- Các tổ chức tín dụng nước ngoài có thể hoạt động tại Việt Nam dưới
hình thức văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài; công ty tài chính liên doanh, hoặc
công ty tài chính 100% vốn nước ngoài; công ty cho thuê tài chính liên doanh,
hoặc công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, thời hạn hoạt động không
được quá 99 năm và không được vượt quá thời hạn hoạt động của ngân hàng mẹ
ở nước ngoài. Thời hạn hoạt động của văn phòng đại diện của một tổ chức tín
dụng nước ngoài không được vượt quá thời hạn hoạt động của tổ chức tín dụng
nước ngoài đó. Thời hạn hoạt động tối đa của công ty tài chính liên doanh, công
ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, và
công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 50 năm, và các giấy phép
hoạt động này có thể được gia hạn.
- Các hạn chế đối với giao dịch vãng lai đã được bãi bỏ và không duy trì
bất kỳ biện pháp nào trái với các cam kết của mình về các dịch vụ ng ân hàng và
các dịch vụ tài chính khác cũng như về thanh toán giao dịch vãng lai và chuyển
tiền quốc tế.
91 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2454 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quản lý ngoại hối của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại thâm hụt 5.152 tỷ USD. Nguyên
nhân khiến kim ngạch NK tăng cũng một phần không nhỏ do các doanh nghiệp
có nhu cầu nhập khẩu máy móc, công nghệ đổi mới sản xuất tăng cao
Năm 2004, 2005 tỷ giá USD/VND tăng cao, khuyến khích xuất khẩu và
hạn chế nhập khẩu. Kim ngạch XK năm 2004 đạt 26,504 tỷ USD tăng 31,04%
so với năm 2003. Tổng kim ngạch NK tăng tốc độ chỉ còn 26.117% đồng thời
tốc độ nhập siêu giảm còn 21.23%. Năm 2005, xuất khẩu của Việt Nam đạt kim
ngạch 32,233 tỷ USD tăng
Từ năm 2006, việc nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần trong các công ty cổ phần đã
làm tăng đáng kể lượng USD vào Việt Nam, Cộng thêm vào đó, cuộc khủng
hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007 khiến nền kinh tế này bước
vào giai đoạn suy thoái, đẩy đồng USD mất giá nhiều hơn nữa, giá xăng dầu tính
theo đồng USD tăng mạnh. Biểu đồ dưới đây cho thấy chỉ tính từ năm 2006 đến
nay đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ
mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc
Biểu đồ 2.5: Tăng giá của các ngoại tệ mạnh so với USD từ năm 2006
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
CN Yuan Yen Euro UK Pound CAD
*Nguồn: Datastream
Tuy nhiên tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so
với USD (tính đến cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Do đó qua
việc neo tỉ giá, VNĐ cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
64
Chính sách VNĐ yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp
phần ―nhập khẩu lạm phát‖ vào Việt Nam. Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện
nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng,
sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành
của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VNĐ dưới chế độ
tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo
theo giá cả hàng hóa tăng theo và việc VNĐ mất giá so với các ngoại tệ khác
góp phần đáng kể vào việc tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân
thương mại bị thâm hụt lớn. tổng kim ngạch XK cả nước năm 2007 đạt 48,4 tỷ
SD, vượt 3,5% so với mục tiêu đề ra và tăng 21,5% so với năm 2006, tương ứng
với kim ngạch tăng trên 8,56 tỷ USD. Song con số nhập khẩu cũng đạt mức kỷ
lục 60,83 tỷ USD, tăng 33,5% so với năm 2006, làm cho tỷ lệ nhập siêu cũng
cao ngất ngưởng 12,43 tỷ USD, tăng 24,5% so với năm 2006.
2.2.3.3. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngay từ giai đoạn đầu của thời kỳ mở cửa, mặc dù bị chi phối bởi chính
sách cấm vận của Mỹ, các nhà đầu tư nước ngoài đã thăm dò và chuyển vốn về
Việt Nam. Hơn nữa, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài như: Luật đầu tư nước ngoài năm 1987;
quy chế hoạt động của khu chế xuất (1991)…Song do mức độ mở cửa còn hạn
hẹp nên lượng vốn FDI trong giai đoạn đầu là không đáng kể, tổng số vốn đăng
ký chỉ đạt gần 1,6 tỷ USD còn vốn thực hiện không đáng kể vì các doanh nghiệp
FDI phải hoàn thành thủ tục cần thiết ngay cả khi đã được cấp giấy phép đầu tư.
Song do có những nỗ lực tích cực trong việc cải thiện môi trương đầu tư: củng
cố và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài, mà điển
hình là sự ra đời của Luật Đầu tư 2005 do Quốc hội ban hành có hiệu lực từ
ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận với
các nguồn vốn vay ngoại tệ, chuyển ngoại tệ về nước, giảm thuế thu nhập cá
nhân, ban hành quy định mới để chuyển doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thành
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
65
công ty cổ phần, đối xử bình đẳng giữa các nhà nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài....nên hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ.
Trong giai đoạn 1988-2007 quy mô vốn đầu tư liên tục tăng. Cùng với
việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã
mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm
2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư
với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký
cấp mới. Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5
năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm
trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ
USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong
đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ
năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung
bình tăng 35%.
