Đánh giá rủi ro từ nhà cung ứng tài sản
Nhà cung ứng tài sản cũng là đối tượng cần được quan tâm để tránh
những rủi ro như: nhà cung ứng và khách hàng thuê cấu kết với nhau nâng
giá tài sản để hưởng phần chênh lệch hay nhà cung cấp cố ý giao tài sản
không đúng mẫu mã, chất lượng như trong hợp đồng đã ký dẫn đến tranh
chấp kéo dài. Vì vậy, Công ty cần đánh giá nhà cung cấp trên các phương
diện:
- Lịch sử hoạt động sản xuất kinh doanh: tên và địa chỉ của nhà cung
cấp, uy tín trên thị trường
- Khả năng sản xuất và cung ứng được các tài sản theo yêu cầu của
người đi thuê về chủng loại, chất lượng, quy mô: Công ty có thể tham khảo
các giao dịch đã từng thực hiện trước đây của bên cung ứng.
- Khả năng và cách thức thực hiện các chính sách hậu mãi như: bảo trì,
bảo dưỡng, sữa chữa, phụ tùng thay thế
99 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2928 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho thuê tài chính của ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của
dịch vụ như nắm bắt được nhu cầu của bên đi thuê, tìm kiếm các nguồn cung
ứng tài sản và nguồn vốn…
- Phân tích môi trường pháp lý vì theo IFC bất cứ một ngành nào
muốn phát triển đều phải phụ thuộc vào hệ thống pháp luật với quy định rõ
ràng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia.
- Các chương trình hỗ trợ, sự ủng hộ từ phía Chính phủ với công ty
cho thuê tài chính và cả phía doanh nghiệp đi thuê để nghiên cứu mức độ
khuyến khích dịch vụ này.
- Các chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng hóa cho thuê tài chính
như thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu… cũng ảnh hưởng rất lớn tới quyết định
đầu tư của IFC vì nó tác động trực tiếp tới lợi nhuận thu được và chiến lược
kinh doanh của Công ty.
IFC là công ty cho thuê tài chính có phạm vi lớn nhất trên thế giới và
đặc biệt tập trung đầu tư vào các quốc gia đang phát triển nên những kinh
nghiệm của IFC cũng có tính ứng dụng cao tại Việt Nam. Từ đó, Chính phủ
và các Bộ, ban ngành có thể điều chỉnh cho phù hợp hơn nữa. Sự định hướng
của Công ty luôn bắt đầu từ việc nghiên cứu các điều kiện vĩ mô, sau đó mới
đến các yếu tố cụ thể để quyết định triển khai dự án nên IFC luôn có hướng
phát triển phù hợp, khả năng khai thác tốt, từ đó mở rộng cũng như nâng cao
chất lượng hoạt động cho thuê tài chính trên phạm vi toàn cầu.
72
Nhận xét chung
Trên đây là kinh nghiệm của một số công ty cho thuê tài chính điển
hình, đại diện cho 3 môi trường kinh doanh khác nhau. Qua những nội dung
phân tích có thể nhận thấy những bài học kinh nghiệm rút ra như sau:
Thứ nhất, hiệu quả hoạt động cho thuê tài chính trước tiên chịu sự ảnh
hưởng bởi năng lực kinh doanh của chính công ty cho thuê tài chính đó như
chiến lược marketing, nguồn nhân sự, khả năng nghiên cứu thị trường, khả
năng nắm bắt thời cơ.
Thứ hai, Chính phủ cùng các Bộ ngành liên quan là nhân tố tiếp theo
tác động vào loại hình dịch vụ này theo hai chiều hướng hạn chế hay khuyến
khích thông qua các chính sách thuế quan, thủ tục hành chính, chương trình
hỗ trợ …
Thứ ba, môi trường kinh tế cũng là nguyên nhân quan trọng khiến
hoạt động cho thuê tài chính tăng trưởng chậm hay nhanh vì nó phụ thuộc
vào các yếu tố khách quan khác như bên đi thuê, bên cung ứng máy móc
thiết bị, bên cho vay vốn.
Thứ tư, trong mỗi hoàn cảnh khác nhau thì việc áp dụng các giải pháp
cũng phải khác nhau, phù hợp với thực trạng và khả năng của từng công ty.
Bên cạnh các chiến lược chung phải có các chiến lược cụ thể và có tính khả
thi thì hiệu ứng mang lại mới cao.
II. Định hƣớng phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho
thuê tài chính Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam
1. Xu hƣớng phát triển thị trƣờng cho thuê tài chính tại Việt Nam
Mặc dù hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam còn chưa thực sự
sôi động và chiếm tỷ trọng cao như ở các quốc gia phát triển nhưng trong
tương lai đây sẽ là một thị trường hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư trong
73
nước cũng như nước ngoài. Tiềm năng của thị trường cho thuê tài chính có
thể thấy rõ qua các xu hướng chủ yếu đang diễn ra như sau:
Thứ nhất, ngày càng có nhiều doanh nghiệp mới ra đời: Theo thống
kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 8/2007, trên cả nước có
khoảng 250.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm khoảng 96% tổng số doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Như vậy,
đại đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trên khắp cả nước đều có quy mô
vừa và nhỏ. Trong vài năm tới, với đà phát triển như hiện nay, sẽ có rất nhiều
doanh nghiệp nữa ra đời và đây chính là đích mà công ty cho thuê tài chính
nhắm tới để phục vụ.
Thứ hai, khối lượng cầu về cho thuê tài chính ngày càng tăng: Do nhu
cầu đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ trong quá trình hội nhập nên các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ rất cần vốn để thực hiện
nhu cầu này. Vì chỉ có máy móc, thiết bị với công nghệ phù hợp mới có thể
sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế và cạnh tranh với
các đối thủ khác. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khó khăn
trong vay vốn qua ngân hàng nên việc tìm đến các công ty cho thuê tài chính
sẽ được coi là một giải pháp hữu hiệu trong giai đoạn tới.
Thứ ba, thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam còn khá mới mẻ:
Các công ty cho thuê tài chính đang hoạt động chưa có nhiều về số lượng
cũng như quy mô hoạt động và thời gian thực hiện hoạt động cho thuê chưa
lâu. Hiện nay, các công ty chủ yếu hoạt động ở các thành phố lớn mà chưa
mở rộng hoạt động của mình ra các địa phương khác. Hơn nữa, ngay trên địa
bàn mà các công ty cho thuê tài chính hoạt động thì các công ty này vẫn
chưa khai thác được nhiều đối tượng tài sản cho thuê. Vì vậy, hoạt động cho
thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay còn đầy tiềm năng và hứa hẹn sẽ bùng nổ
trong thời gian tới.
74
2. Định hƣớng hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính
Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam
Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam là một
trong những công ty tài chính xuất hiện sớm và đi vào hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực cho thuê tài chính tại Việt Nam. Ngay từ khi bước vào hoạt
động, Công ty đã gặp không ít khó khăn, trở ngại bởi cho thuê tài chính là
một nghiệp vụ mới và nhiều doanh nghiệp chưa biết tới hình thức tài trợ này.
Đến nay, hoạt động của Công ty đã trở nên quen thuộc hơn và đang phát huy
hiệu quả, đem lại lợi nhuận ngày càng tăng, các chỉ tiêu về tài chính đều đảm
bảo. Công ty đã đóng góp phần nào vào kết quả kinh doanh của Ngân hàng
Công thương Việt Nam, xây dựng hình ảnh, thương hiệu đẹp cho Ngân hàng.
