Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể lại, để có được số lượng tác phẩm đồ sộ hơn
200 tác phẩm đủ các thể loại từ tiểu thuyết đến truyện ngắn, bút ký, tự truyện,
hồi ký Tô Hoài đã làm việc không biết mệt mỏi ở mọi lúc, mọi nơi. Ông kể
rằng, Tô Hoài tranh thủ cả những lúc ngồi họp để viết văn. “Tôi có may mắn
được sống với Tô Hoài suốt nửa tháng ở Nhà sáng tác Đại Lải, Vĩnh Phúc. Lúc
đầu, tôi thật ngạc nhiên khi ông đi ngủ rất sớm, từ 8 giờ tối. Nhưng 3 giờ sáng
hôm sau đã thấy ông lặng lẽ dậy, thắp đèn đọc và viết. Sau này, khi đã tuổi cao,
ông vẫn luôn cố gắng vượt qua sự mệt mỏi của tuổi già. Ông là nhà văn không
có tuổi già. Vì thế ông đã để lại số cho đời số lượng tác phẩm gấp đôi số tuổi thọ
mình"- nhà thơ Trần Đăng Khoa tâm sự .
Theo nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tô Hoài còn là “nhà Hà Nội học” với kiến
thức uyên bác, tỉ mỉ về Hà Nội. “Ông nhớ rất rõ từng tên phố, từng ngách nhỏ
của Hà Nội. Ông nhớ ngày trước Hà Nội có bao nhiêu ngôi nhà cổ, tượng đài và
bây giờ mất bao nhiêu, còn bao nhiêu. Ông nhớ rõ Hồ Tây ngày trước rộng bao
nhiêu, bây giờ thu hẹp còn bao nhiêu. Hà Nội với ông không chỉ là nơi sinh ra
và lớn lên mà còn là tình yêu và sự am hiểu đến tường tận” - nhà thơ Trần Đăng Khoa nói.
100 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 2896 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân vật
tham gia câu chuyện. Từ đó, người đọc tiếp cận với tác phẩm trên nhiều phương
diện và hiểu được những ý nghĩa sâu xa nằm trong lớp câu chữ của truyện.
3.2.2.4. Ngôn ngữ ấn tượng
70
Đọc truyện ngắn của Tô Hoài, người đọc thực sự ấn tượng vì những đoạn
trần thuật sử dụng triệt để những câu văn ngắn. Câu không rườm rà về cấu trúc
ngữ pháp, ít dạng câu đặc biệt chủ yếu là câu đơn C-V hoặc câu có bộ phận song
song như một C-V1,V2,V3 hoặc C1,C2,C3 –V. Câu văn ngắn như vậy mô tả rõ
mức độ, cấp độ, tính chất nhanh chậm gấp gáp của thoạt động hay sự vật. Giáo
sư Hà Minh Đức cho rằng: “Truyện ngắn của Tô Hoài có phong vị riêng, ông
viết không dài, câu chuyện thu gọn lại trên năm bảy trang giấy. Ở đây hiện ra
vài sự việc và tâm trạng của một số người” [1, tr 20]. Những câu văn ngắn
thường được sử dụng để miêu tả những tình huống căng thẳng gấp gáp. Điều
này được thể hiện rõ qua Mùa ăn chơi: “Võ sĩ Nành trèo lên sân khấu. Võ sĩ
Nành cởi trần, mặc quần nâu lửng. Đứng giữa rạp, võ sĩ thóp bụng lại khoạng
hai chân, xuống tấn trung bình đánh huỵch một cái. Hai tay cong lên, lấy gân.
Rồi mắt, rồi mũi, rồi má, trợn trừng trợn trạc, võ sĩ loay hoay đấm đá, gạ đỡ linh
tinh ra bốn phía. Tiếng trống thúc đều đều... Một lúc, võ sĩ Nành khom lưng,
xuống chảo mã vòng khuỷu một tay, một tay xòe trước mật, yêu cái cằm, trong
mắt nhìn ra mọi người. A, bát tổ, hết bài, trẻ con vừa cười vừa kêu. Ngoài kia
tiếng vỗ tay rầm lên như sấm động.” [1, tr 229]. Nhờ các câu văn ngắn, người
đọc có thể hình dung được sự quyết liệt của trận đấu võ và tư thế khỏe khoắn,
những động tác nhanh mạnh chính xác của các võ sĩ.
Không chỉ những sự việc đến nhanh, đột ngột, Tô Hoài còn sử dụng
những câu văn ngắn trong cả tình huống chờ đợi, nhớ nhung, ngượng nghịu.
Những cảnh huống mà đáng lẽ câu văn dài sẽ chuyển tải tốt hơn. Trong tác
phẩm Lụa, nhân vật Lụa và Nguyên yêu nhau tha thiết nhưng học buộc phải chia
tay nhau. Những giây phút ấy, hai người chẳng biết nói câu nào. Họ ngẩn ngơ
nhìn nhau rồi nhìn xung quanh: “Hai người ngồi chéo khoeo, luồn hai tay dưới
đầu gối, mắt đờ đẫn, nhìn bâng quơ. Lụa bứt mấy ngọn cỏ. Chừng như đã lâu,
đôi bên chưa nói với nhau một câu nào. Sự im lặng ngẩn ngơ trên những nét mặt
băn khoăn. Lại có tiếng lạt xạt nhỏ của con chim ri dó dáy trong tụm lúa sau
gáy” [1, tr 161]. Miêu tả nỗi buồn, sự đau khổ, các nhà văn thường sử dụng
những câu văn dài để diễn tả tâm trạng day dứt khôn nguôi. Trong Một người đi
71
xa về, nỗi đau buồn của anh Tại khi người yêu đi lấy người khác cũng được diễn
tả bằng những câu văn ngắn gọn: “Anh Tại không khóc. Anh lại cười. Anh cười
nhạt, gằn lại. Trước ngày cưới Pha, mấy lần anh hẹn Pha đi nói chuyện mà Pha
không đi. Pha nhất định không dính líu rắc rối với Tại nữa. Những người con
gái, hay quên quá. Đầu tiên, Tại lây sự bị quên đó là điều rất tủi cực và đáng để
tâm thù lắm... Anh không định đánh què. Mà anh định cắt lưỡi nó đi. Phải cầm
một con dao bầu thực nhọn và thực sắc, đưa ngay vào cuống họng nó. Anh nghĩ
thế ra lối hăng lắm...” [1, tr 208]. Hoặc trong Chớp bể mưa nguồn, đoạn miêu tả
bà Móm buồn vì anh con trai bỏ nhà ra đi: “Bà lão Móm cũng chỉ nghe làng
nước đồn đại mơ hồ như thế. Bây giờ thì bà lão ở một mình. Một mình trong cái
nhà rộng thênh thênh. Có những buổi mùa hè từng mảng mây trăng đùn lên ở
chân trời tây. Không có mưa. Có ỳ ầm tiếng sấm tận đâu đâu. À đấy là chớp bể,
đấy là mưa nguồn...Bà Móm ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!” [ 1, tr 175]. Trong
tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao, Lão Hạc suy tính về việc bán con
Vàng và kể lại chuyện đó với ông giáo: “Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật.
Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả
lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được
vườn dất để làm ăn ở làng này: tôi là người nhiều chứ nghĩa, nhiều lí luận, người
ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão; lão
viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con
lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để
tôi trong coi cho nó... Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc
nào, con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho
hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm
đồng bạc vừa bán cho là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi
đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ
hàng xóm cả...” [36, tr 45]. Cả dòng tâm sự của bà Móm đau khổ vì anh con trai
ra đi, Tô Hoài dùng đến 9 câu, 7 dòng còn sự suy tính của lão Hạc xung quanh
việc bán con vàng và gửi tiền ma chay cho ông giáo trước khi chết được nhà văn
Nam Cao viết chỉ trong có 2 câu mà lên tới 12 dòng. So sánh về cách sử dụng
câu văn của Nguyên Hồng với Tô Hoài, ta càng thấy sự khác biệt giữa hai nhà
72
văn này. Câu văn của Nguyên Hồng chủ yếu là dạng câu phức, khung câu mở
rộng hết cỡ, thành phần câu không phải là một từ mà thường các cụm từ giống
như gié lúa “nhánh mẹ đẻ ra nhánh con”, như “cây trái xum xuê”, “như một
đoàn tàu chợ”. Ví dụ câu văn trích từ truyện ngắn Tàu đêm trong tập Địa ngục
như sau: “Vùng quê tôi chỉ trông vào cái khung cửi lên lúc sợi khan đã đói rồi
sau đây vừa không mua được sợi, vừa làm không thể nào kịp với giá thóc gạo thì
đói quá, đói đến nỗi không nhà nào không mấy người chết và ai còn sồng chỉ
thấy có hai lỗ mắt, đói bán hết mọi cái, trong làng chỉ còn nhà hoang với người
nằm hấp hối, rau má, rau dệu cũng không còn lại mà ăn, lắm người sau phải dỡ
cả nhà bán mà cũng chẳng ai mua, lắm người mấy hôm cố lê đi chặt củi nào gánh
được ra đến chợ bán đâu được năm hào được lẻ ngô sống ăn và uống nước đoạn thì
chết ngay ở giữa chợ; lắm người bòn vét được tất cả bát, đĩa, ấm chén đem bán
được đồng bạc rồi cứ cầm đồng bạc ấy ngẩn ngơ cho đến chiều đoạn lả đi ở cổng
làng” [ 3, tr 68]. Văn Nguyên Hồng là hiện thực bề bộn, lấm láp ùa vào từ ngữ, kết
thành nhánh, “lúc lủi” cho các thành phần câu. Một câu văn có 9 dòng.
Như vậy, những câu văn ngắn gây ấn tượng cũng là đặc điểm riêng biệt
trong ngôn ngữ của Tô Hoài. Nó giúp nhà văn miêu tả liên tục các sự việc, hành
động, cử chỉ của nhân vật. Mặc dù cách sử dụng những câu văn ngắn này ít
nhiều cũng có hạn chế khi miêu tả nội tâm của nhân vật, nhưng không thể phủ
nhận giá trị rất lớn của nó đối với các tác phẩm của ông, tạo nên một hiệu ứng
mạnh mẽ đối với tất cả bạn độc.
3.2. Giọng điệu trần thuật
3.2.1. Cách hiểu về giọng điệu trần thuật
Giọng điệu là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học, góp phần tạo
nên diện mạo riêng biệt trong sáng tác của nhà văn. Nếu như trong đời sống xã
hội giọng điệu chính là lời nói, giọng nói của mỗi người biểu thị thái độ của cá
nhân mình trước hiện thực cuộc sống, trước con người và cảnh vật mà mình đối
thoại, quan sát thì trong văn học, giọng điệu chính là sự bộc lộ “thái độ, tình
cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả,
thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình
cảm, cách cảm thụ xa, gần, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
73
biếm” [50, tr 134]. Giọng điệu tùy thuộc vào thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm
mĩ... của mỗi người. “Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra
một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong một hệ thống nhân vật”
[50, tr 113]. Trong một tác phẩm có thể tồn tại những giọng điệu, những sắc
điệu khác nhau song bao giờ tác phẩm cũng có một giọng điệu chủ đạo nào đó.
Trong tác phẩm văn xuôi, giọng điệu chủ yếu thể hiện qua lời người kể chuyện
và lời của nhân vật.
3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945
3.2.2.1. Giọng điệu khách quan
Truyện ngắn của Tô Hoài phần lớn đều thể hiện giọng điệu khách quan.
Chủ yếu tác giả chọn ngôi kể thứ ba, kể khách quan lại chuyện người ở quê
hương mình như một người đứng ngoài cuộc. Kể về những thói xấu, cái nghèo,
cái đói của làng quê, Tô Hoài kìm nén cảm xúc, kể như mạch đập của cuộc sống
đang diễn ra quanh mình.
Trong Lụa, chuyện tình của Nguyên và Lụa tha thiết như vậy nhưng cuối
cùng vẫn họ đành phải chia tay nhau. Phần cuối truyện tác giả buông một câu
lạnh lùng: “Tháng chạp năm ấy, cô Lụa lấy chồng người bên làng Phú Gia. Sang
tháng hai, Nguyên cũng lấy vợ, người xóm dưới, cùng làng. Không ai nghĩ đến
chuyện đi đâu. Vào Sài Gòng đương xa lăng lắc. Đi tu phải cạo đầu trọc mà
cũng khổ lắm. Những lời quả quyết kia cả hai người cũng đã quên.” [ 1, tr 162].
Tô Hoài không hề miêu tả tâm lí của họ. Liệu Nguyên và Lụa có đau khổ
không? Họ có băn khoăn gì khi phải quyết định như vậy. Tô Hoài hoàn toàn chỉ
kể lại sự việc. Tự bản thân những hành động của họ đã tố cáo họ. Tình yêu ấy
cũng chẳng có gì là sâu sắc. Họ cũng nhanh chóng quên đi để lại tiếp tục hoà
nhịp cuộc sống. Khi miêu tả về cái chết, các tác giả thường gây cho bạn đọc một
nỗi ám ảnh, ghê rợn, hoặc sự đau thương trong lòng. Nhưng Tô Hoài vẫn kể nhẩn
nha, lạnh lùng, kể chi tiết, tỉ mỉ. Đêm gác rừng kể lại câu chuyện anh Muh, một
người gác rừng chứng kiến ba kẻ đánh bạc trên sông đánh giết lẫn nhau: “Một bàn
tay chắn chắc, nổi cuồn cuộn, vòng chặt lấy một chét cổ. Ở cái cổ, gân cũng dồn
lên. Hai cái mắt nổi lục lạc. Hai mắt của gã bóp cổ cũng lồi ra. Ánh đèn quắc vào,
74
có lẽ ghê rợn như một cảnh hành hình dưới địa ngụ. Đến hắn nọ mới giơ một tay
lên. Trong bàn tay ấy có một hào bạc giấy. Người này giựt vội lấy, và nới lỏng
bàn tay bóp cổ ra. Gã nọ lồm cồm bò dậy. Bất thình lình gã đấm cho kẻ địch một
quả vào mặt. Nhưng gã này tránh được. Trong khi ấy, hắn đạp cho gã kia một
đạp, bắn tọt ngay xuống sông. Một tiếng ùm vang lên. Sóng đánh óp ép vào mạn
thuyền, rồi im hẳn. Nhưng nghe có tiếng quào quào vào gỗ, như một người đương
níu, trèo lên” [1, tr 188]. Ngay cả Muh là người chứng kiến cảnh tượng rùng rợn
ấy. Tác giả không hề miêu tả tâm lí của Muh, nỗi sợ hãi trong lòng hay tiếc
thương kẻ xấu số. Với Muh chỉ có thắc mắc liệu ngày mai cái xác có nổi lên hay
không, hay lại chuyện ma rừng hiện lên đánh bạc nhưng chả lẽ ma rừng lai tranh
nhau một hào bạc giấy. Cũng như vậy, trong Khách nợ, tác giả miêu tả cái chết
vì chó dại của lái Khế: “Lúc mụ về đến nhà thì lão lái Khế đã không còn là lão
lái Khế. Lão mê rồi. Quần áo, lão xé toang, không cò dính một mảnh vải vào
người. Lão không biết rét. Mụ vợ lão đi vào, lão chồm ngay lên. Mụ chạy tụt ra.
Vồ trượt vợ, lão ta ngã lăn như một quả dừa rụng” [1, tr 280]. Tâm trạng vợ con
lái Khế như thế nào. Hầu như tác giả không hề đề cập đến. Trước mắt người
đọc, hình ảnh một lái Khế đang điên cuồng vì bệnh dại. Câu chuyện này khiến ta
chợt nghĩ đến Lão Hạc của nhà văn Nam Cao, tác giả cũng miêu tả cái chết của
lão Hạc vì bả chó: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo
xộc xệch, hai mắt long sòng sóc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc
chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè
lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết” [36, tr 77]. Cả Tô Hoài
và Nam Cao đều miêu tả hai cái chết thật dữ dội. Nhưng kết thúc của bi kịch ấy
lại rất khác nhau. Trong Khách nợ, Tô Hoài viết: “Đám ma lái khế, bốn người
khiêng cái hòm ra tha ma sau làng. Theo sau quan tài, vợ lão khóc tỉ, thằng con
lếch thếch đi bên cạnh mẹ. Bố nó cao lớn thế mà nó lại gầy đét như chiếc que
tăm”. [1, tr 281]. Nam Cao lại viết: “Lão con Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà
nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến
khi trai lão trở về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái mà ông cụ thân
sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một
75
sào...” [1, tr 288]. Rõ ràng, so với Nam Cao trong đoạn truyện này, Tô Hoài kể
bằng giọng dửng dưng lạnh lùng hơn. Tuy vậy, một nỗi chua xót vẫn tự nhiên
dâng ngập trong lòng người đọc. Lái Khế hung hăng hốc hách là thế cuối cùng
cũng phải chết thảm, lão chết vợ con lão sẽ ra sao... Đời con lão chắc cũng
chẳng khá hơn gì đời lão.