Biểu đồ 2.6: FDI vào Việt Nam từ năm 1989 - 2005
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Năm
T
ri
ệ
u
U
S
D
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
S
ố
d
ự
á
n
Vốn đăng ký Vốn giải ngân Số dự án cấp phép mới
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2005
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
66
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7%
trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2
năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm
trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu
như cả giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng
vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD -
chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ
USD) thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng
hoảng kinh tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5
năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt
Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5
năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm
64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo
ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của
Bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng
hai năm 2006 và 2007, tổng vốn đăng ký đạt 32.3 tỷ USD, tổng vốn thực hiện
đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn
từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng
vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho việc
giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới trong
2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn
tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất
66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt
70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là
72,1% và 80%.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
67
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt
Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở
rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà
ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Việt Nam còn hạn chế nhất định như: Hoạt động xuất
nhập khẩu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguyên
nhân gây thâm hụt cán cân thương mại. Nguyên nhân của hiện tượng này, trước
hết là do phần lớn FDI chuyển vào Việt Nam đều được thực hiện dưới hình thức
nhập khẩu máy móc thiết bị, hàng hoá cho dự án đầu tư, điều này làm tăng giá
trị nhập khẩu trong kỳ. Thứ hai, trong lĩnh vực liên doanh, phần lớn các dự án
tập trung vào sản xuất thay thế hang nhập khẩu, chỉ có khhoảng 27% vốn FDI
đầu tư vào công nghiệp sản xuất hàng hàng xuất khẩu. Kết quả là, giá trị hàng
xuất khẩu được hình thành từ nguồn FDI của Việt Nam thấp hơn nhiều so với
giá trị hàng nhập khẩu. Ngoài ra, việc chuyển tiền, lợi nhuận về nước, chuyển
tiền chi trả quyền sở hữu công nghiệp, phí chuyên gia, lãi vốn vay…cũng làm
ảnh hưởng đến mức thâm hụt của cán cân thanh toán.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Ở
VIỆT NAM
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến rõ
rệt. Chúng ta đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức
vốn đầu tư trực tiếp (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI) và vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ chức tài
chính - tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng đáng kể vốn vay ưu đãi của
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu
Á (ADB), đồng thời tranh thủ khoa học - công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản
lý của nước ngoài, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu để phát triển đất nước…
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
68
Một trong những nhân tố góp phần không nhỏ trong việc ổn định và phát triển
kinh tế của đất nước là những thành tựu đạt được trong việc đổi mới chính sách
quản lý ngoại hối của Chính phủ. Đó là:
- Chính sách quản lý ngoại hối được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều
hành
Chủ trương của Nhà nước độc quyền quản lý và kinh doanh ngoại hối,
được quy định trong Điều lệ quản lý ngoại hối năm 1963, đã được Chính phủ
đổi mới bằng Điều lệ quản lý ngoại hối năm 1998 và Nghị định 63/1998/NĐ-CP
về quản lý ngoại hối được ban hành ngày 17/8/1998. Theo các văn bản này,
chính sách quản lý ngoại hối của nhà nước dần được mở rộng. Mục tiêu, đối
tượng, nội dung, phạm vi kiểm soát ngoại hối được nới lỏng một cách thận
trọng. Hoạt động ngoại hối ngày càng được chấn chỉnh và kiểm soát chặt chẽ
hơn từ khâu hoạch định, tổ chức, thực hiện đến kiểm tra, giám sát. Đây là sự
thay đổi lớn trong cách tư duy cũng như trong quản lý ngoại hối của Chính phủ.
- Cơ chế điều hành tỷ giá được thay đổi căn bản
Cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước đã dần dần thay đổi cơ
chế cố định, đa tỷ giá. Việc tỷ giá được đánh giá khách quan hơn đã phần nào
phản ánh đúng giá trị thực của đồng tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, làm
thay đổi cơ bản tâm lý của thị trường. Lòng tin của công chúng vào chính sách
kinh tế nói chung và chính sách tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối nói riêng
tuy có bị dao động trong thời gian gần đây, nhưng đại đa số dân chúng vẫn rất
tin tưởng vào cơ chế quản lý, cũng như sự can thiệp kịp thời của nhà nước trong
lĩnh vực quản lý ngoại hối. Tác động này được thể hiện rõ nét ở mức gia tăng
tổng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội bộ trong nền kinh
tế từ 14,7%-22,3% so với mức tăng trưởng GDP 8,2% giai đoạn 1990-1995, lên
32,1%-38.8 % so với mức tăng trưởng GDP 7,62% giai đoạn 2001-2007….
Nguồn ngoại tệ tập trung vào ngân hàng ngày càng tăng. Theo báo cáo của
NHNN Việt Nam, chi nhánh Tp.HCM, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ trên
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
69
toàn địa bàn thành phố năm 2002 đạt 33.161 tỷ đồng, năm 2003 là 38.376 tỷ, và
con số này tăng lên đạt 465.000 tỷ đồng, tăng 14 lần so với năm 2002.
- Các công cụ quản lý ngoại hối được sử dụng tương đối hiệu quả
Bên cạnh thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá, NHNN đã có nhiều nỗ lực
trong việc sử dụng các công cụ quản lý ngoại hối như: quy định tỷ lệ kết hối của
doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thay đổi
mức ngoại tệ được phép chuyển ra nước ngoài, sửa đổi quy chế mở L/C trả
chậm, quy định về vay trả nợ nước ngoài, quản lý trạng thái ngoại hối của các
Ngân hàng thương mại v.v.. Trong một số điều kiện nhất định, các công cụ trên
đã có ảnh hưởng tốt đến chu chuyển tiền tệ, chu chuyển vốn trong nền kinh tế,
giúp Việt Nam vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á và đạt mức
tăng trưởng khá tốt trong những năm vừa qua.
- Thị trường ngoại tệ LNH phát triển ngày một lớn mạnh về quy mô và
chiều sâu
Sự ra đời của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ vào năm 1991 và thị trường
ngoại tệ liên Ngân hàng vào năm 1994 là một thành quả của Chính phủ trong
quản lý ngoại hối. Tại đây, các định chế tài chính có thể kinh doanh ngoại tệ
nhằm thỏa mãn các nhu cầu tiền tệ của khách hàng và cân bằng trạng thái ngoại
hối của ngân hàng. Cũng tại thị trường này, NHNN có thể quan sát, kiểm soát,
quản lý hoạt động ngoại hối bằng cách đặt lệnh mua, lệnh bán cuối cùng; đồng
thời thông qua thị trường, NHNN kịp thời nắm bắt các biến động về ngoại hối
để có thể đề ra các biện pháp, chính sách quản lý hữu hiệu góp phần ổn định nền
tiền tệ quốc gia.
- Có sự kết hợp giữa chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tiền tệ
khác
Trước hết là với chính sách lãi suất, trong những năm vừa qua Ngân hàng
Nhà nước đã nhiều lần thay đổi tỷ giá kết hợp với điều chỉnh lãi suất đồng Việt
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
70
Nam và Đô-la Mỹ theo hướng vừa phù hợp với biến động của thị trường tiền tệ
quốc tế, vừa hài hòa với mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; đồng
thời hạn chế hiện tượng dòng ngoại tệ ra nước ngoào. Thật vậy, vào cuối năm
2007 và đầu năm 2008, khi nhận thấy sự bất hợp lý trong tỷ giá và lãi suất, cụ
thể giá trị đồng Việt Nam luôn có xu hướng tăng, trong khi mức chênh lệch lãi
suất của đồng Việt Nam và ngoại tệ mà điển hình là Đô-la Mỹ không tương
xứng, NHNN đã điều chỉnh lãi suất theo hướng nâng lãi suất cơ bản của VND
và hạ lãi suất huy động USD. Biện pháp được đưa ra đúng thời điểm Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) liên tục hạ lãi suất USD (đưa lãi suất USD xuống còn 2%/
năm) đã góp phần đáng kể trong việc quản lý nền tiền tệ quốc gia.
