Khóa luận Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty cho thuê tài chính thuộc ngân hàng thương mại Việt Nam

Bên cạnh đó, các công ty CTTC đang chịu mức thuế thu nhập doanh nghiệp như những đơn vị kinh doanh bình thường khác là chưa hợp lý bởi trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước có quy định trường hợp được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là:  Đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ xây dựng công trình, đầu tư xây dựng các khu thương mại, các loại nhà phục vụ nhu cầu của nhân dân thành phố.  Đầu tư thành lập phân xưởng sản xuất mới, lắp đặt thêm máy móc vào dây chuyền sản xuất hiện có, lắp đặt máy móc, thiết bị mới thay thế thiết bị hiện có,. Nếu xem xét hoạt động của công ty CTTC thì hầu hết đều làm những công việc trên. Các công ty CTTC đã đóng góp một phần rất lớn trong việc đổi mới nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, các công ty CTTC theo quan điểm xem xét như một ngân hàng phát triển, là chiếc cầu nối chuyển giao công nghệ, nên cũng xứng đáng được hưởng mức thuế ưu đãi như các doanh nghiệp trực tiếp đổi mới công nghệ. Kiến nghị Bộ tài chính nên giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty CTTC, cho phép các công ty này được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi trên phần lợi nhuận tạo ra từ việc cho thuê nhữ ng tài sản được đánh giá là tạo ra sự đổi mới công nghệ.

pdf96 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3177 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty cho thuê tài chính thuộc ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t định này. Trong những trường hợp như vậy, vướng mắc đặt ra là, bên nào (bên cho thuê hay bên thuê) sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trích khấu hao đối với tài sản thuê tài chính? Trong khi đó, theo Quyết định 731/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 15/6/2004 ban hành Quy chế tạm thời về hoạt động cho thuê vận hành của các công ty CTTC thì đối với hoạt động cho thuê vận hành, nghĩa vụ thuế (có liên quan đến nghĩa vụ trích khấu hao tài sản cố định) của công ty CTTC được thực hiện theo quy định của Bộ tài chính. Vì thế, cần thiết phải sửa đổi Quyết định 206/2003/QĐ-BTC theo hướng bỏ việc định nghĩa thế nào là CTTC, để việc áp dụng được thuận lợi và rõ ràng hơn. 62 Như vậy, pháp luật về CTTC vẫn đang còn những điều hạn chế và bất hợp lý. Để hình thức cấp tín dụng này ngày càng thể hiện được vai trò của nó trong việc khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh, cần thiết phải có những sửa đổi pháp luật cho phù hợp. b.Vốn huy động cho thuê tài chính còn ít và chưa đa dạng Hầu hết các công ty CTTC hiện nay chủ yếu sử dụng các nguồn vốn chủ sở hữu, mà nguồn vốn này hiện nay là rất ít ỏi. Trong khi đó, khả năng thu hút vốn của các công ty CTTC chưa đa dạng, chỉ được phát hành trái phiếu và huy động nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng trong nước. Việc phát hành trái phiếu đến nay cũng mới chỉ có duy nhất công ty CTTC Quốc tế Việt Nam, còn lại các CTTC thuộc NHTM thì thu hút vốn bằng cách vay từ ngân hàng mẹ. Ngoài ra, các công ty CTTC chưa nhận được sự hỗ trợ nào về nguồn vốn từ phía Chính phủ hay của Ngân hàng nhà nước. Thực tế chỉ có các công ty sở hữu bởi 2 NHTM quốc doanh là hoạt động dựa trên vốn duy động, còn lại các công ty khác đều hoạt động dựa trên số vốn tự có. Điều này không những hạn chế khả năng tài trợ, mở rộng thị trường mà còn làm giá cho thuê cao vì chi phí sử dụng vốn cao so với các nguồn vốn huy động khác. Bên cạnh hạn chế về vốn thì các công ty CTTC cũng đang bị hạn chế về mức tài trợ cho một khách hành không vượt quá 30% vốn tự có của mình. Chính vì vốn kinh doanh nhỏ cũng như bị hạn chế bởi các điều kiện huy động vốn, hạn chế mức tín dụng cộng với đặc thù hoạt động của CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn có số dư khách hàng cao dẫn tới thực trạng các công ty CTTC chưa thực hiện được các hợp đồng cho thuê có giá trị lớn mà chỉ dừng lại cho thuê các thiết bị lẻ, giá trị hợp đồng thấp thường dưới 10 tỷ đồng, lượng khách hành thuê trong một kì hạn cũng hạn chế. Nguyên nhân trên đã làm cho dư nợ cho thuê hàng năm của các công ty CTTC trong thời gian qua không lớn, chỉ đạt mức 1% so với dư nợ cho vay toàn hệ thống. 63 c. Lãi suất tài trợ còn cao Một trong những vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm khi tiếp cận đến một loại hình tài trợ là lãi suất tài trợ tức là quan tâm đến giá cả của việc sử dụng vốn. Do lãi suất tài trợ của loại hình CTTC cao là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động CTTC không phát triển, các doanh nghiệp không mặn mà với loại hình tài trợ này. Lãi suất tài trợ CTTC còn cao so với vay vốn tín dụng trung và dài hạn. Lãi suất tính cho thuê cao hơn từ 20 – 25%, còn so với việc mua sắm trực tiếp từ nhà cung cấp thì CTTC thường có giá cao hơn khoảng 10% sau khi loại trừ chi phí lãi suất tài trợ. Giá CTTC cao là vì ngoài lãi suất tài trợ bằng hoặc cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn của ngân hàng, tại thời điểm khi lãi suất cho vay ở mức 0,95 – 1% / tháng thì các công ty CTTC phải tính thêm vào giá cho thuê nhiều loại chi phí, lệ phí và các khoản thuế khác đã làm cho lãi suất tài trợ lớn hơn 1%/ tháng. Mặt khác, hầu hết máy móc đều phải nhập khẩu nên lại cộng thêm những yếu tố khiến chi phí CTTC đội lên là do lệ phí trước bạ, phí kiểm định, đăng ký tài sản, công chứng hợp đồng,… Một vấn đề nữa là việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng (VAT) theo cách tính hiện nay của ngành thuế cũng làm tăng đáng kể giá CTTC, với một loại thiết bị nếu bên thuê tự mua sắm làm tài sản cố định thì được khấu trừ thuế VAT ngay trong vòng 3 tháng đầu kể từ khi mua sắm, nhưng đối vối tài sản đi thuê thì thuế giá trị gia tăng được khấu trừ phải chia thành nhiều đợt theo tỷ lệ tương ứng với giá trị thanh toán tiền thuê của mỗi đợt, việc kéo dài thời gian khấu trừ thuế đã làm phát sinh tiền lãi trên số tiền thuế VAT chậm được khấu trừ, do đó làm tăng giá thuê tài chính. Ngoài ra, giá CTTC cao hơn ngân hàng là do ngân hàng với nhiều chức năng, nhiều loại hình dịch vụ làm đa dạng hóa nguồn thu nhập. Ngân hàng được sử dụng một tỷ lệ vốn huy động tiền gửi ngắn hạn của công chúng với lãi suất thấp vào cho vay trung và dài hạn do đó làm giảm chi phí sử dụng vốn trên góc độ tổng thể và giảm được lãi suất cho vay. Trong khi đó công ty CTTC là tổ chức tín 64 dụng phi ngân hàng hoạt động kinh doanh hầu như chỉ chuyên một lĩnh vực là CTTC thông qua cho thuê động sản do vậy chi phí sử dụng vốn của các công ty CTTC cao hơn so với NHTM làm tăng áp lực lên giá CTTC và làm giảm lợi nhuận. d.Trình độ nghiệp vụ và năng lực quản lý của cán bộ còn nhiều hạn chế Trong 8 công ty CTTC thuộc NHTM thì có 4 công ty thuộc NHTM cổ phần và 4 công ty thuộc NHTM quốc doanh. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động của các công ty chưa đầy đủ, song vấn đề có ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả hoạt động kinh doanh đó là đội ngũ cán bộ, nhân viên nghiệp vụ cả các công ty CTTC. Hầy hết các cán bộ này đều được thuyên chuyển từ ngân hàng mẹ sang. Năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ công ty CTTC thuộc NHTM chưa bắt kịp với nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, nghiệp vụ CTTC cũng mới chỉ được các ngân hàng áp dụng hơn 10 năm, do đó những cán bộ nhân viên ở các công ty CTTC chưa được đào tạo căn bản, thiếu kinh nghiệm trong hoạt động cho nên hầu hết các công ty vừa triển khai hoạt động vừa tiến hành đào tạo và đào tạo lại, vừa làm vừa học hỏi và đó cũng là lý do làm cho hoạt động CTTC chưa có bước đột phá. Hầu hết các công ty đều thiếu cán bộ có năng lực, tinh thông về nghiệp vụ cho thuê, nghiệp vụ xuất nhập khẩu, nghiệp vụ thẩm định máy móc, nghiệp vụ phát triển thị trường,… Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC thuộc NHTM Việt Nam. Để hoạt động kinh doanh của các công ty được thuận lợi và phát triển mạnh, thực sự trở thành một kênh dẫn vốn mới, có tiện ích riêng góp phần giúp các doanh nghiệp (đặc biệt vừa và nhỏ) thực hiện đổi mới công nghệ, áp dụng thành tựu kĩ thuật mới trong sản xuất tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống thì các công ty cần 65 phải khắc phục những hạn chế này. Chương 3 của khóa luận này xin được đưa ra một số giải pháp và một số điều kiện thực thi giải pháp để góp phần vào việc phát triển hoạt động kinh doanh tại các công ty CTTC thuộc NHTM Việt Nam. 66 CHƢƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH THUỘC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM I. Sự cần thiết và định hƣớng phát triển hoạt động cho thuê tài chính 1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam Ngày nay, xu thế hội nhập với thế giới vừa là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam khi phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế cũng như trong nước để tồn tại. Khi Việt Nam gia nhập vào WTO thì lần lượt những rào cản về thương mại, mậu dịch lần lượt được dỡ bỏ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam dễ dàng hơn, nhưng lại gây ra những bất lợi không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước. Do đó, để tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, giá thành hợp lý,…Tuy nhiên, những doanh nghiệp Việt Nam tạo được vị thế trên trường quốc tế là rất ít ỏi và thực tế đáng buồn hơn là hàng hóa ngoại nhập ngày càng tràn lan trên thị trường nội địa, từ những đồ dùng cao cấp như đồ điện tử, điện lạnh đến những thứ tiêu dùng hàng ngày như thực phẩm, nước uống. Một trong những lý do phải kể đến đó là do thiết bị máy móc sản xuất của các doanh nghiệp trong nước đã cũ kĩ, lỗi thời, công suất thấp,... Theo đánh giá chung thì kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, một số doanh nghiệp Việt Nam tham gia liên doanh với nước ngoài đã được tăng cường nhanh về công nghệ và thiết bị, sản xuất được một số sản phẩm có chất lượng khá để xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Nhưng có một vấn đề đặt ra rằng công nghệ chuyển giao vào trong nước vẫn còn một số dự án áp dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu, thiết bị đã sa thải do đổi mới 67 công nghệ của các công ty ở nước ngoài. Về lĩnh vực sản xuất hàng nông sản, cũng do không biết cách sử dụng khoa học công nghệ mà năng suất sản xuất chưa cao, chưa biết cách bảo quản chế biến nên làm giảm chất lượng sản phẩm. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn đứng vững trong cạnh tranh thì phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, giá thành hợp lý. Để làm được điều này phải có máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại và đây là tiềm năng lớn cho phát triển loại hình CTTC. Và với trên 90% doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì CTTC thực sự sẽ là kênh dẫn vốn hiệu quả đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở chương một, hoạt động CTTC còn có rât nhiều lợi ích đối với cả bên đi vay, bên cho vay và cả nền kinh tế. Trong thời kì mà nền kinh tế nước ta đang dần vượt qua khủng hoảng và lấy lại mức tăng trưởng thì phát triển hoạt động CTTC cũng là một cách để kích thích sản xuất, tăng cao giá trị cho xã hội. Khi một doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng để sản xuất kinh doanh, họ có thể dùng nhiều cách khác nhau để mạo danh đồng vốn đó đi thực hiện việc khác như đầu tư vào chứng khoán, bất động sản để làm lợi cho mình nhưng lại không tạo ra giá trị gì cho xã hội. Với việc sử dụng CTTC, cả ngân hàng, nhà nước đều có thể quản lý được đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng như thế nào, mang lại những lợi ích gì. Sự vận động và phát triển của thị trường CTTC sẽ ngày càng làm đa dạng hóa thị trường vốn, làm đa dạng hóa hình thức tích tụ tập trung vốn cho nền kinh tế trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển chưa ổn định, NHTM chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vốn trung và dài hạn cho việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị của doanh nghiệp.Việc phát triển thị trường CTTC sẽ tạo ra sự chuyển đổi về cơ cấu tín dụng, đặc biệt là giảm bớt gánh nặng của hệ thống các NHTM. Như vậy, phát triển hoạt động CTTC là một yêu cầu hết sức chính đáng, phù hợp đối với các doanh nghiệp để nhằm phát triển sản xuất. Hơn thế 68 nữa, đây cũng là một loại hình hoạt động có lợi đối với tất cả các thành phần trong nền kinh tế. 1.2. Định hƣớng phát triển hoạt động cho thuê tài chính trong thời gian tới Để hoạt động CTTC phát triển thì việc định hướng cho ngành cho thuê trong thời gian tới là rất quan trọng. Nó là những kim chỉ nam để cho các nhà hoạch định đưa ra các giải pháp để phát triển loại hình này trong thời gian tới. Xuất phát từ những mục tiêu kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu chiến lược của hệ thống tài chính nói riêng thì ngành cho thuê phải ngày càng được củng cổ và phát triển nhằm đáp ứng được mục tiêu chung của cả nước13, cụ thể:  Trong những năm tới phát triển hoạt động CTTC thành một loại hình tài trợ lớn của nền kinh tế để thay thế dần cho việc vay ứng trước mua sắm máy móc thiết bị nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế theo chủ trương “đi tắt”, “đón đầu” các ngành công nghệ hiện đại của thế giới, chống lại sự tụt hậu về công nghệ một cách có hiệu quả  Hoạt động của nghiệp vụ CTTC cần được mở rộng ra đến các đối tượng có triển vọng phát triển mạnh mẽ nhưng thiếu công nghệ hiện đại như ngành nuôi trồng thủy sản, ngành chế biến nông hải thủy sản, đánh bắt xa bờ, sản xuất vật liệu mới trong xây dựng, chế tạo thiết bị, vv.  