Như vậy, Tô Hoài kể với giọng điệu khách quan vì ông không thiên về
miêu tả nội tâm cảm xúc của nhân vật, chỉ đặc tả những nét ngoại hình cử chỉ, hành
động của nhân vật để qua đó người đọc tự hình dung, tưởng tượng về nhân vật. Bên
cạnh đó, tác giả kìm nén những cảm xúc chủ quan kể lại câu chuyện như những gì
vốn xảy ra ở thực tế khách quan. Không chỉ viết văn khách quan, nghiêm túc, giọng
văn Tô Hoài còn thể hiện sự hài hước, dí dỏm trong các trang viết.
3.2.2.2. Giọng điệu hài hước, dí dỏm
Giọng điệu ở mỗi tác phẩm có sự khác nhau về sắc thái nhưng nhìn chung
Tô Hoài có chất giọng mang bản sắc riêng. Giọng khách quan, dí dỏm pha chút
mỉa mai tinh quái là chất giọng chủ đạo. Từ điểm nhìn khách quan, nhà văn mô
tả những sự việc, nhưng qua những dòng miêu tả nhận xét, nhà văn bộc lộ sự dí
dỏm của mình. Mở đầu truyện Chớp bể mưa nguồn dựng lại cảnh bà Móm đi tự
tử. Thực ra bà Móm giả bộ tự tử để dọa con trai và con dâu mình. Thông thường
khi người ta rơi vào tình cảnh phải đi tự tử là lúc họ rất tuyệt vọng bế tắc, làm
cách ấy để giải thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Vì lẽ ấy, họ thường làm việc này
một cách lặng lẽ không để ai hay biết. Nhưng ngược lại bà Móm lại cố tình làm
ầm lên để cả làng cả xóm biết việc bà đang đi tự tử. Vì vậy mà việc tự tử của bà
Móm thật hài hước. Chẳng biết có một điều gì bực dọc, bà Móm giận con trai và
nàng dâu. Không giận vừa vừa, mà lại giận quá. Thế là cơn tức bừng bừng lên.
Bà xắn hai mép váy, xăm xăm chạy ra ngoài ao giếng. Bà la vang cho bốn bên
hàng xóm và cho vợ chống thằng cả Mí biết rằng bà đương đi đầm đầu xuống ao
đây. Không có ai ra can bà. Vậy bà nhảy phóc xuống ao thực. Đánh ùm một cái.
Rồi bà bíu hai tay vào cái cọc cầu ao. Bà rúc đầu vào giữa bụi cây cúc tần mọc
lòa xòa xuống vệ nước. Mồm bà ngoác ra kêu thực to. Kêu không phải vì sặc
nước. Không phải để hắt hơi. Bà ngoảc ra kêu thực to. Kêu như có nhà ai cháy ở
76
trong xóm () Ai cũng tưởng bà lão chỉ kêu được có vài câu thì chối cổ, phải
lóm ngóp bò lên. Chẳng ngờ họng bà khoẻ quá. Bà lão vẫn kêu rầm. Mãi sau, có
người sốt ruột xuống kéo bà lão lên, đưa hộ về nhà. Bà lão liền lên ngay. Ở dưới
nước một lúc đã thấy chán. Hành động tự tử của bà Móm rất mau lẹ, nực cười:
bà xắn mép váy -> xăm xăm chạy ->nhảy phóc, ùm ->rúc đầu -> kêu to, kêu
rầm-> (có người kéo lên) lên ngay vì ở dưới nước thấy chán. Ngay cả việc lí
việc bà được cứu lên cũng thật buồn cười: bà kêu to quá, họng khoẻ quá nên ảnh
hưởng đến hàng xóm làm người ta sốt ruột đành kéo bà lên, còn bà được dịp là
leo lên ngay vì ở dưới thấy chán quá. Để châm biếm, tác giả đã nêu ra hàng loạt
những mâu thuẫn: tự tử >< tự lên ngay vì dưới ấy chán quá, tự tử thường âm
thầm >< họng khoẻ quá.
Tô Hoài còn lấy sự hài hước dí dỏm để chế giễu cuộc sống của một số
người đều đều buồn tẻ đến mức vô cảm giống như vợ chồng chuột (Truyện Gã
chuột bạch) chỉ suốt ngày quanh quẩn vớí ăn, ngủ đánh vòng, ngủ đứng. Tiếng
đánh vòng lóc cóc đều đặn giống tiếng guồng tơ quay. Chúng khá yêu nhau, yêu
nhau thần tình. Hai vợ chồng cùng đánh vòng, hai cái vòng quay tít, rộn lên
những tiếng đằm thắm. Gã chuột bạch có vẻ mơ mộng thường đứng ngẩn ngơ
trên nóc lồng. Chúng yêu nhau có vẻ đắm say như vậy nhưng vợ gã chết mà gã
dường như cũng chẳng biêt, chẳng mảy may động lòng. Cuối truyện, tác giả đã
chua thêm một câu “gã cũng không biết là mình goá vợ”, gã “thậm thọt, chạy đi
lại nhanh thoăn thoắt...”. Nguyễn Công Hoan dùng tiếng cười trào phúng để đả
kích phê phán những cái xấu xa, giả dối của xã hội phong kiến thực dân. Còn ở
Tô Hoài, tiếng cười nhẹ nhàng hóm hỉnh. Tiếng cười xuất phát từ những thói tật
hàng ngày. Tô Hoài lấy giọng điệu nhẹ nhàng dí dỏm khi thì mát mẻ, khi thì mỉa
mai làm phương tiện phê phán. Ông bà cả Luỹ [Bóng đè] tất tả lo lắng, tìm đủ
mọi cách để chữa chạy cho mợ Phán “con dâu ngoan” khỏi bị bóng đè, dùng cả
đến thuật Mường, thuật Mán, thuật Tầu, lại cả thuật Nhật Bản. Bà đích thân xem
bói, sắm sửa đồ vàng mã, mua chuối, mua hoa , đóng oản, thổi xôi, giếng gà
Chỉ yên được một dạo, mợ Phán lại mắc bệnh trở lại. Cuối cùng ông trưởng Lũy
phải đích thân kê chõng ngủ ngay cảnh cửa phòng mợ thì đêm đến không thấy
tiếng rền rĩ nữa. Khỏi bệnh, vậy mà mợ Phán lại thở dài não nuột “Mợ Phán
77
buồn gì thế? Mợ khỏi bóng đè rồi kia mà...Người kể nhẹ nhàng kín đáo chỉ
buông ra một câu bâng quơ, tưởng như vô tình nhưng nó lại nặng như một lời
buộc tội, như một sự thừa nhận hành động ngoại tình bấy lâu nay của nhân vật
mợ. Trước những mặt trái của cuộc sống đời thường, Tô Hoài thể hiện cái nhìn
tinh quái giầu chất nhân văn, một giọng điệu dí dỏm nhưng có cái gì xót xa. Nhà
văn không thể làm ngơ trước những thói tật, hủ tục của người dân quê: tục tảo
hôn, tục đòi nợ, vợ chồng đánh chửi lẫn nhau. Chuyện hôn nhân là một chuyện
hệ trọng cả đời. Nhưng dường như với cái Ngói, và cu Phúc còn quá non nớt để
hiểu rõ điều đó [Vợ chồng trẻ con]. Cái Ngói mười hai tuổi, cu Phúc mười tuổi,
người ta so hai tuổi hợp thế là người ta hỏi cái Ngói làm vợ cho thằng cu Phúc.
