Khóa luận Phát triển hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Nhà nước sau cổ phần hóa - Lấy VietcomBank làm điểm nghiên cứu

Với sự phong phú và đa dạng trong nhu cầu và đối tượng khách hàng như hiện nay, việc hạn chế phân khúc thị trường như vậy sẽ phầ n nào kìm hãm sức phát triển nội tại của mỗi ngân hàng thương mại Nhà nước. Nên chăng, mỗi ngân hàng cần có các chính sách và sản phẩm, dịch vụ linh hoạt cho các đối tượng người dùng khác nhau. Hệ thống ngân hàng bán lẻ và kênh cho vay tiêu dùng là một trong những lĩnh vực phát triển tiềm năng trong tương lai. Vậy nên, thay vì bó mình trong những quy định khắt khe có từ trước đó thì nay các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước phải linh hoạt hơn nữa trong quá trình cho ra đời các sản phẩm và dịch vụ mới. Chẳng hạn với dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu, trong tương lai Ngân hàng cần triển khai rộng rãi các dịch vụ thanh toán điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử tự động, đẩy mạnh đầu từ và nghiên cứu, ứng dụng rộng rã i các công cụ thanh toán mới theo hướng chuẩn quốc tế, thẻ đa năng, thẻ thông minh và séc. Song song phát triển hoạt động kinh doanh về số lượng thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cũng vô cùng cần thiết. - Thứ nhất, hệ thống phân phối và quy trình giao dịch phải nhanh gọn, thuận tiện. Chẳng hạn các quy trình cho vay phải được tiến hành một cách nhanh chóng, hiệu quả. - Thứ nhì, cung cách phục vụ chuyên nghiệp và thoải mái, thân thiện của các nhân viên trên toàn hệ thống cũng góp vào hiệu quả chất lượng của dịch vụ và độ hài lòng của khách hàng. Những người sử dụng dịch vụ thường đánh giá uy tín và chất lượng của Ngân hàng thông qua các tác phong và hành động khi giao dịch trực tiếp của đội ngũ nhân viên. Tâm lý hài lòng và thoải mái của khách hàng trong quá trình giao dịch với cán bộ ngân hàng là yếu tố quan trọng quyết định đến việc lựa chọn sử dụng dịch vụ. Nếu tác phong chậm chạp, cẩu thả của nhân viên làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của khách hàng bao nhiêu thì thái độ ân cần, nhã nhặn, cẩn t hận sẽ nâng cao uy tín cho ngân hàng lên bấy nhiêu.

pdf112 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phát triển hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Nhà nước sau cổ phần hóa - Lấy VietcomBank làm điểm nghiên cứu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CPH là có được một cơ chế làm việc mới, gắn liền với cơ chế khuyến khích mới tạo sự năng động hơn và có nhiều động lực để cống hiến. Nhưng những gì đang diễn ra ở Vietcombank trong hơn 2 năm vừa qua thì sự kỳ vọng đó đã trở thành thất vọng. Điều thiết yếu nhất đối với cán bộ, nhân viên Vietcombank là cơ chế lương thưởng vẫn không có gì thay đổi. Hiện nay cơ chế lương của Vietcombank vẫn do ba bộ duyệt vì mức vốn Nhà nước sở hữu vẫn trên 51% dù Đại hội cổ đông đã biểu quyết là quản trị doanh nghiệp phải coi trọng hiệu quả hoạt động, lương thưởng nên tạo điều kiện cho hội đồng quản trị, Ban giám đốc, Đại hội cổ đông quyết định. Vậy nên, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam vẫn đang chảy máu chất xám. 78 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI NHÀ NƢỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ I. Tình hình cổ phần hoá ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc tại Việt Nam Hoạt động ngân hàng, trong đó NHTM nhà nước với vai trò chủ đạo trong những năm qua đã có sự đóng góp rất lớn vào sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đã triển khai thực hiện chính sách tiền tệ một cách tích cực, cơ bản ổn định được giá trị và sức mua của đồng tiền, kìm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia và góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế, chưa phát huy hết chức năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để làm cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo. Việc CPH ngân hàng là một khâu trong quá trình đổi mới hoạt động NH, củng cố và cơ cấu lại các NHTM theo hướng tiếp tục phát huy thành tựu, khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao năng lực tài chính, trình độ công nghệ, năng lực tổ chức kinh doanh đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới trong những năm tới. NHTM Nhà nước đang đứng trước thực trạng nợ tồn đọng lớn, vốn tự có thấp so với nhu cầu thực tiễn và so với các ngân hàng trên thế giới, tình trạng này đang làm hạn chế khả năng huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng. Do yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần phải có một khối lượng vốn lớn, vì vậy cần phải có NHTM đủ tiềm lực tài chính để thực hiện phân phối và sử dụng vốn một cách hiệu quả. Vấn đề cổ phần hoá NHTM Nhà nước đặt ra trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng để hội nhập kinh tế quốc tế. Việc cổ phần hoá một NHTM nhà nước không đơn thuần như việc CPH một doanh nghiệp nhà nước nhưng cũng không phải là vấn đề quá khó 79 khăn không thể không thực hiện được. Do đó, quan trọng hiện nay là xác định được mục tiêu cổ phần hoá, xác định những điều kiện cần và đủ để giải quyết những vấn đề trong quá trình CPH và phải đảm bảo được một ngân hàng sau khi cổ phần hoá phải đáp ứng được các chuẩn mực hội nhập kinh tế quốc tế, đủ năng lực cạnh tranh được với các ngân hàng trong nước và trên thế giới. Vậy nên, bên cạnh giai đoạn chuẩn bị cho quá trình cổ phần hoá thì những chiến lược và kế hoạch phát triển kinh doanh hậu CPH cũng vô cùng quan trọng. Kết quả hoạt động những năm sau cổ phần hoá là thước đo hiệu quả của chính sách cổ phần hoá đối với mỗi ngân hàng. Tại Việt Nam, Vietcombank là ngân hàng thương mại Nhà nước đầu tiên được thí điểm cổ phần hoá vào năm 2007. Sau hơn 2 năm hoạt động dưới hình thức tổ chức mới, dù còn một số hạn chế song những thành tựu mà cổ phần hoá mang lại đang dần được phát triển. Tháng 9/2009 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt phương án cổ phần hoá ngân hàng Nhà nước tiếp theo là ngân hàng Công Thương Việt Nam. Trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại Nhà nước còn lại là Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng với Ngân hàng Nhà đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục lên kế hoạch cổ phần hoá. Vậy nên, việc thấy được những thuận lợi và khó khăn ở giai đoạn hậu cổ phần hoá để đưa ra các giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh dưới mô hình mới là vô cùng cần thiết. Qua quá trình nghiên cứu, phân tích hoạt động của Vietcombank thời kỳ trước và sau cổ phần hoá, khoá luận xin đưa ra một số thuận lợi và khó khăn cũng như