Thứ hai, để hạn chế tốc độ đô-la hóa nền kinh tế và ngăn ngừa rủi ro tỷ
giá của các NHTM, NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng nâng
cao mức dự trữ bắt buộc của USD và hạ mức dự trữ đối với VND.
Thứ ba, để mở rộng đối tượng sử dụng ngoại tệ, NHNN đã mở rộng đối
tượng được cấp tín dụng ngoại tệ, tự do hóa lãi suất. Thông qua các chính sách
này, NHNN đã hạn chế phần nào tình trạng găm giữ ngoại tệ của các doanh
nghiệp, kiểm soát được luồng ngoại tệ chuyển ra ngước ngoài của các NHTM,
làm giảm phần nào tốc độ đô-la hóa nền kinh tế.
- Hoạt động quản lý ngoại hối góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Sự thông thoáng trong chính sách quản lý ngoại hối và tính cởi mở của
chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài là những nhân tố quan trọng tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm chuyển vốn kinh doanh vào Việt
Nam. Thực tế cho thấy mức tăng vốn đầu tư nước ngoài của Viêt Nam trong
thời gian qua khá tốt và đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng
kinh tế.
Sau một thời gian dài bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã từng bước đàm
phán, thương lượng nợ nước ngoài với các quốc gia, các tổ chức quốc tế v.v..
Việc làm này đã khai thông mối quan hệ tìa chính, tiền tệ với thị trường quốc tế.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
71
Việt Nam đã nhận được các khoản tài trợ của WB, ADB và nhiều tổ chức, quốc
gia khác cho các dự án về cơ sở hạ tầng, an ninh xã hội v.v.. Đối với hoạt động
vay trả nợ tư nhân nước ngoài, cơ chế điều hành tỷ giá đã tạo ra sự an tâm của
các nhà tài trợ quốc tế. Các doanh nghiệp trong nước chủ động, linh hoạt và tiếp
cận được nhiều nguồn tín dụng thương mại thông qua L/C trả chậm. Ngoài ra,
Chính phủ cũng thành công trong việc thu hút một lượng lớn ngoại tệ dưới hình
thức kiều hối. Các nguồn vốn này đã góp phần đáng kể trong công cuộc cải
cách, thay đổi cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao dân trí v.v..
đưa Việt Nam sớm hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
- Tạo điều kiện phát triển ngoại thương, nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hoá xuất khẩu
Việc thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi của Chính phủ buộc các đơn vị xuất
nhập khẩu phát huy tính năng động, sang tạo trong kinh doanh, nắm bắt nhanh
tín hiệu thị trường, kịp thời thay đổi cơ cấu mặt hàng, hạ thấp chi phí, xóa bỏ
hiện tượng nhập hàng bừa bãi không tính đến hiệu quả kinh tế của thương vụ
v.v.. Kết quả, thị trường ngoại thương ngày càng mở rộng, kim ngạch xuất khẩu
ngày càng gia tăng, tình trạng nhập siêu dần dần được hạn chế, cán cân thương
mại ngày càng được hoàn thiện.
- Hoạt động quản lý ngoại hối góp phần phát triển quan hệ hợp tác
quóc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
Chính sách quản lý ngoại hối mới đã tạo được điều kiện cho các định chế tài
chánh trong nước mở rộng quan hệ kinh doanh với thị trường tài chánh quốc tế.
Ngày càng nhiều ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh kinh doanh tiền tệ ở Việt
Nam và một vài ngân hàng Việt Nam đã bắt đàu giao dịch ở hải ngoại. Hàng hoá
của thị trường tiền tệ, thị trường vốn ngày một phong phú. Hệ thống ngân hàng
ngày càng tực hiện tốt vai trò trung gian tài chính và đã trở thành kênh phân
phối hữu hiệu trong nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập của Việt
Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
72
- Hệ thống văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối được hình thành và
phát huy tác dụng
Có lẽ chưa lúc nào, hoạt động ngoại hối được Chính phủ quan tâm như
giai đoạn hiện nay. Quản lý ngoại hối đã dần dần được chuyển hóa bằng hệ
thống văn bản pháp quy tương đối phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế. Nhằm mục đích chấn chỉnh, quản lý, và kiểm soát nguồn ngoại hối quốc
gia để ổn định tỷ giá, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và hội nhập quốc
tế, từ năm 1998 đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quan
trọng như: Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối, Nghị định
17/2001/NĐ-CP về quản lý và sử dụng vốn ODA; Nghị định 09/2001/NĐ-CP về
hoạt động đầu tưtrực tiếp nước ngoài; Quyết định 1437/2001/QĐ-CP về mua,
chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài của người cư trú là công dân Việt Nam .
Và gần đây nhất là Pháp lệnh ngoại hối được Uỷ ban thường vụ quốc hôi thông
qua ngày 13/12/2005 và Quyết định 160/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
pháp lệnh ngoại hối được chính phủ ban hành ngày 18/12/2006 v.v.. Mặc dù còn
nhiều vấn đề cần hoàn chỉnh, song các văn bản này đã tạo được hành lang pháp
lý an toàn cho hoạt động kinh doanh và quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
2.3.2. Những tồn tại trong quản lý ngoại hối
Vừa chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước, công cuộc đổi mới của Chính phủ cũng
không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Quản lý ngoại hối cũng không
được loại trừ. Bên cạnh những thành quả đạt được, trong những năm vừa qua,
hoạt động quản lý ngoại hối vẫn còn một số tồn tại nhất định.
- Tỷ giá chưa thực sự phản ánh tình hình cung cầu tiền tệ trong nền
kinh tế
Thành công của chính sách tỷ giá trong thời gian qua là xóa bỏ sự áp đặt
chủ quan, duy ý chí trong việc áp đặt tỷ giá, sự bao cấp thông qua tỷ giá của Nhà
nước. Khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường ―chợ đen‖ dần dần
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
73
được được thu hẹp. Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên cơ sở tỷ giá
bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng trong thực tế, NHNN
vẫn chưa thực hiện triệt để nguyên tắc này. Cơ chế điều hành tỷ giá còn quy
định biên độ mua bán làm cho việc yết giá của các NHTM bị cứng nhắc, chưa
phản ánh đúng nhu cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Sự kết hợp chính sách quản lý ngoại hối và chính sách khác chưa
thực sự hài hoà
Mặc dù Chính phủ đã quan tâm đến tính đồng bộ trong việc ban hành các
chính sách quản lý vĩ mô; tuy nhiên, trong một số thời kỳ nhất định, các chính
sách này còn thể hiện nhiều điều bất cập. Lấy chính sách lãi suất làm ví dụ,
trong thời kỳ 1994 – 1996, tỷ giá (VND/USD) ổn định nhưng mức chênh lệch
lãi suất giữa VND và USD lớn, hậu quả tất yếu của nó là hầu hết các NHTM
chuyển nguồn vốn ngoại tế sang nội tệ để kinh doanh. Tình trạng ngoại hối của
nhiều ngân hàng trong thời kỳ này ở trạng thái đoản (short position). Sang giữa
năm 1997, các NHTM đồng loạt thu vét ngoại tệ trên thị trường để cân bằng
ngoại hối. Thực trạng này đã đẩy sự mất cân đối tiền tệ trong nền kinh tế ngày
càng trầm trọng hơn. Ngược lại, trong giai đoạn cuối 1999-2000, tỷ giá
(VND/USD) luôn có xu hướng tăng đều nhưng các NHTM lại duy trì mức
chênh lệch lãi suất giữa USD và VND nhỏ. Điều này làm gia tăng hiện tượng
đô-la hóa nền kinh tế và lãng phí nguồn ngoại tệ.