Trong giai đoạn tới, khi thị trường cho thuê tài chính đang ngày càng
bùng nổ, Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương sẽ phải cạnh
tranh với nhiều đối thủ hơn. Vì vậy, định hướng cho những năm tới của
Công ty là tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển bền vững với phương châm
“Phát triển – An toàn - Hiệu quả”. Công ty sẽ cố gắng vừa đẩy mạnh kinh
doanh, vừa tăng cường quản lý, củng cố hoạt động và đặt ra các chỉ tiêu kinh
doanh cụ thể là:
+ Tăng trưởng nguồn vốn huy động: mỗi năm tăng từ 22-24%
+ Tăng trưởng dư nợ và đầu tư: mỗi năm tăng 20-22%
+ Hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận được giao
Trong hoạt động cho thuê, Công ty chủ trương đa dạng hoá khách
hàng thuộc mọi loại hình kinh tế, đa dạng hoá ngành nghề và tài sản cho
thuê, tập trung vào những dự án có tính khả thi cao, ngành nghề có triển
vọng phát triển. Hướng đầu tư sẽ được mở rộng nhưng Công ty vẫn xác định
tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận doanh nghiệp có số
lượng lớn, năng động và phát triển nhanh.
75
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho thuê tài chính tại Ngân
hàng Công thƣơng Việt Nam
1. Xây dựng chiến lƣợc đa dạng hóa các kênh huy động vốn kinh doanh
Do đặc trưng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, vốn là yếu tố quyết
định đến quy mô và hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty nên việc xây
dựng chiến lược tạo nguồn vốn là giải pháp cần thiết và cấp bách trong giai
đoạn tới. Công ty cần có vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp dưới hình thức
tài sản đang ngày càng đòi hỏi cao về công nghệ và đa dạng về chủng loại.
Hiện tại, mặc dù quy mô vốn của Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng
Công thương Việt Nam đang có xu hướng tăng lên qua các năm nhưng chủ
yếu vẫn là vốn đi vay từ Ngân hàng mà chưa huy động được nhiều từ các
nguồn khác. Vì vậy, muốn tạo ra đủ nguồn vốn cần thiết cho nhu cầu kinh
doanh cũng như lãi suất đầu vào của nguồn vốn không gặp rủi ro cao thì
Công ty phải đa dạng hoá các hình thức và kênh huy động vốn. Bên cạnh
việc đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam cấp thêm vốn điều lệ thì
Công ty có thể áp dụng các biện pháp huy động vốn sau:
Thứ nhất, tiếp tục vay từ Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Vì Công ty trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam nên sẽ được
Ngân hàng ưu đãi với mức lãi suất thấp hơn so với đi vay từ các tổ chức tín
dụng khác. Đây là kênh huy động chính trong giai đoạn vừa qua, tuy nhiên
Công ty cũng không nên tập trung quá nhiều vào kênh này vì nó hạn chế và
Công ty cũng không chủ động trong việc huy động vốn. Ngoài Ngân hàng
Công thương, Công ty có thể vay từ các tổ chức tín dụng khác trong nước
cũng như nước ngoài. Do Ngân hàng Công thương có rất nhiều các đối tác
trong lĩnh vực tài chính nên Công ty có thể được tín nhiệm trong quá trình đi
vay và qua đó có thể thiết lập những mối quan hệ bền vững giữa các bên với
nhau.
76
Thứ hai, phát huy khả năng huy động vốn.
Công ty có thể huy động vốn từ tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và
cá nhân; huy động từ việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu trung hạn và dài
hạn. Ngoài nghiệp vụ cho thuê tài chính, Công ty phải tăng cường các hình
thức kinh doanh khác nhằm hai mục tiêu là tăng cường nguồn vốn và mở
rộng hình thức hoạt động. Điều này sẽ giúp Công ty chủ động trong kinh
doanh và chuyên nghiệp hơn trong khả năng hỗ trợ các mảng dịch vụ với
nhau.
Thứ ba, Công ty cần khẩn trương cổ phần hoá để có thể phát hành cổ
phiếu ra công chúng.
Trong nền kinh tế bùng nổ hiện nay, một công ty muốn huy động vốn
nhanh nhất và nhiều nhất thì đó chỉ có thể là một công ty cổ phần. Vì vậy,
Công ty cần phát hành cổ phiếu trong thời gian sớm nhất để tăng cường thu
hút lượng tiền nhãn rỗi trong dân cư cũng như các nhà đầu tư lớn kỳ vọng
vào lĩnh vực cho thuê tài chính đang ngày càng thể hiện nhiều ưu việt và hứa
hẹn sẽ sôi động tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh mục tiêu huy động vốn,
việc có cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ giúp Công ty
chủ động hơn rất nhiều và làm tăng vị thế của Công ty trong giới doanh
nghiệp cũng như với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, tận dụng khả năng chiếm dụng vốn từ nhà cung ứng tài sản.
Một kênh huy động vốn khác cần được phát huy đó là tận dụng nguồn
vốn từ nhà cung cấp của Công ty qua hình thức trả chậm trong việc mua máy
móc, thiết bị, phương tiện từ nhà cung ứng tài sản. Biện pháp chiếm dụng
vốn này thường diễn ra giữa một công ty cho thuê tài chính có mối quan hệ
tốt với các nhà cung ứng tài sản và công ty sẽ được các nhà sản xuất máy
móc, thiết bị, phương tiện đó cho mua tài sản bằng phương thức trả chậm.
Do vậy, Công ty không phải bỏ ra một khoản vốn lưu động lớn và có thể trả
77
cho nhà cung ứng khi đã nhận được phí thuê tài sản do bên đi thuê trả. Điều
này giúp Công ty quay vòng vốn nhanh, không bị thiếu vốn hoặc ứ đọng vốn
như mua bằng phương thức trả ngay. Do đó, Công ty cần thiết lập các mối
quan hệ thường xuyên, lâu dài với các nhà cung cấp lớn, có uy tín trên thị
trường.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ với các tổ chức tài chính, tín dụng.
Công ty cần tăng cường huy động vốn từ việc liên doanh, liên kết với
các doanh nghiệp và tổ chức tài chính, tín dụng trong nước cũng như nước
ngoài như Công ty tài chính quốc tế - IFC, Eximbank Hoa Kỳ, Định chế Tài
chính hỗ trợ phát triển Hà Lan - FMO (năm 2007, FMO đã cam kết hỗ trợ
cho Sacombank-Leasing một khoản tín dụng trị giá 8 triệu USD). Trong thời
kỳ kinh tế hội nhập, Công ty phải tích cực hợp tác với các đối tác khác để
cùng tài trợ vốn trong trường hợp không có khả năng một mình tham gia dự
án vì yêu cầu vốn quá lớn hoặc vì mục tiêu phân tán rủi ro. Như vậy, Công ty
sẽ kết hợp với các doanh nghiệp hoặc tổ chức tài chính, tín dụng khác nhằm
tận dụng nguồn vốn của họ để thực hiện các hợp đồng cho thuê tài chính
vượt quá khả năng của Công ty. Thông qua hoạt động liên doanh và hợp tác,
Công ty còn có thể mở rộng thị phần của mình cũng như học hỏi được nhiều
kinh nghiệm về nghiệp vụ qua các đối tác.
