T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
KKH 0.3 0.25 0.25 0.25 0.2 0.2 0.2 0.2 0.2 0.2 0.2 0.2 1.2 1.2 1.2 0.5 0.5 0.5 0.2 0.2 0.2 0.2 0.2 0.2
2
tháng 0.55 0.48 0.48 0.5 0.525 0.6 0.605 0.61 0.61 0.65 0.792 0.8667 2 2 2 1.2 1.2 1.2 1.2 1.2 1.7 1.7 2.3 2.4
4
tháng 0.62 0.52 0.58 0.6 0.61 0.62 0.635 0.65 0.69 0.71 0.76 0.8667 2.4 2.2 2.2 1.3 1.3 1.3 1.3 1.3 2 2 2.4 2.7
7
tháng 0.65 0.55 0.6 0.62 0.63 0.63 0.64 0.68 0.71 0.72 0.8 0.87 3 2.5 2.3 1.7 1.7 1.4 1.4 1.4 2 2 2.5 2.8
10
tháng 0.63 0.57 0.57 0.62 0.64 0.65 0.66 0.7 0.725 0.74 0.77 0.8708 3.3 2.8 2.35 1.8 1.8 1.45 1.45 1.45 2 2 2.5 2.8
13
tháng 0.64 0.58 0.62 0.63 0.65 0.66 0.67 0.72 0.75 0.75 0.833 0.8742 3.5 3 2.4 1.9 1.9 1.5 1.5 1.5 2.1 2.2 2.6 3
24
tháng 0.65 0.6 0.65 0.65 0.67 0.69 0.7 0.72 0.75 0.8 0.875 0.8742 3.8 3.2 2.4 2 2 1.5 1.5 1.5 2.1 2.3 2.6 3.4
36
tháng 0.66 0.6 0.65 0.65 0.67 0.69 0.74 0.74 0.75 0.8 0.875 0.8742 3.9 3.2 2.4 2 2 1.5 1.5 1.5 2.1 2.3 2.6 3.5
(Nguồn: Văn bản áp dụng lãi suất tiền gửi hàng tháng của ngân hàng )Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 64
Khi đó lãi suất huy động ngắn hạn lại có thể cao hơn so với mức lãi suất huy động dài
hạn, cụ thể như ở bảng trên, vào tháng 1 của năm 2009, nguồn vốn nội tệ có kỳ hạn 10
tháng được áp dụng với mức lãi suất là 0.63%/tháng trong khi cũng vào thời điểm đó
mức lãi suất áp dụng với tiền gửi có kỳ hạn 7 tháng lại cao hơn tương ứng là 0.65%.
Đây chính là một ví dụ điển hình về sự linh hoạt và nhạy cảm của lãi suất huy động.
Sự ra đời của cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ ở Việt Nam đã mở rộng
quyền tự chủ và sự chủ động của các ngân hàng. Cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay
ngoại tệ sẽ mở đường cho việc tự do hoá lãi suất cho vay nội tệ. Tại ngân hàng Lộc
Hà, mức lãi suất tiền gửi ngoại tệ là USD nhìn chung tăng theo kỳ hạn và tương đối ổn
định qua các tháng trong năm. Nguồn tiền gửi bằng USD mà ngân hàng huy động
được luôn tăng qua các năm, trong năm này, ngân hàng đã huy động được 369000
USD, vượt kế hoạch mà chi nhánh đã đặt ra. Đây chính là sự nỗ lực không ngừng của
toàn thể cán bộ ngân hàng cũng như sự chỉ đạo, cân nhắc của ban lãnh đạo ngân hàng.
Bên cạnh xem xét mức lãi suất đầu vào thì chúng ta cũng cần cân đối giữa lãi
suất đầu ra và đầu vào. Bảng 2.10 sẽ cho ta thấy rõ hơn về mức lãi suất này:
Bảng 2.10: Bảng tính lãi suất đầu ra đầu vào bình quân 3 tháng giữa 2 năm
2008-2009
Thời điểm Đầu vào bình quân Đầu ra bìnhquân Chênh lệch đầu ra-đầu vào
T5/2008 0.99% 1.30% 0.31%
T6/2008 1.14% 1.43% 0.29%
T7/2008 1.23% 1.65% 0.42%
T5/2009 0.67% 1.04% 0.37%
T6/2009 0.69% 1.02% 0.33%
T7/2009 0.68% 1.01% 0.33%
(Nguồn: Số liệu tổng hợp tính lãi suất đầu ra đầu vào của ngân hàng)
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 65
Nhìn vào bảng ta thấy vào năm 2009. mức lãi suất đầu vào bình quân của 3
tháng giữa năm thấp hơn so với cùng kỳ năm 2008, tương ứng với nó thì mức lãi suất
đầu ra cũng vậy.
Đây là vấn đề liên quan đến sự khủng hoảng tính thanh khoản trên thị trường tài
chính. Năm 2008 các ngân hàng đồng loạt tăng mức lãi suất huy động nhằm có thể thu
hút được nguồn vốn đủ để đáp ứng mọi hoạt động của mình, do đó trong năm này mức
lãi suất đầu vào cao và lãi suất đầu ra cũng từ đó mà tăng lên. Năm 2009 khi thị trường
tài chính dần đi vào ổn định, việc thay đổi khung lãi suất là phù hợp với xu thế phát
triển chung, ngân hàng áp dụng mức lãi suất mới vừa đảm bảo lợi nhuận cho mình vừa
có thể thu hút được đủ nguồn vốn vừa cân đối được hai mức lãi suất này. Chính vì thế
việc sử dụng mức lãi suất như thế nào là vấn đề không hề dễ dàng.