- Thị trường ngoại tệ LNH hoạt động kém hiệu quả
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là nơi cung cầu ngoại tệ gặp nhau, tuy
nhiên hoạt động của thị trường này trong thời gian qua chưa thực sự phản ánh
đúng thực trạng kinh doanh ngoại hối của nền kinh tế.
Nguyên nhân của vấn đề, trước hết là do NHNN chưa thực hiện đúng
chức năng là người đặt lệnh mua, lệnh bán cuối cùng để điều chỉnh thị trường.
Thứ hai, Chính phủ chưa tập trung được nguồn ngoại tệ. Mặc dù kim ngạch
xuất khẩu luôn tăng, kiều hối phong phú nhưng một lượng lớn ngoại tệ đã được
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
74
lưu thông trong dân cư, trên tài khoản của doanh nghiệp xuất nhập khẩu, hoặc
tại kho quỹ của các NHTM. Nguồn ngoại tệ tập trung cho quỹ dự trữ ngoại hối
của NHNN còn hạn hẹp. Tại nhiều thời điểm, nhiều nơi nhà nước không thỏa
mãn nhu cầu ngoại tệ hợp lý của nền kinh tế. Cung cầu ngoại tệ luôn bị mất cân
đối, tạo áp lực xấu lên cán cân thanh toán và tỷ giá. Nguyên nhân sâu của vấn đề
là do yếu tố lạm phát, NHNN lo ngại sự bùng nổ trở lại của lạm phát nên không
dám phát hành tiền ra lưu thông để thu gom ngoại tệ, làm dồi dào quỹ dự trữ
ngoại hối quốc gia
Ngoài ra, các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại hối như: kỳ hạn,
hoán đổi, tương lai, quyền chọn chưa được linh hoạt. Tỷ giá của các giao dịch
này còn mang tính áp đặt chủ quan.
- Thị trường chợ đen vẫn tồn tại ngoài tầm kiểm soát của chính phủ
Ngoại tệ mạnh, cụ thể USD còn chiếm vị trí quan trọng trong tính tóan,
dự trữ, chi trả các món hàng có giá trị lớn, các giao dịch bất động sản, đặc biệt
trong các hoạt động bất hợp pháp, buôn lậu qua biên giới. Điều này không chỉ
làm ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ, mà còn làm thương hại đến chủ quyền
dân tộc về tiền tệ.
Mặt khác, để huy động nguồn ngoại tệ trong nền kinh tế và thu hút kiều
hối, NHNN đã cho phép các tổ chức, cá nhân là người cư trú được phép mở tài
khoản tiền gửi ngoại tệ như: tiền tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu. Trong thời gian
qua, lượng tiền gửi này gia tăng đáng kể. Tuy nhiên đối với nguồn ngoại tệ này,
NHNN không tập trung được nguồn ngoại tệ và sử dụng chúng vào mục đích
phát triển đất nước. Hơn nữa, để có ngoại tệ gửi vào ngân hàng, nhiều cá nhân,
tổ chức đã mua ngoại tệ trên thị trường chợ đen. Đây cũng là nhân tố làm cho thị
trường này tồn tại và phát triển ngoài khả năng kiểm soát của NHNN ảnh hưởng
xấu đến nền tiền tệ quốc gia
Ngoài các hạn chế kể trên, chính sách quản lý ngoại hối còn một số tồn tại
như: việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chưa thực sự bình đẳng giữa
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
75
các thành phần kinh tế; một số phạm vi đối tượng quản lý ngọai hối chưa được
quan tâm đúng mức, đó là vàng bạc, đá quý
Nguyên nhân bao quát của các tồn tại trên, trước hết là do bản thân của
chính sách quản lý ngoại hối còn mang tính ngắn hạn, các công cụ chưa được
phối hợp hài hòa, các quy định kiểm soát ngoại hối còn chồng chéo, chưa thống
nhất…Ngoài ra một số hạn chế còn xuất phát từ bản thân của nền kinh tế như:
Nhà nước chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm nạn buôn lậu, gian lận thương
mại trong nền kinh tế; hoạt động ngầm của nền kinh tế vẫn chiếm tỷ trọng lớn
trong xã hội; cán cân thanh tóan vãng lai thường xuyên thâm hụt, ngân sách
thường xuyên bội chi; sự yếu kém trong quản lý và kinh doanh tiền tệ; tệ quan
liêu, tham nhũng chưa được xử lý nghiêm khắc…
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
76
CHƢƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM
3.1. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NGOẠI HỐI TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP
3.1.1. Những yêu cầu chủ quan
Đổi mới đã được đặt ra từ Đại hội Đảng VI (1986) và liên tục được khẳng
định trong các Đại hội Đảng sau đó. Trước tình hình kinh tế quốc tế có nhiều
biến động mới, vấn đề hội nhập kinh tế với những cơ hội và thách thức mới đòi
hỏi những quyết tâm của Đảng và Nhà nước phải có định hướng đúng đắn trong
vấn đề này.
Đại hội Đảng X đã một lần nữa thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn
dân sẽ tiếp tục quá trình đổi mới và hội nhập để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Đại hội Đảng X đã xác định rõ:
Một là, tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố và hoàn thiện khuôn
khổ quan hệ ổn định, lâu dài với các nước nhất là láng giềng khu vực, các nước
lớn và các đối tác quan trọng khác, tạo bước chuyển biến mới trong quan hệ hợp
tác theo hướng đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững,
tạo ra sự tin cậy lẫn nhau.
Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương sau khi gia nhập
WTO: thực hiện các cam kết với các nước về thương mại, đầu tư, mở cửa thị
trường, chuẩn bị tốt các điều kiện để ký các Hiệp định thương mại tự do song
phương với các nước, nhất là các nước lớn, ký các Hiệp định hợp tác kinh tế đa
phương và khu vực. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện có hiệu quả với các
nước ASEAN, các nước khu vực châu Á - TBD.
Ba là, tăng cường hơn nữa vai trò của hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo
môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, cải thiện môi
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
77
trường đầu tư nhằm thu hút FDI, ODA, thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác kinh
tế, thương mại, đầu tư, mở rộng thị trường với các nước, các tổ chức quốc tế
nhằm thực hiện nhiệm vụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Bốn là, cùng với các hoạt động ngoại giao song phương, tăng cường hơn
nữa hoạt động trên các diễn đàn đa phương ở khu vực và trên thế giới, mở rộng
sự hợp tác nhiều mặt với các tổ chức khu vực và quốc tế, chủ động tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu, tiếp tục củng cố và nâng cao vai trò và vị thế của Việt
Nam trong các định chế quốc tế;
Hơn nữa, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2006-2010, Đảng và
nhà nước ta cũng xác định một trong những công tác để đổi mới toàn diện, phát
triển nhanh và bền vững, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nước ta cần chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới thể chế kinh tế,
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư…
Như vậy, về mặt chủ quan, hội nhập quốc tế đã được xác định là một tất
yếu và là định hướng phát triển của Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, quản lý
ngoại hối nhà nước cũng phải đi theo định hướng này, tức là phải có những thay
đổi nhằm đưa Việt Nam chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia và phải đi theo định hướng thị trường, xã hội chủ nghĩa
3.1.2. Những yêu cầu khách quan
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia một số điều ước song phương
và đa phương. Mặc dù việc ký kết các điều ước này thể hiện ý chí chủ quan của
nhà nước ta trong quá trình tham gia vào các quan hệ quốc tế. Nhưng sau khi đã
ký kết tham gia, nội dung các điều ước này lại trở thành yêu cầu khách quan
buộc Việt Nam phải thực hiện.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
78
Tác động của các điều ước này đối với quản lý nhà nước về ngoại hối thể
hiện lộ trình hội nhập yêu cầu trong các điều ước. Trong số các điều ước này, thì
đáng quan tâm nhất là:
Hiệp định thƣơng mại Viêt- Mỹ yêu cầu một số điểm sau đối với lĩnh
vực tài chính ngân hang, có ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý ngoại hối:
Hiệp định thương mại Việt Mỹ đưa ra 6 biện pháp được cam kết, trong đó
quy định về một số không hạn chế đối với số lượng người cung cấp dịch vụ; về
tổng giá trị các giao dịch dịch vụ hay giá trị tài sản; về tổng số các hoạt động
dịch vụ hoặc tổng số lượng dịch vụ thể hiện theo đơn vị số lượng.
Theo cam kết tại hiệp định, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép
cung cấp 12 phân ngành dịch vụ được cung cấp trong phụ lục G. Trong đó, tại
điểm (k) quy định được buôn bán trên tài khoản của mình hay tài khoản của
khách hàng tại sở giao dịch chứng khoán, trên thị trường chứng khoán không
chính thức (OTC) hay trên các thị trường khác, những sản phẩm sau:
-Các sản phẩm của thị trường tiền tệ, bao gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ
tiền gửi;
- Ngoại hối;
- Các tài sản tài chính phái sinh, bao gồm (nhưng không hạn chế) các hợp
đồng giao dịch tương lai (futures) và quyền chọn (options);
- Các sản phẩm dựa trên tỷ giá hối đoái và lãi suất, bao gồm hoán đổi
(swaps), kỳ hạn (forwords);
- Các chứng khoán có thể chuyển nhượng được;
- Các công cụ có thể thanh toán và tài sản tài chính khác, kể cả vàng nén.
Hiệp định thương mại Việt Mỹ cũng đưa ra các yêu cầu về tính minh
bạch, và công khai của tất cả các luật, quy định và thủ tục hành chính có tính áp
dụng chung, liên quan đến bất kỳ vấn đề nào được quy định trong hiệp.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
79
Việt Nam là thành viên của WTO: Với tư cách là thành viên thứ 150
của Tổ chưc thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết:
- Các biện pháp quản lý ngoại hối chỉ được áp dụng trong những trường
hợp ngoại lệ, do Chính phủ Việt Nam quyết định, nhằm duy trì an ninh tài chính
và tiền tệ quốc gia phù hợp với điều lệ của IMF và Tài liệu của IMF số 144
(52/51) ngày 14-8-1952.
- Các tổ chức tín dụng nước ngoài có thể hoạt động tại Việt Nam dưới
hình thức văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài; công ty tài chính liên doanh, hoặc
công ty tài chính 100% vốn nước ngoài; công ty cho thuê tài chính liên doanh,
hoặc công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, thời hạn hoạt động không
được quá 99 năm và không được vượt quá thời hạn hoạt động của ngân hàng mẹ
ở nước ngoài. Thời hạn hoạt động của văn phòng đại diện của một tổ chức tín
dụng nước ngoài không được vượt quá thời hạn hoạt động của tổ chức tín dụng
nước ngoài đó. Thời hạn hoạt động tối đa của công ty tài chính liên doanh, công
ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, và
công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 50 năm, và các giấy phép
hoạt động này có thể được gia hạn.
- Các hạn chế đối với giao dịch vãng lai đã được bãi bỏ và không duy trì
bất kỳ biện pháp nào trái với các cam kết của mình về các dịch vụ ngân hàng và
các dịch vụ tài chính khác cũng như về thanh toán giao dịch vãng lai và chuyển
tiền quốc tế.
- Đối với các giao dịch vốn, Việt Nam đã nới lỏng các giao dịch chuyển
vốn của các nhà đầu tư nước ngoài và việc vay nước ngoài của các tổ chức cư
trú, chỉ duy trì một số hạn chế về (i) các giao dịch chuyển vốn ra nước ngoài để
đầu tư của các tổ chức cư trú, việc chuyển vốn này phải được các cơ quan có
thẩm quyền cho phép và phải trong phạm vi số ngoại tệ thuộc sở hữu của các tổ
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
80
chức này; và (ii) thanh toán và hoàn trả các khoản vay nước ngoài của các tổ
chức cư trú, các giao dịch này phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Về cân đối ngoại tệ, Chính phủ xem xét bảo đảm cân đối nhu cầu ngoại
tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án đặc biệt quan trọng trong
các chương trình của Chính phủ và hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự án cơ sở
hạ tầng và một số dự án quan trọng khác trong trường hợp các ngân hàng được
phép giao dịch ngoại hối không thể đáp ứng tất cả các yêu cầu về ngoại tệ.