những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh sau cổ phần hoá của các ngân hàng thương mại Nhà nước. II. Những thuận lợi và khó khăn của NHTM Nhà nƣớc sau cổ phần hoá Với bề dày hoạt động lâu năm trên thị trường tài chính, những nền tảng về kinh nghiệm kinh doanh là một ưu thế vượt trội của các ngân hàng thương mại Nhà nước song những tồn tại của thể chế nhà nước quan liêu bao cấp 80 cũng tạo ra sức ỳ không nhỏ. Việc chuyển đổi tổ chức và quản trị sang mô hình cổ phần vừa giúp các Ngân hàng nâng cao tiềm lực tài chính song cũng là một thách thức lớn trong quá trình phát triển hoạt động sao cho hiệu quả để tương xứng với tiềm lực tài chính ấy. 2.1. Những thuận lợi 2.1.1 Nguồn vốn tự có tăng đảm bảo an toàn hoạt động và phát triển hoạt động kinh doanh Hiện nay quy mô vốn của một ngân hàng hạng trung bình trên thế giới khoảng 1 tỷ USD trở lên. So với những ngân hàng khác trong khu vực thì các ngân hàng thương mại Việt Nam có quy mô vốn còn rất khiêm tốn. Đặc biệt, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới - WTO thì sự xâm nhập ồ ạt của các ông lớn trong ngành tài chính thế giới vào thị trường Việt Nam là điều không thể tránh khỏi. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước còn hạn chế do quy mô nhỏ nên dễ bị thâu tóm hơn. Vậy nên, với vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của toàn nền kinh tế, các ngân hàng thương mại Nhà nước sau khi cổ phần hoá, sự tăng lên một cách đáng kể của quy mô vốn tự có sẽ đảm bảo an toàn hoạt động và phát triển kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao. So với những năm trước cổ phần hoá thì sau khi thay đổi cơ cấu tổ chức, tiềm lực tài chính của các Ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ được tăng lên một cách tương đối. Khi quy mô vốn tăng lên thì phạm vi hoạt động cũng theo đó sẽ được mở rộng. Ngân hàng có thể đa dạng hoá được sản phẩm, phát triển thêm nhiều hình thức dịch vụ mới. Thêm nữa, nhờ lượng vốn điều lệ tăng lên, các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước sẽ có điều kiện để đầu tư vào công nghệ thông tin hiện đại tạo tiền đề cho sự nâng cấp chất lượng dịch vụ cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng và tăng tiện ích cho các sản phẩm. Bên cạnh đó, mức vốn này sẽ góp phần giúp cho các Ngân hàng nâng cao hệ số an toàn vốn CAR. Đồng thời, với việc tăng lên đáng kể 81 của vốn điều lệ, các hệ số sinh lời ROE và ROA đặc biệt là tỷ lệ thu nhập lãi cận biên và tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên sau những năm cổ phần hoá sẽ được cải thiện. Điều này là một ảnh hưởng tích cực hấp dẫn nhà đầu tư. Ngoài ra, đây cũng là một thuận lợi lớn trong hoạt động đầu tư và góp vốn liên doanh của các Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước trong thời gian tới. Tiềm lực tài chính mạnh bao giờ cũng là một thuận lợi và là một thế mạnh mà không phải ngân hàng thương mại nào cũng có được. Dựa trên nền tảng nay, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước có thể gia tăng cạnh tranh với các đối thủ trong nước và nước ngoài cùng hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng sau cổ phần hoá. 2.1.2. Năng lực quản lý điều hành tăng lên góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh Song song với sự nâng cấp vốn điều lệ nhằm đảm bảo an toàn hoạt động và phát triển kinh doanh thì sau cổ phần hoá, các ngân hàng thương mại Nhà nước còn có mặt thuận lợi ưu việt khác. Mặt thuận lợi đó thể hiện ở năng lực quản lý điều hành tăng lên góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cơ cấu quản trị cũ của các Ngân hàng thương mại Nhà nước còn mang nặng cấu trúc tổ chức của cơ chế quan liêu bao cấp nên ít nhiều hạn chế hiệu quả hoạt động kinh doanh trong những năm vừa qua. Sau khi tiến hành cổ phần hoá, cấu trúc hoạt động cũng như mô hình quản trị sẽ được đổi mới, năng động và hiệu quả hơn. Điều này thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, Ngân hàng thương mại Nhà nước khi chuyển sang Ngân hàng thương mại cổ phần sẽ loại bỏ được sự thiếu minh bạch trong các mục tiêu và chiến lược mà ngân hàng theo đuổi cũng như những vấn đề còn tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ được trình bày cụ thể trong đại hội cổ đông thường niên. Khi còn là Ngân hàng thương mại Nhà nước, giám đốc cùng ban điều hành là viên chức nhà nước, làm việc theo chỉ đạo của Nhà nước. Nhưng thực tế, Nhà nước cũng không làm chủ mà để giám đốc 82 trở thành ông chủ, tuy chỉ là danh nghĩa nhưng quyền hành rất lớn. Khi cổ phần hoá, người giám đốc chỉ là người làm thuê, phải chịu sự giám sát chặt chẽ trong việc điều hành hoạt động ngân hàng. Điều này buộc giám đốc cũng như ban lãnh đạo ngân hàng phải trở nên năng động, cầu tiến, có trách nhiệm thực sự đối với công việc nếu không muốn bị các cổ đông phế truất địa vị lãnh đạo. Các đồng vốn gắn với quyền lợi của cổ đông sẽ được sử dụng một cách hiệu quả mang lại nguồn thu lớn cho Ngân hàng. Còn đối với người lao động, khi quyền lợi riêng đã được gắn kết với quyền lợi chung thông qua chính sách bán cổ phiếu với giá ưu đãi cho công nhân viên Ngân hàng. Do vậy, người lao động sẽ luôn quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, không ngừng tiết kiệm chi phí, từ đó thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, xoá bỏ tư tưởng "cha chung không ai khóc" trước đây. Thứ hai, khi cổ phần hoá, Ngân hàng sẽ được chọn nhà đầu tư chiến lược, mà thông thường là nhà đầu tư chiến lược nước ngoài cùng ngành. Nếu chọn được nhà đầu tư chiến lược phù hợp để với sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược vào ban điều hành thì mô hình quản lý của các Ngân hàng sẽ được cải tiến, cách tân phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Đây là một trong những lợi ích thiết thực nhất mà cổ phần hoá mang lại cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước trong tương lai. Các ngân hàng Việt Nam sẽ học hỏi được mô hình quản lý tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trước khi cổ phần hoá, mô hình quản trị cũ được coi là quá gò bó về cách thức tổ chức, không tạo ra được sự linh hoạt và đặc biệt là hạn chế quyền tự quyết của bản thân các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Khi được sự hỗ trợ của các cổ đông chiến lược thì năng lực quản trị tại các Ngân hàng chắc chắn sẽ tăng lên một cách đáng kể. Bởi một trong hai yếu tố then chốt cho sự phát triển đi lên của một ngân hàng là sự tiến bộ của mô hình quản trị nên một khi sự cải thiện trong hệ thống điều hành đủ lớn thì hiệu quả hoạt động kinh doanh theo đó sẽ tăng lên tương đối. Hơn nữa, khi có sự tham gia của các nhà 83 đầu tư chiến lược vào hoạt động của các Ngân hàng thì uy tín mà những ngân hàng thương mại này sẽ lớn hơn. 2.2. Những khó khăn  Khó khăn khách quan: Kinh tế thế giới đã và đang trải qua thời kỳ suy thoái nghiêm trọng. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp Việt Nam. Vậy nên, quá trình cổ phần hoá và hoạt động kinh doanh sau cổ phần hoá của các ngân hàng thương mại trong thời gian tới sẽ diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế đều không thuận lợi. Đó là nguy cơ lạm phát, nguy cơ khó khăn về thanh khoản thường trực và nhiều khó khăn khác sẽ tiếp tục phát sinh. Lo ngại về nguy cơ lạm phát sẽ khiến cho người dân thắt chặt chi tiêu, tăng tiết kiệm và dự trữ bằng vàng hơn là gửi tiền tại ngân hàng. Một khi nhu cầu tiêu dùng bị hạn chế thì nhu cầu đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp cũng bị hãm lại. Điều này sẽ làm cho cầu và cung về vốn trong nền kinh tế sẽ giảm đi một cách đáng kể. Trong khi thu nhập từ lãi của các Ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay đang chiếm một tỷ trọng khá lớn. Điều này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho cả hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và cho các ngân hàng thương mại Nhà nước nói riêng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán trong thời gian qua hiện vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu, còn chịu nhiều sự chi phối của nhiều yếu tố phi kinh tế, đặc biệt là tâm lý. Vậy nên, dung lượng hấp thu của thị trường chứng khoán đối với khối lượng cổ phiếu của Ngân hàng sẽ cổ phần hoá trong giai đoạn tới được nhận định là mối quan ngại của nhiều người. Thêm vào đó hiện nay khi nghị định 187 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần được thay đổi bằng nghị định 109 thì các ngân hàng sẽ khó khăn hơn trong việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược sau khi cổ phần hoá. Tại nghị định 109 thì nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phần theo 84 giá không thấp hơn giá đấu thành công bình quân. Phương án bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược như vậy là chưa linh hoạt. Nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần theo giá đấu thành công bình quân của các nhà đầu tư nhỏ lẻ là chưa tạo điều kiện để thu hút các nhà đầu tư chiến lược trong nước cũng như nước ngoài. Hơn nữa, trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế hiện nay, các ngân hàng sẽ khó đàm phán cứng về giá với các nhà đầu tư chiến lược khi mà họ có rất nhiều sự lựa chọn khác.  Khó khăn chủ quan 2.2.1 Cơ chế hoạt động Trước đây, Ngân hàng thương mại Nhà nước là một doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Từ khi thành lập đến thời điểm cổ phần hoá, các Ngân hàng thương mại Nhà nước có thời gian dài hoạt động theo quy định và cơ chế quản lý của doanh nghiệp Nhà nước nay chuyển sang hoạt động theo doanh nghiệp cổ phần cũng là một trong những khó khăn tương đối lớn. Phải thay đổi từ các chính sách kinh doanh nhỏ nhất để phù hợp với mô hình mới cùng với việc tiếp cận các quy định khác của Nhà nước đối với các Ngân hàng TMCP sẽ ảnh hưởng ít nhiều tới kết quả hoạt động của Ngân hàng TMCP Nhà nước trong những năm sau cổ phần hoá. Tại thời điểm giáp ranh giữa cũ và mới, giữa cách quản trị hoạt động cũ và mới không phải ngay lập tức tất cả hệ thống Ngân hàng từ người lao động đến cấp quản lý trong ngân hàng có thể thay đổi hoàn toàn được. Sau những năm đầu của cổ phần hoá, các Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước sẽ phải nỗ lực cải cách để phù hợp với tình hình hoạt động mới. Từ kinh nghiệm của các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá, thì khó khăn gặp phải những năm sau khi cổ phần hoá là ở việc sử dụng lượng vốn tự có tăng thêm sao cho có hiệu quả. Trên thực tế, nếu trước giai đoạn cổ phần hoá các Ngân hàng không có chiến lược và kế hoạch sử dụng vốn cụ thể và hiệu quả thì sau giai đoạn IPO, lượng vốn điều lệ tăng lên đáng kể nhưng phải sử dụng đúng chỗ thì hiệu quả cổ phần hoá mới 85 phát huy được. Nếu không hiện tượng ứ đọng vốn, lãng phí nguồn lực tài chính sẽ xảy ra. Vậy nên có thể xem đây cũng là một thách thức lớn về cơ chế hoạt động không chỉ đối với những nhà quản trị Ngân hàng mà còn là khó khăn đối với tất cả các nhân viên toàn hệ thống sau quá trình tái cơ cấu. 2.2.2. Sự biến động của nguồn lực Nếu trước khi cổ phần hoá, các chính sách lương thưởng của Ngân hàng thương mại Nhà nước đều tuân theo các quy định của Nhà nước đối với các mức lương định sẵn của nhân viên doanh nghiệp Nhà nước thì sau khi cổ phần hoá, cùng với các cải cách trong quản trị kinh doanh là những thay đổi trong chính sách lương cho nhân viên. Hiện nay sự cạnh tranh về lao động chất lượng cao giữa các ngân hàng thương mại đang diễn ra rất mạnh mẽ. Hiện tượng chảy máu chất xám từ các ngân hàng thương mại Nhà nước sang ngân hàng thương mại cổ phần là điều không thể tránh khỏi. Các ngân hàng thương mại cổ phần có các chế độ đãi ngộ cho công nhân viên khá tốt trong khi tại các Ngân hàng thương mại Nhà nước chính sách lương thưởng khá cứng nhắc, không phụ thuộc vào năng suất lao động. Sau khi cổ phần hoá, chế độ lương thưởng tại các Ngân àng này sẽ được đổi mới phù hợp nhằm khuyến khích người lao động làm việc hiệu quả. Tuy nhiên, về thực chất chế độ đãi ngộ của các Ngân hàng thương mại Nhà nước cho người lao động chưa thể cải biến nhanh chóng một sớm một chiều để tương xứng với các Ngân hàng TMCP khác. Đây cũng là một áp lực không nhỏ của các Ngân hàng bởi nguồn nhân lực đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh doanh sau cổ phần hoá. Trên thực tế, tại các Ngân hàng thương mại Nhà nước đã cổ phần hoá như Vietcombank và Vietinbank thì hiện tượng này đã xảy ra. Số lượng lao động chuyên môn cao, thậm chí nằm trong bộ phận lãnh đạo của Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước chuyển công tác sang các ngân hàng khác không phải là hiếm. Như vậy, biến động về nguồn lực cũng là một trong những vướng mắc đáng kể đối với các ngân hàng sau quá trình cổ phần hoá. 86 2.2.3. Áp lực cạnh tranh trên thị trƣờng tài chính ngân hàng Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh mạnh. Sau 2007 khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO thì sự tham gia của các tổ chức tài chính và ngân hàng nước ngoài ngày càng nhiều. Trong tương lai với vị trí thứ 16 về chỉ số cơ hội của thị trường mới nổi của Việt Nam (theo công bố của công ty kiểm toán và tư vấn quốc tế Grant Thorton năm 2010), tiềm năng phát triển của ngành tài chính Việt Nam là vô cùng lớn. Theo đó, cạnh tranh