2. Mở rộng đầu tƣ vào một số các phƣơng thức cho thuê tài chính khác
Tuy phương thức cho thuê tài chính ba bên có nhiều ưu điểm đối với
bên cho thuê, nhưng Công ty cũng không thể chỉ tập trung vào một hình thức
vì như vậy đã bỏ ngỏ một lượng lớn khách hàng tiềm năng cho các phương
thức cho thuê khác. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu sử
dụng phương thức cho thuê theo hình thức bán và tái thuê, cho thuê giáp
lưng và cho thuê hợp vốn vì đây sẽ là những phương thức cho thuê phù hợp
với những doanh nghiệp còn dè dặt trong hoạt động mới mẻ này. Chính vì
78
vậy, để nâng cao thị phần và tăng tính cạnh tranh với các công ty cho thuê tài
chính khác, Công ty cần mở rộng các nghiệp vụ cho thuê tài chính này trong
những năm tới.
Về phương thức cho thuê theo kiểu bán và tái thuê: Theo phương
thức cho thuê tài chính ba bên, doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số tiền
không nhỏ, nhưng với cho thuê theo kiểu bán và tái thuê thì các doanh
nghiệp sẽ sẵn sàng hơn với loại hình dịch vụ này do họ vừa có được nguồn
vốn lưu động cho kinh doanh lại vừa yên tâm về máy móc, thiết bị của mình
vì họ vừa là bên đi thuê, vừa là bên cung ứng tài sản cho thuê. Đặc biệt, hình
thức này đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 07/2006/TT-NHNN nên
sẽ thuận lợi cho Công ty và bên đi thuê tham gia ký kết hợp đồng. Tuy nhiên,
với phương thức này, Công ty cần lưu ý đến khả năng định giá tài sản vì rủi
ro người đi thuê có thể đang gặp khó khăn về vốn hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc các tài sản đã cũ, công nghệ lạc hậu. Do đó, Công ty phải đánh
giá một cách chính xác được hoặc thuê tư vấn để xác định được giá trị thực
của tài sản khi mua lại.
Về phương thức cho thuê tài chính giáp lưng: Vì trong nghiệp vụ
cho thuê tài chính, không phải doanh nghiệp nào cũng thuê hết thời gian sử
dụng hữu ích của máy móc, thiết bị nên khi hết thời hạn thuê mà bên đi thuê
không thuê tiếp thì máy móc, thiết bị đó khó có thể cho thuê tiếp được. Do
vậy, khi áp dụng phương thức cho thuê giáp lưng, trong trường hợp bên đi
thuê không còn nhu cầu thuê thì sẽ tự tìm cho mình một bên đi thuê thứ hai.
Cách thức này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp hạn chế được nhược điểm
phải bắt buộc thuê gần hết thời gian sử dụng hữu ích của máy móc, thiết bị
khi họ đã không còn nhu cầu mà không thể huỷ ngang hợp đồng. Bên thuê
thứ hai có thể là những bên có ít vốn nên sẽ chiếm một tỷ lệ không nhỏ trên
thị trường Việt Nam.
79
Về phương thức cho thuê hợp vốn: Cho thuê tài chính hợp vốn là
hoạt động cho thuê tài chính của một nhóm công ty cho thuê tài chính (từ hai
công ty cho thuê tài chính trở lên) đối với bên thuê, do một công ty cho thuê
tài chính làm đầu mối theo Thông tư số 08/2006/TT-NHNN (12-10-2006)
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn hoạt động cho thuê tài chính
hợp vốn của các công ty cho thuê tài chính theo quy định tại Nghị định số
16/2001/NĐ-CP (02-5-2001) và Nghị định số 65/2005/NĐ-CP (19-5-2005)
của Chính phủ. Với phương thức cho thuê tài chính hợp vốn, Công ty có thể
tiến hành ký kết hợp đồng trong các trường hợp sau:
- Nhu cầu thuê tài chính của bên thuê vượt giới hạn cho thuê tài chính
của Công ty (30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính đối với một
khách hàng và 80% vốn tự có đối với một nhóm khách hàng có liên quan)
- Khả năng tài chính, nguồn vốn và tài sản của Công ty không đáp ứng
được nhu cầu cho thuê tài chính
- Nhu cầu phân tán rủi ro của Công ty
- Bên thuê có nhu cầu thuê tài chính từ nhiều công ty cho thuê tài
chính
Phương thức cho thuê hợp vốn rất phù hợp với thực tế do có nhiều dự
án đòi hỏi nguồn vốn lớn mà một mình Công ty không đủ khả năng, đặc biệt
trong thời kỳ hiện nay khi nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
3. Xây dựng chiến lƣợc quảng bá, tiếp thị cho dịch vụ của Công ty
Mặc dù hoạt động cho thuê tài chính đã xuất hiện tại Việt Nam từ năm
1996 đến nay nhưng nhìn chung, nghiệp vụ này còn xa lạ với khá nhiều
doanh nghiệp hoặc chưa được họ quan tâm đúng mức. Thực tế, Việt Nam
hiện có 12 công ty cho thuê tài chính nhưng các công ty đều ở tình trạng gần
giống nhau bên cạnh một số công ty đang dần nổi bật lên trên thị trường cho
80
thuê như ALC II, Sacombank - Leasing. Chính vì vậy, Công ty cho thuê tài
chính Ngân hàng Công thương Việt Nam cần nhanh chóng quảng bá cho
hình ảnh của Công ty trong khi mức cạnh tranh của thị trường còn chưa cao
để xây dựng thương hiệu trong tâm lý khách hàng Việt Nam.
Hiện tại, Công ty vẫn chưa có website riêng và đây cũng là một hạn
chế rất lớn trong việc tiếp thị cho Công ty. Trong thời kỳ Internet đang ngày
càng phổ biến tại Việt Nam và phần nào thể hiện sự chuyên nghiệp của các
doanh nghiệp thì việc xây dựng một website riêng là điều không thể không
làm. Đó sẽ là nơi hữu hiệu cho Công ty cung cấp thông tin tới khách hàng và
giới thiệu các dịch vụ của mình. Bên cạnh đó, Công ty cần đầu tư quảng bá
thông qua các phương tiện khác như truyền hình; báo chí nhất là các báo
kinh tế và các báo, tạp chí trong ngành tài chính tín dụng và ngân hàng; bảng
quảng cáo; phương tiện giao thông .v.v.. Đặc biệt, Công ty cần tiên phong
khi đưa hình ảnh cùa mình tới các doanh nghiệp qua truyền hình vì đây vốn
là kênh uy tín nhất và có tác dụng nhanh nhất.
Ngoài các biện pháp trên, Công ty cũng có thể tổ chức các buổi hội
thảo, các đợt tuyên truyền trực tiếp đến các doanh nghiệp. Công ty nên chủ
động tiếp xúc, gặp gỡ, giới thiệu hoạt động của Công ty với các doanh
nghiệp. Thông qua đó, Công ty có thể chứng minh sự chuyên nghiệp trong
hoạt động cho thuê tài chính của mình và tư vấn cho khách hàng tiềm năng
sự nhận thức, hiểu biết về nghiệp vụ cũng như tiếp thị các hình thức hỗ trợ
của Công ty.
Nhìn chung, các công ty cho thuê tài chính đều bỏ ngỏ việc quảng cáo
cho công ty của mình do quy mô hoạt động của họ còn hạn chế và tính cạnh
tranh chưa cao nên tâm lý này sẽ là chủ quan khi trong những năm gần đây
xuất hiện các công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên
kết quốc tế. Đây sẽ là những đối thủ lớn trong tương lai nên để khẳng định vị
81
trí của mình trước khi thị trường tỏ ra bão hoà thì Công ty cần phải tích cực
đầu tư cho chiến lược tiếp thị hình ảnh của mình.