- Đối với việc hoàn trả các khoản vay và các khoản đầu tư vốn ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, phải theo Nghị định số 22/1999/NĐ-CP,
đáp ứng các điều kiện về có giấy phép đầu tư ra nước ngoài; mở một tài khoản
ngoại tệ đăng ký việc mở tài khoản và các giao dịch chuyển vốn đầu tư. Các
giấy tờ cần thiết để xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài. Các doanh nghiệp được
phép đầu tư ra nước ngoài có thể chuyển lợi nhuận có được từ các khoản đầu tư
của họ tại Việt Nam ra bất cứ nơi nào ở nước ngoài mà không phải thực hiện
theo các thủ tục áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Hoặc có thể mở
các tài khoản ngoại tệ để thực hiện vay nước ngoài trung và dài hạn….
3.1.3. Định hƣớng đổi mới công tác quản lý ngoại hối
Từ các yêu cầu khách quan và chủ quan, Ngành Ngân hàng đã xây dựng
kế hoạch và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng ban hành
kèm theo Quyết định số 663/2003/QĐ-NHNN ngày 26/6/2003. Theo đó xác
định rõ định hướng về công tác quản lý ngoại hối của Việt Nam trong thời gian
tới. Đó là:
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng theo lộ
trình và bước đi phù hợp với khả năng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam;
- Thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân
hàng, trước hết là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định khung về thương
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
81
mại dịch vụ (AFAS) của ASEAN và phù hợp với WTO mà Việt nam đã là thành
viên chính thức từ 7/11/2006;
- Mở cửa thị trường Ngân hàng, nới lỏng dần theo lộ trình các hạn chế về
quyền tiếp cận và nội dung hoạt động của chi nhánh cũng như Ngân hàng 100%
vốn nước ngoài tại Việt Nam bắt đầu được xem xét cho thành lập từ 1/4/2007;
- Xoá bỏ dần, tiến tới xoá bỏ tối đa các giới hạn đối với các Ngân hàng
nước ngoài về số lượng đơn vị; hình thức pháp nhân; tỷ lệ góp vốn của bên nước
ngoài; tổng giao dịch nghiệp vụ Ngân hàng; mức huy động vốn VND; loại sản
phẩm, loại dịch vụ...Ngân hàng trên lãnh thổ Việt nam. Nghĩa là tiếp ngay sau
quá trình tự do hoá tài khoản vãng lai là giai đoạn đồng thời tự do hoá tài khoản
vốn theo một lộ trình tích cực.
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với luật lệ quốc tế
để tạo sân chơi bình đẳng cho các NHTM trên lãnh thổ Việt Nam cùng phát
triển và cạnh tranh lành mạnh...
Đồng thời, tại Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ban hành ngày 4/7/2007 về việc phê duyệt Đề án nâng cao tính chuyển đổi của
đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế đã xác
định các mục tiêu đến năm 2010, cụ thể:
- Nâng cao tính chuyển đổi của Đồng Việt Nam gồm: Tự do hóa hoàn
toàn giao dịch vãng lai, bước đầu xây dựng cơ chế để Đồng Việt Nam tham gia
thanh toán xuất nhập khẩu; Tiếp tục tự do hóa có lựa chọn các giao dịch vốn,
bước đầu cho Đồng Việt Nam tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư
của nước ngoài vào Việt Nam.
- Khắc phục từng bước tình trạng đô la hóa: Cần nâng cao hiệu lực pháp
lý của các quy định về quản lý ngoại hối, thu hẹp tiến tới xóa bỏ việc niêm yết,
định giá, thanh toán bằng ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ trái phép; xóa bỏ chế
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
82
độ thanh toán bằng ngoại tệ trong nước; có biện pháp thu hút số ngoại tệ trôi nổi
vào hệ thống ngân hàng, đồng thời xóa bỏ các chính sách gây tâm lý đô la hóa.
Và đây cũng chính là những định hướng trước mắt trong công tác quản lý
tài chính tiền tệ nói chung và quản lý ngoại hối nói riêng.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM
3.2.1. Từng bƣớc thông thoáng chính sách ngoại hối, thu hút tối đa nguồn
ngoại tệ vào trong nƣớc.
Cụ thể:
- Khuyến khích tối đa mọi cá nhân và tổ chức kinh tế đưa ngoại tệ vào
trong nước không đánh thuế và không bị cản trở bởi bất cứ lý do nào.
- Nâng cao năng lực của các hệ thống ngân hàng để có thể đảm đương
được các nhiệm vụ chuyển tiền, thanh toán ngoại hối cho khách hàng một cách
thuận lợi nhất.
- Tạo môi trường thông thoáng cho mọi người và tổ chức kinh tế có nhu
cầu thanh toán và đưa ra ngoại tệ ra nước ngoài một cách chính đáng được đáp
ứng đầy đủ và không bị cản trở hay gây phiền hà.
- Đẩy mạnh sự phát triển và nâng cao năng lực hoạt động của các thị
trường ngoại hối nhằm tạo ra sự mua bán, giao dịch ngoại hối một cách thông
thoáng, hiệu quả.
- Nghiên cứu hướng thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài và ngoại
tệ vào nước ta như nâng lãi suất huy động ngoại tệ, đơn giản hoá các thủ tục gửi
ngoại tệ, mua bán ngoại tệ đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng.
- Nghiên cứu cơ chế chính sách tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế thu
hút ngoại tệ thông qua việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu ra thị trường quốc
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
83
tế, hay thị trường trong nước huy động vốn bằng ngoại tệ, cho phép một số tập
đoàn lớn mua bán cổ phiếu bằng ngoại tệ.
3.2.2. Khắc phục tình trạng đô la hóa
Tình trạng đô la hoá ở nước ta khá cao, do vậy cần có các biện pháp đồng
bộ khắc phục tình trạng này, đó là:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, củng cố sự vững mạnh
của hệ thống ngân hàng.
- Đẩy mạnh việc kiểm soát chính sách tiền tệ của NHNN, tăng dự trữ
ngoại tệ.
- Cần nghiên cứu ra rổ tiền tệ, đưa tỷ giá của đồng Việt Nam không còn bị
phụ thuộc quá mức vào đồng đa la Mỹ, thay vào đó là sự phối hợp giữa các đồng
tiền khác nhau trên cơ sở một rổ ngoại tệ. Các đồng tiền này tham gia vào rổ
ngoại tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư vào Việt Nam.