Phấn đấu đến năm 2020 mạng lưới hoạt động CTTC sẽ được phủ kín trên mọi vùng lãnh thổ của nền kinh tế, và có khả năng tài trợ cho tất cả mọi doanh nghiệp có nhu cầu trang bị máy móc thiết bị theo hình thức CTTC.  Phát triển thị trường CTTC phải đảm bảo từng bước tự do hóa có trật tự, các hoạt động trên thị trường CTTC đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh 13 Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Chiến lược phát triển ngành ngân hàng từ năm 2010 đến năm 2020, tr40 69 giữa các chủ thể tham gia thị trường, đảm bảo tính đồng bộ thống nhất, minh bạch ổn định và phù hợp với thông lệ quốc tế.  Phát triển thị trường CTTC phải đảm bảo đa dạng hóa các sản phẩm tài chính, các hình thức đầu tư, khuyến khích các công ty CTTC và các định chế tài chính trung gian phát triển các dịch vụ tài chính mới, cung cấp các dịch vụ trọn gói và nâng cao chất lượng dịch vụ. Phát triển cả số lượng và chất lượng hoạt động của các trung gian tài chính theo nhiều hình thức hoạt động kinh doanh, tăng mức vốn tối thiểu và pháp định, củng cố và nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của các chủ thể.  Phát triển dịch vụ CTTC phải đảm bảo sự vận hành an toàn lành mạnh và có hiệu quả, từng bước mở cửa thị trường đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, cho phép các đối tác nước ngoài tham gia vào thị trường CTTC với mức độ hợp lý ; khai thác tối đa các tác động tích cực và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập, tạo điều kiện để thị trường CTTC vừa là một kênh nhận vốn đầu tư nước ngoài, vừa là một kênh chuyển giao công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa thời kì hội nhập WTO. II. Một số giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty cho thuê tài chính ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 2.1. Mở rộng thị trƣờng cho thuê tài chính 2.1.1 Mở rộng phạm vi thị trường Hiện nay trong 8 công ty CTTC thuộc NHTM thì có 4 công ty có trụ sở chính đóng tại Hà Nội, 4 công ty đóng tại thành phố Hồ Chí Minh. Theo thống kê thì đến nay các công ty này mới chỉ mở các chi nhánh tại những thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, còn ở các tỉnh thành phố khác chưa có một công ty cũng như chi nhánh nào. Trong khi các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp lại tập trung hầu hết ở các tỉnh, thành phố có khu công nghiệp, đặc biệt là hai tam giác kinh tế. Do vậy, nhu cầu CTTC ở các vùng này là rất lớn. Bên cạnh đó, với đặc thù là một thành viên của ngân 70 hàng nên các công ty CTTC thuộc NHTM sẽ có những lợi thế do tất cả các ngân hàng này đều đã có chi nhánh tại các tỉnh thành trên cả nước. Như vậy, với điều kiện sẵn có của mình, việc mở thêm các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố khác đối với các công ty CTTC thuộc NHTM là rất khả thi. Việc mở chi nhánh sẽ có những lợi ích cơ bản sau:  Tiếp cận nhanh chóng với các doanh nghiệp có nhu cầu CTTC  Việc thẩm định tình hình tài chính, kinh doanh và dự án của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng và chính xác hơn.  Giảm chi phí cho công ty trong việc đi lại, thẩm định. Điều này đồng nghĩa với việc giảm lãi suất đầu ra và tăng sức cạnh tranh cho các công ty. Tuy nhiên, việc mở chi nhánh cũng gây những khó khăn về mặt tài chính, nhất là đối với các công ty nhỏ như Sài Gòn Thương Tín và Á Châu. Bên cạnh đó còn là việc tổ chức điều hành, nhân sự. Song, vì là một thành viên của ngân hàng, nên các công ty này có tận dụng được các kinh nghiệm và sự trợ giúp từ phía ngân hàng trong hoạt động này. 2.1.2 Mở rộng mạng lưới khách hàng Để mở rộng mạng lưới khách hàng,các công ty có thể phối hợp đồng thời hai biện pháp: Thứ nhất, thông qua thực tiễn hoạt động và quá trình tìm hiểu thị trường, các công ty nên xác định khách hàng tiềm năng và từ đó trực tiếp tiếp xúc với họ, giới thiệu về loại hình CTTC và những lợi ích mà CTTC đem lại cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Với sự tiếp xúc trực tiếp này, các công ty sẽ hiểu được nhu cầu của khách hàng, đồng thời có thể tạo lập được những mối quan hệ trực tiếp với các cơ quan quản lý và điều hành hoặc các đơn vị sản xuất kinh doanh có liên quan đến đối tượng khách hàng nói trên. 71 Thứ hai, các công ty CTTC có thể phối hợp với các chi nhánh của ngân hàng mẹ để tìm kiếm khách hàng có nhu cầu. Đây là một trong những lợi thế sẵn có của các công ty CTTC thuộc NHTM bởi tất cả các ngân hàng mẹ này đều có chi nhánh rộng khắp cả nước. 2.2. Đa dạng hóa và nâng cao chất lƣợng sản phẩm dịch vụ Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ các phương thức CTTC cần được quan tâm xem xét kĩ lưỡng bởi đây là vấn đề cốt lõi đảm bảo sự phát triển bền vững của công ty, nhất là khi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ như sau:  Hoàn thiện quy trình thực hiện nghiệp vụ CTTC theo hướng đơn giản hóa và nhanh chóng.  Xây dựng và thực hiện tốt quy trình thẩm định dự án cho thuê, không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định dự án nhằm đưa ra quyết định đúng đắn và đem lại hiệu quả cao.  Cung cấp các dịch vụ phụ trợ kèm theo như: dịch vụ tư vấn chọn lựa công nghệ, lựa chọn nhà cung cấp, tư vấn cho người cho thuê lựa chọn các điều khoản về bảo hành, bảo trì với các nhà cung cấp thiết bị… Để đa dạng hóa sản phẩm CTTC, các công ty nên vận dụng linh hoạt các phương thức CTTC khác. Sản phẩm chủ yếu hiện nay của các công ty CTTC là CTTC 2 bên, 3 bên, bán và tái cho thuê. Tuy nhiên, khi sự cạnh tranh ngày càng gia tăng, lãi suất thấp sẽ không còn là công cụ cạnh tranh mang lại hiệu quả nữa. Ngược lại, cần phải có giải pháp đồng bộ mà một trong số đó phải vận dụng linh hoạt các phương thức CTTC nhằm làm đa dạng hóa sản phẩm CTTC, đáp ứng được đa dạng nhu cầu của khách hàng, từ đó mở rộng được các đối tượng khách hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động CTTC. Các công ty cho thê có thể mở rộng nghiệp vụ cho thuê sang những phương thức mới như: 72  Cho thuê hợp vốn: có một thực tế rằng vốn tự có của các công ty CTTC thuộc NHTM hiện nay chỉ dao động từ 100 tỷ đến 500 tỷ đồng. Điều này có nghĩa là các công ty chỉ có thể thực hiện được các hợp đồng tài trợ từ 30 tỷ đến 150 tỷ đồng, nhiều hợp đồng lớn hơn sẽ bị bỏ qua. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, hoạt động đầu tư được đẩy mạnh, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản, nhiều công trình xây dựng lớn đòi hỏi nhiều loại máy móc thiết bị, trong đó có các máy móc thiết bị có giá trị lớn. Trước tình hình đó, các công ty CTTC nên liên kết với nhau để cùng đồng tài trợ các hợp đồng có giá trị lớn. Mỗi công ty có một thế mạnh riêng về lĩnh vực nào đó, vì vậy sẽ rất có lợi nếu các công ty liên kết với nhau đồng cho thuê một dự án, đặc biệt là hai công ty của cùng một ngân hàng như 2 công ty của ngân hàng Đầu tư và phát triển hay ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Với việc đồng tài trợ cho một dự án lớn như vậy, các công ty này không những tăng thêm được lượng khách hàng, được tham gia vào các thương vụ lớn, nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn giúp tăng thêm uy tín và thương hiệu của công ty, giúp các công ty mở rộng quan hệ hợp tác học hỏi lẫn nhau.  Cho thuê giáp lưng: các doanh nghiệp thuê tài chính không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng hết thời gian sử dụng hữu ích của máy móc, thiết bị nên khi hết thời hạn thuê mà bên đi thuê không thuê tiếp máy móc thì máy móc đó khó có thể cho thuê tiếp được. Khi áp dụng phương thức cho thuê giáp lưng, trong trường hợp bên đi thuê không còn nhu cầu thì sẽ tự tìm cho mình một bên thứ hai thuê lại khoảng thời gian còn lại của hợp đồng với công ty CTTC. Cách thức này sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế được nhược điểm của hợp đồng 2, 3 bên thông thường trong trường hợp hết nhu cầu sử dụng máy móc mà lại không được hủy ngang hợp đồng. Từ đó khuyến khích và tạo ra một tâm lý an tâm hơn cho các doanh nghiệp khi quyết định thuê mua. 73 Một vấn đề đặc biệt được đặt ra đối với các công ty CTTC thuộc NHTM đó là sự thiếu hụt về kiến thức chuyên môn về công nghệ. Như vậy, muốn phát triển hoạt động CTTC tại các công ty này trong thời gian tới đòi hỏi họ phải xây dựng những chiến lược lâu dài cho mình. Một trong số đó là chiến lược hợp tác với các công ty tư vấn, các công ty dịch vụ kĩ thuật. Hợp tác chặt chẽ với các công ty này, các công ty CTTC cũng có thể hợp tác với họ để thiết lập các mạng lưới đại lý dịch vụ bảo hành, bảo trì máy móc thiết bị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Một mạng lưới các nhà cung cấp máy móc thiết bị có uy tín, chất lượng đảm bảo chắc chắn sẽ tạo ra một lợi thế thu hút khách, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường CTTC nói riêng và thị trường tài chính nói chung. 2.3. Xây dựng chiến lƣợc nguồn vốn Với đặc thù kinh doanh một loại hình đơn lẻ, không được phép mở ra các hoạt động kinh doanh khác để hỗ trợ như nhận tiền gửi, thanh toán, cho vay ngắn hạn,... công ty CTTC sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn vốn để cho thuê. Để mở rộng quy mô kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty CTTC trên thị trường vốn thì nhất thiết phải tăng vốn tự có, đa dạng hóa các nguồn huy động vốn. Các công ty CTTC thuộc NHTM có thể lựa chọn các giải pháp có thể kể đến như: 2.3.1. Triển khai nghiệp vụ huy động tiền gửi dài hạn Nghiệp vụ này hoàn toàn mới mẻ với các công ty CTTC cũng như người gửi tiền vì từ trước tới nay các khách hàng chỉ mới quen giao dịch với các tổ chức ngân hàng hay tín dụng. Do vậy, bên cạnh việc phải tiến hành công tác thông tin quảng cáo đại chúng về dịch vụ mới thì các tổ chức CTTC phải nhanh chóng xây dựng quy trình nghiệp vụ, thành lập các bộ phận chức năng để sẵn sàng triển khai việc nhận tiền gửi của các tổ chức và cá nhân. Các công ty CTTC trực thuộc NHTM sẽ có lợi thế khi triển khai dịch vụ này là vì họ sẽ nhận được những hỗ trợ về mặt nghiệp vụ, về tổ chức nhân sự, về kinh 74 nghiệm,… Song đó cũng là một thách thức khi các công ty này không những phải cạnh tranh với chính các ngân hàng mà còn là với các chi nhánh trong cùng hệ thống. Tận dụng những lợi thế về sức trẻ, bộ máy mới thành lập gọn nhẹ,..các công ty CTTC phải phát huy lợi thế cạnh tranh trên các mặt như: nâng cao chất lượng, phục vụ theo phong cách mới với các phương tiện hiện đại, thái độ phục vụ chu đáo, ân cần, lãi suất huy động cạnh tranh. Song song với việc đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi thì các công ty CTTC phải xây dựng phương án tăng cường cho thuê hay đa dạng các nghiệp vụ đầu tư khác trong khuôn khổ cho phép nhằm đa dạng hóa dịch vụ, tránh tình trạng lúc thì không đủ vốn hoặc lại ứ đọng vốn. 2.3.2. Phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác Đây là một nghiệp vụ được phép song từ trước đến nay chưa có công ty CTTC thuộc NHTM nào khai thác được nguồn vốn này. Hiện nay với sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán, các công ty CTTC nên sử dụng thị trường này với sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư để huy động thêm nguồn vốn nhàn rỗi từ công chúng nhằm khai thác hết tiềm năng nội lực đất nước và các nguồn vốn đầu tư tài chính gián tiếp từ bên ngoài. Việc phát hành trái phiếu có thể được bảo lãnh, bao tiêu bởi một nhóm các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng như quỹ đầu từ, công ty tài chính, công ty chứng khoán,… 2.3.3. Khai thác việc mua hàng trả chậm từ nhà cung cấp Các công ty CTTC thiêt lập một mạng lưới cung cấp tài sản cho thuê từ các nhà sản xuất trong nước và nước ngoài. Qua mạng lưới này hình thức mua hàng trả chậm, các công ty CTTC thu hút khai thác được nguồn vốn nước ngoài. Hoạt động này có thể khai thác bằng hình thức tín dụng thương mại và các công ty CTTC đi vay để cho thuê dưới dạng tài sản. Cùng với quá trình gia nhập AFTA, kí hiệp định thương mại Việt – Mỹ, gia nhập WTO thì chính sách mở cửa và lộ trình cắt giảm thuế, lãi suất đã thỏa ước sẽ tạo ra một luồng 75 đầu tư mới, được dự báo là sẽ tăng trưởng với tốc độ nhanh. Chính nhờ các yếu tố đó làm xuất hiện các nhà cung cấp nước ngoài do có được lợi thế về chi phí vốn sản xuất thấp nên sẵn sàng cung cấp máy móc, thiết bị theo hình thức thanh toán trả chậm cho thị trường Việt Nam đầy tiềm năng trong những năm tới. Các công ty CTTC là địa chỉ được các nhà cung cấp quan tâm vì ở đó họ nhận được sự đảm bảo, an toàn về tài chính so với mua bán trực tiếp với khách hàng sử dụng. Cơ hội giúp các công ty CTTC tăng được vốn kinh doanh, tăng thêm khả năng đáp ứng cho thị trường đồng thời bên thuê cũng được hưởng lợi do tài sản cho thuê được tăng lên, giá cho thuê có xu hướng giảm xuống do chi phí sử dụng vốn của bên cho thuê giảm,.. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, các công ty CTTC trước hết cần phải có một chiến lược kinh doanh rõ ràng, xác định nhóm tài sản cho thuê và đối tượng cho thuê nhằm thuyết phục được đối tác nhà cung cấp. Đây là một vấn đề hết sức thách thức đối với các công ty CTTC thuộc NHTM bởi họ chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như chuyên môn trong lĩnh vực công nghệ. 2.4. Thực hiện các biện pháp phòng chống rủi ro Hoạt động kinh doanh không thể tránh được rủi ro bởi vì rủi ro do nguyên nhân khách quan hay chủ quan luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù tài trợ qua hoạt động thuê mua có độ rủi ro thấp hơn một số loại hình tài trợ khác nhưng do tài trợ qua thuê mua thường có thời gian dài với khoản vốn tài trọ không nhỏ thì vấn đề phòng chống rủi ro là rất cần thiết. 2.4.1. Giảm thiểu rủi ro gây ra bởi các yếu tố khách quan như sự biến đổi lãi suất thị trường và tỷ giá hối đoái Trong hoạt động tài chính, rủi ro do biến động của lãi suất thị trường là không thể tránh khỏi, nhưng trong hoạt động CTTC có thể chống đỡ được bằng cách sử dụng lãi suất thả nổi có điều chỉnh đối với tiền thuê. Vì vậy khi thỏa thuận tiền thuê, công ty cho thuê nên cân nhắc kỹ cơ chế lãi suất mà mình áp dụng. 76 Sự thay đổi tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp tới việc nhập khẩu các tài sản từ nước ngoài. Biện pháp để giảm thiệt hại do sự thay đổi tỷ giá hối đoái là cho công ty CTTC mở thư tín dụng đối với khách hàng nhập khẩu, xin trả chậm cho đến khi tính tiền thuê với khách hàng, hoặc giao nhận tay ba giữa nhà cung cấp máy móc thiết bị, công ty CTTC và doanh nghiệp đi thuê, sự biến động tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến giá thuê vì người đi thuê phải chịu. 2.4.2. Giảm thiểu rủi ro gây ra từ phía khách hàng và tài sản cho thuê a. Thẩm định khách hàng thuê Để đánh giá khách hàng thuê, cần phải xem xét trên các khía cạnh sau:  Khía cạnh pháp lý: Cho biết nguồn gốc, lĩnh vực kinh doanh và bản chất của doanh nghiệp.Khi thẩm định, công ty CTTC phải xem xét các văn bản,giấy tờ đưa đến có đủ tin cậy hay không. Nếu cần, có thể đề nghị doanh nghiệp cho đối chiếu với văn bản gốc, xem xét thời gian của giấy phép hành nghề, căn cứ giấy phép còn mới hay đã thuộc về những quy định đã thay đổi. Để thẩm định được vấn đề này, các cán bộ của công ty CTTC phải có hiểu biết về pháp luật, về chế độ một cách tường tận.  Khía cạnh tài chính: Khi thẩm định công ty phải xem xét báo cáo tài chính của doanh nghiệp, phải đối chiếu, kiểm tra tính xác thực của số liệu, phải phân tích cụ thể tình hình tài chính thông qua các chỉ tiêu kinh tế như hệ số thanh toán nhanh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn,…độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Để xem xét khía cạnh này, các cán bộ phòng kinh doanh phải linh hoạt, dựa vào nhiều hệ số khác nhau để đưa ra những nhận định chính xác nhất về tình hình tài chính hiện có của doanh nghiệp.  Uy tín của khách hàng trong quan hệ với bạn hàng, ngân hàng, các cơ quan tài chính.  Đạo đức, năng lực quản lý điều hành, trình độ chuyên môn của người đứng đầu doanh nghiệp. 77  Hoạt động của doanh nghiệp: công nghệ máy móc thiết bị hiện tại của doanh nghiệp, trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, chủng loại, chất lượng, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, xu hướng phát triển thị trường, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. b. Thẩm định tài sản và dự án cho thuê Trong hoạt động CTTC, việc lựa chọn và định giá tài sản thuê thuộc quyền và trách nhiệm của người đi thuê. Nhưng với tư cách là nhà tài trợ tài chính bên cho thuê phải xem xét kĩ tài sản và hiệu quả của dự án thuê. Thẩm định về tài sản cần chú trọng các vấn đề sau:  Tính pháp lý của tài sản (đặc biệt là máy móc thiết bị nhập khẩu)  Chất lượng, trình độ công nghệ, kỹ thuật của tài sản (tuổi thọ, công nghệ, khả năng vận chuyển, lắp đặt, tốc độ lỗi thời…) có phù hợp với năng suất sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không? Đối với những tài sản có tính đặc chủng cần tìm hiểu xuất xứ và kinh nghiệm của nhà sản xuất.  Giá cả có phù hợp với thiết bị cùng loại trên thị trường không?  Năng lực sử dụng, vận hành, mức độ an toàn, điều kiện bảo dưỡng sửa chữa thiết bị trong quá trình sử dụng.  Xu hướng sử dụng tài sản trong tương lai: có dễ bán hay không hoặc tương lai của ngành công nghiệp sử dụng tài sản đó. Một vấn đề nữa khi thẩm định tài sản là phải tìm hiểu kĩ về tư cách, uy tín của nhà cung cấp thiết bị tương tự như xem xét khách hàng thuê (về lĩnh vực kinh doanh chủ yếu, trình độ chuyên môn kĩ thuật, khả năng cung cấp các loại dịch vụ bảo hành…) Trong thẩm định dự án, về mặt lý thuyết người ta đưa ra nhiều công thức tính toán tiêu chuẩn kinh tế của dự án, chẳng hạn như NPV hay IRR để xác định dự án có tính khả thi hay không. Nhưng trên thực tế, các công ty CTTC nên quan tâm đến hiệu quả đầu tư: giá trị sản lượng hàng hóa đạt được là bao 78 nhiêu, lợi nhuận hàng năm và phương án tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, cũng phải phân tích được ảnh hưởng của các nhân tố thuộc môi trường đến dự án, dự đoán nhu cầu thị trường về sản phẩm của dự án, về lâu dài hay chỉ mang tính tạm thời,… Tất cả những yếu tố trên giúp cho công ty CTTC đánh giá được mức độ khả thi của dự án để đưa ra những quyết định tài trợ phù hợp hạn chế thấp nhất rủi ro. 2.4.3 Một số biện pháp khác Bên cạnh các biện pháp đối với khách hàng và tài sản cho thuê, các công ty CTTC thuộc NHTM còn có thể áp dụng một số biện pháp sau:  Yêu cầu thế chấp hoặc được bảo lãnh bằng tài sản của người thứ 3 đối với khách hàng thuê chưa thật mạnh về khả năng tài chính, hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều nhân tố rủi ro  Mua bảo hiểm tài sản cho thuê: Mọi tài sản cho thuê nói chung đều nên mua bảo hiểm, phí bảo hiểm do người thuê chịu. Tùy từng loại tài sản mà lựa chọn loại hình bảo hiểm thích hợp.  