Đám cưới, cô dâu nào cũng vừa vui vừa buồn nhưng không đến mức sợ hãi,
khóc như cái Ngói, “nó khóc um lên. Nó gọi bà hương Cải ầm ỹ. Rồi nói chun
lại, khiến cho mấy cô kia phải hai tay. Làm như người ta doạ trẻ sắp đem giết
thịt nó”. Tiếng khóc ấy không phải của một người trưởng thành, khóc ngậm ngùi
từ nay xa cha mẹ, bứơc chân vào nhà chồng, mọi thứ đều xa lạ. Cái Ngói khóc
“um lên” là tiếng khóc của một đứa trẻ khi không bằng lòng hay ấm ức vì một
việc gì đó. Vì vậy, lòng Ngói nhanh chóng nguôi ngoai khi ngày đầu đám bạn
của Ngói là Ngây, Bí, Đào đã đến ngủ cùng, chơi tam cúc. Khác với cái Ngói, cu
Phúc còn ngây thơ, hồn nhiên hơn. Nó còn nằm trong đống rơm khi mọi người
tất tả chuẩn bị cưới. Đến khi đón dâu, anh chàng còn quên cả giầy. Với cu Phúc
“chuyện lấy vợ” dường như là xa lạ. Mọi người cứ làm đám cưới còn cu Phúc
“có để ý đâu đến điều vặt ấy! Cứ tu rượu tì tì. Mắt cu Phúc hoa sao lên, rồi lại
rúc đầu vào đống rơm. Nó cù nhau với mấy con ranh khác.”
Giọng điệu hài hước châm biếm có lúc bật lên qua các từ ngữ, qua cách
gọi tên, hình ảnh, lời trữ tình ngoại đề, nhưng có khi ẩn trong nhịp câu văn, trong
lời trần thuật khách quan. Cách gọi các con vật như chuột là “nàng” [Truyện gã
chuột bạch], gà trống ri là “chàng đa tình”, gà mái là “chị ả nõn nường” [Con gà
trống ri], gọi mèo là “gã tinh quái” cách gọi như thế tạo ra giọng kể hài hước,
các con vật cũng có đặc tính của con người: đỏng đảnh, điệu đà, đa tình, tinh quái.
Cái cười của Tô Hoài là cái cười thâm trầm, sâu sắc. Nó thể hiện con mắt tinh nhạy
và sự gắn bó tha thiết với cuộc đời của ngòi bút Tô Hoài.
78
3.2.2.3. Giọng điệu suồng sã, tự nhiên
Bên cạnh giọng điệu hóm hỉnh pha chút buồn, một giọng điệu nữa cũng
khá nổi bật trong các truyện ngắn của ông đó là giọng điệu suồng sã tự nhiên.
Chất suồng sã tự nhiên được thể hiện qua cách gọi nhân vật và đặc biệt qua đối
thoại. Tô Hoài đặt cho nhân vật những cái tên rất bình dị: anh Duyện, anh Hẹn,
anh Toại, anh Hối, anh Lấm, anh Cuông, bà Móm, bà Múi, ông Chỉnh, ông Luỹ,
tên các cô gái có phần thơ mộng hơn cô Mì, cô Mị, cô Mây Cách gọi nhân
vật cũng rất suồng sã: anh cu, anh chàng, gã, ông lão, bà lão, lão, bà, ả, chị
chàng Ngay những cuộc đối thoại, nội dung cũng là những việc bình thường.
Đây là cuộc trò chuyện trước ngày hội võ.
“- Hôm nào nhỉ?
- Mai.
- Nhớ rủ tớ nhé.
Đến đàn bà, con gái cũng nào nức:
- Mai chị rủ em đi xem đấu võ nhé!
( Những tình thái từ nhé, nhỉ gợi sắc thái thân mật trong cuộc nói chuyện.)
Những cuộc cãi lộn hàng ngày của các đôi vợ chồng cũng nhẹ nhàng bước
vào trang truyện của Tô Hoài.
Người chồng hỏi:
- Mẹ mày làm gì thế?
- Tìm cái chai.
- Chai nào?
- Chai đựng dầu chứ còn chai nào nữa!
...
- Tưởng mẹ mày mang chai đi mua dầu?
...
- Ai đi mua dầu. Thôi chết tôi rồi! Cái chai đâu?
....
- Tưởng nhà ta có hai cái chai.
79
- Bán một cái hôm nọ để mua thuốc cao cho thằng Bang rồi không. Còn
cái chai nữa ở nhà đâu?
...
- Thế thì tớ không biết. Lúc nãy tớ bán nốt cái chai ấy rồi. Tưởng nhà có
hai cái thì đằng ấy đem một đi mua dầu. Ai biết đâu. Tớ bán cho thằng đồng nát
được hai xu rưỡi. Một chinh đem mua kẹo chia cả nhà đấy.
...
- Ối giời đất ơi! Hại tôi rồi! Làm hại tôi rồi. Có mỗi một cái để đựng dầu
mà cũng bán tào bán huyệt của tôi đi.
...
- Cái gì mà nói dai thế. Người đâu có người...
...
- Ối giời ôi! Người ta làm hại tôi, người ta cấm đoán tôi...
- Bố mày, ông mày cấm đoán gì mày
Xưng hô của nhân vật trong hội thoại cũng hết sức dân giã như mẹ mày, tớ, bố
mày, ông mày
Ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài là ngôn ngữ xuất phát từ đời sống
quần chúng. Tô Hoài quan niệm đó là kho của cải vô giá và ông đã biết cách
chọn lựa, nâng cao và nghệ thuật hóa trong các sáng tác của mình để tăng thêm
giá trị của nó. Ông khẳng định: “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống
những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn
chương của mình mà có”“Câu nói là bộ mặt của ý. Ý không bao giờ lặp lại,
cũng như cuộc sống không bao giờ trở lại giống nhau như đúc thì lời văn cũng
phải thế”(Sổ tay viết văn).Vì Tô Hoài quan tâm đến những chuyện đời thường,
mối quan hệ tình cảm gia đình, làng xóm, bạn bè, trai gái với một cảm quan hiện
thực. Chính vì vậy, ứng xử giữa các nhân vật rất gần gũi như chính trong cuộc
sống đời thường. Giọng điệu suồng sã tự nhiên đã làm cho nhân vật sống động
hơn. Họ như đang sống, đang bước ra từ trang sách để trò chuyện với bạn đọc.
3.2.2.4. Giọng điệu trữ tình
80
Tô Hoài vừa hóm hỉnh, vừa lạnh lùng chỉ ra những thói xấu, những tính
cách hẹp hòi, những hình, những dạng của đời, có chê trách. Nhưng đằng sau đó
là một thái độ xót xa, thương cảm. Xót xa vì họ bị cuộc sống khổ cực làm mất đi
bản chất lương thiện, những tình ý sâu kín rụt rè đáng yêu cũng bị chìm hẳn vào
những lo toan, những tính toán chi li, những vụ lợi nhỏ nhặt.
Tiếng khóc vỡ oà của bà Móm ở cuối truyện Chớp bể mưa nguồn khiến
người đọc hiểu hơn về nỗi lòng của bà. Bà không phải là người nanh ác. Bà
cũng muốn cho con có hạnh phúc. Bà thương con nhưng tình thương này bị
những cái vụn vặt đời thường che lấp mất. Bà thật sự buồn khổ, cô đơn khi anh
con trai bỏ bà ra đi. “Chao ôi! Chớp bể mưa nguồn. Chắc ở bên Sài Gòn đương
mưa to lắm. Bà Móm ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!”. Đọc Lá thư tình đầu
tiên, người đọc cảm thấy dư âm một cái gì đó thiết tha luyến tiếc lắng đọng
trong tâm hồn, thương cho anh Cuông chân thật với tình yêu đơn phương trong
sáng và cao đẹp. Câu chuyện khiến người đọc lại nhớ đến tình Trương Chi.
Khác với Trương Chi, ôm những tình cảm tuyệt vọng trong lòng xuống tuyền
đài vẫn chưa tan thì anh Cuông nhờ có tình yêu anh sống đẹp hơn, tốt hơn và giữ
mãi trong mình những tình cảm với cô Mì. Tô Hoài xót xa cho những kiếp
người nghèo khổ, những mảnh đời bất hạnh. Tô Hoài ít nói về cái vui, niềm
sung sướng hạnh phúc. Truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám của Tô Hoài,
có ít nhiều ám ảnh về cái chết. Cái gái đã chết vì rắn cắn [Nhà nghèo], kẻ đánh
bạc xấu số bị dìm chết dưới sông [Một đêm gác rừng], Lái khế vốn to béo hung
hăng nhưng cuối cùng bị chết vì chó dại cắn [Khách nợ], vợ gã chuột bạch đã bị
chết vì nghẹn [Truyện gã chuột bạch]và đặc biệt cả một đàn gà vịt cũng bị chết
gần hết khi một trận dịch tràn tới [Một cuộc bể dâu]. Những xác gà, xác vịt nằm
chỏng chơ trong chuồng, cả một đàn gà con cũng rơi vào tình cảnh như vậy.