diễn ra sẽ rất gay gắt không chỉ giữa các ngân hàng trong nước mà còn giữa các ngân hàng nước ngoài với Ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy thế mạnh của Ngân hàng TMCP Nhà nước là vốn lớn và mạng lưới chi nhánh rộng với thị phần áp đảo, song để giữ vững sự tăng trưởng cũng như thị phần vốn có là điều không hề đơn giản. Hiện nay, ở Việt Nam một số ngân hàng với 100% vốn nước ngoài đã được cấp giấy phép hoạt động. Về ưu thế kinh nghiệm quản lý cũng như thương hiệu và vốn dầu tư thì các ngân hàng ngoại thực sự vượt mức cạnh tranh so với các ngân hàng trong nước thậm chí là các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước lâu đời của Việt Nam. Thời gian gần đây, các giao dịch ngoại tệ của các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đang có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Một khi họ đã lấn sân được sang các giao dịch bằng tiền đồng thì nguy cơ bị thâu tóm của các ngân hàng Việt Nam là không nhỏ. Đồng thời, khi được cổ phần hoá, không được sự bảo trợ của Nhà nước như trước đây, một số đối tượng khách hàng sẽ giảm bớt sự tin cậy đối với độ tín nhiệm của các Ngân hàng thương mại Nhà nước sau cổ phần hoá. Vậy nên, kiếm tìm một chiến lược phát triển sao cho thật hiệu quả giữa môi trường tài chính cạnh tranh quyết liệt như hiện nay là một trong những trăn trở hàng đầu của các nhà lãnh đạo thuộc các Ngân hàng TMCP Nhà nước. 87 III. Giải pháp phát triển hoạt động các NHTM Nhà nƣớc Việt Nam sau cổ phần hoá Qua tìm hiểu và phân tích về tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương trước và sau khi cổ phần hoá ở chương II, chúng ta đã có thể khái quát lên một số thuận lợi và khó khăn chung mà các ngân hàng nhà nước có thể gặp phải sau cổ phần hoá. Nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các ngân hàng TMCP là điều rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Thí điểm cổ phần hoá đối với ngân hàng Ngoại Thương về cơ bản đã thành công, song trong quá trình thực hiện với 4 ngân hàng thương mại nhà nước khác cũng còn không ít thách thức. Sau đây, khoá luận xin đưa ra một số giải pháp chung nhất cho việc phát triển kinh doanh của các NHTM Nhà nước sau cổ phần hoá. 3.1. Các giải pháp vĩ mô  Hoàn thiện cơ chế chính sách của Nhà nước về phát triển hoạt động kinh doanh ngân hàng Lĩnh vực tài chính ngân hàng là một lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của toàn nền kinh tế. Vậy nên, việc đẩy mạnh phát triển hoạt động của các tổ chức tài chính ngân hàng là vô cùng quan trọng. Cùng với những nỗ lực riêng của mỗi ngân hàng thì các khuôn khổ pháp lý mà Ngân hàng nhà nước áp dụng cho các ngân hàng thương mại có tác dụng khuyến khích, hỗ trợ hợp lý cũng là một động lực không nhỏ cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10 ngày 12/12/2007 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH10 ngày 17/6/2003; Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 là khung pháp lý cơ bản của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng. 88 Hiện nay, Bộ tài chính đang đưa ra dự luật sửa đổi về các tổ chức tín dụng mới nhằm hoàn thiện để phù hợp hơn nữa với tình hình phát triển mới của nền kinh tế và thị trường tài chính. Dự luật đưa ra nhiều quy định được xem là khá chặt chẽ đối với hoạt động ngân hàng, đặc biệt là nhằm ngăn chặn sự lũng đoạn, thao túng của cá nhân, tổ chức gây rủi ro cho an toàn hệ thống ngân hàng. Có thể nói, việc đổi mới, bổ sung các điều khoản luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp lý phù hợp với khu vực và thế giới, phù hợp với tình hình hoạt động chung trong từng giai đoạn phát triển là hướng giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngân hàng hiệu quả. Bởi trên thực tế trong quá trình thực hiện, một số quy định được đưa ra không khả thi và mâu thuẫn đối với điều kiện phát triển nên việc sửa đổi, bổ sung là điều rất cần thiết.  Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát ngân hàng Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát ngân hàng, theo đó chưa có Luật giám sát an toàn hoạt động Ngân hàng, những nội dung, phương pháp thanh tra chuyên ngành ngân hàng và những đổi mới Thanh tra NHNN cần phải cụ thể hoá trong luật Ngân hàng Nhà nước sửa đổi. Khung pháp lý về thanh tra ngân hàng, giám sát ngân hàng phải đảm bảo cơ quan giám sát an toàn hoạt động ngân hàng có đủ quyền lực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát an toàn hệ thống và giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động của ngân hàng. Về lâu dài, cần phải có Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng để tạo điều kiện cho cơ quan giám sát an toàn hoạt động ngân hàng có hiệu quả hoạt động và hạn chế xung đột lợi ích.  Giảm dần vai trò của Nhà nước trong các Ngân hàng thương mại cổ phần sau cổ phần hoá Theo luật doanh nghiệp nhà nước, nếu nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (>50%) tại các NHTM thì NHTM đó được xếp vào NHTM nhà nước. Nếu Nhà nước có tỷ lệ cổ phần lớn thì trách nhiệm của Nhà nước đối với NHTM Nhà nước sau cổ phần hoá sẽ còn lớn. Đầu tư vốn cho những ngân 89 hàng này chủ yếu vào việc xử lý nợ xấu và bổ sung vốn để đạt tỷ lệ cổ phần chi phối. Điều này sẽ gây áp lực tài chính cho ngân sách nhà nước vốn bội chi. Nhà nước còn nắm giữ lượng lớn cổ phần trong các ngân hàng thương mại Nhà nước sau cổ phần hoá là nhằm mục đích đảm bảo sự ổn định hoạt động cho các ngân hàng. Song, khi các công cụ quản lý và kiểm soát của các ngân hàng đủ mạnh thì nhà nước có thể chuyển nhượng dần vốn cổ phần của mình cho các nhà đầu tư khu vực tư nhân. Hiện nay, có nhiều tranh cãi trong vấn đề có nên để Nhà nước nắm giữ lượng cổ phần lớn với 51% hay không. Sau khi cổ phần hoá, việc tăng vốn Nhà nước có thể bằng hai hình thức: Một là giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại các ngân hàng, xem đó là 51%, phần còn lại sẽ phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn từ các cổ đông trong và ngoài nước. Tuy nhiên phương án này gặp hạn chế ở việc huy động vốn bên ngoài bởi khi phần vốn Nhà nước còn quá thấp, số 49% huy động thêm cũng không đáng kể. Phương án thứ hai là bổ sung vốn Nhà nước để mức vốn điều lệ tăng đến đâu thì vốn Nhà nước cũng tăng đến đó để luôn giữ tỷ trọng 51%. Tuy nhiên, phương án này lại gặp trở ngại khác vì hiện nay ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn, không đủ vốn để luôn luôn duy trì tỷ lệ 51% khi mức vốn điều lệ tăng cao. Bên cạnh đó thì khi Nhà nước nắm giữ số cổ phần khống chế và có quyền chỉ định các vị trí điều hành then chốt, các vấn đề nhân sự, cơ chế hoạt động,... như vậy hiệu quả hoạt động sẽ thấp. Cổ đông hưởng ứng vì lợi ích đem lại không đáp ứng được lợi ích của cổ đông, nhất là không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Xu hướng trên thế giới là nhà nước hạn chế tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh và chỉ tập trung vào cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng, tham gia vào các lĩnh vực kinh tế tạo ra nhiều hiệu ứng ngoại biên tích cực để đem lại hiệu quả kinh tế theo quy mô mà khu vực kinh tế tư nhân không thể đảm nhận. Hiểu như vậy, chúng ta nhận thấy rằng nhà nước không nhất thiết phải nắm giữ cổ phần chi phối tại các NHTM nhà nước 90 sau cổ phần hoá vì cái mà nhà nước quan tâm là làm thế nào để các nhà NHTM sau cổ phần hoá tạo ra được nhiều lợi nhuận để giải quyết hài hoà lợi ích của nhà nước và ngân hàng. Một hệ thống NHTM không thể thực hiện vai trò chủ đạo bền vững với một quy mô hoạt động lớn nhưng hiệu quả kinh doanh và công nghệ ngân hàng yếu kém.  