Ràng buộc nhà cung cấp trong hợp đồng mua bán thiết bị bằng biện pháp bảo hành, hoặc yêu cầu họ mua lại tài sản khi hợp đồng cho thuê buộc phải kết thúc trước thời hạn  Với tài sản mà tốc độ lỗi thời cao, cần xác định thời hạn thuê phù hợp, thu hồi vốn nhanh bằng một số biện pháp: chỉ tài trợ tối đa 70% tổng số vốn, phần còn lại yêu cầu người thuê tham gia ngay từ khâu đầu. Thu tiền thuê ban đầu cao sau giảm dần, lãi suất cho thuê tính cao hơn thông thường.  Theo dõi chặt chẽ tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng. Tiến hành kiểm tra định kì và đột xuất việc sử dụng tài sản thuê để kịp thời kiến nghị xử lý và ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Với những khách hàng thuê tài sản mà pháp luật không quy định phải đăng kí sở hữu, phạm vi hoạt động xa trụ sở công ty thì công ty có thể cử cán bộ của 79 mình trực tiếp giám sát tình hình hoạt động của máy móc thiết bị để thường xuyên có thông tin chính xác nhất về tình hình sử dụng máy móc thiết bị và sản xuất kinh doanh của khách hàng.  Thực hiện hiệu quả công tác thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm phát hiện kịp thời khả năng mất an toàn vốn và tài sản để có biện pháp xử lý kịp thời.  Thực hiện trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt động CTTC theo quy định (tối đa là 5% tổng số tiền thuê chưa thanh toán)  Liên kết với các công ty CTTC khác để đồng tài trợ trong các dự án nhằm phân tán rủi ro. III. Một số kiến nghị Thực tế hoạt động của công ty CTTC thuộc NHTM Việt Nam nói riêng, cũng như các công ty CTTC đang tham gia thị trường nói chung cho thấy rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC tại Việt Nam. Do vậy, để hoạt động của các công ty CTTC có thể đạt được hiệu quả tốt nhất thì bên cạnh các giải pháp từ phía các công ty CTTC thì cần có sự quan tâm giúp đỡ từ phía các cơ quan có thẩm quyền nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi. Trong khuôn khổ bài khóa luận tốt nghiệp, em xin đề xuất một số ý kiến, kiến nghị với các cơ quan, ban ngành có liên quan : 3.1 Kiến nghị với Chính phủ Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động kinh doanh của công ty CTTC trong Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Chỉ có một hệ thống pháp luật đồng bộ mới giúp hoạt động kinh doanh của Công ty CTTC đi vào nề nếp, có định hướng… Hơn nữa, với hệ thống pháp luật về CTTC đồng bộ sẽ góp phần giúp cho chủ sở hữu, các công ty CTTC và các doanh nghiệp thuê tài chính tuân thủ pháp luật, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền và lợi ích được pháp luật ghi nhận, bảo vệ. 80 3.1.1 Về huy động vốn Theo quy định của Luật tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, chỉ được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên (khoản 2 Điều 45). Tuy nhiên trong thực tế, một khách hàng gửi tiền thường có nhu cầu gửi cả ngắn hạn và trung dài hạn, nếu tổ chức tín dụng chỉ thực hiện huy động một hình thức ngắn hạn hoặc trung hạn thì sẽ hạn chế rất nhiều về mặt thu hút khách hàng và lãng phí nhân lực cũng như cơ sở vật chất địa điểm huy động vốn. Vì vậy, nên đưa vào Luật việc cho phép các tổ chức tín dụng phi ngân hàng làm Đại lý hoặc nhận uỷ thác huy động vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng được phép huy động vốn ngắn hạn. 3.1.2 Về tài sản cho thuê và các đối tác tham gia thành lập công ty CTTC a. Cho phép các Công ty CTTC được phép cho thuê đối với bất động sản Hiện tại trong Luật các tổ chức tín dụng quy định đối tượng CTTC là tài sản nói chung, tức là cả động sản và bất động sản nhưng trong Nghị định 16/2001/NĐ-CP lại quy định đối tượng CTTC chỉ là máy móc, thiết bị và động sản. Vậy nên thống nhất nội dung giữa hai văn bản này và mở rộng thêm CTTC đối với bất động sản. Vấn đề này không những phù hợp với quy định chung của quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam. b. Các đối tác tham gia thành lập công ty CTTC Các đối tác tham gia thành lập công ty CTTC không nên dừng lại ở các doanh nghiệp trong nước mà bổ sung thêm đối tác tham gia thành lập là các doanh nghiệp nước ngoài. Việc các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng tham gia thành lập công ty CTTC đã trở nên khá phổ biến ở nhiều nước. Do vậy, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong hệ thống đối tác của các công ty CTTC giúp cho các công ty CTTC trong nước tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, 81 đối tác là các tổ chức tín dụng trong nước phải chiếm tỷ lệ vốn đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty. 3.1.3 Về đăng ký sở hữu tài sản cho thuê Theo quy định hiện hành, các công ty CTTC có trụ sở chính theo đăng ký kinh doanh tại đâu thì tài sản cho thuê sẽ thực hiện đăng ký đăng doanh tại địa phương đó. Tuy nhiên, địa bàn hoạt động của hầu hết các công ty CTTC là toàn quốc, đối tượng khách hàng cũng phân tán ở nhiều địa bàn khác nhau. Khách hàng là người sử dụng tài sản nhưng họ lại không được đăng ký sở hữu trong khi nếu đăng ký được tại địa phương đó, khách hàng thuê sẽ có rất nhiều lợi thế như có thể được miễn phí cầu đường địa phương, lợi thế trong đấu thầu, đấu giá, cạnh tranh,... Đây là một khó khăn lớn cho các công ty CTTC trong tiến trình mở rộng thị trường và khách hàng. Vì vậy, trong Luật có điều khoản để khắc phục vướng mắc này. 3.1.4 Vấn đề xuất, nhập khẩu tài sản thuê Các công ty CTTC muốn có tài sản cho thuê thường phải thông qua uỷ thác hoặc mua lại tài sản của các đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm tăng chi phí và không chủ động cho thuê. Để tháo gỡ khó khăn này, đề nghị cho phép các công ty CTTC được phép nhập khẩu trực tiếp tài sản cho thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. 3.1.5 Về xử lý thu hồi tài sản cho thuê do bên thuê vi phạm hợp đồng Không quy định thời hạn bên cho thuê được quyền thu hồi tài sản là sau 30 ngày kể từ ngày bên thuê nhận được thông báo thu hồi tài sản của Bên cho thuê. Việc thu hồi tài sản cho thuê thuộc quyền quyết định của Bên cho thuê khi bên thuê vi phạm hợp đồng, do vậy, nếu bên thuê không thanh toán được tiền thuê, bên cho thuê có quyền thu hồi ngay lập tức tài sản cho thuê mà không chờ có phán quyết của Toà án và yêu cầu bên thuê phải thanh toán ngay toàn bộ số tiền thuê chưa trả theo hợp đồng. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở, chiếm giữ, sử dụng tài sản thuê và không hoàn trả lại tài sản cho bên 82 cho thuê, bên thuê phải bồi thường thiệt hại vật chất cho bên cho thuê. Tương tự như vậy, không cần quy định thời gian xử lý tài sản thuê là trong vòng 60 ngày. Đây là vấn đề thuộc quyền tự chủ của các bên và phụ thuộc nhiều yếu tố, điều kiện mà chỉ quy định phải tiến hành xử lý ngay một cách công khai, minh bạch. 3.1.6 Các giải pháp khác a. Cần có chính sách miễn, giảm thuế để tạo điều kiện cho các công ty CTTC đủ sức cạnh tranh trên thị trường như : - Cho phép khách hàng thuê được khấu trừ ngay 100% thuế Giá trị gia tăng với tài sản thuê tài chính ngay từ khi nhận được hoá đơn dịch vụ CTTC đầu tiên giống như hình thức đi vay ngân hàng. - Có cơ chế áp dụng việc bán tài sản thu hồi giống như bán tài sản đảm bảo nợ vay của Ngân hàng, nghĩa là không phải chịu thuế Giá trị gia tăng. - Không đánh thuế trong hoạt động mua và cho thuê lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị vì tài sản vẫn nằm yên, giá trị không tăng lên. b. Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ Khi kết thúc hợp đồng CTTC hoặc vì lý do nào đó hợp đồng CTTC kết thúc trước thời hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc khó khăn. Việc hình thành các trung tâm môi giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ khó khăn cho các công ty CTTC trong việc thu hồi vốn. c. Vấn đề Marketing trong hoạt động kinh doanh của Công ty CTTC. Do các công ty CTTC mới ra đời và hoạt động, nghiệp vụ kinh doanh rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, địa bàn hoạt động của công ty lại rộng khắp trong cả nước nên quy định chi phí quảng cáo (5% - 7% tổng chi phí) giống như các tổ chức tín dụng hiện hành là chưa hợp lý. Mức chi phí này đối với các công ty CTTC từ 7% - 10% là hợp lý hơn. 83 d. Một số vấn đề khác trong Nghị định hiện nay cần nâng lên thành luật  Quy định về việc sử dụng bản sao giấy chứng nhận đăng ký đối với tài sản thuê sử dụng trong nước và bản chính đối với tài sản sử dụng tại nước ngoài.  Quy định về việc chấm dứt hợp đồng CTTC trước thời hạn (Điều 27 Nghị định 16/2001/NĐ-CP) 3.2 Kiến nghị với các Bộ, Ngành liên quan Trong bất kì lĩnh vực nào, ngành nghề nào thì vai trò của Nhà nước, Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành hữu quan trong việc tạo hành lang pháp lý ổn định, đồng bộ và ban hành các chính sách, chế độ khuyến khích, ưu đãi là cực kỳ quan trọng. 3.2.1 Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt Nam Một là, cho phép các công ty CTTC được vay vốn, cũng như huy động tiền gửi trung và dài hạn từ các nguồn tài trợ, nguồn vốn ưu đãi như nguồn vốn ODA, các dự án tài trợ của Chính phủ, ngân hàng, các tổ chức quốc tế như hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.... Hai là, nên sớm ban hành những quy định hướng dẫn cụ thể về hoạt động mua bán bằng ngoại tệ để tạo sự chủ động cho các công ty CTTC nhằm hạn chế rủi ro, đặc biệt là rủi ro về tỷ giá. 3.2.2 Kiến nghị với Bộ Tài chính Hiện nay, khi các doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị thì thuế giá trị gia tăng được khấu trừ trong vòng từ 1 - 3 tháng sau khi mua. Nhưng đối với các doanh nghiệp khi đi thuê tài chính thì theo quy định của Bộ Tài chính, khoản thuế đó sẽ được khấu trừ dần qua mỗi lần doanh nghiệp thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê. Điều này khiến cho các doanh nghiệp phải chịu một khoản chi phí cao hơn, làm giảm sức cạnh tranh của các công ty CTTC với các đơn vị kinh doanh vốn khác. Vậy đề nghị Bộ Tài chính sửa đổi 84 để cho các doanh nghiệp đi thuê được khấu trừ thuế giá trị gia tăng một lần ngay khi ký hợp đồng. Bên cạnh đó, các công ty CTTC đang chịu mức thuế thu nhập doanh nghiệp như những đơn vị kinh doanh bình thường khác là chưa hợp lý bởi trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước có quy định trường hợp được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là:  Đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ xây dựng công trình, đầu tư xây dựng các khu thương mại, các loại nhà phục vụ nhu cầu của nhân dân thành phố...  Đầu tư thành lập phân xưởng sản xuất mới, lắp đặt thêm máy móc vào dây chuyền sản xuất hiện có, lắp đặt máy móc, thiết bị mới thay thế thiết bị hiện có,... Nếu xem xét hoạt động của công ty CTTC thì hầu hết đều làm những công việc trên. Các công ty CTTC đã đóng góp một phần rất lớn trong việc đổi mới nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, các công ty CTTC theo quan điểm xem xét như một ngân hàng phát triển, là chiếc cầu nối chuyển giao công nghệ, nên cũng xứng đáng được hưởng mức thuế ưu đãi như các doanh nghiệp trực tiếp đổi mới công nghệ. Kiến nghị Bộ tài chính nên giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty CTTC, cho phép các công ty này được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi trên phần lợi nhuận tạo ra từ việc cho thuê những tài sản được đánh giá là tạo ra sự đổi mới công nghệ. 3.2.3 Kiến nghị đối với Hiệp hội CTTC Việt Nam Với vai trò là đầu mối trong mọi lĩnh vực của hoạt động CTTC trên thị trường, Hiệp hội CTTC sẽ là đơn vị :  Tiếp nhận ý kiến của các công ty CTTC để phản ánh những khó khăn, bất cập còn tồn tại trong hoạt động CTTC tại Việt Nam với các cấp, ban ngành liên quan để cùng phối hợp giải quyết, tháo gỡ. 85  Liên hệ với các đối tác và công ty CTTC nước ngoài để tổ chức các buổi thảo luận, nghiên cứu thực tế và trao đổi kinh nghiệm hoạt động giữa các bên nhằm giúp cho các công ty CTTC trong nước có điều kiện tiếp cận với hoạt động kinh doanh hiện đại của các công ty CTTC trên thế giới. 3.2.4 Kiến nghị đối với các ngân hàng mẹ của các công ty CTTC Với vai trò là ngân hàng mẹ, những sự giúp đỡ sẽ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của các công ty CTTC thuộc NHTM Việt Nam. Với đặc thù kinh doanh một loại hình đơn lẻ, không được phép mở ra các loại hình kinh doanh khác để hỗ trợ như nhận tiền gửi, cho vay ngắn hạn,... cho nên các công ty gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn để kinh doanh. Do nguồn vốn điều lệ của các công ty hầu như đã sử dụng hết nên nguồn vốn kinh doanh của các công ty sẽ chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay. Đề nghị các ngân hàng mẹ có chính sách hỗ trợ về vốn, cụ thể là có chính sách ưu đãi về nguồn vốn và lãi suất cho các công ty đảm bảo khi có khách hàng là có đủ nguồn vốn để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. Đặc biệt các NHTM có thể hỗ trợ hơn nữa trong việc phát hành trái phiếu cho các công ty CTTC nhằm nâng cao vị thế của các công ty này. Bên cạnh đó, với vai trò là người trực tiếp quản lý các công ty CTTC