Tuy việc quảng bá hình ảnh của các công ty cho thuê tài chính chưa
phổ biến và Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam có
thể phát huy sớm biện pháp này nhưng muốn thành công được thì yếu tố độc
đáo, ấn tượng để tạo một thương hiệu tốt trên thị trường lại không phải dễ
dàng. Chính vì vậy, Công ty cần đầu tư cho chiến lược và lựa chọn các khả
năng một cách cẩn thận để đạt được hiệu ứng tốt cho mục tiêu tạo dựng
thương hiệu với khách hàng.
4. Nâng cao chất lƣợng thẩm định dự án cho thuê
Thẩm định dự án là một trong những khâu quan trọng nhất trong quy
trình cho thuê. Do thẩm định là cơ sở để Công ty quyết định có chấp nhận
cho thuê hay không và đặc biệt, nó còn ảnh hưởng lớn đến chất lượng cũng
như hiệu quả hoạt kinh doanh. Nếu thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến
Công ty gặp phải những dự án chứa đựng nhiều rủi ro, khả năng thu hồi vốn
và lãi thấp gây ra tình trạng nợ xấu đang ngày càng tăng trong những năm
vừa qua hoặc bỏ lỡ những dự án có tính khả thi mà Công ty lại không chấp
nhận cho thuê.
Chính vì vậy, nâng cao chất lượng thẩm định là một yêu cầu cấp thiết
đối với Công ty. Để đạt được mục tiêu đó, Công ty nên tập trung cho hai yếu
tố tác động trực tiếp đến chất lượng thẩm định như sau:
4.1 Đào tạo đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn hoá cao
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố chủ quan nhất và thiết yếu nhất tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của bất kỳ công ty nào. Do đó,
Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ, công nhân viên. Tại
Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam, đội ngũ cán
bộ tuy trình độ học vấn cao nhưng hoạt động cho thuê tài chính do còn mới
82
mẻ tại Việt Nam và có nhiều chuyên môn liên quan chưa có kinh nghiệm cần
phải đào tạo như thẩm định tài sản cho thuê, thẩm định dự án cho thuê, khả
năng tư vấn về tài sản cho thuê. Để hoạt động cho thuê tài chính được
chuyên nghiệp và phát triển, Công ty cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ được
trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn.
Do Công ty được thành lập từ Ngân hàng Công thương Việt Nam như
là một công ty con, do vậy nhiều cán bộ của Công ty là cán bộ của Ngân
hàng Công thương điều chuyển sang, chỉ được trang bị những kiến thức về
kinh tế và nghiệp vụ ngân hàng truyền thống, thiếu sự hiểu biết về kỹ thuật,
công nghệ của máy móc, thiết bị cũng như quy trình nghiệp vụ cho thuê tài
chính và khả năng tư vấn về tài sản cho thuê.
Vì vậy, trong chiến lược xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp
đòi hỏi Công ty phải khẩn trương trang bị cho các cán bộ kiến thức về lĩnh
vực cho thuê tài chính đồng thời phải hiểu biết cả về các lĩnh vực có liên
quan như kiến thức ngân hàng, các luật điều chỉnh cùng các kiến thức
chuyên môn khác có liên quan để hỗ trợ nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Muốn vậy, Công ty nên chú trọng ngay từ khâu tuyển chọn cán bộ có
trình độ phù hợp ; khuyến khích, đầu tư cho cán bộ, nhân viên tìm hiểu, học
hỏi, nghiên cứu, trau dồi các kiến thức cần thiết cho hoạt động kinh doanh
của công ty cho thuê tài chính. Để công tác đào tạo có hiệu quả, Công ty cần
cử các cán bộ tham gia các khóa đào tạo chuyên ngành trong nước cũng như
quốc tế, mời các chuyên gia có trình độ thường xuyên hợp tác và hướng dẫn
cho các cán bộ của Công ty, định kỳ mở các cuộc hội thảo về chuyên môn
trong lĩnh vực cho thuê tài chính để các nhân viên có điều kiện trao đổi về
nghề nghiệp. Bên cạnh đó, do đối tượng khách hàng không chỉ dừng lại là
các doanh nghiệp Việt Nam nên trình độ cán bộ phải đạt tiêu chuẩn quốc tế,
đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế.
83
4.2 Hợp tác với các công ty tƣ vấn, công ty dịch vụ kỹ thuật và nhà cung
ứng
Hiện tại, đội ngũ cán bộ tại Công ty chưa đáp ứng kịp tốc độ tăng quy
mô của hoạt động cho thuê nên việc kết hợp với các công ty tư vấn, công ty
dịch vụ kỹ thuật là hết sức cần thiết. Do mỗi loại sản phẩm đều được hãng
sản xuất tổ chức hỗ trợ thông qua dịch vụ tư vấn nên Công ty có thể hợp tác
chặt chẽ để nắm bắt rõ hơn về tài sản cho thuê. Bên cạnh tác dụng nâng cao
chất lượng thẩm định, việc hợp tác này còn khiến khách hàng tin tưởng hơn
với khả năng tư vấn từ phía bên cho thuê.
Ngoài ra, bên cạnh các công ty tư vấn của hãng thì một đầu mối quan
trọng nữa Công ty cần khai thác là các nhà cung ứng tài sản. Thông thường,
chính các nhà cung ứng máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển mới là
bên có trình độ am hiểu về máy móc để tư vấn cho khách hàng lựa chọn loại
tài sản phù hợp với kế hoạch và điều kiện của bên đi thuê. Vì vậy, Công ty
cần thiết lập một hệ thống các nhà phân phối có khả năng hỗ trợ về dịch vụ
kỹ thuật cao.
5. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và mở rộng các chi nhánh, văn phòng đại
diện
Với mô hình tổ chức như cũ, Công ty sẽ gặp khó khăn ở một số khâu
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đó là khâu mua bán máy móc và khâu
tiếp cận khách hàng trên các địa bàn thông qua các chi nhánh, và các văn
phòng đại diện. Do vậy, ngoài các phòng, bộ phận hiện có, Công ty cho thuê
tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam cần thành lập thêm các chi
nhánh và các phòng sau:
Mở thêm Phòng kỹ thuật
Do Công ty cho thuê tài chính phải có một đội ngũ cán bộ am hiểu về
máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động mua bán các máy móc, thiết bị,
84
phương tiện; định giá tài sản và tư vấn cho khách hàng lựa chọn nên việc bổ
sung phòng kỹ thuật trong thời gian tới là rất cần thiết. Phòng kỹ thuật cần
tập trung các chuyên gia kỹ thuật có nhiệm vụ đánh giá, tư vấn cho khách
hàng về máy móc, thiết bị, công nghệ, đồng thời tiến hành bảo dưỡng, sửa
chữa định kỳ nhằm làm tăng thời gian sử dụng hữu ích của máy móc, thiết
bị. Vì vậy, việc mở thêm phòng kỹ thuật trong mô hình tổ chức của công ty
sẽ vừa đáp ứng được mục tiêu nâng cao hiệu quả dự án và hỗ trợ dịch vụ tư
vấn cho khách hàng.
Thành lập các văn phòng đại diện
Hiện tại, Công ty mới chỉ tập trung tại hai trung tâm lớn là Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh nên các khách hàng muốn biết được thông tin là rất
khó khăn. Để thuận lợi cho quá trình tiếp cận các doanh nghiệp kết hợp với
nhiệm vụ tìm hiểu thị trường nhằm nắm bắt được nhu cầu của khách hàng
cùng với tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, Công ty cần thiết lập một
mạng lưới văn phòng đại diện trên các vùng trọng điểm trong cả nước.