Ngân hàng phải xem xét giữa lãi suất huy động với khả năng cho vay ở mức lãi
suất cao hơn để đưa ra phương hướng hoạt động đảm bảo mục tiêu của ngân hàng tồn
tại và phát triển.
Chênh lệch giữa mức lãi suất đầu ra và đầu vào của ngân hàng là tương đối hợp
lý, bởi đề bù đắp được chi phí huy động và hoạt động có lãi ngân hàng cần phải áp
dụng mức lãi suất đầu ra thế nào để có thể đảm bảo ngân hàng hoạt động có hiệu quả.
Nếu như chênh lệch là quá nhỏ thì ngân hàng sẽ thua lỗ còn nếu đầu ra lớn hơn đầu
vào nhiều, chênh lệch quá lớn, điều này sẽ ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng cũng
như ngân hàng có thể rởi vào tình trạng ứ động vốn. Như vậy, bên cạnh phải theo sát
sự điều chỉnh lãi suất của NHNN thì ngân hàng còn cần phải linh hoạt áp dụng mức lãi
suất như thế nào thật phù hợp, chỉ có vậy ngân hàng mới có thể hoạt động kinh doanh
một cách chủ động và có lãi.
2.2.5 Tình hình lãi phải trả cho nguồn vốn huy động qua 3 năm 2007-2009
NHTM là trung gian tài chính với chức năng cơ bản là đi vay để cho vay. Dù
dưới bất kỳ hình thức nào các NHTM luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu, để đạt được
điều đó, công cụ cần thiết mà các ngân hàng phải có đó là vốn, tuy nhiên một ngân
hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu mọi hoạt động của nó hoàn toàn phụ
thuộc vào vốn đi vay. Ngược lại, một ngân hàng với nguồn vốn dồi dào sẽ luôn chủ
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 66
động trong hoạt động, nắm bắt được nhiều cơ hội kinh doanh, điều này cũng giúp ngân
hàng đa dạng hoá được hình thức hoạt động, phân tán rủi ro và tạo được hiệu quả cao.
Theo cách nói truyền thống, một ngân hàng có hai lĩnh vực kinh doanh nòng
cốt: huy động vốn và lựa chọn tài sản sinh lời để đầu tư các nguồn vốn huy động được.
Các ngân hàng luôn nỗ lực để tạo ra lợi nhuận từ hai lĩnh vực này. Trong đó, lãi phải
trả cho nguồn vốn mà ngân hàng huy động được là một trong những nguồn chi phí huy
động. Do đó, phân tích chi phí huy động vốn là một việc rất hữu ích cho ngân hàng để
xây dựng chính sách kinh doanh có hiệu quả.
Chi phí huy động vốn luôn là khoản chi phí chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí,
xét chi phí lãi phải trả cho nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Lộc Hà trong 3
năm qua, ta có bảng 2.11:
Nguồn vốn huy động qua các năm luôn tăng do vậy lãi phải trả cho những
nguồn vốn này cũng tăng qua các năm. So với năm mới thành lập, tổng lãi phải trả cho
nguồn vốn huy động tăng 13159.506 triệu hay tăng 353%, năm 2009 chỉ tiêu này tăng
hơn 1609 triệu tương đương tăng hơn 9% so với năm 2008.
Qua bảng cũng cho thấy trả lãi tiền vay là khoản chiếm tỷ lệ lớn nhất. Năm
2007, khoản nguồn chi này chiếm 70% tổng lãi phải trả, đến năm 2008, chiếm 67% và
năm 2009 là 68%.
Vốn đi vay là khoản tiền vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả
năng huy động vốn của ngân hàng bị hạn chế. Chi nhánh NHNo & PTNT Lộc Hà
trong những năm qua luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch nguồn vốn huy động cũng
như áp dụng nhiều hình thức huy động vốn linh hoạt, đa dạng, tuy nhiên lượng tiền mà
ngân hàng huy động được trong dân cư vẫn chưa đủ để ngân hàng đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh của mình, do vậy trong các năm lượng tiền mà ngân hàng đi vay của
trụ sở chính, ngân hàng cấp 1 và các đơn vị phụ thuộc vẫn chiếm tỷ lệ lớn và có xu
hướng tăng dần. Một phần là do ngân hàng mới được thành lập nên nguồn vốn còn hạn
chế, phần khác do ngân hàng luôn luôn không ngừng đa dạng hoá hình thức hoạt động,
đòi hỏi phải có nguồn để chi cho những hoạt động này, trong khi nguồn tiền gửi của
dân cư cũng chưa thể đáp ứng đủ để ngân hàng thực hiện nhu cầu vay vốn ngày càng
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 67
tăng, ngân hàng không chỉ hưởng lợi nhuận từ hoạt động cho vay mà ngân hàng còn
hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác như đầu tư, bán bảo hiểm, do đó bắt buộc ngân
hàng phải đi vay từ nhiều nguồn khác ngoài dân cư.
Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng khoản chi cho đi vay này đã giảm đáng kể
so với khi mới thành lập. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho chi nhánh vì điều này
khẳng định khả năng huy động vốn của ngân hàng đang dần trở nên hiệu quả và thu
hút hơn.