- Hạn chế việc sử dụng và lưu thông Đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam
như: không thanh toán trong các cửa hàng bằng đồng đô la Mỹ, tất cả các biên
lai thanh toán phải ghi bằng đồng Việt Nam, tạo sự chuyển đổi dễ dàng từ đồng
Đô la Mỹ sang đồng Việt Nam
- Đổi mới các hoạt động của các NHTM và các tổ chức tín dụng theo
hướng sử dụng đa dạng các loại hình kinh doanh và các công cụ tài chính trên cơ
sở công nghệ hiện đại, cũng như đa dạng hoá các công cụ phòng ngừa rủi ro trên
thị trường và tài chính và thị trường ngoại hối.
3.2.3. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý về chính sách quản lý
ngoại hối
Trong thời gian qua chính sách quản lý ngoại hối đã đổi mới không
ngừng, đi từ thấp đến cao, từ từng phần đến toàn diện phù hợp với mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của từng giai đoạn và tiến trình hội nhập quốc tế và đạt được
những thành tích đáng khích lệ. Trong xu thế hội nhập nhanh và mạnh như hiện
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
84
nay thì việc hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý là một yêu cầu cần thiết, cụ thể
trong thời gian tới, Nhà nước ta cần:
- Tăng cường công tác quản lý ngoại hối khu vực biên giới trên bộ với
Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu qua
biên giới đường bộ diễn ra sôi động và rất phức tạp, đã phát sinh nhiều tiêu cực
liên quan đến chuyển tiền, thanh toán qua biên giới.
- Phát triển thị trường ngoại tệ trong nước là một giải pháp khả thi hỗ trợ
cho chính sách tỷ giá. NHNN cần nghiên cứu và áp dụng linh hoạt hơn nữa các
nghiệp vụ của thị trường ngoại hối.
- Cải cách hành chính, triển khai thực hiện luật doanh nghiệp, hiện đại hoá
hoạt động ngân hàng và thực hiện các cam kết quốc tế là yêu cầu tổng quát của
công tác quản lý ngoại hối nhưng mục tiêu cụ thể của nó lại là kiểm soát luồng
ngoại tệ vào và ra khỏi đất nước, dự báo diễn biến của cung, cầu ngoại tệ để đề
ra các giải pháp thích hợp nhằm đảm bảo nguồn vốn ngoại tệ cho đầu tư tăng
trưởng, điều hành tỷ giá linh hoạt, vừa khuyến khích xuất khẩu, vừa không gây
biến động lớn.
- Đổi mới và nâng cao năng lực của hệ thống thông tin. Trong công tác
quản lý ngoại hối bằng việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về ngoại hối, nối
mạng với các NHTM để nắm rõ tình trạng ngoại hối cuả từng NHTM mỗi ngày
nhằm đưa ra các giải pháp điều hành và những cảnh báo sớm liên quan đến quan
hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, qua đó tham mưu cho Chính phủ điều hành
tỷ giá và quản lý ngoại hối Nhà nước phù hợp.
3.2.4. Đổi mới cơ chế chính sách quản lý ngoại hối liên quan đến hoàn thiện,
phát triển và mở rộng thị trƣờng ngoại hối
Thị trường ngoại hối Việt nam đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Để thị trường ngoại hối được phát triển thì cần thực hiện một
số giải pháp sau:
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
85
- Hoàn thiện các văn bản pháp quy bảo đảm các hoạt động giao dịch
ngoạihối diễn ra ở thị trường là hợp pháp và có biện pháp phòng ngừa, ngăn
chăn đầu cơ, lũng đoạn gây rối loạn thị trường.
- Đổi mới chính sách tỷ giá theo hướng tỷ giá hình thành một cách khách
quan trên cơ sở cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường, có sự điều tiết của
Nhà nước.
- Phát triển mạnh mẽ thị trường ngoại tệ liên ngân hàng song song với
việc hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đây là thị trường
cơ bản, nòng cốt cho sự phát triển thị trường ngoại hối. Mở rộng và thông
thoáng phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hang trên cơ sở hiện đại hoá và
công nghệ hoá các giao dịch.
- Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối. NHNN cần đủ
mạnh để có thể mua và bán ngoại tệ ra thị trường ngoại hối một cách bình
thường tạo ra một sự điều chỉnh, cân bằng cung cầu ngoại tệ, không để diễn ra
tình trạng đầu cơ hoặc lũng đoạn thị trường. Ngoài chức năng tổ chức và quản lý
thị trường ngoại hối, NHNN cần phải thực hiện tốt chức năng là người mua bán
cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đảm bảo cung cầu ngoại tệ
luôn cân bằng.
3.2.5. Đổi mới cơ chế chính sách quản lý ngoại hối liên quan đến hoàn thiện
chính sách tỷ giá
Với mục tiêu dài hạn là khả năng chuyển đổi hoàn toàn của VNĐ và một
tỷ giá thích hợp có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao,
khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài, thì trong thời gian tới:
- Nhà nước phải có lượng dự trữ ngoại tệ đủ mạnh, để can thiệp vào tỷ giá
khi cần thiết. Muốn vậy, NHNN phải đẩy mạnh mua ngoại tệ thông qua sử dụng
hợp lý công cuộc dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ; khuyến khích bán ngoại tệ lấy
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
86
tiền Việt Nam đồng gửi tiết kiệm với mức lãi suất cao hơn nếu chênh lệch lãi
suất Việt nam đồng và ngoại tệ bù đắp mức lạm phát và phá giá.
- Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá
- Xây dựng quy chế thông tin, thống kê, hệ thống hóa kịp thời số liệu
nguồn ngoại tệ ra, vào trong nước, đặc biệt là ngoại tệ tại các NHTM hàng ngày,
từ đó dự báo quan hệ cung cầu trên thị trường làm căn cứ xác định tỷ giá.
- Tổ chức hữu hiệu mạng lưới thu đổi ngoại tệ cho khách hàng ra vào Việt
Nam, trước hết là ở các sân bay, bến cảng, cửa khẩu, nhà ga, sau đến các thành
phố, thị xã, các trung tâm kinh doanh, dịch vụ tập trung ở các địa phương.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
87
KẾT LUẬN
Trong lĩnh vực hội nhập quốc tế, công tác quản lý ngoại hối được đánh
giá là lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều biến động. Lĩnh vực này đã thu hút sự chú
ý không chỉ của các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp trong nước mà còn là sự
quan tâm của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các Chính phủ nước ngoài có
quan hệ kinh tế với Việt Nam, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Có mối quan tâm này bởi chính sách quản lý ngoại hối bao gồm các chính sách
liên quan đến tỷ giá, lưu chuyển ngoại tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài…là những
yếu tố liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinhdoanh của doanh nghiệp và quyền lợi
của các ca nhân, đặc biệt là trong giai đoạn mở cửa, hội nhập, khi các mối quan
hệ với nước ngoài đã trở thành tất yếu.