Mở rộng mạng lưới các chi nhánh
Trong những năm gần đây số doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời với mật
độ rất nhiều trên khắp các địa bàn cả nước. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và Tổng cục Thống kê, chỉ tính riêng năm 2005, số doanh nghiệp
đăng ký mới (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ) đã là 45.162 doanh
nghiệp, bằng tổng số doanh nghiệp trước giai đoạn 2000. Tuy nhiên theo
đánh giá của các chuyên gia, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các
doanh nghiệp công nghiệp trình độ công nghệ còn lạc hậu từ 2-3 thế hệ so
với thế giới. Thống kê cho thấy có 8% số doanh nghiệp có công nghệ tiên
tiến, 75% có công nghệ trung bình và lạc hậu. Công nghệ lạc hậu đặt các
doanh nghiệp đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập khu vực
và quốc tế đang diễn ra. Năng suất lao động thấp, tiêu hao nhiều nguyên liệu
85
và năng lượng, gây ô nhiễm môi trường và giá thành sản phẩm cao không có
sức cạnh tranh trên thị trường. Đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản
xuất là con đường tất yếu và cấp bách đối với các doanh nghiệp hiện nay.
Chính vì vậy, việc thành lập các chi nhánh mới trên các tỉnh có tốc độ
phát triển kinh tế cao như Hải Phòng, Hải Dương, Đà Nẵng, Quảng Ninh sẽ
giúp Công ty có được thị phần từ đối tượng khách hàng tiềm năng này. Công
ty có thể tranh thủ sự giúp đỡ của các chi nhánh Ngân hàng Công thương với
mạng lưới rộng khắp cả nước và đã xây dựng được uy tín trên thị trường tài
chính tín dụng trong nhiều năm qua để giới thiệu về hoạt động cho thuê tài
chính cho các khách hàng mới.
6. Hoàn thiện phƣơng pháp đánh giá và hạn chế rủi ro
6.1 Các biện pháp đánh giá rủi ro
Nhìn chung, trong hoạt động kinh doanh luôn có những tình huống
xảy ra ngoài dự kiến gây nên tổn thất kinh tế, làm chi phí tăng lên và giảm
thu nhập dự kiến. Do đặc thù của hoạt động cho thuê tài chính là tương đối
phức tạp với sự tham gia của nhiều bên nên việc đánh giá và đưa ra các biện
pháp phòng chống rủi ro là hết sức cần thiết.
Để có các biện pháp hợp lý hạn chế rủi ro xảy ra, Công ty cần nắm bắt
chính xác được nguồn gốc và nguyên nhân của những rủi ro đó. Thông
thường, các rủi ro có thể xuất phát từ người đi thuê, từ nhà cung cấp hay từ
chính bên cho thuê. Cụ thể, Công ty có thể tiến hành đánh giá rủi ro theo các
nội dung sau:
Đánh giá rủi ro từ bên đi thuê
Việc đánh giá khách hàng là một việc làm quan trọng và phải được
thực hiện thường xuyên vì đây là đối tượng chứa đựng nhiều rủi ro nhất gây
nên tình trạng gia tăng nợ xấu trong Công ty. Muốn vậy, Công ty cần tiến
hành thu thập các thông tin mà bên đi thuê có trách nhiệm cung cấp và cả
86
nguồn thông tin tự thu thập để thực hiện đánh giá khách hàng theo các mặt
sau:
- Đánh giá lịch sử kinh doanh của bên đi thuê bao gồm: kết quả kinh
doanh, thị phần, uy tín trên thị trường…
- Đánh giá tình hình tài chính của bên đi thuê: phân tích các chỉ số tài
chính, mối quan hệ tín dụng…
- Đánh giá xu hướng phát triển của bên đi thuê: căn cứ vào phân tích
tình hình kinh doanh hiện tại, dự đoán mức độ tăng trưởng trong tương lai…
Đánh giá rủi ro từ nhà cung ứng tài sản
Nhà cung ứng tài sản cũng là đối tượng cần được quan tâm để tránh
những rủi ro như: nhà cung ứng và khách hàng thuê cấu kết với nhau nâng
giá tài sản để hưởng phần chênh lệch hay nhà cung cấp cố ý giao tài sản
không đúng mẫu mã, chất lượng như trong hợp đồng đã ký dẫn đến tranh
chấp kéo dài. Vì vậy, Công ty cần đánh giá nhà cung cấp trên các phương
diện:
- Lịch sử hoạt động sản xuất kinh doanh: tên và địa chỉ của nhà cung
cấp, uy tín trên thị trường…
- Khả năng sản xuất và cung ứng được các tài sản theo yêu cầu của
người đi thuê về chủng loại, chất lượng, quy mô: Công ty có thể tham khảo
các giao dịch đã từng thực hiện trước đây của bên cung ứng.
- Khả năng và cách thức thực hiện các chính sách hậu mãi như: bảo trì,
bảo dưỡng, sữa chữa, phụ tùng thay thế…
Đánh giá rủi ro do lỗi của chính Công ty
Rủi ro này có thể xảy ra ở khâu thẩm định dự án mà nguyên nhân có
thể do trình độ hạn chế của cán bộ cho thuê như không thu thập đầy đủ thông
tin liên quan đến dự án, phân tích chưa chính xác tình hình kinh doanh của
87
khách hàng hay không biết tư vấn cho khách hàng loại tài sản phù hợp. Bên
cạnh đó, rủi ro cũng hay xuất hiện trong quá trình ký kết hợp đồng cho thuê
tài chính và hợp đồng mua bán tài sản cho thuê như người ký kết hợp đồng
không phải là người đại diện pháp nhân nên khi xảy ra tranh chấp thì hợp
đồng vô hiệu, hay trong trường hợp có tổn thất thì các rủi ro xảy ra không
thuộc đối tượng bảo hiểm.
Vì vậy, Công ty cần đánh giá những rủi ro này tại các mặt như:
- Tổng hợp những rủi ro thường gặp phải mà nguyên nhân là do phía
Công ty để đánh giá mức độ tổn thất cũng như tìm ra giải pháp khắc phục.
- Trước khi ký kết hợp đồng cần phân tích dự án và tìm ra những rủi
ro tiềm ẩn hay những khó khăn gặp phải khi triển khai: tính khả thi, các thủ
tục pháp lý liên quan…
6.2 Các biện pháp hạn chế rủi ro
Sau khi đã đánh giá được các rủi ro thường xảy ra như trên thì Công ty
cần áp dụng các biện pháp chống rủi ro thích hợp để hạn chế những tổn thất
có thể xảy ra gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Những
biện pháp hạn chế rủi ro Công ty có thể áp dụng là:
Các biện pháp bảo đảm tài sản cho thuê
- Yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba đối với những cam kết của bên thuê
trong hợp đồng cho thuê tài chính: Đối với các doanh nghiệp hạn chế về khả
năng tài chính hay chưa có thương hiệu trên thị trường thì Công ty khi tài trợ
cần yêu cầu có sự bảo lãnh của bên thứ ba như công ty mẹ bảo lãnh cho công
ty con hay một tổ chức có uy tín để đảm bảo trách nhiệm trả nợ khi doanh
nghiệp đi thuê không có khả năng thanh toán.
- Quy định tỷ lệ góp vốn hợp lý: Do Công ty muốn mở rộng đối tượng
cho thuê nhưng có nhiều doanh nghiệp chưa thực sự kinh doanh hiệu quả
hay dự án yêu cầu tài trợ có tính rủi ro tương đối thì Công ty nên yêu cầu
88
doanh nghiệp đi thuê tham gia góp vốn với mức tỷ lệ tuỳ thuộc vào từng
trường hợp sau khi phân tích để đảm bảo tính an toàn cho Công ty.