Bên cạnh khoản lãi phải trả cho việc đi vay tăng mà chi cho lãi huy động tiền
gửi cũng không ngừng tăng và chiếm tỷ lệ tương đối trong tổng nguồn (luôn trên
30%). Năm 2008, trả lãi tiền gửi tăng 4267 triệu hay tăng 387% so với năm 2007. đến
2009, nguồn chi này tăng 466.125587 triệu tương ứng tăng 8%.
Để tạo được uy tín trong lòng khách hàng, chi nhánh đã áp dụng mức lãi suất
tiền gửi rất linh hoạt, cố gắng thay đổi lãi suất cũng như hình thức thanh toán để tạo sự
an toàn cho người gửi, khi lượng tiền gửi tăng thì khoản lãi phải trả cũng tăng.
Việc phát hành các loại giấy tờ giá cũng đã làm tăng nguồn vốn huy động của
ngân hàng, do vậy khoản lãi trả phát hành giấy tờ có giá cũng tăng qua các năm. Cụ
thể, năm 2009 khoản chi này đã tăng 14.420094 triệu hay tăng 23% so với năm 2008,
tuy nhiên đây vẫn đang là nguồn chiếm tỷ lệ nhỏ nên khoản lãi phải trả cho nguồn này
cũng không lớn.
Các khoản lãi vay vốn UTĐT cũng tăng qua các năm nhưng chiếm tỷ lệ không
lớn và đến năm 2009 có xu hướng giảm nhẹ, 2 năm đầu khi mới thành lập, lãi phải trả
cho khoản vay này luôn chiếm hơn 10%, năm 2008 tăng 1345 triệu tương ứng tăng
312% so với năm 2007. Sang năm 2009, khoản chi này lại giảm 696.032627 triệu hay
giảm 39%.Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 68
Bảng 2.11: Tình hình lãi phải trả cho nguồn vốn huy động qua 3 năm 2007-2009
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2007 2008 2009
So sánh
2008/2007 2009/2008
GT % GT % GT % +(-) %tăng(giảm) +(-)
%
tăng(giảm)
1. Trả lãi tiền gửi 1101 29.597 5368 31.802 5834.125587 31.554 4267 387.557 466.125587 8.683
2. Trả lãi tiền vay
cấp trên, trong đó: 2619 70.403 11449 67.829 12578.20378 68.031 8830 337.152 1129.203775 9.863
- Lãi vay vốn thông
thường 2189 58.844 9674 57.313 11499.2364 62.195 7485 341.937 1825.236402 18.867
- Lãi vay vốn
UTĐT 430 11.559 1775 10.516 1078.967373 5.836 1345 312.791 -696.032627 -39.213
3. Trả lãi phát
hành giấy tờ có
giá
- x 62.306 0.369 76.726094 0.415 x x 14.420094 23.144
Tổng 3720 100 16879.306 100 18489.05546 100 13159.306 353.745 1609.749456 9.537
(Nguồn: Đề án kinh doanh 3 năm 2008-2010)Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 69
Để thấy rõ hơn nữa về tình hình lãi phải trả, ta đi phân tích các tháng giữa năm 2009:
Bảng 2.12 : Tình hình lãi phải trả cho huy động vốn các tháng giữa năm 2009
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu T5 T6 T7
So sánh
T6/T5 T7/T6
+(-) %tăng (giảm) +(-)
%
tăng(giảm)
Chi lãi huy
động vốn 412 340 481 -72 -17.476 141 41.471
Chi lãi UTĐT 86 88 85 2 2.326 -3 -3.409
Vay ngân hàng
cấp trên 914 1027 1012 113 12.363 -15 -1.461
Tổng 1412 1455 1578 43 3.045 123 8.454
(Nguồn: lãi suất đầu ra đầu vào năm 2009)
Chi trả vay ngân hàng cấp trên vẫn là khoản phải trả chiếm tỷ lệ lớn nhất, đứng
sau đó là chi lãi huy động vốn và chi lãi UTĐT. Chỉ sau 1 tháng kể từ tháng 5 năm
2009, lãi phải trả cho ngân hàng cấp trên đã tăng 113 triệu tương ứng tăng 12%, chi lãi
huy động vốn giảm 72 triệu và lãi UTĐT tăng 2 triệu, sang tháng 7, tình hình có khả
quan hơn, các khoản trả lãi đều giảm ngoại trừ lãi huy động vốn, tăng 41% so với
tháng thứ sáu. Như vậy, tính cho đến giữa năm 2009, tổng chi phí lãi phải trả cho
nguồn vốn huy động là 1578 triệu đồng.