nên các ngân hàng mẹ nên có chính sách đào tạo ngắn hạn và dài hạn để nâng cao trình độ chuyên môn, đào tạo chuyên môn sâu cho cán bộ cho các công ty CTTC. Đề nghị các chi nhánh ngân hàng mẹ phối hợp cùng với các công ty mở rộng hoạt động CTTC tại địa bàn các chi nhánh. Bên cạnh những nội dung trong hoạt động hợp tác hiện nay, giữa chi nhánh và công ty có thể thực hiện đồng tài trợ đối với một dự án. Đây là hoạt động nhằm đa dạng hoá sản phẩm của các NHTM và cũng để tạo đà phát triển nghiệp vụ CTTC. 86 KẾT LUẬN Hoạt động cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính thuộc các ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng và hệ thống các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam nói chung tuy mới phát triển trong thời gian chưa lâu nhưng đã góp phần thúc sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam. Sự ra đời của phương thức tài trợ này là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế đầu tư trong thời gian qua, góp phần tháo gỡ các khó khăn trong việc đầu tư vốn cho quá trình đổi mới máy móc thiết bị công nghệ, tạo điều kiện tiền đề thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, thị trường cho thuê tài chính trở thành một bộ phận không thể thiếu của thị trường vốn Việt Nam. Mặc dù hiện nay hoạt động kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam nói chung chưa phát triển đúng với tiềm năng và kỳ vọng nhưng trong tương lai hoạt động này sẽ có một vai trò quan trọng hơn trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp tại Việt Nam. Qua nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty cho thuê tài chính thuộc ngân hàng thương mại Việt Nam”, khóa luận nhằm nêu các ý sau đây:  Cho thuê tài chính thực chất là hoạt động tín dụng trung và dài hạn, đem lại nhiều lợi ích cho người thuê,người cho thuê và cả nền kinh tế. Đưa ra một số bài học kinh nghiệm về hoạt động cho thuê tài chính ở một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam.  Sự ra đời và phát triển của hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam, đánh giá thực trạng hoạt động của các công ty cho thuê tài chính thuộc ngân hàng thương mại hiện nay. Qua đó phân tích được một số thành tựu, hạn chế của hoạt động tại các công ty, và tìm ra nguyên nhân làm kìm hãm sự phát triển của thị trường này để định hướng cho sự phát triển của hoạt động 87 cho thuê tài chính nói riêng tại các công ty và cho thị trường cho thuê tài chính nói chung.  Kiến nghị một số giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty. Về phía bản thân các công ty cần không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, tận dụng những ưu thế sẵn có để mở rộng nghiệp vụ, mở rộng thị trường, đa dạng hóa các dịch vụ, hoàn thiện mô hình tổ chức,… Về phía nhà nước cần nhanh chóng xây dựng môi trường pháp lý hoàn thiện, ổn định và đồng bộ đối với hoạt động cho thuê tài chính. Đồng thời cần phối hợp với các bộ ban ngành liên quan để hỗ trợ tạo điều kiện phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty cho thuê tài chính. Tuy đã có rất nhiều cố gắng nhất định nhưng với hiểu biết còn hạn chế của bản thân, cũng như phải có sự kiểm nghiệm thực tiễn một cách lâu dài cho nên khóa luận không tránh khỏi thiếu sót trong quá trình nghiên cứu. Do đó, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô để bài khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn, góp phần vào sự phát triển của hoạt động cho thuê tài chính nói riêng, và quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước nói chung. 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT: 1. PGS,TS Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng Thương mại, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 2. PGS, TS Nguyễn Thị Mùi (2008), Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội. 3. PGS, TS Lê Văn Tề (2009), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nxb Thống kê, Hà Nội. 4. Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản (1996), Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh. 5. Báo cáo Tổng kết hoạt động cho thuê tài chính của Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2007, 2008, 2009. 6. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Chiến lược phát triển ngành ngân hàng từ năm 2010 đến năm 2020 7. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của Chính Phủ quy định “Về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC” 8. Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/05/2005 của Chính phủ Quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP 9. Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày 25/08/2008 về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP 10. Thông tư số 06/2005/TT-NHNN ngày 12/10/2005 của NHNN Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định 16/2001/NĐ-CP và Nghị định số 65/2005/NĐ-CP. 11. Thông tư số 09/2006/TT-NHNN ngày 23/10/20096 của NHNN Việt Nam hướng dẫn Hoạt động bán khoản phải thu từ Hợp đồng Cho thuê tài chính theo quy định tại Nghị định số 65/2005/NĐ-CP. 12. Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-NHNN-BCA-BTP ngày 10/12/2007 hướng dẫn thu hồi và xử lý tài sản cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính. 89 13. Thông tư số 07/2006/TT-NHNN ngày 07/09/2006 của NHNN Việt Nam hướng dẫn về hoạt động mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính theo quy định tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP và Nghị định số 65/2005/NĐ-CP. 14. Quy trình nghiệp vụ cho thuê tài chính số 1248/QĐ-CTTC của Công ty CTTC NHCT Việt Nam. TIẾNG ANH 1. Derek R.Soper, Robert M. Munro (1993), The leasing handbook, McGraw – Hill book company 2. IFC lessons of experience series (1996), Leasing in emerging markets, The world bank Washington.D.C 3. Euromoney Institutional Investor (2008), World leasing year book. CÁC TRANG WEB 1. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Các công ty cho thuê tài chính, truy cập ngày 23/02/201, 2. ThS. Trần Vũ Hải, Pháp luật về cho thuê tài chính, một số vấn đề cần hoàn thiện, truy cập ngày 14/03/2010 3. Các trang web của các công ty CTTC thuộc NHTM Việt Nam : - Công ty CTTC ngân hàng Công thương : - Công ty CTTC ngân hàng Sài Gòn Thương tín - Công ty CTTC I ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Công ty CTTC II ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Công ty CTTC ngân hàng Ngoại thương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5217_3987.pdf
Luận văn liên quan