- Mua bảo hiểm cho tài sản cho thuê: Với những tài sản có giá trị cao
thì việc mua bảo hiểm là hết sức cần thiết, trong đó phải đặc biệt nghiên cứu
với mỗi loại tài sản cụ thể thì thường xảy ra các loại rủi ro nào để mua loại
bảo hiểm cho phù hợp.
- Thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của bên đi
thuê và có thể tiến hành kiểm tra đột xuất khi cần thiết: Qua đó, Công ty có
thể phát hiện và xử lý kịp thời những tình huống bất lợi xảy ra như bên đi
thuê làm ăn thua lỗ, sử dụng tài sản vào những mục đích không quy định
trong hợp đồng cho thuê.
Biện pháp trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro
Để nâng cao hiệu quả hoạt động thì ngoài việc thực hiện các biện pháp
chống rủi ro trên, Công ty cũng cần thiết phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro
để có nguồn bù đắp khi rủi ro xảy ra. Trên thực tế, Công ty còn gặp phải
những rủi ro lớn liên quan đến tài sản cho thuê như rủi ro về hao mòn hữu
hình và rủi ro về hao mòn vô hình do sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ.
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động cho thuê tài chính, Công ty nên áp
dụng phương pháp trích lập dự phòng rủi ro theo phân loại thời hạn cho thuê
của từng hợp đồng cho thuê ngay từ đầu mà không cần đến khi phát sinh nợ
quá hạn theo một tỷ lệ tính toán từ trước. Nguyên tắc trích lập là hợp đồng có
thời hạn càng cao thì tỷ lệ trích lập dự phòng càng lớn vì mức độ rủi ro của
hợp đồng dài hạn cao hơn mức độ rủi ro của hợp đồng ngắn hạn.
Biện pháp liên quan đến nghiệp vụ cho thuê
Trong quy trình cho thuê tài chính có xuất hiện nhiều khâu chứa đựng
rủi ro mà nguyên nhân có thể bắt nguồn từ chính đội ngũ cán bộ, nhân viên
của Công ty. Chính vì vậy, chất lượng nguồn nhân lực cần được nâng cao là
89
khâu đầu tiên trong biện pháp hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ cho thuê. Từ
đó, Công ty nên tiến hành đầu tư nghiên cứu ở khâu thẩm định dự án, thẩm
định khách hàng và thẩm định nhà cung cấp tài sản.
Trong khâu thẩm định dự án, cán bộ thẩm định cần tập trung phân tích
các nội dung gồm: mục đích sử dụng tài sản thuê, kế hoạch sử dụng tài sản
thuê, kết quả dự tính và xu hướng sử dụng tài sản đó trong tương lai; phân
tích hiệu quả kinh tế và tính khả thi của dự án. Đây là khâu quan trọng để
hạn chế chấp nhận những dự án không có tính khả thi và chứa đựng rủi ro
nên các nội dung phải được nghiên cứu, phân tích một cách cẩn thận trước
khi đưa ra quyết định cho thuê hay không.
IV. Một số đề xuất, kiến nghị
1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam
Kể từ khi thành lập đến nay, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã
đóng góp vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho Công ty thể hiện sự
quan tâm phần nào của Ngân hàng. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì còn nhiều
khía cạnh Ngân hàng cần đầu tư hơn nữa vì vị thế của Công ty hiện nay chưa
xứng tầm với tiềm lực của Ngân hàng. Những vấn đề cần Ngân hàng hỗ trợ
cụ thể như sau:
Thứ nhất, Ngân hàng tiếp tục bổ sung vốn cho Công ty.
Ngân hàng cần mạnh dạn cấp cho Công ty một nguồn vốn lớn hơn
nữa để hỗ trợ Công ty thực hiện chiến lược mở rộng quy mô hoạt động của
mình. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể cho Công ty vay vốn với lãi suất ưu
đãi hay hỗ trợ Công ty trong việc phát hành trái phiếu và sau này là cổ phiếu
khi Công ty tiến hành cổ phần hoá. Hiện tại, phương thức cho thuê tài chính
đang được nhiều ngân hàng khác chú trọng đầu tư thì tỷ trọng tổng nguồn
vốn của Công ty so với toàn Ngân hàng luôn dưới 1%, trong đó hai năm gần
đây là 2005 và 2006 thì đều ở mức 0,5%. Điều này cho thấy mức độ đầu tư
90
vào Công ty chưa tương xứng với mức tăng trưởng của Ngân hàng khiến
Công ty trong những năm gần đây không có sự phát triển nhảy vọt.
Thứ hai, Ngân hàng hỗ trợ Công ty mở các chi nhánh, văn phòng đại
diện tại các trung tâm kinh tế.
Với mạng lưới chi nhánh phủ khắp cả nước, Ngân hàng có thể phối
hợp cùng với Công ty nghiên cứu thị trường, quảng bá cho sản phẩm của
Công ty và mở rộng hoạt động kinh doanh tại các địa bàn mới. Với quy mô
tài chính hiện nay của Công ty thì những chi phí đó vượt quá khả năng và
không đủ nguồn nhân lực để tiếp cận thị trường mới. Do đó, Ngân hàng cần
tận dụng lợi thế sẵn có để mở rộng phạm vi hoạt động của Công ty và cũng
chính là mở rộng thị phần cho toàn hệ thống Ngân hàng.
Thứ ba, Ngân hàng có thể giúp Công ty tiếp thị dịch vụ cho thuê tại
các chi nhánh của mình.
Đây là một phương thức hữu hiệu có khả năng thu hút các doanh
nghiệp cũng như các nhà đầu tư quan tâm đến loại hình dịch vụ này. Hơn
nữa, Ngân hàng vốn là một thương hiệu có uy tín trên thị trường nên sẽ tạo
dựng được niềm tin cho các khách hàng tiềm năng khi tìm đến Công ty. Đặc
biệt, Ngân hàng cũng nên tích cực giới thiệu cho Công ty những dự án phù
hợp hay có cơ hội tiếp cận với các đối tác của Ngân hàng.
2. Kiến nghị đối với Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam
Trong năm 2006, việc ra đời Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam là
một sự kiện tốt để giúp hoạt động cho thuê tài chính phát triển khi loại hình
dịch vụ này còn non trẻ và các công ty cho thuê tài chính thì đang trong giai
đoạn vừa kinh doanh, vừa gỡ rối. Chính vì vậy, Hiệp hội xuất hiện đã giữ vai
trò như mái nhà chung, từ đó có thể giúp đỡ, hỗ trợ các công ty cho thuê tài
chính. Tuy nhiên, để hoạt động của Hiệp hội thực sự có hiệu quả thì Hiệp hội
cần tiến hành thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
91
Thứ nhất, Hiệp hội tập hợp, liên kết các hội viên hợp tác và hỗ trợ
nhau một cách có hiệu quả trong hoạt động cho thuê tài chính và các hoạt
động kinh doanh, dịch vụ khác, tạo điều kiện cho các hội viên phát triển bình
đẳng. Các hội viên cũng có cơ hội tìm hiểu và hợp tác với nhau trong kinh
doanh, đặc biệt là phương thức tài trợ liên kết.
Thứ hai, Hiệp hội là đơn vị đại diện, bảo vệ lợi ích hợp pháp của hội
viên, làm cầu nối giữa các hội viên với các cơ quan Nhà nước nhằm ổn định
và phát triển lành mạnh, hiệu quả, an toàn ngành cho thuê tài chính tại Việt
Nam. Thông qua Hiệp hội, các công ty được đề bạt nguyện vọng, đóng góp ý
kiến để Hiệp hội đại diện cho số đông và nhanh chóng đưa lên các cấp có
thẩm quyền giải quyết, điều chỉnh cho hợp lý.