Có hai lý do chủ yếu mà ngân hàng quan tâm khi xác định chi phí huy động
vốn: một là, tính toán tương đối chính xác chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để
xác định mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản có sinh lời. Hai là,
loại hình nguồn vốn mà ngân hàng huy động được và việc sử dụng nguồn vốn này ảnh
hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn. Do vậy, qua việc xác định
và phân tích nguồn chi phí cho huy động vốn trên, xét thấy ngân hàng cần khắc phục
tình trạng đi vay, như vậy sẽ không ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng cũng như
sẽ giảm thiểu được rủi ro về nguồn vốn.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 70
Nhìn chung, trong 3 năm qua tổng chi phí trả lãi có xu hướng tăng, cho thấy
ngân hàng đã hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả, tuy nhiên cũng cần phải thúc đẩy
tăng nhịp độ hơn nữa năng lực huy động vốn nhất là nguồn vốn từ dân cư, chỉ có vậy
mới giảm được tỷ lệ lãi phải trả cho nguồn vốn đi vay cũng như giảm được chi phí cho
hoạt động kinh doanh của ngân hàng
2.3 DỰ BÁO NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và mở rộng quy mô hoạt động, mọi
ngân hàng đều phải có uy tín lớn trên thị trường. Uy tín đó trước hết được thể hiện ở
khả năng thanh toán cho khách hàng và vốn là cơ sở, là công cụ để ngân hàng có được
sự uy tín ấy. Để đảm bảo được vấn đề đó, ngân hàng phải có một nguồn vốn thoả mãn
đồng thời cả hai yêu cầu: chất lượng và khối lượng. Tất cả đều phụ thuộc vào khả năng
quản trị nguồn vốn của nhà lãnh đạo. Việc vận dụng các biện pháp nhằm tăng nguồn
vốn là một trong những vấn đề không hề dễ dàng chút nào. Trong các biện pháp đó, dự
báo nguồn vốn là một trong những phương pháp luôn luôn được các nhà lãnh đạo quan
tâm và là bước không thể thiếu trong quản trị nguồn vốn. Việc dự báo nguồn vốn dựa
vào cơ sở nguồn số liệu trong quá khứ của ngân hàng luôn được tiến hành thông qua
kế hoạch huy động nguồn vốn hàng năm. Để biết rõ nguồn vốn trong 2 năm tới của chi
nhánh NHNo & PTNT Lộc Hà, chúng ta đi dự báo tổng nguồn vốn huy động và nguồn
vốn nội tệ bởi đây chính là những nguồn vốn chiếm tỷ lệ lớn và là nguồn vốn hàng đầu
tai ngân hàng:
Như phân tích ở bảng 2.2 và 2.4, ta thấy lượng tăng tuyệt đối liên hoàn tổng
nguồn vốn huy động cũng như nguồn vốn nội tệ của ngân hàng xấp xỉ nhau, do đó việc
dự báo những nguồn vốn này sẽ dựa vào lượng tăng tuyệt đối bình quân.
2.3.1 Dự báo tổng nguồn vốn huy động
Ta có lượng tăng tuyệt đối bình quân tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng
tính được từ bảng 2.2 là: = 37064 triệu
Thay số vào công thức mô hình dự đoán ta có kết quả tổng nguồn vốn của chi
nhánh sau 2 năm 2010-2011 như sau:
- Năm 2010: ŷ2010 = 105616 + 37064*1 = 142680 (triệu đồng)
- Năm 2011: ŷ2010 = 105616 + 37064*2 = 179744 (triệu đồng)
Đại
học
Kin
h tế
H
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 71
2.3.2 Dự báo nguồn vốn huy động nội tệ
Ta có lượng tăng tuyệt đối bình quân nguồn vốn nội tệ của ngân hàng tính từ
bảng 2.4 là: = 28002.5 triệu
Thay số vào công thức mô hình dự đoán ta có kết quả nguồn vốn huy động nội
tệ của chi nhánh sau 2 năm 2010-2011 như sau:
- Năm 2010: ŷ2010 = 85699 + 28002.5*1 = 113701.5 (triệu đồng)
- Năm 2011: ŷ2011 = 85699 + 28002.5*2 = 141704 (triệu đồng)
Như vậy, theo dự báo thì sau 2 năm 2010-2011, tổng nguồn vốn mà ngân
hàng sẽ huy động được là như trên, kết quả này rất phù hợp với xu thế phát triển
nguồn vốn hiện tại của ngân hàng. Chúng ta hy vọng rằng trong tương lai không
những công tác huy động vốn của ngân hàng phát triển mà tất cả mọi hoạt động
kinh doanh của ngân hàng đều đạt hiệu quả cao, tăng lợi nhuận, giảm chi phí,
càng ngày càng tạo được ấn tượng tốt và niềm tin trong lòng khách hàng không
chỉ trong khu vực mà từ khắp cả nước.
2.4 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH
NHNo & PTNT LỘC HÀ
2.4.1 Những kết quả đạt được
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước và toàn hệ thống NHNo
& PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNo & PTNT Lộc Hà đã từng bước khẳng định vị thế
của mình trên địa bàn huyện Lộc Hà với những thành tích đáng khích lệ, trong những
năm qua, công tác huy động vốn tại chi nhánh đã đạt được một số kết quả như:
- Hoạt động huy động vốn luôn luôn được coi trọng, khối lượng vốn huy động
năm sau luôn cao hơn năm trước, tạo điều kiện thuận lợi để tăng tỷ lệ vốn vay trung,
dài hạn và điều hoà vốn cho hệ thống;
- Chi nhánh đã phát huy tốt vai trò của công cụ lãi suất, nắm bắt kịp thời sự
biến động lãi suất của thị trường, áp dụng biểu lãi suất linh hoạt trong phạm vi quyền
hạn được phép của chi nhánh vừa thu hút được khách hàng gửi tiền, vừa đảm bảo yêu
cầu hiệu quả trong kinh doanh để phát triển ổn định, lâu dài;
- Chi nhánh luôn cố gắng tạo dựng mối quan hệ tốt với các tổ chức, đơn vị trên
địa bàn cũng như giữ uy tín đối với mọi khách hàng, luôn giữ thái độ phục vụ tận tình,
chu đáo, tạo được niềm tin cho khách hàng gửi tiền vào chi nhánh;
Đại
họ
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 72
- Chi nhánh đã có nhiều biện pháp tổ chức thực hiện các mục tiêu chiến lược
khách hàng như khuyến khích khách hàng bằng lợi ích vật chất, bằng các quà tặng cho
khách hàng đến gửi tiền (tiết kiệm dự thưởng), áp dụng các biện pháp kinh tế để
khuyến khích khách hàng thường xuyên gửi tiền nhàn rỗi vào tài khoản như giảm chi
phí thanh toán qua ngân hàng, những đơn vị có số dư cao và thường xuyên ổn định
trong tài khoản này sẽ được áp dụng chính sách ưu đãi, hỗ trợ lãi suất, chính những
biện pháp này đã tác động lớn đến tâm lý khách hàng và đã thu hút được rất nhiều
nguồn vốn;
- Trong cơ cấu nguồn vốn, tiền gửi của dân cư chiếm tỷ lệ lớn cho thấy ngân
hàng đã dần tạo được niềm tin cũng như uy tín trong lòng khách hàng;
- Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trong dân cư, áp dụng linh
hoạt các hình thức huy động tiền gửi như tiền gửi tiết kiệm các kỳ hạn khác nhau bằng
nội tệ và ngoại tệ, kỳ phiếu có mục đích.., tạo cho khách hàng nhiều sự lựa chọn trong
việc gửi tiền.
