Khóa luận Thực trạng về lao động và việc làm của người dân vạn đò sau khi định cư trên bờ ở bãi dâu – Phường Phú hậu – Thành phố Huế

Với một phường thường xuyên tiếp nhận các hộ dân tái định cư vạn đò thì vấn đề giải quyết việc làm còn rất nhiều khó khăn. Giải quyết vấn đề này không phải một sớm một chiều mà phải có sự đầu tư lâu dài, sự phối hợp từ trên xuống dưới để tháo gỡ dần dần những khó khăn về kinh tế xã hội. Giảiquết tốt việc làm cho người lao động mà đặc biệt là dân vạn đò tái định cư sẽ làm giảm lượng thất nghiệp của phường, từ đó nền kinh tế xã hội của phường sẽ dần dần được nâng cao dẫn đến ngày càng phát triển. Trong quá trình nghiên cứu để nghiên cứu đề tài một cách thực sự khoa học là việc làm không dễ dàng. Chúng tôi chỉ tiến hành trong phạm vi số liệu điều tra và đã đạt được những kết quả sau: - Đã tổng hợp và hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về lao động, việc làm như các khái niệm, các loại hình việc làm - Khái quát được lịch sử hình thành và đặc điểm kinh tế- xã hội của khu tái định cư Bãi Dâu. -Đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng hợp lý lao động và tạo việc làm ổn định cho người dân tái định cư Bãi Dâu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song đề tài vẫn còn có một số tồn tại như: - Chỉ thực hiện được ở khu tái định cư dân vạn đò tập trung là Bãi Dâu chưa tìm hiểu được các khu tái định cư khác. - Đề tài cũng không thể đưa ra một cách toàn diện, đầy đủ các biện pháp nhằm sử dụng hợp lý lao động và tạo việc làm ổn định. II. Kiến nghị 1. Đối với bản thân người dân tái định cư  Nhìn nhận lại mình, đánh giá đúng vị trí của mình  Tích cực, chủ động trong làm ăn, mạnh dạn vay vốn phát triển kinh tế  Gạt bỏ tâm lý tự ti mặc cảm  Không được bất mãn với cuộc đời và phải có trách nhiệm với chính cuộc sống của bản thân mình  Nâng cao hiểu biết, kiến thức về văn hóa, xã hội để hòa nhập tốt hơn với cộng đồng. Đại học Kinh t

pdf59 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng về lao động và việc làm của người dân vạn đò sau khi định cư trên bờ ở bãi dâu – Phường Phú hậu – Thành phố Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách cho địa phương. Nhưng thực tế thì tỷ lệ lao động có việc làm của bà con khu định cư Bãi Dâu tăng lên không đáng kể, theo số liệu điều tra, tỷ lệ lao động có việc làm của khu vực chỉ đạt 62,11%. Điều này cũng có nghĩa rằng lực lượng lao động phụ thuộc vẫn còn đến 37,89% tổng lực lượng lao động trong khu vực. Bảng 5: Cơ cấu lao động có việc làm trong độ tuổi lao động tại 2 khu tái định cư Kim Long và Bãi Dâu Đơn vị(%) KĐC Trong tuổi lao động Kim Long Bãi Dâu Lao động có việc làm 89,68 62,11 Lao động thất nghiệp 2,33 15,04 Đang đi học 4,49 10,91 Nội trợ 1,50 7,35 Ôm đau, tàn tật 2,00 4,02 Không có nhu cầu làm việc 0,00 0,57 Tổng 100,00 100,00 [Nguồn: Số liệu thống kê các tổ dân phố] Đại họ Ki tế H uế 33 Tóm lại, có thể rút ra một nhận định chung rằng: Mặc dù, lực lượng lao động của các khu tái định cư là khá dồi dào, tuy nhiên một lực lượng lao động phụ thuộc vẫn còn chiếm tỷ lệ rất lớn.Chính lực