“Cửa chuồng đã mở, chỉ thấy có chị gà gái mẹ dẫn bốn con nhỏ lủi thủi ra.
Nhòm vào trong: năm chú gà con kia đã nằm mỗi chú một xó chết còng queo từ
bao giờ. Và chỉ có từ sáng tới buổi trưa, cả bốn con gà còn lại này cũng mỗi con
nằm chết rụi ở một góc vườn”. Ngay gà chọi, một tay hảo hán giang hồ được ví
như người anh hùng Từ Hải cũng không thoát khỏi bi kịch ấy: “Thảm hại quá.
81
Ôi! Con gà chọi, ôi! con gà chọi anh hùng, con gà chọi anh hùng chỉ còn đứng
mở mắt thao láo một mắt ra nhìn, mà ngẫm nghỉ về cái chết của mình sắp đến”.
Tô Hoài cũng hay nói về sự tan vỡ trong tình yêu: Anh Hẹn với cô Mây
[Vàng phai], anh Tại với cô Pha [Một người đi xa về], anh Nguyên với cô Lụa
[Lụa], đôi trai gái [Ông trăng không biết nói], đôi trai gái [Một chuyến định đi xa].
Họ yêu nhau say đắm, thề non hẹn biển cuối cùng họ cũng tự dời bỏ nhau. Tình
yêu thoáng chốc bị tan vỡ đã gợi trong lòng người đọc một sự chua xót. Bức
tranh làng quê của Tô Hoài không căng thẳng dữ dội như trong truyện của Ngô
Tất Tố mà bình dị, lam lũ. Trong Lụa, ông viết: “Chiều tối hôm đó, trời đã xâm
xẩm. Không mưa không nắng mà cô Lụa cũng đội nón xùm xụp, đi sang xóm
Đình. Đã nhọ mặt người, đường cái vắng không có ai. Ngõ nhà ông phó An
nghe tiếng gọi ơi ới. Đàn chó nhâu nhâu chạy ra sủa. Cô Lụa theo người nhà ra
đánh chó, đi thẳng vào trong sân” [1, tr 159 ]. Tô Hoài không tô vẽ cho bức
tranh nông thôn thêm đẹp, không có ánh chiều bảng lảng, có đàn trâu thung
thăng trở về, có cánh chim chiều cô đơn bay trong cùng gió, có người lữ thứ trở
về. Ông viết theo nhịp điệu của đời sống. Cô Lụa sang nhà ông Phó An để trả lễ
trầu cau vì cô không đồng ý lấy cậu con trai ông. Lời văn trần thuật nhanh, gấp
gáp hơn theo bước chân cứng cỏi mạnh mẽ của cô Lụa. Làng quê sao mà vắng
vẻ, đượm buồn. Mới xâm xẩm mà con đường không có ai. Tiếng gọi ơi ới, tiếng
chó nhâu nhâu càng gợi ra không gian thanh vắng. Còn trong Mùa ăn chơi, ngay
cả mùa xuân tháng hai rộn ràng vui tươi với những ngày hội làng nhưng đâu đấy
vẫn có nét buồn. Làng Nghĩa Đô vào mùa xuân, sang đầu tháng hai có những
cây xoan gầy, thân mốc trắng, giơ lên những cẳng tay đen đủi, trơ trụi, đã trở
thành từng túm lá tơ. Giọng điệu buồn man mác được thể hiện qua những từ ngữ
giàu sức gợi cảm và câu cảm thán, câu đặc biệt: “Thảm hại quá. Ôi! Con gà
chọi, ôi!” [Một cuộc bể dâu], “Chao ôi! Chớp bể mưa nguồn. Chắc ở bên Sài
Gòn đương mưa to lắm. Bà Móm ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!” [ Chớp bể
mưa nguồn], “Đổi thay. Đổi thay. Thương ôi! Dưới gót năm tháng cái gì mà
không xê lệch đi. Hai bên má anh Tại đã có mờ mờ hai vết hõm. Khi anh nhếch
mép cười, để lộ ra hai chiếc răng vàng choé” [ Một người đi xa về], “Chao ôi! Ai
82
đo được lòng nỗi khổ của anh chàng Hẹn bây giờ. Khi cái việc tầy đình kia đến
tai thì anh ta choáng váng cả người” [ Vàng phai]
Giọng điệu trữ tình, buồn man mác được nén lại trong mỗi truyện ngắn Tô
Hoài. Nó xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, sự gắn bó tha thiết của ông với
cuộc đời. Tô Hoài nhận ra quanh đâu đây mình vẫn còn nhiều kiếp nghèo,
những con người khốn khó. Nó thể hiện lòng đồng cảm của nhà văn với cuộc
sống của người dân quê. Như vậy, ngôn ngữ trong các tác phẩm của Tô Hoài rất
đa dạng và đặc sắc. Ông sử dụng ngôn ngữ dân dã, ngôn ngữ đa thanh, ngôn ngữ
giàu tính tạo hình, và rất ấn tượng. Giọng điệu trong các tác phẩm của ông cũng
vô cùng phong phú, vừa khách quan, vừa hài hước dí dỏm, vừa suồng sã tự
nhiên nhưng cũng vừa trữ tình lãng mạn. Thông qua ngôn ngữ và giọng điệu, tác
giả phần nào thể hiện tâm tư tính cách của mình, đồng thời thể hiện quan điểm
của mình đối với các sự việc, sự kiện trong tác phẩm. Các truyện ngắn là những
mảnh nhỏ của cảnh đời, những ký họa chân dung con người. Truyện của Tô
Hoài đặc trưng là vì dù không sử dụng nhiều bút pháp nghệ thuật điển hình
trong văn học nhưng vẫn phong phú, hấp dẫn về nội dung, không hề bị lạc hậu
mà vẫn có sức hấp dẫn đặc trưng riêng của nó. Bởi lẽ, văn chương thì chỉ cần
đơn giản, trong sáng thì cũng đã đủ chinh phục lòng người. Với Tô Hoài, bao
giờ chúng ta cũng bắt gặp một loại văn chương hồn nhiên, tươi sáng, mộc mạc
và lấp lánh tình người, tình đời như thế. Tô Hoài đã làm được điều đặc biệt : kéo
người đọc đến với trang sách của mình.
83
PHẦN KẾT LUẬN
1. Truyện ngắn là một dòng chảy không thể thiếu của văn học. Có thể
thấy ngay từ trước Cách mạng năm 1945, cùng với sự vận động chung của nền
văn học nước nhà, thể loại truyện ngắn đã có những bước tiến đáng kể. Góp
phần tạo nên diện mạo mới cho thể loại truyện ngắn Việt Nam chúng ta không
thể không nhắc đến tên tuổi nhà văn Tô Hoài. Hơn 70 năm cầm bút, Tô Hoài đã
khẳng định ông là “một cây đại thụ bóng toả, một viên ngọc sáng giá của làng
văn học Việt. Nghiên cứu về thế giới nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài giai đoạn
trước năm 1945 trên một số phương diện: nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu
và tình huống truyện, thế giới ngôn ngữ và giọng điệu, chúng tôi nhận thấy
truyện ngắn Tô Hoài là cả một bộ “tiểu bách khoa về cuộc sống”. Ở đó tập hợp
đủ mọi nhân vật, mọi gương mặt, mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh và mọi tính cách.
Truyện ngắn Tô Hoài là thế giới thu nhỏ với hình ảnh của cá loài vật, của người
nông dân, của anh thợ thủ công và của cả những người tri thức. Truyện ngắn Tô
Hoài còn là những bài học quý giá đáng suy ngẫm trong cuộc sống, nói lên
những chân lí ở đời.
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài giai đoạn
trước năm 1945 rất đặc biệt. Nhân vật của ông là những con người bình dị, chủ
yếu sinh sống ở làng quê Nghĩa Đô. Họ là nông dân thợ thủ công, trí thức tiểu tư
sản và những con vật quen thuộc gắn bó với cụôc sống hàng ngày. Nhờ khiếu
quan sát, sự miêu tả tường tận tỉ mỉ ngoại hình, hành động, cử chỉ của nhân vật
và những chi tiết về phong tục cùng với hình ảnh so sánh độc đáo mà bức chân
dung những người dân quê ấy hiện lên thật sinh động với nhiều dáng vẻ, tính
cách, số phận khác nhau. Hiện lên trong tâm trí người đọc, một vùng quê nghèo
đói, tăm tối, những con người bình dị khốn với biết bao khát vọng, lo toan và cả
những thói tật đời thường. Qua đó, ta thấy được tài năng văn chương và tấm
lòng gắn bó sâu nặng với quê hương của nhà văn Tô Hoài.