Thứ ba, Hiệp hội có thể cung cấp các thông tin nghiên cứu về thị
trường, kết hợp với các hiệp hội khác như Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và
nhỏ để qua đó tiếp thị dịch vụ cho các doanh nghiệp hay giới thiệu các dự án
khả thi trong nước cũng như quốc tế. Đây sẽ là vai trò trung gian rất hiệu quả
của Hiệp hội vì uy tín có được cũng như khả năng bao quát trên phạm vi
rộng.
Thứ tư, Hiệp hội cũng là nơi giúp các cơ quan chức năng phổ biến và
triển khai các quy định liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính nên có thể
giữ vai trò cơ quan ngôn luận cho cả ba bên: Nhà nước, công ty cho thuê tài
chính và doanh nghiệp đi thuê.
Thứ năm, ngoài các vai trò cơ bản trên, Hiệp hội còn có thể tổ chức
các buổi hội nghị, hội thảo, các lớp học nghiệp vụ về cho thuê tài chính với
đội ngũ các chuyên gia, cố vấn giỏi trong nước cũng như quốc tế vì đây đang
là nhu cầu thiết yếu của nhiều công ty cho thuê tài chính Việt Nam nhằm giải
đáp các vướng mắc, nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như có cơ hội học
hỏi các kinh nghiệm.
92
3. Kiến nghị đối với Chính phủ
Để hoạt động cho thuê tài chính được phát triển tại Việt Nam thì vai
trò của Chính phủ là hết sức quan trọng vì đây là cơ quan ban hành các văn
bản pháp luật và tạo ra môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động cho thuê tài
chính. Trong những năm vừa qua, Chính phủ cũng đã quan tâm và tạo điều
kiện cho loại hình dịch vụ này nhưng như đã phân tích ở chương 2, vẫn tồn
tại một số bất cập, vướng mắc cần được giải quyết theo một số kiến nghị cụ
thể sau:
3.1 Tạo điều kiện huy động vốn cho các công ty cho thuê tài chính
- Tại khoản 2, Điều 45 của Luật các Tổ chức Tín dụng và tại khoản 1,
Điều 16 của Nghị định 16/2001/NĐ-CP chỉ cho phép công ty cho thuê tài
chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên hay không được nhận
tiền gửi không kỳ theo khoản 3, Điều 2, Luật các Tổ chức Tín dụng. Điều
này khiến các công ty cho thuê tài chính khó cạnh tranh với các tổ chức tín
dụng và làm hạn chế khả năng huy động vốn vì trong thực tế nhiều khách
hàng có nhu cầu gửi ngắn hạn. Vì vậy, Luật các Tổ chức Tín dụng và Nghị
định 16/2001/NĐ-CP cần bổ sung bằng cách cho phép các công ty cho thuê
tài chính huy động vốn ngắn hạn và không kỳ hạn giúp các công ty cho thuê
tài chính nâng cao khả năng thu hút khách hàng và sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực cũng như cơ sở vật chất sẵn có.
- Bên cạnh việc sửa đổi văn bản pháp luật, Chính Phủ có thể hỗ trợ,
thực hiện các chính sách ưu đãi về vốn cho các công ty cho thuê tài chính.
Cụ thể, Chính phủ cho phép các công ty cho thuê tài chính được tiếp cận các
nguồn vốn tài trợ như Nguồn viện trợ phát triển chính thức (Nguồn ODA),
quỹ đầu tư phát triển, quỹ tiền tệ quốc tế, các dự án tài trợ của Chính phủ,
Ngân hàng. Thông qua những quỹ ưu đãi như vậy sẽ thể hiện sự khuyến
93
khích của Chính phủ đối với các công ty cho thuê tài chính cũng như với loại
hình dịch vụ còn mang tính mới trên thị trường.
3.2 Cho phép công ty cho thuê tài chính đƣợc cho thuê bất động sản
Theo Điều 7 của Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 thì bất
động sản (nhà xưởng, đất đai…) chưa được xếp vào loại tài sản cho thuê tài
chính. Tuy nhiên, nhu cầu về thuê bất động sản lại đang trở thành mối quan
tâm của nhiều doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, một loạt các doanh
nghiệp mới ra đời kéo theo là nhu cầu về nhà xưởng, văn phòng đại diện tăng
cao nhưng nhiều doanh nghiệp lại không có đủ khả năng tài chính đề đầu tư
vào bất động sản. Chính vì vậy, Chính phủ cần cho phép công ty cho thuê tài
chính mở rộng danh mục tài sản cho thuê sang cả bất động sản để vừa giải
quyết vấn đề kích thích dịch vụ cho thuê tài chính phát triển, vừa có tác dụng
hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cũng như khuyến khích thị
trường bất động sản sôi động hơn.
Trong nghiệp vụ cho thuê tài chính với tài sản là bất động sản thì nhà
đầu tư bất động sản sẽ đóng vai trò là nhà cung ứng và quy trình cũng tương
tự như cho thuê tài chính 3 bên. Tuy nhiên, để hình thức này được áp dụng
thì Chính phủ cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về cho thuê bất động
sản vì đây vốn là loại hàng hoá đặc biệt và chịu sự điều chỉnh của nhiều văn
bản pháp luật khác.
3.3 Áp dụng phƣơng pháp khấu hao dựa trên “thời gian thu hồi vốn cần
thiết”
Theo quy định 206/2003-BTC, các doanh nghiệp Việt Nam được phép
trích khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định
theo phương pháp đường thẳng. Với quy định như vậy vẫn chưa thực sự
khuyến khích doanh nghiệp sử dụng tài sản đi thuê. Để tăng tính hấp dẫn
trong hoạt động cho thuê tài chính, Chính phủ nên cho phép các tài sản được
94
đầu tư bằng phương thức tài trợ thuê tài chính áp dụng phương pháp khấu
hao nhanh. Mức khấu hao này làm giảm lợi tức chịu thuế của doanh nghiệp
đi thuê trong những năm đầu, giúp doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình thu hồi
vốn. Đặc biệt, đây còn là giải pháp tránh hao mòn đang ngày càng lớn do sự
phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật.
Chính phủ có thể tham khảo mô hình khấu hao đặc biệt của Hiệp hội
Kế toán Hoa Kỳ: Hệ thống thu hồi vốn theo gia tốc - ACRS (Accelerated
Cost Recovery System). Hệ thống này quy định việc tính khấu hao dựa trên
thời gian thu hồi vốn cần thiết thay vì dựa vào đời sống kinh tế của tài sản cố
định. Áp dụng mô hình ACRS sẽ có tác dụng tránh hao mòn vô hình, thu hồi
vốn nhanh dựa trên thời gian thu hồi vốn đầu tư cần thiết và qua đó kích
thích sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động cho thuê tài chính.