Trong thời gian qua, quản lý ngoại hối đã góp phần không nhỏ vào những
than công trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, góp phần
ổn định tiền tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại cũng như
tăng cường các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Quản lý ngoại hối của Việt Nam đã thay đổi, hoàn thiện theo định hướng
chung của nền kinh tế, bắt nhịp với các chính sách quản lý nhà nước khác và tỏ
ra phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam và quốc tế. Tuy nhiên, do có
những hạn chế xuất phát từ bản thân nền kinh tế và những thay đổi của hoàn
cảnh khách quan trong quá trình hội nhập quốc tế nên trong lĩnh vực này còn
nhiều hạn chế. Những yếu kém này chỉ có thể khắc phục bằng nỗ lực mang tính
đồng bộ trong việc đưa ra giải pháp. Các giải pháp này vừa tác động lên nhau,
vừa tạo động lực cho nhau phát triển. vì vậy, trong hoạt động quản lý vĩ mô, các
nhà quản lý cần quan tâm mối tương tác qua lại giữa các giải pháp nhằm phối
hợp hài hoà và thiết lập từng bước đi thích hợp trong công tác quản lý ngoại hối.
Với ba chương, khoá luận về ―Quản lý ngoại hối trong bối cảnh hội nhập‖
đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
88
Thứ nhất, khoá luận đã trình bày một cách có hệ thống những lý luận cơ
bản về quản lý ngoại hối: tỷ giá, thị trường ngoại hối, mục tiêu quản lý ngoại
hối, chính sách quản lý ngoại hối, công cụ quản lý ngoại hối. Qua đó khẳng định
quản lý ngoại hối là một bộ phận quan trong hoạt động quản lý vĩ mô nền kinh
tế và có tác động đến tiến trình phát triển theo hướng hội nhập của quốc gia.
Thứ hai, trên cơ sở quan sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý ngoại
hối của Chính phủ trong những năm vừa qua, khoá luận đã khái quát đựoc
những thành tựu và hạn chế chủ yếu trong quản lý ngoại hối, từ đó khẳng định
sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối của Việt Nam.
Thứ ba, dựa vào những lý luận cơ bản về quản lý ngoại hối, thực trạng
quản lý ngoại hối của Việt Nam, khoá luận đã đưa ra các giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối trong bối cảnh hội nhập sâu rộng. Các giải
pháp vừa tác động lên nhau, vừa tạo điều kiện cho nhau phát triển. Vì vậy, các
nhà kinh tế cần quan tâm mối tương tác qua lại giữa các giải pháp nhằm vận
dụng một cách hài hoà trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Tiến (2000), Tài chính quốc tế trong nền kinh tế mở, NXB
Thốn kê, Hà Nội
2. Nguyễn Văn Tiến (2004), Thị trƣờng ngoại hối Việt Nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Nhung (2004), Cơ chế quản lý ngoại hối hƣớng tới hội nhập
kinh tế quốc tế, Vụ quản lý ngoại hối
4. Trần Hoàng Ngân (2000), Tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ đến
kinh tế thế giới và Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 1+2
5. Phạm Văn Bốn (2000), Một số biện pháp điều hành tỷ giá và thị trƣờng
ngoại hối ở nƣớc ta hiên nay, Tổng cục đầu tư phát triển-Bộ tài chính
6. Cục đầu tư nước ngoài (2007), Tình hình đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài từ
1989-2007, Bộ kế hoạch và đầu tư.
7. Vietnamnet.com.vn (09/05/2008), ĐTNN hậu WTO: Tăng tốc nhƣng vẫn
còn lãng phí vốn
8. Www.tpic.danang.gov.vn, Cam kết của Việt Nam về lĩnh vực ngân hàng
9. PTS. Nguyễn Minh Phong (2000), Từ cuộc khủng hoản tài chính - tiền tệ
Châu Á: Những ngộ nhận cần tránh trong lĩnh vực tỷ giá, Tạp chí ngân hàng
10. TS. Nguyễn Đắc Hưng (2003), Nhìn lại công tác quản lý ngoại hối và diễn
biến thị trƣờng ngoại tệ trong năm 2002, Tạp chí ngân hàng
11. Nguyễn Thị Thơm (2003), Một số ý kiến về quản lý ngoại hối của Ngân
hàng nhà nƣớc Việt Nam, Tạp chí ngân hàng
12. Hoàng Thị Kim Thanh (2002), Chính sách quản lý ngoại hối đối với đầu
tửtực tiếp nƣớc ngoài của Malaysia, Tạp chí ngân hang
13. Phạm Văn Thắng (2002), Bàn thêm về giải pháp huy động ngoại tệ của
ngân hàng, Tạp chí ngân hang
14. Vũ Quốc Lý (2004), Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam, Bộ kế hoạch và đầu tư
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
90
15. Ban chấp hành TW Đảng (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc làn
thứ X, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Uỷ ban thường vụ quốc hội, Pháp lênh ngoại hối năm 2005.
17. Chính phủ (2006), Nghị định Số 160/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh Ngoại hối.
18. Ngân hàng nhà nước (2003), Đề án chiến lƣợc hội nhập kinh tế quốc tế
của ngành ngân hàng Việt Nam.
19. Ngân hàng nhà nước (2004), Thông tƣ số 03/2004/TT-NHNN hƣớng dẫn
về quản lý ngoại hối đối với việc góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài.
20. Chính phủ (2001), Nghị định 81/2001/NĐ-CP về việc cho phép Việt Kiều
trở về nƣớc mua nhà, đất.
21. Ngân hàng nhà nước (2005), Quyết định số 921/2005/QĐ-NHNN sửa đổi,
bổ xung quy đinh về mang ngoại tệ tiền mặt khi xuất cảnh.
22. Ngân hàng nhà nước (2005), Nghị định 134/2005/NĐ- CP về quản lý vay
và trả nợ nƣớc ngoài.
23. Ngân hàng nhà nước (2004), Quyết định 648/2004/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quyết định 679/2002/QĐ-NHNN.
24. Ngân hàng nhà nước (2008), Quyết định 504/QĐ-NHNN về mở rộng biên
độ tỷ giá trong các giao dịch ngoại hối.
25. Ngân hàng nhà nước (2004), Quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN về giao
dịch hối đoái của các TCTD.
26. www.dddn.com.vn
27. www.sbv.gov.vn
28. www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn
29. www.vneconomy.com.vn.
30. www.mof.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4124_3746.pdf