lượng này không chỉ gây ra áp lực đối với công tác giải quyết việc làm và nhiều vấn đề xã hội bức xúc khác của địa bàn phường liên quan mà còn là một vấn đề nhức nhối của nhiều nhà chức trách thuộc địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế trong công tác xóa đói giảm nghèo cũng như trong công tác tái định cư nơi ở mới cho cư dân thủy diện nói chung và cư dân vạn đò nói riêng. Cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính Nhìn chung, cơ cấu lao động theo giới tính tại các khu định cư là khá cân đối, điển hình nhất là khu tái định cư Bãi Dâu với tỷ lệ lực lượng lao động tương ứng giữa nam và nữ là 49,90% và 50,10%, Với tổng lao động của tổ 14 và 15 là 871 người (chiếm 68,15% tổng số dân khu vực), trong đó lực lượng lao động nam là: 435 người và lực lượng lao động nữ là 437 người. Rõ ràng tỷ lệ lực lượng lao động theo giới tính chênh lệch nhau không lớn đã tạo nên sự hài hòa cân đối trong cơ cấu dân số cũng như trong cơ cấu lao động của bà con thuộc các khu vực nghiên cứu. Bảng 6: Cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính Đơn vị: % Giới KĐC Tổng Nam Nữ Kim Long 100 51,58 48,42 Bãi Dâu 100 49,90 50,10 [Nguồn: Số liệu thống kê các tổ dân phố] Đại học Kin h tế Hu ế 34 3.2 Thực trạng về nhân khẩu và lao động của các hộ dân được điều tra Bảng 7: Thực trạng về nhân khẩu và lao động (tính đến tháng 3/2011) Chỉ tiêu Tổng số nhân khẩu Nam Nữ Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % 1. Trong tuổi lao động 181 52,92 89 26,02 92 26,90 2. Trên tuổi lao động 23 6,73 9 2,63 14 4,09 3. Dưới tuổi lao động 138 40,35 67 19,60 71 20,76 4. Tổng cộng 342 100,00 165 48,25 177 51,75 Tổng số nhân khẩu của 60 hộ dân vạn đò định cư trên bờ được điều tra là 342 người, bình quân 5,7 người/ hộ. Tổng số người trong độ tuổi lao động là 181 người, chiếm 52,92% tổng số nhân khẩu. Dưới độ tuổi lao động là 138 người, chiếm 40,35%. Như vậy, dân số là khá trẻ, chỉ có 23 người trên tuổi lao động, chiếm 6,73%. Có một điều đáng chú ý qua bảng trên đó là sự chênh lệch khá lớn giữa nam và nữ. Trong 342 nhân khẩu thì có 177 nữ và 165 nam. Số lượng nữ hơn nam ở tất cả các độ tuổi. Đại học Kin h tế Hu ế 35 Bảng 8: Tình hình lao động của mẫu điều tra (tính đến tháng 03/2011) Chỉ tiêu Tổng cộng Nam Nữ Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % 1. Số người trong tuổi lao động 181 100,00 88 48,62 93 51,38 a) Có khả năng lao động 174 96,13 86 47,51 88 48,62 b) Mât khả năng lao động 7 3,87 3 1,66 4 2,21 2. Số người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao động 23 100,00 10 43,48 13 56,52 a) Trên tuổi lao động 8 34,78 2 8,69 6 26,09 b) Dưới tuổi lao động 15 65,22 6 26,09 9 39,13 3. Số người đang có việc làm 173 - 84 - 89 - 4. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang đi học 14 100,00 9 64,29 5 35,71 a) Học phổ thông 6 42,86 4 28,57 2 14,29 b) Học nghề 8 57,14 5 35,71 3 21,43 5. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động làm nội trợ 5 - 0 - 5 - 6. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động không có việc làm 5 - 3 - 2 - Nhìn vào bảng trên ta thấy, số người trong độ tuổi lao động là 181 người. Trong đó, có khả năng lao động là 174 người, chiếm 96,13% và 7 người mất khả năng lao động, chiếm 3,87%. - Ngoài ra, nguồn lao động được bổ sung bởi số người ngoài độ tuổi lao động. Trong sô 23 người trên tuổi lao động thì có đến 8 người tham gia lao động, chiếm 34,78%. Những người này chủ yếu làm nghề buôn bán hàng rong bởi vì những nghề này ít đòi hỏi sức khỏe khi làm việc. Thu nhập thấp, cuộc sống khó khăn nên một bộ phận lớn trẻ em phải tham gia lao động. Con số15 người (trẻ em) trong bảng chưa phản ánh một cách chính xác số trẻ em đang làm việc, trong đó số trẻ em nữ nhiều hơn số trẻ em nam, tham gia vào các công việc như: phụ giúp đánh bắt cá, bán hàng rong, đi ở thuê, bán vé số Có 14 người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang đi học. Chủ yếu là học nghề, gồm có 8 người, chiếm 57,14% với các nghề như: thợ may, sữa chữa xe Đại học Kin h tế Hu ế 36 máy, làm cửa bông sắt,Hầu hết là tự học nghề tại các cơ sở dạy nghề tư nhân. Điều này chứng tỏ chính sách hướng nghiệp, dạy nghề của nhà nước cho người dân tái định cư chưa tốt. Chương trình chỉ mới dừng lại ở hình thức đào tạo nghề, dạy nghề chứ chưa bố trí công ăn việc làm cho những người sau khi ra nghề. Do điều kiện sống còn khó khăn, tính chất lao động giản đơn, thủ công nên hầu hết mọi người trong độ tuổi lao động đều tham gia làm việc. Chỉ có 5 người làm nội trợ, 5 người không có việc làm. Lấy số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động cộng với số người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao động trừ đi số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang đi học, làm nội trợ, không có việc làm ta được số người đang có việc làm là 173 người, chiếm 50,58% dân số. Bảng 9: Số hộ chia theo số người trong hộ ( tính đến tháng 03/2011) Chỉ tiêu Tổng số hộ Chia theo số người trong hộ 1-2 người 3-4 người 5-6 người 7-8 người 9-10 người Số hộ 60 1 23 30 6 0 Tỷ lệ 100 2 38 50 10 0 Hầu hết các hộ gia đình đều đông người. Cụ thể, số hộ có từ 5-8 người là 36, chiếm 60% tổng số hộ. Đa số các cặp vợ chồng sinh đẻ nhiều, họ ít sử dụng các biện pháp tránh thai, trình độ học vấn của chủ hộ thấp. 3.3 Thực trạng về nghề nghiệp - việc làm của mẫu điều tra 3.3.1 Các loại hình việc làm Khác với người nghèo nông thôn, vấn đề việc làm của người nghèo đô thị khá phong phú. Tại các khu tái định cư, vấn đề này lại càng phong phú hơn do nguồn gốc xuất phát khác nhau. Tuy nhiên, nghề nghiệp của cư dân khu định cư mới này vẫn mang đặc điểm chung là nghề nghiệp không ổn định, bấp bênh. Để thấy rõ hơn, chúng tôi tiến hành điều tra 342 lao động tương ứng với 60 hộ gia đình tại tổ 14 và 15 thuộc khu vực 5, phường Phú Hậu. Bảng sau sẽ cho chúng ta thấy được cơ cấu việc làm của cư dân tái định cư Bãi Dâu phân theo ngành nghề. Đại học Kin h tế Hu ế 37 Bảng 10 : Cơ cấu việc làm của cư dân tái định cư Bãi Dâu Đơn vị(%) STT Loại việc làm 15-30 tuổi 31-60 tuổi Trên 60 tuổi 1 Học sinh-sinh viên 8,19 2 Học nghề 2,34 3 Buôn bán nhỏ 9,95 10,05 3,55 4 Làm thuê 5,13 13,16 5 Dịch