3. Kết cấu và tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài rất đơn giản. Ông
không hấp dẫn người đọc bởi kết cấu và tình huống mà là biệt tài kể chuyện. Đa
số các tác phẩm của ông được kết cấu theo thời gian tuyến tính, cũng có kết cấu
đảo lộn trật tự theo dòng tâm lí của nhân vật nhưng không nhiều. Kết cấu đơn
84
giản thường diễn ra ba màn cảnh. Tô Hoài còn sử dụng những kết truyện bất ngờ
và phần trữ tình ngoại đề làm cho câu chuyện có nhiều giọng điệu, trở nên sâu
sắc hơn. Tình huống truyện của Tô Hoài đều là những tình huống đời thường
trong cuộc sống với những sự việc vụn vặt lẻ tẻ dường như chẳng có gì đáng kể
để nói, để viết. Nhưng tài năng của Tô Hoài ở chỗ làm cho những chuyện tưởng
chừng như không có gì ấy lại là có chuyện. Bức chân dung con người đời
thường hiện lên sinh động gợi cho người đọc suy nghĩ về cuộc sống của họ.
Những bài học nhân văn sau mỗi ứng xử của con người trong cuộc sống hàng
ngày. Tình yêu thương lẫn nhau vẫn là sợi dây gắn kết người dân nơi đây. Bên
cạnh đó, với tình huống chia li, dời bỏ làng quê, người đọc còn nhận ra sự thật
về cuộc đời nghèo đói và bất hạnh của người dân làng Nghĩa Đô những năm
1930-1945.
4. Có thể nói ngôn ngữ giọng điệu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước
năm 1945 có tính phức hợp. Đó là sự hòa trộn giữa ngôn ngữ giàu tính tạo tình,
tinh tế chuẩn xác với một ngôn ngữ bình dân nôm na dễ hiểu, giữa ngôn ngữ
người kể chuyện với ngôn ngữ độc thoại và đối thoại của nhân vật, sự hòa trộn
giữa các giọng điệu trữ tình buồn man mác với giọng điệu dí dỏm hài hước,
giọng điệu suồng sã tự nhiên với dửng dưng lạnh lùng. Tuy nhiên, nét nổi bật
trong ngôn ngữ, giọng điệu của Tô Hoài là ngôn ngữ dân giã, tự nhiên và giọng
điệu dí dỏm hài hước cùng với những câu văn ngắn gây ấn tượng. Ngôn ngữ Tô
Hoài phong phú, sống động tuôn chảy theo dòng thời gian, theo nhịp điệu cuộc
sống. Một thứ ngôn ngữ được chắt lọc tinh tế nhưng rất đời, rất tình.
5. Thế giới đang bước vào thời kì bùng nổ thông tin. Bước sang thế kỉ
mới, môi trường giải trí của con người càng đa dạng : sách báo, băng đĩa, nhạc
ngoại, trò chơi điện tử, internet, Mặc dù vậy, truyện ngắn của Tô hoài đã,
đang và hứa hẹn sẽ luôn là món ăn tinh thần bổ ích là lí thú cho bạn đọc. Như
William Blake từng nói: “Để trông thấy một thế giới trong một hạt cát”. Truyện
ngắn Tô Hoài đã chọn con đường làm một hạt cát để hình dung về thế giới.
Trong cái nhỏ bé nhất của vạn vật, thế giới vẫn hiện hữu. Và nếu chúng ta lặn
sâu được vào cuộc sống, chúng ta sẽ khám phá được toàn vẹn bản thể vũ trụ chỉ
trong một hạt cát mỏng. Tôi cho rằng người đọc truyện ngắn vẫn cứ mãi còn bởi
85
một nguyên nhân khác nữa. Nếu tinh thần của thời đại đang có ảnh hưởng đến
thị hiếu thì đấy có thể là dấu hiệu rằng chúng ta đang tiến dần đến việc lựa chọn
những hình thức nghệ thuật cô đọng hơn. Giống như những viên đa sinh tố, một
truyện ngắn hay có thể cung cấp cho độc giả cả nhận thức cũng như niềm vui
mãnh liệt không kém gì một cuốn tiểu thuyết nhưng lại mất ít thời gian “tiêu
hóa” hơn. Nhà thơ Tế Hanh đã có một nhận xét thật chính xác về bạn mình: “Có
những người như Picasso sinh ra để vẽ. Ở một mức độ nào đó, cũng có thể nói
Tô Hoài sinh ra để viết”. Chỉ riêng cách nuôi dưỡng sự trường vốn cho mình
trong nghiệp viết thôi, Tô Hoài đã trở thành một bậc thầy đáng ngưỡng mộ. Dĩ
nhiên, điều này không nằm ngoài tâm niệm của ông về thiên chức nghề nghiệp,
vốn khiến ông có thể viết không ngừng nghỉ mà không bị cạn kiệt trong tất cả
những hư vinh của một đời.
“Dao có mài mới sắc”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai, không ngừng học
hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo đó chính là điều làm nên bản lĩnh và tài
năng nghệ thuật của Tô Hoài. Một đời cần cù đi và viết như chưa lúc nào ngơi
nghỉ, nhà văn Tô Hoài, cây đại thụ cuối cùng của thế hệ nhà văn thành danh
trước Cách Mạng tháng 8 của Việt Nam đã từ giã cõi trần vào lúc 11 giờ 35 phút
ngày 0672014 tại Hà Nội - thành phố ông sinh ra, lớn lên và gắn bó hầu như
suốt cuộc đời mình. Sự ra đi của Tô Hoài là mất mát lớn của nền văn học và để
lại nỗi thương nhớ trong lòng độc giả. Tên tuổi và tác phẩm của ông sẽ sống mãi
trong lòng các thế hệ độc giả và tồn tại mãi mãi theo thời gian. Chúng ta sẽ còn
nhớ mãi nhà văn trong hình bóng “Dế mèn phiêu lưu ký”, ngay cả khi tác giả đã
hóa thân thành “Cát bụi chân ai”...
Vĩnh biệt ông – viên ngọc sáng của văn học dân tộc, người “sống vắt
mình suốt từ những thập niên đầu của thế kỷ XX cho đến tận bây giờ” để viết
hàng ngàn trang sách, với nhiều cung bậc tình cảm cho nhiều thế hệ độc giả.
Ông ra đi trong niềm nhớ, niềm thương của nhiều người. Tên tuổi và tác phẩm
của ông sẽ sống mãi trong lòng các thế hệ độc giả. Ông vẫn đó, trong từng trang
sách, dịu dàng và thủ thỉ giúp ta nghĩ đúng, nhắc ta biết yêu thương con người
hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Điều đó đã đưa tác phẩm và tên tuổi Tô Hoài đi
vào cõi bất tử.
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Hà Minh Đức sưu tầm, Tuyển tập Tô Hoài, NXB Văn học, năm 1987.
2. Hà Minh Đức, Tô Hoài – sức sáng tạo của 1 đời văn, NXB Văn học, năm
2000.
3. Hà Minh Đức, Hữu Nhuận, Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo dục, năm 2001.
4. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu tuyển tập truyện ngắn Tô Hoài, tập I, NXB
Văn học Hà Nội, năm 1996.
5. Hà Minh Đức, Giáo trình Lý luận văn học, NXB Giáo dục, năm 1995.
6. Hoàng Văn Thành, Từ láy trong Tiếng Việt, NXB Khoa học- Xã hội, Hà
Nội, năm1985.
7. Phong Lê, Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, năm 2001.
8. Phan Cự Đệ chủ biên, Truyện ngắn Việt Nam - lịch sử - thi pháp - chân
dung, NXB Giáo dục, năm 2007.
9. Phan Cự Đệ, Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật”, NXB Văn học , Hà Nội,
năm 1971.
10. Tô Hoài, Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB Văn học Hà Nội, năm
1989.
11. Tô Hoài, Tôi viết bằng tình yêu cuộc sống, Tạp chí Văn học, số 6, năm
2003.