2.4.2 Những khó khăn, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác huy động vốn tại chi nhánh
NHNo & PTNT Lộc Hà vẫn còn một số tồn tại, khó khăn.
♦ Về mặt tồn tại:
- Tuy nguồn vốn mà chi nhánh huy động được luôn tăng qua các năm nhưng
nguồn vốn đi vay vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn, điều này sẽ làm cho chi nhánh
gặp nhiều khó khăn bởi lẽ nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng sẽ tăng rất nhanh trong
thời gian tới vì nhu cầu vay vốn của mọi đơn vị, tổ chức cũng như của người dân càng
ngày càng lớn, do đó nếu không có chiến lược huy động vốn kịp thời thì ngân hàng sẽ
rơi vào tình trạng thiếu vốn cho hoạt động kinh doanh;
- Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng chưa thực sự hợp lý: trong tổng nguồn vốn
huy động, tỷ trọng của tiền gửi tổ chức kinh tế chiếm tỷ lệ nhỏ, tỷ trọng nguồn vốn huy
động từ phát hành giấy tờ có giá chiếm thấp nhất, nguồn vốn huy động trung và dài
hạn vẫn thiếu, điều này gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện cho vay trung và
dài hạn;
- Tổng dư nợ cho vay hàng năm luôn lớn hơn rất nhiều so với tổng nguồn
vốn huy động được, đây là một trong những vấn đề liên quan đến rủi ro trong hoạt
động tín dụng.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 73
- Chương trình hiện đại hoá ngân hàng chưa hoàn thiện và ổn định, các sự cố
kỹ thuật chưa được khắc phục kịp thời, nhiều lúc giao dịch bị gián đoạn kéo dài, khách
hàng phải đợi lâu, dễ mất niềm tin đối với khách hàng;
- Tuy trình độ năng lực của cán bộ ngân hàng luôn được nâng cao song số cán
bộ có có trình độ ngoại ngữ, vi tính giỏi vẫn còn ít, điều này làm giảm khả năng tiếp
cận khai thác chương trình công nghệ mới phục vụ khách hàng.
♦ Về khó khăn:
- Lộc Hà là khu vực luôn chịu ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt. Nắng nóng,
mưa bão, lũ lụt hàng năm làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng đặc biệt trong
công tác thu hồi nợ, huy động vốn;
- Người dân trong khu vực chưa có thói quen gửi nhiều tiền vào ngân hàng;
- Là chi nhánh nằm trên địa bàn một huyện nông nghiệp nên người dân hầu như
không sử dụng ngoại tệ mà chủ yếu nguồn vốn này được huy động từ các lao động
xuất khẩu nước ngoài gửi về thực hiện giao dịch qua ngân hàng;
- Trên địa bàn có ít doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hoạt động liên quan đến
ngoại tệ;
- Hiện nay quy trình gửi và lĩnh tiền của khách hàng đối với ngân hàng chưa
được cải tiến nhiều, thủ tục giấy tờ chủ yếu là thủ công và trực tiếp, chưa có khả năng
đáp ứng những nhu cầu ngày càng phức tạp, đa dạng trong nền kinh tế thị trường, vừa
mất thời gian của khách hàng vừa tốn chi phí của ngân hàng về thủ tục giấy tờ.
Có thể nói rằng, mọi bước đi của ngân hàng đều xuất phát từ nguồn vốn, mọi
biến động cũng xảy ra ở nguồn vốn. Trong môi trường tài chính tiền tệ vốn chứa đựng
nhiều yếu tố bất ổn, NHNo & PTNT Lộc Hà cần có một chiến lược nguồn vốn sâu sắc,
hướng vào mục tiêu bền vững, có sức chịu đựng trước những biến đổi bất lợi.Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 74
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
3.1 KẾT LUẬN
Được thành lập và đi vào hoạt động hơn ba năm, hoạt động huy động vốn tại
chi nhánh NHNo&PTNT Lộc Hà đã đạt được thành tựu đáng kể. Hoà nhịp vào sự phát
triển sôi động của nền kinh tế thị trường trong khu vực và sự phát triển của toàn hệ
thống. Chi nhánh đã cố gắng khắc phục những khó khăn, hạn chế về nguồn vốn để có
thể đáp ứng cao nhất nhu cầu của các đơn vị, cá nhân trên địa bàn.
Tổng nguồn vốn ngân hàng huy động trong ba năm qua luôn vượt kế hoạch mà
ngân hàng cấp trên giao phó, tốc độ tăng nhanh và ổn định đã tạo đà phát triển cho
công tác sử dụng nguồn vốn của ngân hàng.