Xây dựng chiến lược phát triển hoạt động ngân hàng trong từng thời kỳ để làm định hướng cho các Ngân hàng thương mại xây dựng chiến lược phát triển của riêng mình. Các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng đều hoạt động kinh doanh dựa trên các luật điều chỉnh của Nhà nước, Quốc hội và Bộ tài chính. Mỗi chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước có thể coi là kim chỉ nam hoạt động cho mỗi pháp nhân kinh tế. Đặc biệt, đối với Tài chính Ngân hàng – lĩnh vực nhạy cảm và quan trọng, việc xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh trong từng thời kì để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng là vô cùng cần thiết. Từ những định hướng phát triển cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, mỗi NHTM sẽ xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của riêng mình. Điều này góp phần đồng bộ hoá hoạt động kinh doanh của cả hệ thống ngân hàng, tránh chồng chéo và cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra, đối với riêng các ngân hàng được cổ phần hoá, trên cơ sở mục tiêu chiến lược đã được định hướng, cần thiết phải xây dựng lộ trình phát triển hoạt động như sau: - 5 năm đầu sau cổ phần hoá: phải đạt một số chuyển biến lớn về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, phát triển các loại ình sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Phát triển mạng lưới văn phòng đại diện và chi nhánh hoạt động ở nước ngoài, hình thành một NHTM mạnh có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế 91 - Từ năm thứ 6 sau cổ phần hoá: hoạt động NHTM theo chuẩn mực quốc tế kể cả về vốn, quản lý, công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh khoản chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời khẳng định vai trò nhất định trên thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Bên cạnh việc xây dựng chiến lược phát triển, Ngân hàng Nhà nước cần có sự phán đoán thị trường một cách nhanh nhạy để đưa ra các giải pháp hợp lý nhất là trong bối cảnh thị trường tài chính ngày càng biến động như hiện nay. Đón trước được các thay đổi trong tương lai gần giúp cho Ngân hàng nhà nước cũng như các Ngân hàng thương mại có các động thái phù hợp để thích ứng với điều kiện thị trường mới. Trong dài hạn, nhiều yếu tố có thể phát sinh làm sai lệch những dự báo, vậy nên những định hướng chỉ nên hướng tới trong thời hạn ngắn nhằm dễ thực hiện và thực hiện được chính xác. Sự chỉ đạo đưa ra các chính sách của Chính phủ và ngân hàng nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng Thương mại Việt Nam. 3.2. Các giải pháp vi mô Như đã phân tích ở phần hạn chế trong hoạt động kinh doanh sau cổ phần hoá của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương thì vướng mắc lớn nhất hiện nay có thể nói là ở mô hình quản trị doanh nghiệp và quá trình kiếm tìm nhà đầu tư chiến lược. Nếu không có nhà đầu tư chiến lược thì chắc chắn mục tiêu cuối cùng của tiến trình cổ phần hoá các ngân hàng sẽ khó mà đạt được. Cũng như, nếu không có một mô hình quản trị doanh nghiệp đổi mới trên thực tế chứ không phải là danh nghĩa thì hiệu quả hoạt động của Ngân hàng sau cổ phần hoá sẽ không mang lại nhiều thành công. Hiện nay, ngân hàng TMCP Vietinbank cũng chưa tìm được nhà đàu tư chiến lược phù hợp mặc dù đã tiến hành cổ phần hoá vào tháng 6/2009. Vậy nên, giải pháp hiện nay đặt ra cho các ngân hàng thương mại sau cổ phần hoá phải là:  Nhanh chóng kiếm tìm nhà đầu tư chiến lược phù hợp 92 Việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược là điều hết sức cần thiết trong tiến trình cổ phần hoá vì chỉ có những nhà đầu tư này mới có thể giúp Vietcombank cũng như các ngân hàng thương mại nhà nước khác khắc phục được hai trong ba điểm yếu lớn nhất là trình độ công nghệ và trình độ quản lý. Tuy nhiên, bên cạnh đó khi có sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược thì nguy cơ bị thâu tóm của các ngân hàng không phải là không có. Với riêng Vietcombank – ngân hàng đã khẳng định được thương hiệu và giữ vững được chỗ đứng trong thị trường thì nên chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là các doanh nghiệp cùng ngành. Trong trường hợp này, nên để các nhà đầu tư chiến lược tham gia nhiều vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhằm phát huy tốt thế mạnh và kinh nghiệm của họ. Hơn nữa, để giảm thiểu khả năng bị chi phối, thâu tóm bởi các nhà đầu tư chiến lược thì Ngân hàng nên chọn từ hai nhà đầu tư chiến lược trở lên mà các nhà đầu tư này là các đối thủ cạnh tranh của nhau.  Xây dựng mô hình quản trị đổi mới thực sự Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cũng như Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam đã chính thức hoạt động dưới mô hình mới là mô hình ngân hàng TMCP. Tuy nhiên, trên thực tế cơ chế hoạt động chưa có sự thay đổi nổi bật. Vậy nên, sức bật sau cổ phần hoá của các Ngân hàng thương mại Nhà nước chưa thực sự đáng kể. Để tạo tiền đề cho thành công trong hoạt động kinh doanh, việc cần thiết hiện nay đối với Ngân hàng là mô hình quản trị đổi mới và hiệu quả. Công cụ quản trị được đề xuất là quyền chọn mua cổ phiếu 9 và quỹ khen thưởng. Quyền chọn mua cổ phiếu sẽ khuyến khích những người điều hành cố gắng làm gia tăng giá trị doanh nghiệp trong khi quỹ khen thưởng sẽ là động cơ cổ vũ tinh thần làm việc của cán bộ và nhân viên. Việc gắn mục tiêu của ngân hàng vào lợi ích của nhà quản trị và người 9 Quyền chọn mua cổ phiếu là một quyền chọn mua mà một công ty dành cho thành viên công ty đối với cổ phiếu của chính công ty đó như là một hình thức trả thù lao phi tiền mặt. ( 93 lao động sẽ góp phần tích cực trong quá trình nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của mỗi cá nhân. Sau cổ phần hoá, trong quá trình kiếm tìm nhà đầu tư chiến lược phù hợp và hoàn thiện dần cơ chế quản trị mới thì những giải pháp cần thực thi hiện nay của Vietcombank cũng như các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước khác là:  Sử dụng hiệu quả lượng vốn tự có tăng thêm vào hoạt động kinh doanh và đầu tư của các Ngân hàng Sau cổ phần hoá, quy mô vốn cổ phần được tăng lên là tương đối lớn. Tuy nhiên, không thể sử dụng lượng tăng thêm ấy một cách lãng phí và kém hiệu quả. Trong quá trình xây dựng kế hoạch và chuẩn bị các bước cho cổ phần hoá thì việc lập các phương án sử dụng cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh bằng vốn vốn điều lệ tăng thêm là vô cùng quan trọng. Tuy hệ thống phân phối và mạng lưới chi nhánh của các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay đang chiếm ưu thế trên thị trường, song việc xây dựng cơ sở hạ tầng và củng cố hệ thống phân phối trên phạm vi toàn quốc là điều nên làm và cần làm. Tại các địa phương mà Ngân hàng với quy mô vốn chưa đủ lớn để mở chi nhánh trước giai đoạn cổ phần hoá thì sau thời gian tái cơ cấu tổ chức, Ngân hàng có thể mở thêm các chi nhánh để giới thiệu các dịch vụ, sản phẩm của ngân hàng tới khách hàng một cách gần gũi sẽ mang hiệu quả lớn hơn. Thực tế thấy rằng, tại một số thị trận, thị xã chi nhánh của ngân hàng thương mại Nhà nước là chưa nhiều và chưa đủ đáp ứng nhu cầu của khách hàng địa phương. Quy mô vốn lớn là cơ hội để đầu tư mở rộng thị trường một cách hiệu quả. Qua đó, phạm vi hoạt động kinh doanh được phát triển lớn hơn. Bên cạnh đó, lượng vốn cổ phần tăng thêm cũng nên cần thiết được nghiên cứu để đầu tư kinh doanh vào các công ty khác hoặc các tổ chức tín dụng khác trên thị trường. Thu nhập từ cổ tức cũng là một khoản doanh thu đáng kể của Ngân hàng. Điều này góp phần đa dạng hoá nguồn thu của các Ngân hàng 94 để giảm thiểu rủi ro và tăng vốn điều lệ nhờ thu nhập giữ lại tăng lên hằng năm. Với việc tham gia đầu tư vào các tổ chức tài chính lớn cũng như các doanh nghiệp lớn, uy tín của Ngân hàng theo đó mà được nâng lên. Do vậy, thuận lợi mang lại cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước so với các ngân hàng thương mại khác trong hoạt động huy động vốn là khá lớn.  Xây dựng phát triển nguồn nhân lực Song song với các vấn đề quản trị ngân hàng và công nghệ thông tin thì đội ngũ lao động thực sự là nhân tố quan trọng trong phát triển hoạt động của mỗi ngân hàng. Trước giai đoạn cổ phần hoá, các Ngân hàng thương mại Nhà nước có những chế độ tuyển dụng lao động thiếu minh bạch và khách quan. Vậy nên số lượng các nhân viên chưa có đầy đủ kỹ năng đáp ứng được công việc là không nhỏ. Năng suất lao động và uy tín của các Ngân hàng thương mại nhà nước vì thế chưa cao. Vậy nên, để cạnh tranh không những với các đối thủ cùng ngành trong nước mà còn cả các tổ chức tín dụng nước ngoài thì các Ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước cần đẩy mạnh quá trình sàng lọc những nhân viên ưu tú để nâng cao năng suất lao động từ đó phát triển hoạt động kinh doanh. Đặc biệt với đội ngũ lao động làm việc lâu năm trong ngân hàng thì việc phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực là yếu tố cần thiết và quan trọng. Bởi trong quá trình dài làm việc với ngân hàng cùng những quy chế điều hành cũ, các nhân viên này không thể thích ứng ngay với hệ thống quản lý mới được. Vậy nên, nếu Ngân hàng thương mại nhà nước muốn đẩy mạnh, phát triển hoạt động kinh doanh sau cổ phần hoá thì yếu tố trọng tâm cần ghi chú là con người. Người lao động chính là những người sẽ thực hiện hoá các chính sách, kế hoạch kinh doanh đến công tác quản trị nên trong thời gian tới, Ngân hàng TM nhà nước cần chú trọng đến việc phát triển nguồn lực. - Đối với các cán bộ thuộc ban quản lý và hoạch định chính sách: đòi hỏi phải có kiến thức vĩ mô về chiến lược phát triển, về đánh giá năng lực tài chính cá nhân, năng động và nhạy bén, có trình độ chuyên môn cao, trình độ 95 ngoại ngữ, hiểu biết về văn hoá, xã hội nghệ thuật cũng như nắm được các thông tin về công nghệ. - Đối với đội ngũ nhân viên: Bên cạnh yêu cầu phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, các nhân viên toàn hệ thống cần phải nâng cao các kỹ năng khác như kỹ năng giao tiếp và giải quyết vấn đề. Đặc biệt với đội ngũ nhân viên là những người có các hoạt động giao tiếp với khách hàng thì những hiểu biết về xã hội, năng động nhạy bén trong giao tiếp thuyết phục khách hàng là điều vô cùng cần thiết. Ngân hàng cần tổ chức Hội thảo cán bộ nghiệp vụ nhằm có sự giao lưu học tập kinh nghiệm – nghiệp vụ lẫn nhau giữa các cán bộ trong toàn hệ thống. Thông qua các cuộc Hội thảo chia sẻ những kinh nghiệm về thành công và thất bại trong công việc, trình độ và hiểu biết của các nhân viên sẽ được cải thiện đáng kể. Ngoài ra, ngân hàng cần gắn kết quả đào tạo vào việc phân bổ cán bộ theo đúng người, đúng việc, đặc biệt cần tích cực luân chuyển cán bộ để sắp xếp nhân viên phù hợp nhất với năng lực chuyên môn của từng người. Hơn nữa, chế độ lương thưởng cũng phải hấp dẫn, phù hợp với từng vị trí công việc. Làn sóng luân chuyển cán bộ trong ngành ngân hàng hiện nay phần lớn giữa các ngân hàng có chế độ đãi ngộ đối với nhân viên chênh lệch nhau. Trong thời gian sau cổ phần hoá, các ngân hàng TMCP Nhà nước cần cơ cấu lại mức lương thưởng hợp lý đối với từng vị trí công việc nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng của đội ngũ nhân viên. Song, quan trọng nhất, đó là các chính sách khuyến khích và động viên nhân viên bằng nhiều chế độ phúc lợi nhằm đẩy mạnh năng suất lao động và hiệu quả làm việc giữa các phòng ban trong hệ thống ngân hàng.  Phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại trong phát triển kinh doanh Trước và sau cổ phần hoá, công nghệ thông tin là yếu tố thuộc hàng quan trọng bậc nhất trong mở rộng thị trường và thu hút khách hàng, đa dạng 96 hoá sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thương mại nhà nước. Ứng dụng các công nghệ hiện đại giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh bằng uy tín và chất lượng. Thực ra, hiện nay so với khu vực và trên thế giới, công nghệ ngân hàng tại Việt Nam chưa thực sự phát triển. Trong tương lai khi cánh cửa hội nhập được mở rộng hơn thì hiện tượng cạnh tranh giữa các ngân hàng là vô cùng gay gắt với sự tham gia ồ ạt của các tổ chức tài chính nước ngoài. Nâng cao uy tín, độ tin cậy, an toàn, chính xác, hài lòng để níu giữ khách hàng là điều vô cùng cần thiết. Muốn vậy, mỗi ngân hàng sau khi cổ phần hoá cần lấy một phần vốn tự có tăng thêm để trích lập đầu tư vào công nghệ theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngân hàng cần phổ cập hoá tin học đến tất cả nhân viên về ứng dụng tin học trong mọi lĩnh vực từ nghiên cứu sản phẩm đến quản trị ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng nên xây dựng trung tâm lưu trữ dữ liệu, hệ thống dự phòng để đảm bảo an toàn cho mọi hoạt động của ngân hàng, tiếp tục phát triển các chương trình ứng dụng, cung cấp sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại (ebank, internet banking, sms banking, kết nối trực tuyến với các công ty chứng khoán,...), nghiên cứu lựa chọn các giải pháp và triển khai các hệ thống hỗ trợ quản trị ngân hàng.  Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, dịch vụ cung ứng và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ Để tiếp tục phát triển và tăng trưởng trong tương lai cả về doanh số, lợi nhuận và thị trường thì việc cần thiết và quan trọng là đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng. Sự đa dạng hoá này cũng nhằm mục đích tận dụng hết lợi ích và thế mạnh từ mạng lưới phân phối rộng lớn của các ngân hàng thương mại nhà nước. Đối với mỗi loại hình sản phẩm hay dịch vụ, các ngân hàng cần linh hoạt và đưa ra các gói sản phẩm, dịch vụ tiện ích. Thực chất trên thực tế, các khách hàng chủ yếu của các ngân hàng thương mại Nhà nước là các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ khách hàng lâu năm với Ngân hàng. 97 Với sự phong phú và đa dạng trong nhu cầu và đối tượng khách hàng như hiện nay, việc hạn chế phân khúc thị trường như vậy sẽ phần nào kìm hãm sức phát triển nội tại của mỗi ngân hàng thương mại Nhà nước. Nên chăng, mỗi ngân hàng cần có các chính sách và sản phẩm, dịch vụ linh hoạt cho các đối tượng người dùng khác nhau. Hệ thống ngân hàng bán lẻ và kênh cho vay tiêu dùng là một trong những lĩnh vực phát triển tiềm năng trong tương lai. Vậy nên, thay vì bó mình trong những quy định khắt khe có từ trước đó thì nay các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước phải linh hoạt hơn nữa trong quá trình cho ra đời các sản phẩm và dịch vụ mới. Chẳng hạn với dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu, trong tương lai Ngân hàng cần triển khai rộng rãi các dịch vụ thanh toán điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử tự động, đẩy mạnh đầu từ và nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi các công cụ thanh toán mới theo hướng chuẩn quốc tế, thẻ đa năng, thẻ thông minh và séc... Song song phát triển hoạt động kinh doanh về số lượng thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cũng vô cùng cần thiết. - Thứ nhất, hệ thống phân phối và quy trình giao dịch phải nhanh gọn, thuận tiện. Chẳng hạn các quy trình cho vay phải được tiến hành một cách nhanh chóng, hiệu quả. - Thứ nhì, cung cách phục vụ chuyên nghiệp và thoải mái, thân thiện của các nhân viên trên toàn hệ thống cũng góp vào hiệu quả chất lượng của dịch vụ và độ hài lòng của khách hàng. Những người sử dụng dịch vụ thường đánh giá uy tín và chất lượng của Ngân hàng thông qua các tác phong và hành động khi giao dịch trực tiếp của đội ngũ nhân viên. Tâm lý hài lòng và thoải mái của khách hàng trong quá trình giao dịch với cán bộ ngân hàng là yếu tố quan trọng quyết định đến việc lựa chọn sử dụng dịch vụ. Nếu tác phong chậm chạp, cẩu thả của nhân viên làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của khách hàng bao nhiêu thì thái độ ân cần, nhã nhặn, cẩn thận sẽ nâng cao uy tín cho ngân hàng lên bấy nhiêu. Vấn đề cải thiện cung cách phục vụ của nhân 98 viên nhằm phát triển hoạt động kinh doanh về chiều sâu chất lượng là hướng xây dựng thương hiệu bền vững và hiệu quả trong tương lai. - Thứ ba về lâu dài, các vị trí giao dịch thuận tiện, giờ mở cửa cũng là yếu tố hỗ trợ thêm góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. Vị trí giao dịch thuận tiện sẽ mang lại cho khách hàng sự nhanh chóng và tiện lợi trong giao dịch. Việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ theo đó cũng được đẩy mạnh. Hiện nay, giở mở cửa của Ngân hàng là khó muộn. Nên có chế độ thay đổi thời gian theo mùa đông và mùa hè. Với nhu cầu giao dịch ngày càng nhiều, tăng thêm cơ hội trong ngày cho khách hàng sử dụng sản phầm, dịch vụ của Ngân hàng bằng việc kéo dài thêm 30 phút làm việc mỗi ngày sẽ tạo ra sự hài lòng và tin cậy từ phía khách hàng. IV. Kiến nghị Việc hoàn thiện và phát triển các cơ chế, chính sách điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại có ý nghĩa rất to lớn. Các quy định pháp lý chặt chẽ hơn nhưng không cứng nhắc sẽ tạo điều kiện cho các NHTM phát triển hoạt động kinh doanh. Tác giả xin đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ, ngân hàng Nhà nước và ban lãnh đạo của các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước như sau: 4.1 Kiến nghị với Chính phủ  Trao quyền độc lập cho NHNN trong việc đưa ra các quyết định quản lý và điều hành Quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Các quyết định về quản lý tiền tệ có khi diễn ra hằng ngày. Nếu NHNN không có được sự chủ động cao trong điều hành thì sẽ kém hiệu quả. Thực tiễn cho thấy rằng, ở những nước mà NHTW có một sự độc lập tương đối với Chính phủ, hoạt động ngân hàng ở những nước đó có xu hướng ổn định và phát triển trong thời kỳ dài. 99 Ở Việt Nam, NHNN không nhất thiết phải độc lập hoàn toàn với chính phủ nhưng NHNN phải được độc lập trong việc đưa ra các quyết định quản lý và điều hành. Chính phủ và Quốc hội chỉ đưa ra định hướng, mục tiêu và khuôn khổ pháp lý đầy đủ cho hoạt động ngân hàng. Một thể chế minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ là cơ sở tốt nhất cho hoạt động ngân hàng  Quốc hội và Chính phủ cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các Ngân hàng Nhà nước Các quy định về tiền tệ và hoạt động ngân hàng có tác động rất lớn đến nền kinh tế, xã hội. Vì thế, Quốc hội và Chính phủ cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của NHNN. Việc kiểm tra, giám sát này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua dư luận, đặc biệt là các nhà đầu tư. 4.2 Kiến nghị với NHNN Là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước có vai trò rất quan trọng. Trong từng thời kỳ, NHNN phải đưa ra được chiến lược đúng đắn để đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả. Trước khi đưa ra những quyết định lớn, NHNN có thể thăm dò dư luận trước khi đi đến quyết định cuối cùng.  NHNN cần trao nhiều quyền tự chủ cho ngân hàng thương mại đi đôi với việc thanh tra giám sát đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả. Các NHTM được tự chủ trong việc hợp nhất, sáp nhập để loại ra những ngân hàng hoạt động kém hiệu quả.  