vụ nhỏ (xích lô, xe thồ, bơm ga, sửa xe, kéo xe) 5,13 16,16 6 Thợ may, thêu,uốn tóc 2,83 1,61 7 Thợ thủ công 3,85 8 Nội trợ, mất sức, cán bộ hưu trí 3,80 1,75 9 Công nhân, nhân viên nhà nước 1,75 10 Thất nghiệp 1,90 7,12 Nghề nghiệp của cư dân khu vực này cũng khá đa dạng nhưng nghề nghiệp chủ yếu không phải làm cát sạn mà là buôn bán nhỏ, theo mẫu điều tra có khoảng 9,95% ở độ tuổi 15-30 làm nghề này và ở độ tuổi 31-60 chiếm 10,05% còn lại là độ tuổi ngoài lao động(3,55%). Ngoài ra, dịch vụ nhỏ như xích lô, xe thồ cũng chiếm tỷ lệ khá cao khoảng 16,16% ở độ tuổi 31-60 và 5,13% độ tuổi 15-30. Còn các nghề khác như nghề thủ công, uốn tóc, may thêu phần lớn thuộc tầng lớp trẻ. Số còn lại là lái xe hay công nhân viên Nhà nước, tuy chiếm tỷ lệ không cao nhưng góp phần quan trọng trong cơ cấu ngành nghề chung của khu định cư. Nhìn chung có khoảng 26,89% độ tuổi 15-30 kiếm ra tiền và 46,53% tổng số người từ độ tuổi 31-60. Tỷ lệ học sinh-sinh viên chiếm đến 8,19% và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi này là 1,90%, riêng độ tuổi 31-60 tỷ lệ thất nghiệp lên đến 7,12%. So với nơi ở trước đây, cơ cấu ngành nghề của cư dân tái định cư Bãi Dâu hiện tại rất ít thay đổi, nhưng cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn hơn (đặc biệt ở độ tuổi 31- 60) do khu vực này cách xa trung tâm thành phố và các chợ lớn. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh - sinh viên cũng như số người đang theo học các nghề khác nhau ở các thế hệ trẻ Đại học Kin h tế Hu ế 38 tăng lên một cách đáng kể. Đây là một dấu hiệu đáng mừng bởi trong tương lai khu vực này có cơ hội để thay đổi các nghề ít ổn định như hiện nay thành các công việc mang tính chất ổn định hơn góp phần tích cực trong việc cải thiện đời sống. 3.3.2 Vấn đề thất nghiệp Nhìn chung tình trạng thất nghiệp ở các khu tái định cư dân vạn đò còn tương đối cao và không ổn định. Cụ thể , tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động tại 2 khu tái định cư dân vạn đò được thể hiện qua bảng sau: Bảng 11 : Cơ cấu lực lượng lao động thất nghiệp của các khu tái định cư năm 2010 Khu vực Bãi Dâu Kim Long Tỷ lệ thất nghiệp 15,04 2,33 [Nguồn: UBND phường Phú Hậu và Kim Long] Qua bảng thống kê số liệu trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra tỷ lệ lao động thất nghiệp của khu tái định cư Bãi Dâu là rất cao (chiếm đến 15,04% tổng dân số lao động), mặc dù mới thành lập trong vài năm trở lại đây nhưng do khu tái định cư Bãi Dâu nằm khá cách xa trung tâm thành phố (so với nơi ở cũ) nên việc buôn bán và đi lại của bà con có phần khó khăn hơn trước. Riêng bộ phận dân cư thuộc diện giải tỏa phường Phú Cát mới lên định cư từ năm 2009 đến nay do chưa quen với nơi ở mới cộng với việc chuyển đổi nghề nghiệp còn chậm nên tỷ lệ thất nghiệp là rất cao. Theo số liệu điều tra của UBND phường Phú Hậu cho biết tổ dân phố này (Tổ 14), tổng số lao động thuộc độ tuổi lao động là 394 người, thì có đến 106 lao động thất nghiệp . Một con số thực sự đáng lo ngại cho chính quyền địa phương.  