12. Tô Hoài, Nghệ thuật và phương pháp viết văn, NXB Văn học, năm 1997
13. Tô Hoài, Sổ tay viết truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, năm 1977.
14. Tô Hoài, Hồi kí, NXB Hội nhà văn, năm 2005.
15. Tô Hoài, Người ven thành kí và truyện, NXB Văn học, năm 1972.
16. Tô Hoài, Cỏ dại, NXB Trẻ, năm 1988.
17. Tô Hoài, Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, NXB Đại học sư phạm Hà Nội,
năm 2002.
18. Tô Hoài, Chuột thành phố, tập truyện ngắn NXB Hoa Tiên- Sài Gòn, năm
1967.
19. Tạ Duy Anh chủ biên, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, NXB Thanh
Niên, năm 2000.
87
20. Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, năm 1999.
21. Từ điển Nghệ thuật văn học, NXB Văn học, năm 2000.
22. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 1993.
23. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội,
năm 1993.
24. Trần Hữu Tá, Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, NXB Trẻ Hội
nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. HCM, năm 2001.
25. Trần Hữu Tá, Tô Hoài, giáo trình văn học Việt Nam 1945-1975, tập II,
NXB Giáo dục, năm 1990.
26. Trần Đăng Xuyền, Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng tạo, NXB
Văn học, Hà Nội, năm 2002.
27. Trần Đăng Xuyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học xã hội,
năm 2004.
28. Trần Đăng Xuyền, Nhà văn và cá tính sáng tạo, NXB Khoa học xã hội,
năm 2000.
29. Bùi Việt Thắng, Bình luận về truyện ngắn, NXB Văn học, năm 1999
30. Bùi Việt Thắng, Nguyên Ngọc, Truyện ngắn- những vấn đề lí thuyết và
thực tiễn thể loại, NXB Quốc Gia, năm 2000.
31. Nhiều tác giả, Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, NXB Thanh niên, năm
2000.
32. Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB KHXH, năm 1994.
33. Nguyễn Thị Thanh Bình, Nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, năm
2012.
34. Nam Cao, truyện ngắn Trăng sáng, NXB Giáo dục, năm 1943.
35. Nam Cao, truyện ngắn Đời thừa, NXB Giáo dục, năm 1943.
36. Nam Cao, truyện ngắn Lão Hạc, NXB Giáo dục, năm 1943.
37. Mai Thị Nhung, Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, NXB Giáo dục, năm
2006.
38. Mai Thị Nhung, Sắc thái giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của Tô Hoài,
Tạp chí khoa học, ĐHSP Hà Nội, số 5, năm 2004.
39. Mai Thị Nhung, Đặc điểm thế giới nhân vât Tô Hoài, tạp chí nghiên cứu
lí luận và lịch sử văn học, số 4, năm 2005.
88
40. M.Bakhtin, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Trường
viết văn Nguyễn Du, năm 1992.
41. C.Mac, F.Angghen, Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội, năm
1977.
42. Chủ biên Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc Gia,
năm 1999.
43. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo
dục, năm 1995.
44. Kim Thánh Thán, Thủy Hử - đệ nhị danh tác, NXB Hội nhà văn, năm
2010.
45. Vũ Dương Quý, Quan điểm của Nguyễn Công Hoan về truyện ngắn,
NXB Giáo dục, năm 2002.
46. Vũ Dương Quý, Trên đường bình văn, NXB Giáo dục, năm 1998.
47. Vũ Quân Phương, Tô Hoài, văn và đời, Tạp chí văn học số 8, năm 1994
48. Vương Trí Nhàn, Sổ tay truỵên ngắn, NXB Hội nhà văn, năm 1988.
49. Lại Nguyên Ân, 150 Thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 1999.
50. Lê Huy Bắc, Giọng và giọng điệu trong tác phẩm văn xuôi hiện đại, Tạp
chí văn học, số 99, năm 1988
II. Website
51. Phạm Thị Thanh Thủy, Luận văn Đặc điểm truyện Tô Hoài trước Cách
mạng, trang web Luanvan.net.vn, 15/04/2013.
52. Nguyễn Thị Giang, Luận văn Quan niệm của Tô Hoài về văn học và nghề
văn qua nghệ thuật và phương pháp viết văn, trang web 123.doc.org,
21/12/2013.
53. Mai An, Bài viết Vĩnh biệt nhà văn Tô Hoài – Cây đại thụ của văn học Việt Nam,
trang web Baomoi.com, 07 / 07/ 2014.
54. Chi Mai, Bài viết Tô Hoài – Hạt ngọc của làng văn học Việt Nam, trang
web giaitri.vnexpress.net, 07/ 07/ 2014.
55. Nguyễn Đăng Diệp, Bài viết Tô Hoài – người sinh ra để viết, trang web
Nghệ sĩ quân đội, 08/ 07/ 2014.
89
PHỤ LỤC
NHÀ VĂN TÔ HOÀI
Tô Hoài là cây bút lão làng của văn học Việt Nam. Đến với văn chương,
ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai Trung, Duy Phương, Mắt Biển, Hồng
Hoa, Vũ Đột Kích,
1. Cuộc đời và sự nghiệp
Tô Hoài sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị
Trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông trong một gia đình thợ thủ công,
mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội. Ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa
Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam[2]). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh:
sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.
Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống
như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,... nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi
đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện
Dế Mèn phiêu lưu ký.
Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân và tham gia hoạt
động trong tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và Thanh niên dân chủ Hà Nội.
Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh
Đông Dương, Ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một
số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc”. Ông
là một trong số những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch
90
ở mặt trận phía Nam (Nha Trang, Tây Nguyên). Năm 1946, ông được kết nạp
vào Đảng.
Năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến
năm 1980, Tô Hoài đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn
như : Uỷ viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội,
Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.
Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay,
sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã sáng tác được một số lượng
tác phẩm đồ sộ, với hơn 170 đầu sách ở nhiều thể loại khác nhau như : tiểu
thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.
Cả cuộc đời cầm bút, với những nỗ lực không mệt mỏi, nhà văn Tô Hoài đã
được trao nhiều giải thưởng văn học:
- Năm 1956, Giải Nhất tiểu thuyết Hội Văn nghệ Việt Nam với “Truyện
Tây Bắc”.
- Năm 1967, Giải A Hội Văn nghệ Hà Nội với tiểu thuyết “Quê nhà”.
- Năm 1970, Giải thưởng Hoa Sen Hội Nhà văn Á Phi 1970 với tiểu thuyết
“Miền Tây”.
- Năm 1980, Giải thưởng Thăng Long (Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội)
với tập hồi ký “Chuyện cũ Hà Nội”.
- Năm 1996, Giải thưởng Hồ Chí Minh của Nhà nước về văn học nghệ
thuật, đợt I.
- Năm 2010, Giải thưởng Bùi Xuân Phái Vì tình yêu Hà Nội.
2. Tác phẩm
* Tác phẩm chính của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám :
- Dế mèn phiêu lưu kí (1941)
- Quê người (1941),
- O chuột (1942)
- Giăng thề (1943)
- Nhà nghèo (1944)
- Xóm Giếng ngày xưa (1944)
- Cỏ dại (1944).
91
* Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám :
- Truyện ngắn : Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây
Bắc (1953, Giải nhất tiểu thuyết năm 1956 của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác
trước (1957), Vỡ tỉnh (1962), Người ven thành (1972).
- Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen
vàng năm 1970 của Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự
truyện (1978), Những ngõ phố, người đường phố (1980),Quê nhà (1981, Giải A
năm 1980 của giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội), Nhớ Mai Châu (1988).
- Kịch : Con mèo lười, Tích tịch tình tang.
- Kịch phim : Kim Đồng, Ông Gióng, Trâu húc, Co mèo lười, Sự tích
Thăng Long, Thạch Sanh.
- Truyện ký: Đại đội Thắng Bình (1950), Thành phố Lênin (1961), Tôi
thăm Căm-pu-chia (1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người(1978),
Hoa hồng vàng song cửa (1981). Cát bụi chân ai (1992).
- Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)
- Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một số kinh nghiệm viết văn của
tôi (1959), Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và
phương pháp viết văn (1997).
Tô Hoài có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn
phiêu lưu kí được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất.