Xét nguồn vốn huy động theo loại tiền, qua các năm, cả nguồn vốn nội tệ và
ngoại tệ mà ngân hàng huy động được luôn có xu hướng tăng với tốc độ tăng khá
nhanh, nội tệ vẫn luôn là loại tiền chiếm tỷ lệ lớn so với ngoại tệ, lượng nguồn vốn huy
động ngoại tệ này tại ngân hàng vẫn còn rất khiêm tốn và chủ yếu là từ dân cư, hầu
như không có của các doanh nghiệp cũng như các đơn vị kinh tế trong huyện.
Với nguồn vốn theo kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm vẫn là loại tiền chiếm tỷ lệ lớn
nhất, xếp sau đó là tiền gửi thanh toán và kỳ phiếu. Nhìn chung, do nhu cầu gửi
tiền mang tính chất lâu dài của người dân tại ngân hàng vẫn còn chưa phát triển
rộng nên nguồn vốn ngân hàng huy động được chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn,
nguồn vốn trung và dài hạn chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn
của chi nhánh, đây là vấn đề gây khó khăn đối với chi nhánh bởi đó là nguồn vốn
giúp ngân hàng thực hiện đầu tư dài hạn và có thể sử dụng để cho vay trung, dài
hạn, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Đối với loại hình tiền gửi theo khách hàng, dân cư vẫn là khách hàng có số tiền
gửi lớn nhất tại chi nhánh. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong khu vực, đời
sống của người dân ngày càng được cải thiện, điều này đã thúc đẩy quá trình tích lũy
trong dân cư, những năm vừa qua, tiền gửi dân cư tại ngân hàng luôn chiếm trên 80%
tổng nguồn. Tại chi nhánh, tiền gửi của KBNN chiếm tỷ lệ tương đối thấp và thấp nhất
vẫn là tiền gửi của các TCKT, TCTD.
Đại
học
Kin
h tế
Huế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 75
Xét về vấn đề lãi suất, đây luôn là công cụ để ngân hàng hoàn thiện chiến lược
huy động vốn của mình. Năm 2008 được đánh giá là năm mà mức lãi suất huy động
cao nhất và vượt xa so với năm 2007 và 2009. Qua phân tích, chúng ta cũng thấy rằng
mức lãi suất mà chi nhánh áp dụng trong từng thời kỳ là rất phù hợp với xu thế phát
triển chung trong toàn ngành cũng như phù hợp với khả năng và điều kiện của chi
nhánh. Nhờ làm tốt chính sách lãi suất mà trong ba năm qua, nguồn vốn huy động của
ngân hàng luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Tuy nhiên, để có thể cạnh tranh
với các chi nhánh khác cũng như để đảm bảo cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng được
hợp lý, ngân hàng Lộc Hà cần có chiến lược lãi suất linh hoạt hơn nữa đối với nguồn
vốn trung và dài hạn.
Với xu thế phát triển nguồn vốn như ba năm qua, trong tương lai, hy vọng rằng
hoạt động huy động vốn tại chi nhánh sẽ góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và đổi
mới phát triển toàn diện nền kinh tế khu vực và trong nước, góp phần thực hiện hoàn
thiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI
NHÁNH NHNo & PTNT LỘC HÀ
3.2.1 Một số giải pháp
Qua nghiên cứu hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo & PTNT Lộc Hà
có thể thấy trong những năm qua mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng chi nhánh vẫn
cố gắng vượt qua và đã đạt được những những mục tiêu đề ra. Tuy nhiên hoạt động
của chi nhánh vẫn còn những hạn chế do ảnh hưởng của nhân tố chủ quan và khách
quan. Để có thể khắc phục những hạn chế, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
♦ Xét về tổng nguồn vốn huy động: trong thời gian qua ngân hàng đã sử dụng
các hình thức huy động vốn như tiền gửi các loại: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, trên 12
tháng, các hình thức kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng thì ngân hàng có thể xem xét áp
dụng thêm một số hình thức huy động vốn mới vừa có thể tăng nguồn vốn huy động
vừa có thể cải thiện được cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý như hiện nay như:
- Tiền gửi tiết kiệm định kỳ có thưởng, tiết kiệm việc làm;
- Tiền gửi tiết kiệm để dành cho tuổi già về hưu;
- Nhận tiền gửi bằng vàng: đây là biện pháp có thể sẽ rất hiệu quả vì người
dân thường có thói quen giữ thu nhập dư thừa bằng vàng vì họ cho rằng vàng không bị
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 76
mất giá và đây là hình thức tiết kiệm an toàn nhất. Hiện nay lượng vàng do dân chúng
nắm giữ rất lớn. Đây là nguồn vốn lớn nhưng chưa được các ngân hàng khai thác.
Người dân mua vàng chỉ để tích trữ và khi có nhu cầu tiêu dùng họ sẽ bán. Do đó ngân
hàng có thể đưa ra một sản phẩm mới vừa đáp ứng nhu cầu vốn của ngân hàng, vừa
đem lại lợi ích cho dân chúng qua đó thu hút được lượng vốn nhàn rỗi cho sản xuất.
Ngân hàng có thể nhận tiền gửi bằng vàng và trả gốc bằng vàng khi hết hạn. Hình thức
tiết kiệm này giúp nhân dân an tâm hơn, không sợ tiền bị mất giá.
♦ Với nguồn vốn theo kỳ hạn: ngân hàng nên thực hiện chứng khoán hóa các
khoản tiền gửi cho phép khách hàng có thể chuyển nhượng chúng. Đây là một biện
pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn vì
hiện tại nguồn vốn dài hạn tại ngân hàng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Với hình thức này
ngân hàng có thể phát hành các thẻ vô danh có thời hạn từ 1-5 năm với lãi suất lũy tiến
theo thời hạn gửi tiền. Ngân hàng không phát hành đồng loạt như phát hành giấy tờ có
giá mà sẽ phát hành thẻ khi khách hàng có nhu cầu gửi tiền. Công cụ này sẽ đem lại
thuận lợi cho cả khách hàng và ngân hàng: đối với khách hàng, hình thức này khắc
phục các khuyết điểm của các khoản tiền gửi thông thường là có thể chuyển nhượng
được. Khi đến hạn không cần đích thân người gửi tiền đến nhận mà có thể nhờ người
khác lĩnh tiền hộ. Đối với ngân hàng, ngân hàng có thể quản lý như một khoản tiền gửi
thông thường không phải thay đổi công nghệ, có thể thu hút được tiền gửi có kỳ hạn
dài hơn.
♦ Với lãi suất: ngân hàng có thể sử dụng mức lãi suất lũy tiến theo số lượng tiền
gửi. Cùng một kỳ hạn nhưng nếu khách hàng nào gửi tiền với số lượng lớn hơn sẽ
được hưởng mức lãi suất cao hơn. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện nay ngân hàng
chỉ áp dụng lãi suất lũy tiến cho khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài. Điều này sẽ
khuyến khích khách hàng gửi tiền với số lượng lớn hơn.
♦ Với kỳ phiếu: ngân hàng cần làm tốt công tác huy động vốn thông qua phát
hành giấy tờ có giá. Hiện nay nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá tại ngân hàng
chiếm tỷ lệ thấp trong tổng nguồn vốn, vì vậy ngân hàng cần coi trọng hình thức này
và coi đây là một biện pháp hữu hiệu phát triển nguồn vốn trung, dài hạn. Để có thể
tăng cường công tác huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá, ngân hàng Lộc Hà
cần làm tốt các việc sau: tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân biết thông qua trực tiếp
đến tận từng khu dân cư phổ biến cho người dân để giúp họ nhận thức đầy đủ và đúng
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 77
đắn về hình thức huy động này; Áp dụng linh hoạt phương thức trả lãi: trả lãi trước, trả
lãi sau, trả lãi hàng tháng, đa dạng hóa về mệnh giá và kỳ hạn của giấy tờ có giá.
♦ Đối với tài khoản tiền gửi cá nhân: đây là loại tiền gửi còn chiếm tỷ trọng nhỏ
trong nguồn vốn, do đó ngân hàng cần có những biện pháp tác động như: ngân hàng có
thể áp dụng việc theo dõi 2 tài khoản song song của khách hàng tức là khi tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng có số dư cao, ngân hàng sẽ chuyển bớt sang tài
khoản tiền gửi có kỳ hạn để giúp khách hàng không bị thiệt. Ngược lại, khi khách hàng
có nhu cầu thanh toán cao, ngân hàng sẽ tự động chuyển tiền gửi có kỳ hạn thành tiền
gửi thanh toán để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng làm được như vậy sẽ
tạo ra sự nhanh chóng, tiện lợi hơn cho khách hàng. Đồng thời cũng giúp ngân hàng
giảm giai đoạn rút tiền nhiều lần, tốn thời gian và chi phí. Với tài khoản của các doanh
nghiệp, hiện nay trên địa bàn huyện nhiều doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp tư
nhân) không mở tài khoản thanh toán hoặc thanh toán bằng tiền mặt không qua ngân
hàng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thanh toán của ngân hàng cũng như
hạn chế hiệu quả huy động vốn – cho vay. Ngân hàng cần có những giải pháp đúng
đắn để thu hút nguồn vốn này như: cử cán bộ xuống tận doanh nghiệp, giới thiệu cho
doanh nghiệp các loại tài khoản và những tiện ích của chúng. Đồng thời có chính sách
ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Bám sát
quá trình sản xuất, kinh doanh, quá trình luân chuyển vật tư hàng hóa và kỳ hạn nợ của
các tổ chức kinh tế để động viên khách hàng nhanh chóng tiêu thụ sản phẩm, nộp tiền
cho ngân hàng đúng hạn thanh toán. Với những khách hàng có doanh thu lớn, chi
nhánh có biện pháp thu tại chỗ theo lịch thỏa thuận với đơn vị, tạo mối quan hệ tốt đẹp
trong kinh doanh với bạn hàng.
Ngân hàng cũng có thể liên kết với Kho bạc để làm dịch vụ mở tài khoản cho
trả lương cho các khách hàng là cán bộ nhân viên làm việc ở các trường học, các
doanh nghiệp có thu nhập ổn định. Đây là một lĩnh vực khá mới mẻ nên thị trường và
khả năng khai thác là rất lớn. Hơn nữa, trong thị trường này, trình độ dân trí cao nên
khả năng thích ứng của khách hàng với các dịch vụ ngân hàng là rất nhanh. Ngân hàng
qua đó giúp người dân tiếp xúc với các dịch vụ thanh toán hiện đại như thẻ thanh toán,
máy rút tiền tự độngnhanh chóng hòa nhập vào mạng lưới thanh toán quốc tế, tạo
nguồn vốn lớn, ổn định cho ngân hàng.