Nguyên nhân thất nghiệp Nguyên nhân chủ quan - Do trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của phần lớn bà con là rất thấp, đa phần người lao động vạn đò mù chữ, hoặc chỉ mới tốt nghiệp tiểu học chưa qua một lớp đào tạo nào, do đó khó có thể tiếp cận, tiếp thu những ngành nghề mới, vì vậy khó kiếm được việc làm ổn định với mức thu nhập cao. - Do tác động của gia tăng dân số bởi đa số các khu tái định cư dân vạn đò và dân nghèo thành thị có số dân nhiều (nhiều con) lại tập trung vào một địa bàn nên khó khăn hơn, vì vậy vấn đề đảm bảo việc làm cũng khó khăn hơn Đại học Kin h tế Hu ế 39 - Do cấu trúc dân số theo độ tuổi, những khu vực có nhóm tuổi trẻ thì càng có nhiều thanh thiếu niên nằm trong độ tuổi lao động và vì thế tỷ lệ thất nghiệp thường cao - Do phần lớn lao động của khu vực nghiên cứu còn mang tác phong chậm chạp, rụt rè và khó hòa nhập với cuộc sống của người dân trên đất liền. - Mặt khác, hiện vẫn còn một số lao động chỉ biết hưởng thụ, kém hiểu biết lại lười lao động và không biết tự mình vươn lên trong cuộc sống. Nguyên nhân khách quan - Do thiếu đất canh tác, phần lớn dân cư tại khu vực chỉ được Nhà nước cấp đất để ở, không cấp đất cho người dân tự sản xuất. -Thời tiết khí hậu không thuận lợi cho việc sản xuất, đặc biệt đối với các hộ gia đình hiện vẫn còn gắn với những nghề trên sông nước và những hộ gia đình có phần lớn lao động với các nghề bấp bênh, không ổn định và thu nhập thấp như đạp xích lô, xe thồ, bán hàng ronglại trở nên vô cùng khó khăn trong mùa mưa bão. - Nơi định cư mới hoàn toàn tách biệt với nơi ở cũ, nghề nghiệp cũng hoàn toàn khác, do đó bà con khó thích nghi với cuộc sống trên đất liền và hơn nữa họ không có việc làm hoặc không thể chuyển đổi được nghề nghiệp. Đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở các khu tái định cư. - Chính sách xã hội sau định cư chưa hoàn thiện, nhất là chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp chỉ hỗ trợ đào tạo nghề, mà không giải quyết việc làm cho con em sau khi ra nghề. 3.4 Thực trạng về thu nhập - chi tiêu của các hộ được điều tra Bảng trên cho ta nhận xét: - Tổng cộng số lao động trong ngành nghề buôn bán nhỏ là 32 lao động, chiếm 16,58 % tổng số lao động của 60 hộ dân, nghề này rất phổ biến trong đó nữ tham gia nhiều hơn nam. Thu nhập bình quân/lao động/ ngày làm việc là 27.468 đồng. - Đặc biệt tuy đã sống trên bờ nhưng một số hộ gia đình vẫn làm nghề đánh cá sông, 12 lao động, chiếm 6,22 %, vì những nơi này gần kề với các con sông. - Đã có sự phong phú về nghề nghiệp của những người dân vạn đò đã được định cư trên bờ. Số lượng người làm các nghề thủ công truyền thống, sản xuất vật liệu xây dựng khá lớn. Tổng cộng có 30 lao động, chiếm tỷ lệ 15,54 %. Những nghề này mang Đại học Ki h tế Hu ế 40 lại thu nhập khá cao. Thu nhập bình quân/lao động /ngày làm việc của nghề thủ công truyền thống là 22.000 đồng, đối với nghề sản xuất vật liệu xây dựng là 37450 đồng. - Số lượng người đạp xích lô và làm thuê cũng khá phổ biến với tổng cộng 86 lao động, chiếm 38,56 %. - Các ngành nghề lao động nam giới chiếm ưu thế là xích lô và sản xuất vật liệu xây