92
TIẾC THƯƠNG NHÀ VĂN TÔ HOÀI VỀ VỚI CÁT BỤI
Vũ Viết Tuân ( Nguồn: Báo Tuổi trẻ 08/07/2014 )
Khoảng trống mênh mang
“Mặc dù biết nhà văn đã 95 tuổi rồi, nhưng khi biết tin cụ mất, tôi cũng
như nhiều anh em văn nghệ sĩ đều thấy buồn, và hụt hẫng. Cụ mất đi để lại
khoảng trống lớn khó khỏa lấp được trên bầu trời văn học” - PGS.TS, nhà văn,
nhà phê bình Ngô Văn Giá, trưởng khoa Sáng tác & Lý luận - phê bình văn học,
trường Đại học Văn hóa chia sẻ. Ngày cụ còn khỏe, tôi với anh Trần Hòa Bình
hay đến thăm cụ ở Nghĩa Đô, rồi mời cụ đi uống bia. Cụ thường nói vui rằng:
“Tớ uống bia chẳng bao giờ say cả!”.
Cách mấy năm sau, khi chúng tôi đến thăm, cụ nói không còn uống bia
nữa, mà chuyển sang uống rượu vang. Cách đây hai năm thì cụ không uống bia
rượu nữa. Vẫn biết bia rượu uống nhiều thì không tốt, nhưng những lúc đấy
chúng tôi đã chạnh lòng, lo cho sức khỏe của cụ. Dù bận rộn nhưng sinh thời cụ
vẫn dành nhiều thời gian đến trò chuyện với sinh viên. Tôi vẫn rất nhớ cụ luôn
nói với các bạn trẻ rằng: Trong nghề viết, năng khiếu rất quan trọng, nhưng quan
trọng hơn là phải khổ luyện. Sự khổ luyện đưa tác giả đi được lâu hơn và xa hơn
trong việc viết văn. Có lần cụ còn nói rằng, một số người viết văn chỉ “có ý chứ
không có câu”, tức là không chăm sóc câu văn, chữ nghĩa. Với cụ, người cầm
bút phải có năng lực tiếng Việt để không viết văn ẩu, thiếu tôn trọng độc giả.
Nói về sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài, nhà phê bình Ngô Văn
Giá cho rằng, sự nghiệp của cụ có thể chia thành ba giai đoạn sáng tác rõ rệt.
Những năm trước cách mạng, đề tài của Tô Hoài tập trung vào đời sống người
lao động ven đô và đề tài thiếu nhi. Trong đó có cuốn sách “bất tử” Dế mèn
phiêu lưu ký. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Mỹ, Tô Hoài cho ra đời
khối lượng tác phẩm đồ sộ với những O Chuột; Vợ chồng A Phủ; Mường Giơn
giải phóngNhưng đến giai đoạn đổi mới, Tô Hoài cho ra mắt bạn đọc ba tác
phẩm rất xuất sắc: Cát bụi chân ai; Chiều chiều; Ba người khác. “Với ba tác
phẩm này, Tô Hoài lại một lần nữa chói sáng để lại ba tác phẩm tầm vóc trong
93
nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm này, Tô Hoài lại một lần nữa trở về với
khát vọng lên đường, khát vọng tự do cháy bỏng từ thời Dế mèn phiêu lưu ký”.
Người mở đường cho văn học thiếu nhi
Trước cách mạng tháng Tám, các tác giả viết cho thiếu nhi đã có nhưng
chưa nhiều. Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài là tác phẩm tiêu biểu nhất. Bằng
tác phẩm này, Tô Hoài được đánh giá là một trong những nhà văn Việt Nam đầu
tiên mở đường cho dòng văn học thiếu nhi ở Việt Nam. Tô Hoài đã đưa những
nhân vật thiếu nhi có thật như Kim Đồng, Vừ A Dínhđến gần hơn với độc giả.
“Tô Hoài là cha đẻ của những tác phẩm văn học thiếu nhi hấp dẫn, đồng thời là
người tham gia sáng lập lên NXB Kim Đồng để đưa các tác phẩm thiếu nhi đến
với các em nhỏ”- nhà văn Lê Phương Liên cho biết.
Nhà văn Lê Phương Liên, đồng thời là biên tập viên NXB Kim Đồng có
hơn 20 năm được tiếp xúc, làm việc với nhà văn Tô Hoài về đề tài Văn học thiếu
nhi cho biết rằng, Tô Hoài là nhà văn mở đường cho văn học thiếu nhi của nước
ta. Nhà văn cho biết: “Tô Hoài là một người rất giản dị và vui tính, dí dỏm. Cách
nói của cụ rất tinh tường. Khi phê bình cụ luôn có những nhận xét rất vui, làm
người khác dễ tiếp thu mà không giận”
Khác với các nhà văn trẻ bây giờ thường làm việc trên máy tính thì Tô
Hoài luôn giữ thói quen viết tay, sau đó mới nhờ người khác đánh máy giúp. Tô
Hoài cũng là người sáng lập và là chủ tịch đầu tiên của Hội đồng văn học thiếu nhi
Việt Nam (Sau này gọi là Ban văn học thiếu nhi của Hội nhà văn Việt Nam) cùng
với các nhà văn: Phạm Hổ, Vũ Tú Nam, Võ Quảng Tô Hoài luôn cổ vũ, động
viên các nhà văn trẻ viết cho thiếu nhi. Khi nhà văn Nguyễn Nhật Ánh mới xuất
hiện trên văn đàn, có nhiều ý kiến nghi hoặc, nhưng Tô Hoài thì ủng hộ hết mực.
Nhà văn không có tuổi già
Nhà thơ Trần Đăng Khoa vẫn nhớ kỷ niệm về bài thơ cùng tên với một
truyện ngắn của Tô Hoài có tên Òóo. Ông kể rằng đó là năm 1967, tình cờ
đọc được một truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Tô Hoài có tên Òóo. Đó
chính là cảm hứng để ông sáng tác bài thơ cùng tên nhưng với nội dung khác.
“Chữ Òóo là của Tô Hoài đấy. Chứ ngày trước chúng tôi được học tiếng gà
94
gáy Cúccùcu cơ. Nhưng tôi thấy tiếng đó giống tiếng chim bồ câu hơn là
tiếng gà. Vì thế khi đọc truyện ngắn kia của Tô Hoài, tôi đã có ngay cảm hứng
viết bài thơ. Dù lúc đó chưa được gặp nhưng tôi vẫn đề dưới bài thơ là “Kính
tặng chú Tô Hoài” để tỏ lòng cảm ơn ông đã truyền cảm hứng cho tôi”.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể lại, để có được số lượng tác phẩm đồ sộ hơn
200 tác phẩm đủ các thể loại từ tiểu thuyết đến truyện ngắn, bút ký, tự truyện,
hồi kýTô Hoài đã làm việc không biết mệt mỏi ở mọi lúc, mọi nơi. Ông kể
rằng, Tô Hoài tranh thủ cả những lúc ngồi họp để viết văn. “Tôi có may mắn
được sống với Tô Hoài suốt nửa tháng ở Nhà sáng tác Đại Lải, Vĩnh Phúc. Lúc
đầu, tôi thật ngạc nhiên khi ông đi ngủ rất sớm, từ 8 giờ tối. Nhưng 3 giờ sáng
hôm sau đã thấy ông lặng lẽ dậy, thắp đèn đọc và viết. Sau này, khi đã tuổi cao,
ông vẫn luôn cố gắng vượt qua sự mệt mỏi của tuổi già. Ông là nhà văn không
có tuổi già. Vì thế ông đã để lại số cho đời số lượng tác phẩm gấp đôi số tuổi thọ
mình"- nhà thơ Trần Đăng Khoa tâm sự .
Theo nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tô Hoài còn là “nhà Hà Nội học” với kiến
thức uyên bác, tỉ mỉ về Hà Nội. “Ông nhớ rất rõ từng tên phố, từng ngách nhỏ
của Hà Nội. Ông nhớ ngày trước Hà Nội có bao nhiêu ngôi nhà cổ, tượng đài và
bây giờ mất bao nhiêu, còn bao nhiêu. Ông nhớ rõ Hồ Tây ngày trước rộng bao
nhiêu, bây giờ thu hẹp còn bao nhiêu. Hà Nội với ông không chỉ là nơi sinh ra
và lớn lên mà còn là tình yêu và sự am hiểu đến tường tận” - nhà thơ Trần Đăng
Khoa nói.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- the_gioi_nghe_thuat_trong_truyen_ngan_to_hoai_truoc_nam_1945_0264.pdf