Đại
học
Ki
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 78
♦ Đối với khách hàng là tổ chức kinh tế: trong những năm qua tỷ trọng tiền gửi
của tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng chưa cao. Đây là
nguồn vốn có chi phí thấp giúp ngân hàng có thể cắt giảm chi phí huy động, tăng lợi
nhuận nên việc tăng nguồn vốn này là điều hết sức cần thiết, ngân hàng nên áp dụng
các biện pháp như: nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo thanh toán nhanh,
rút ngắn thời gian giao dịch, tạo lòng tin cho khách hàng, nâng cao uy tín của ngân
hàng. Cải tiến phong cách giao dịch để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, giữ
khách hàng hiện có và thu hút thêm khách hàng mới.
♦ Đối với khách hàng là cá nhân, hộ sản xuất: trong tất cả nguồn vốn mà ngân
hàng huy động được, tiền gửi của dân cư luôn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Để có thể huy
động được tối đa nguồn vốn này, ngân hàng nên sử dụng các biện pháp như: làm tốt
công tác vận động trực tiếp trên địa bàn hoặc gián tiếp qua các phương tiện thông tin
đại chúng. Đơn giản hóa các thủ tục giao dịch giúp cho người dân dễ dàng thực hiện
với ngân hàng, rút ngắn thời gian giao dịch.
Ngân hàng nên có phòng marketing riêng nhằm phân tích, phân loại khách
hàng, điều này không những giúp ngân hàng hiểu được nhu cầu của thị trường mà còn
giúp ngân hàng có chiến lược kinh doanh phù hợp, nhạy bén.
♦ Với công tác cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn: trong những năm qua, ngân
hàng Lộc Hà luôn diễn ra tình trạng tổng dư nợ lớn hơn rất nhiều lần so với tổng
nguồn vốn huy động được, do đó ngân hàng cần cân đối giữa huy động vốn và sử dụng
vốn, đảm bảo sự tương ứng về thời hạn và lãi suất cho nguồn vốn nào thì cho vay loại
hình đó, và nếu có nguồn vốn ngắn hạn có tính ổn định cao thì ngân hàng có thể sử
dụng để cho vay trung hoặc dài hạn, tuy nhiên việc sử dụng vốn này phải có một tỷ lệ
nhất định. Khi thực hiện cho vay, các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra,
phân tích chất lượng những khoản cho vay, kịp thời xử lý những phát sinh gây ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng cũng như phải tuân thủ nghiêm ngặt
các tỷ lệ giới hạn an toàn vốn trong kinh doanh được quy định theo luật NHNN.
♦ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ: với xu thế của một ngân hàng hiện đại
ngày nay, việc đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tại chi nhánh sẽ tác
động trực tiếp tới chất lượng huy động vốn. Tuy trình độ của cán bộ trong ngân hàng
ngày càng được nâng cao song việc có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng
của khách hàng cũng như sự phát triển của công nghệ đòi hỏi các cán bộ, nhân viên
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 79
của ngân hàng phải không ngừng tìm tòi, học hỏi hơn nữa để đáp ứng một cách tốt
nhất mọi nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng cần tìm hiểu sở trường riêng của mỗi
cán bộ, nhân viên để phân công công việc thật hợp lý, có chính sách thưởng phạt rõ
ràng để khuyến khích mọi người cùng cố gắng. Việc sắp xếp cán bộ đi học, bồi dưỡng
cũng là vấn đề rất đáng quan tâm, ngân hàng cần mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ, có
năng lực, nhiệt tình, gắn bó với công việc. Công tác tổ chức cán bộ phải luôn coi việc
phát triển nguồn nhân lực là nhân tố quyết định mọi thành công, hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng.
Tóm lại, những giải pháp trên là những giải pháp có mối liên hệ mật thiết với
nhau, giải pháp này là tiền đề để phát huy giải pháp khác, do đó ngân hàng nên căn cứ
vào từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn, kết hợp các giải pháp thích hợp để có thể đạt
được hiệu quả công tác huy động vốn như mong muốn.
3.2.2 Kiến nghị đối với NHNN & PTNT Lộc Hà
Cùng với sự phát triển và tiến trình hội nhập quốc tế của toàn ngành, NHNo &
PTNT Lộc Hà cũng cần phải có những định hướng toàn diện trên tất cả các khía cạnh.
Do đó, đề tài này xin đưa ra một số kiến nghị đối với chi nhánh:
Trước tiên, ngân hàng cần thường xuyên theo dõi và kiểm tra công tác hạch
toán và chứng từ hạch toán, hoạt động huy động vốn của các quỹ tiết kiệm. Định kỳ
hàng tháng cần thống kê những sai sót cần chỉnh sửa đối với các nghiệp vụ để ban lãnh
đạo kịp thời chỉnh sửa.
Nâng cao công tác thu nợ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Giảm thiểu việc vay ngân hàng cấp trên cũng như các đơn vị phụ thuộc nhằm
tạo tính chủ động trong kinh doanh.
Thường xuyên điều tra, phân tích thị trường nhằm hiểu rõ tình hình thu nhập
của người dân, từ đó có chính sách thu hút vốn phù hợp.
Có quan hệ chặt chẽ hơn nữa với các Hội trong huyện như Hội phụ nữ, Hội
cựu chiến binh nhằm mở rộng cũng như duy trì quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng
với các tổ chức, tạo điều kiện cho công tác huy động vốn của ngân hàng được diễn
ra thuận lợi.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Thị Hà Lớp K40TKKD 80
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phamthiha_6238.pdf