dựng, nữ giới chiếm ưu thế là buôn bán nhỏ, - Ngoài ra, còn có các ngành nghề khác như thợ mộc, thợ nề. thợ may, với tất cả là 21 lao động. Bảng 12: Cơ cấu ngành nghề và thu nhập bình quân theo ngành nghề Nghề nghiệp Thường xuyên Không thường xuyên Tổng cộng Thu nhập bình quân/lao động/ngày làm việc ( đồng) Nam Nữ Nam Nữ Số lao động Tỷ lệ % 1. Buôn bán nhỏ 0 15 0 17 32 16,58 27.468 2. Thợ thủ công 0 9 0 6 15 7,77 22.000 3. Xích lô 29 0 2 0 31 16,06 32.500 4. Sản xuất vật liệu xây dựng 11 2 1 1 15 7,77 37.450 5. Làm thuê 11 23 12 9 55 28,50 25.500 6. Đánh cá sông 4 6 1 1 12 6,22 18.530 7. Thợ may, thêu, uốn tóc 0 9 0 3 12 6,22 25.000 8. Các ngành nghề khác 8 4 3 6 21 10,88 25.220 Tổng cộng Số lao động 63 68 19 43 193 - - Tỷ lệ 35,36 36,46 4,97 23,21 - 100,00 - * Ghi chú: - Buôn bán nhỏ: bán hàng rong, bán cá, bán quán, bán cóc ổi - Thợ thủ công: đan lác, làm nón - Sản xuất vật liệu xây dựng: đúc bờ lô, sản xuất gạch ngói. Đại học Kin h tế Hu ế 41 - Làm thuê: bốc vác thuê, đi ở thuê - Các ngành nghề khác: thợ nề, thợ sơn, bán vé số Chi tiêu là một vấn đề đáng phải bàn tới. Có các loại chi tiêu như: chi cho ăn uống, áo quần, đồ dùng sinh hoạt, học hành của con cái, y tế-kế hoạch hóa gia đình, chi phí điện nướcCụ thể được thể hiện dưới bảng 13 Bảng 13: Tình hình thu nhập và chi tiêu của các hộ dân được điều tra Chỉ tiêu Bình quân/hộ (nghìn đồng) Bình quân/khẩu (nghìn đồng) Tỷ lệ % so với tổng chi tiêu Chi tiêu/tổng thu nhập (%) I Các loại chi tiêu 1. Lương thực thực phẩm 11.828 2.075 49,86 49,26 2. Aó quần 924 162 3,89 3,85 3. Đồ dùng sinh hoạt 727 128 3,08 3,04 4. Y tế- KHHGĐ 1.278 224 5,38 5,32 5. Học hành của con cái 1.525 268 6,44 6,36 6. Đầu tư cho SX-KD-BB 4.183 734 17,64 17,43 7. Điện 570 100 2,40 2,37 8. Nước 396 69 1,66 1,64 9. Sữa chữa, xây dựng nhà 1.507 264 6,34 6,27 10.Các loại chi tiêu khác 787 138 3,31 3,28 II Tổng chi tiêu 23.725 4.162 100,00 98,82 III. Tổng thu nhập 24.009 4.212 - IV. Hiệu số giữa tổng thu nhập và tổng chi tiêu 284 50 - - Bảng trên cho ta nhận xét: - Tổng chi tiêu bình quân 23,725 triệu trên một hộ. Trong đó hầu hết là chi tiêu cho lương thực thực phẩm và đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, buôn bán. Cả hai loại chi tiêu này chiếm 67,5 % tổng chi tiêu. Riêng cho lương thực thực phẩm là 11,828 triệu đồng, chiếm 49,86 % tổng chi tiêu bình quân/hộ. Nếu xét trên góc độ thu nhập, người dân dùng 49,26 % thu nhập của mình để mua lương thực thực phẩm. Điều này cho chúng ta thấy cuộc sống của người dân nơi đây còn gặp nhiều khó khăn. Các nhu Đại học Kin h tế Hu ế 42 cầu khác như: áo quần, đồ dùng sinh hoạt, học hành của con cái, y tế-kế hoạch hóa gia đình chiếm tỷ lệ nhỏ trong chi tiêu. Ví dụ: chỉ có 1.278 nghìn đồng cho chăm sóc y tế- kế hoạch hóa gia đình, chiếm 5,38 % tổng chi tiêu và 5,32 % tổng thu nhập. Lượng tiền mà hộ phải trả để sử dụng điện khá lớn, 570 nghìn đồng, chiếm 2,4%. Đối với chi phí cho nước sinh hoạt thì lại khác, bình quân 396 nghìn đồng/hộ và 69 nghìn đồng/khẩu. - Sau khi đinh cư trên bờ, con em vạn đò ít được đến trường và hầu hết nghỉ học ngay từ cấp một. Chi phí khoản này bình quân 1.525 nghìn đồng/hộ. Nhưng điều đáng nói là nhà nước vẫn chưa chú trọng thỏa đáng vấn đề học hành của con em vạn đò. Các hộ gia đình có con em đi học vẫn phải nộp một khoản khá lớn học phí và các khoản khác. Với tình hình vật giá ngày càng leo thang như hiện nay, thì đây là một vấn đề cân nhắc của các hộ dân tái định cư, mặc dù họ biết vấn đề học hành của con em tương lai là rất quan trọng. Ngoài ra, đối với các hộ mua nhà chung cư hàng tháng họ phải trả 470.000 đ/tháng, do trong mẫu điều tra chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (19 hộ) nên tôi không đưa vào bảng chi tiêu. Như vậy, chúng ta thấy rằng cuộc sống người dân vạn đò sau khi định cư trên bờ có phần cải thiện hơn so với cuộc sống còn ở trên sông nước, nhưng so với mặt bằng chung thu nhập mà họ kiếm được để chi tiêu cho cuộc sống còn rất thấp, làm thế nào để nâng cao thu nhập, tăng chi tiêu, nâng cao đời sống cho người dân? Đây không phải là một vấn đề có thể giải quyết một cách dễ dàng, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của nhà nước, chính quyền địa phương, các cơ quan hữu quan, các cá nhân và tổ chức trong nước cũng như nước ngoài. Và cần có giải pháp đồng bộ, không những giải quyết về mặt kinh tế, mà còn cả văn hóa. 3.5 Thực trạng về trình độ học vấn của các hộ dân được điều tra Bảng 14 cho ta nhận xét: Có tất cả 187 người đã và đang đến trường, chiếm 60,71% dân số từ 5 tuổi trở lên. Trong đó, 78 người đang theo học chiếm 41,71% tổng số người đã và đang đến trường và 109 người đã thôi học chiếm 58,29%. Trong 78 người đang đến trường thì có đến 51 người học cấp I, chiếm 65,38%, số người học cấp II là 12 và có 6 người học cấp 3. Sự chênh lệch lớn về số lượng học sinh giữa các cấp nói lên rằng con em vạn đò hầu hết nghỉ học ngay từ cấp I. Nguyên nhân do các em phải nghỉ học bao gồm: quan trọng nhất là các bậc phụ huynh không Đạ học Ki h tế Hu ế 43 đủ tiền để cho con em mình đến trường, tiếp đến là các em phải nghỉ học để phụ giúp gia đình. Số người đã thôi học là 109, chiếm 58,29%. Số người đã thôi đến trường chiếm 35,39% tổng số dân từ 5 tuổi trở lên. Trong nhóm này, số người đã từng học cấp I có số lượng nhiều nhất 92 người, cấp II là 16 và cấp III chỉ có 1 người. Số người từ 5 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường là 121 người, chiếm 39,29% tổng số dân từ 5 tuổi trở lên. Hầu hết số này đều hoàn toàn mù chữ và có tuổi đời từ trung niên trở lên. Trong đó, một bộ phận không nhỏ là chủ hộ. Bảng 14: Thực trạng về trình độ học vấn Chỉ tiêu Đang theo học Đã thôi học Tổng cộng Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Mẫu giáo 9 11,54 0 0 9 4,81 Cấp I 51 65,38 92 84,40 143 76,48 Cấp II 12 15,39 16 14,68 28 14,97 Cấp III 6 7,69 1 0,92 7 3,74 Tổng cộng 78 100,00 109 100,00 187 100,00 Bq/hộ 1,3 - 1,82 - - - Bq/dân số từ 5 tuổi trở lên 0,25 - 0,35 - - - Bq/khẩu 0,23 - 0,32 - - - Trong đó: Tổng số dân từ 5 tuổi trở lên: 308 người Tổng số người từ 5 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường (mù chữ): 121 người Đại học Kin h