NHNN cần đưa ra các quy định buộc các NHTM thực hiện chế độ báo cáo các hoạt động chính xác, thường xuyên hơn để NHNN nắm rõ được hoạt động của các NHTM, từ đó đưa ra những chính sách hoặc điều chỉnh hợp lý với tình hình 100 4.3 Kiến nghị với các ngân hàng thương mại nhà nước đã và sẽ cổ phần hoá  Tổ chức rà soát hệ thống các quy trình, nghiệp vụ đang áp dung Hiện nay rất nhiều quy trình nghiệp vụ đã được soạn thảo từ trước, trong quá trình áp dụng đã bộc lộ rất nhiều bất cập, gây khó khăn cho các phòng ban trong quá trình tác nghiệp nên các Ngân hàng cần tổ chức kiểm tra, rà soát lại các quy trình nghiệp vụ để có sự điều chỉnh kịp thời tạo điều kiện cho các hoạt động tác nghiệp được thực hiện an toàn, hiệu quả đúng pháp luật  Ban lãnh đạo nên giao quyền chủ động cho các chi nhánh Các chi nhánh nhiều khi không có quyền tự chủ trong khi tác nghiệp như xin hạn mức tín dụng, công tác khách hàng,... Có những vấn đề cần giải quyết nhanh chóng trong công tác khách hàng nếu đợi để trình lên trung ương thì bị chậm trễ, ách tắc.  Đãi ngộ đối với người lao động Trong giai đoạn hiện nay, có một thực tế là các cán bộ ngân hàng giỏi thường hay thay đổi môi trường làm việc từ ngân hàng có chế độ đãi ngộ chưa tốt sang ngân hàng có chế độ đãi ngộ tốt. Để giải quyết vấn đề trên, lãnh đạo các ngân hàng thương mại nhà nước đã và sẽ cổ phần hoá nên giao cho phòng tổ chức cán bộ nghiên cứu đưa ra những chính sách đãi ngộ mới hợp lý hơn nhằm tạo một sự cân bằng nhất định giữa các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước với các ngân hàng khác.  Đầu tư vào nghiên cứu phát triển sản phầm mới Các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước cần thường xuyên tổ chức hội thảo, lấy ý kiến đóng góp của các phòng ban về việc phát triển sản phẩm mới. Tăng ngân sách đầu tư vào công nghệ để nghiên cứu, đưa ra các dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao. Cụ thể, phòng phát triển sản phẩm bán lẻ có thể làm đầu mối nghiên cứu, tham khảo các sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng khác để rút kinh nghiệm cho mình. 101 KẾT LUẬN Cổ phần hoá dường như là giải pháp ưu việt nhất nhằm hạn chế những vướng mắc trong quản trị điều hành NHTM Nhà nước ở Việt Nam. Tuy vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động mà quá trình cổ phần hoá mang lại cần thêm một thời gian nữa khi các ngân hàng có thể kiếm tìm được nhà đầu tư chiến lược phù hợp. Qua việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá hoạt động kinh doanh của NHTMCPNT Việt Nam trước và sau cổ phần hoá, khoá luận đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước trong thời gian tới. Để tạo ra sức bật đủ lớn xứng với tiềm lực tài chính hiện có, NHTMCP Nhà nước không chỉ cần có ban quản trị năng động, hiệu quả mà còn cần một đội ngũ nhân lực hết lòng vì sự vững mạnh của thương hiệu của chính các Ngân hàng. Vậy nên, công cụ quản trị Ngân hàng phù hợp sau cổ phần hoá nhằm tránh tình trạng "bình mới rượu cũ" là yếu tố vô cùng quan trọng cần được xem xét và giải quyết. Những thuận lợi và khó khăn, hạn chế mà Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt nam gặp phải trong hơn hai năm qua khi thực hiện tái cơ cấu âu cũng là kinh nghiệm và bài học rút ra cho các ngân hàng thương mại nhà nước khác. Tới đây, trong tương lai gần khi các quy định về lĩnh vực ngân hàng mà Việt Nam đã tham gia ký kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO chính thức được đưa vào áp dụng thì các ngân hàng thương mại nhà nước còn lại sẽ lần lượt được cổ phần hoá. Xem xét các vấn đề cần thực hiện trước và sau khi cổ phần hoá là điều rất quan trọng và cần thiết đối với các ngân hàng nhằm tránh khỏi những vướng mắc ban đầu do bỡ ngỡ về chế độ quản lý và quy trình hoạt động. 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Peters Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, Đại học kinh tế quốc dân và nhà xuất bản tài chính, Hà Nội 2. TS. Nguyễn Minh Kiều (2008), Hướng dẫn thực hành nghiệp vụ tín dụng và thẩm định tín dụng, NXB Thống kê. 3. TS. Nguyễn Minh Kiều (2008), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB Tài chính. 4. Quốc hội (1997), Luật các tổ chức tín dụng, Hà Nội 5. Quốc hội (2004), Sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng, Hà Nội 6. Chính phủ (2005), Quyết định về việc thí điểm cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam số: 230/2005/QĐ – TTg ngày 21/09/2005 7. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2005), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Bàn về cổ phần hoá Ngân hàng Nhà nước, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội 8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Xây dựng mô hình Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội 9. Đặng Trần, Vietcombank – Thương hiệu mạnh của ngành Ngân hàng Việt Nam, tạp chí Doanh nghiệp và Thương hiệu. 10. Vũ Thành Tự Anh (2005), Cổ phần hoá ở Việt Nam: Khúc dạo đầu của cuộc trường chinh. 11. Th.S Phạm Long (7/8-2004), Bàn về cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng sô 4. 12. PGS.TS Trình Thị Hoa Mai (2004), Cổ phần hoá Ngân hàng thương mại Nhà nước – sự cần thiết và những vấn đề đặt ra, tập chuyên san của tạp chí Ngân hàng 12/2004. 13. Lê Đắc Cù (2004), Vietcombank với chủ trương cổ phần hoá, Tạp chí ngân hàng số 06/2004 103 14. Huỳnh Thế Du (2005), Cải cách ngân hàng ở Việt Nam: còn lắm chông gai, http:vietnamnet.vn/tinnoibat/2005/ngày 15/02/2005 15. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2003), Báo cáo thường niên, Hà Nội. 16. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2004), Báo cáo thường niên, Hà Nội. 17. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2005), Báo cáo thường niên, Hà Nội. 18. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2006), Báo cáo thường niên, Hà Nội 19. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2007), Báo cáo thường niên, Hà Nội 20. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2008), Báo cáo thường niên, Hà Nội 21. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2009), Báo cáo thường niên, Hà Nội 22. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2008), Định hướng hoạt động trong thời gian tới và kế hoạch kinh doanh năm 2008, Hà Nội 23. Thông tin từ các website: www.mof.gov.bn www.saga.com.vn www.gso.gov.vn www.laodong.com.vn www.sbv.org.vn www.vietcombank.com.vn www.vneconomy.vn www.vnba.org.vn www.vietbao.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5090_7785.pdf
Luận văn liên quan