3.4 Thành lập cơ quan đăng ký quyền sở hữu tài sản
Hiện nay, tại Việt Nam vẫn chưa có cơ quan đăng ký quyền sở hữu tài
sản nên khi xảy ra trường hợp phải thu hồi tài sản do bên đi thuê vi phạm
hợp đồng đã gây cho bên cho thuê nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do tài
sản thuê khi đó vẫn nằm trong tầm kiểm soát của bên đi thuê còn bên cho
thuê chỉ kiểm soát trên giấy tờ nên bên đi thuê có xu hướng kéo dài thời gian
thu hồi tài sản gây tình trạng gia tăng nợ xấu trong công ty cho thuê tài
chính. Hơn nữa, việc thành lập cơ quan đăng ký quyền sở hữu tài sản còn là
giải pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh. Theo kinh nghiệm tại
nhiều quốc gia phát triển, tài sản cho thuê cần phải đăng ký quyền sở hữu
tránh trường hợp bên đi thuê sử dụng tài sản cho thuê vào mục đích không
lành mạnh như cầm cố, thế chấp và bán…
3.5 Khuyến khích đầu tƣ thông qua ƣu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Theo kinh nghiệm của Công ty cho thuê Tài chính quốc tế - IFC, chính
sách thuế có vai trò quan trọng trong quyết định đầu tư của Công ty. Do mức
95
thuế có tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của công ty cho thuê tài
chính nên để thúc đẩy dịch vụ này phát triển thì Chính phủ cần có một số
chính sách thuế hợp lý và có thể mang tính ưu đãi nhằm thúc đẩy hoạt động
cho thuê tài chính phát triển hơn nữa. Trong thời gian vừa qua, chủ trương
này đã được Bộ Tài chính phát huy thông qua việc sửa đổi cho các công ty
cho thuê tài chính được hưởng ưu đãi miễn thuế như các doanh nghiệp nhập
khẩu máy móc, thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu theo khoản 1, Điều 2
trong Thông tư 24/2002/TT-BTC. Tuy nhiên, để thúc đẩy hơn nữa loại hình
dịch vụ này, Bộ Tài chính nên điều chỉnh tiếp về thuế thu nhập doanh
nghiệp. Theo Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp thì công ty cho thuê tài chính
vẫn phải nộp thuế ở mức quy định là 28%. Thực tế cho thấy loại hình dịch
vụ này có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng các công trình, cơ sở
hạ tầng, hay góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp hiện đại hoá dây chuyền sản
xuất và cung ứng các sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn. Nói chung,
hoạt động cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhưng
lại đang trong giai đoạn mới đi vào hoạt động nên còn nhiều khó khăn.
Chính vì vậy, Chính phủ có thể xem xét việc miễn giảm thuế thu nhập của
các công ty cho thuê tài chính để khuyến khích cho loại hình dịch vụ này
tăng trưởng cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm đến
lĩnh vực đầy tiềm năng này.
96
KẾT LUẬN
Sự xuất hiện nhu cầu về vốn của một lượng lớn các doanh nghiệp kéo
theo dịch vụ cho thuê tài chính có xu hướng ngày càng phát triển và chiếm vị
trí quan trọng trên thị trường tài chính Việt Nam. Đặc biệt, đây là phương
thức tài trợ thể hiện nhiều tính ưu việt với cả bên cho thuê và bên đi thuê
cũng như góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến
khoa học kỹ thuật cho nền kinh tế.
Thông qua việc nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động cho thuê
tài chính tại Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam,
bài Khoá luận đã giải quyết một số vần đề chính sau:
Thứ nhất, trình bày một cách khái quát những vấn đề lý luận cơ bản
về hoạt động cho thuê tài chính như: quá trình hình thành và phát triển của
cho thuê tài chính, các loại hình hình cho thuê tài chính, các nhân tố ảnh
hưởng, trong đó có phân tích các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả hoạt
động cho thuê tài chính.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động cho thuê tài chính
tại Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam trong
những năm vừa qua (trong khoảng thời gian từ 2003-2006) với các chỉ tiêu
đặc trưng như dư nợ cho thuê tài chính, tỷ lệ nợ xấu, doanh lợi tài sản, doanh
lợi vốn chủ sở hữu. Từ đó, rút ra những vấn đề cơ bản còn tồn tại và nguyên
nhân gây ra hạn chế để có phương hướng giải quyết.
Thứ ba, nêu ra kinh nghiệm cho thuê tài chính tại một số công ty điển
hình tại Việt Nam và trên thế giới, cùng với dựa trên thực trạng của Công ty
và hoàn cảnh của thị trường Việt Nam để đề xuất các giải pháp, kiến nghị có
tính khả thi cao.
97
Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế
giới với đỉnh cao là việc gia nhập WTO. Điều đó cho phép khẳng định, thị
trường Việt Nam là một bộ phận của thị trường quốc tế, trong đó có thị
trường tài chính. Tuy nhiên, thời cơ luôn đi kèm với những thách thức khiến
các ngân hàng trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc, đặc biệt là từ
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Trong xu thế như vậy, em hy vọng
được đóng góp phần nào ý kiến của mình thông qua Khoá luận để Công ty
cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng và thị trường
cho thuê tài chính Việt Nam nói chung ngày càng lớn mạnh hơn nữa.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên Khoá luận của
em khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo để hoàn thiện hơn nữa kiến thức
về phương thức cho thuê tài chính còn khá mới mẻ tại thị trường Việt Nam.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng việt
1. Bộ Tài chính (2003), Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC về ban hành chế độ
quản lý và trích khấu hao tài sản cố định, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2002), Thông tư 24/2002/TT-BTC về hướng dẫn thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với hoạt động cho thuê tài chính, Hà Nội.
3. Chính phủ (2001), Nghị định 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công
ty cho thuê tài chính, Hà Nội.
4. Chính phủ (2005), Nghị định 65/2005/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công
ty cho thuê tài chính, Hà Nội.
5. Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam (2003, 2004,
2005, 2006), Báo cáo Tổng kết kinh doanh, Hà Nội.
6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Thông tư 08/2001/TT-NHNN hướng dẫn
thực hiện Nghị định 16/2001/NĐ-CP, Hà Nội.
7. Công ty Tài chính quốc tế (1993), Tài liệu nghiên cứu khả thi về thiết lập nghiệp
vụ thuê mua máy móc thiết bị tại Việt Nam, Hà Nội.
8. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2003, 2004, 2005, 2006), Báo cáo thường
niên, Hà Nội.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Thông tư 06/2005/TT-NHNN hướng dẫn
thực hiện một số nội dung tại Nghị định 16/2001/NĐ-CP và Nghị định
65/2005/NĐ-CP, Hà Nội.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Hệ thống các tổ chức tín dụng, Hà nội.
11. Nguyễn Minh Trí, Cho thuê tài chính trong quá trình đa dạng hoá dịch vụ của
các ngân hàng thương mại, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ (Số 16/2007).
12. Nguyễn Minh Trí, Một số giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ cho
thuê tài chính ở nước ta,Tạp chí Ngân hàng (Số 11/2007).
13. Nguyễn Tấn Bình (2006), Phân tích hoạt động doanh nghiệp, Nhà xuất bản
Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh.
99
14. PGS.TS. Lê Văn Tề (2007), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản
Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh.
15. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật sửa đổi bổ
sung Luật các Tổ chức Tín dụng, Hà Nội.
16. Th.S Võ Thành Thống, Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở TP Cần Thơ và
vùng ĐBSCL đến 2015,Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (Số 8/2007).
17. Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản (1996), Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua,
Nhà xuất bản Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
II. Websites.
18. Báo diễn đàn các doanh nghiệp điện tử:
19. Bộ Tài chính:
20. Công ty cho thuê tài chính II Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam:
21. Công ty cho thuê tài chính CHD (CHD Leasing, Inc.), Hoa Kỳ:
22. Công ty tài chính quốc tế IFC (International Finance Corporation):
23. Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam:
24. Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín:
25. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam:
26. Tạp chí kế toán:
1&Itemid=182
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3728_8459.pdf