tế Hu ế 44 Bảng 15: Thực trạng về trình độ học vấn của các chủ hộ Chỉ tiêu Tổng cộng Mù chữ Biết chữ Trong đó chia ra Lớp 1 2 3 4 5 6 7 Nam 45 19 26 3 6 9 4 2 1 1 Nữ 9 5 4 1 2 1 4 0 0 0 Tổng cộng 54 24 30 4 8 10 8 2 1 1 Tỷ lệ % 100,00 44,44 55,56 - - - - - - - Có 6 chủ hộ đã mất gồm 5 nam và 1 nữ. Trong đó, tổng số 54 chủ hộ (45 nam và 9 nữ) có 30 người biết chữ, chiếm 55,56% và 24 người mù chữ chiếm 44,44%. Chủ hộ nam có trình độ học vấn cao hơn chủ hộ nữ. Trong đó, tổng số 30 người biết chữ nam là 26, nữ là 4. Các chủ hộ có trình độ học vấn nằm trong phạm vi từ lớp 1 đến lớp 7, từ lớp 1 đến lớp 3 có 22 người, chỉ có 12 người từ lớp 4 đến lớp 7. Nhìn chung, trình độ và năng lực của chủ hộ là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức sống của hộ gia đình. Các chủ hộ có trình độ học vấn hơn tổ chức đời sống gia đình, nghề nghiệp tốt hơn và có thu nhập cao hơn. 3.6 Ảnh hưởng của vấn đề lao động và việc làm đến các vấn đề kinh tế- xã hội của địa phương 3.6.1. Mức thu nhập Phần lớn dân cư thuộc địa bàn nghiên cứu đều có nghề nghiệp không ổn định với mức thu nhập thấp, rất ít trường hợp là cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Mặc dù nhiều năm nay, Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều quan tâm, giúp đỡ cư dân tái định cư trong công tác XĐGN. Tuy nhiên, hiện tại ở khu tái định cư vẫn còn nhiều hộ nghèo và nhiều hoàn cảnh bi thương. Dựa theo quyết định ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015 của Thủ tướng Chính phủ, tôi xin phân ra 5 mức thu nhập cho mỗi người trong 1 tháng, cụ thể như bảng: Theo Bộ LĐ TB-XH ( giai đoạn năm 2011-2015 ), mức thu nhập dưới 500.000 đ/người /tháng là một chuẩn mực nghèo đói đặc trưng của cư dân thành thị ở Việt Đại học Kin h tế Hu ế 45 Nam, nhưng tại các khu vực nghiên cứu sự phân hóa của mức thu nhập theo các chuẩn mực này rất rõ. Bảng 16 : Sự phân hóa các mức thu nhập của cư dân tái định cư Xếp mức Thu nhập bình quân/người/ tháng Tỷ lệ(%) 1 Dưới 500.000 đ ( hộ nghèo) 8,3 2 Từ 501.000-650.000 đ (hộ cận nghèo) 16,6 3 651.000 đ-850.000 đ 25,0 4 851.000 đ - 1 triệu đồng 33,5 5 Trên 1 triệu đồng 16,6 Tổng 100,0 + Mức thu nhập dưới 500.000 đ/người /tháng là chuẩn mực nghèo đặc trưng cho mức nghèo của cư dân thành thị nói chung. Qua điều tra khảo sát, mức thu nhập này chiếm khoảng 8,3%. Mức thu nhập này chủ yếu rơi vào những gia đình đông con nhưng lực lượng tạo thu nhập cho gia đình có việc làm ổn định hoặc những gia đình đông con nhưng thiếu lao động do con cái của họ còn ở độ tuổi vị thành niênTrường hợp này cũng rơi vào những gia đình neo đơn già yếu, gia đình có người ốm đau kinh niênHiện tại, ở khu định cư Bãi Dâu hiện vẫn còn 23 hộ nghèo và 6 hộ chính sách trên tổng số 329 hộ. [Nguồn: Số liệu thống kê 2 tổ dân phố] + Mức thu nhập từ 501.000 - 650.000 đ/người /tháng, đây là mức đánh giá cuộc sống của người dân bắt đầu vượt qua được ngưỡng nghèo ở đô thị. Qua khảo sát thực tế cho thấy mức này chiếm tỷ lệ 16,6%. Trường hợp này thường rơi vào những gia đình khá đông con, lực lượng tạo thu nhập cho gia đình khá đông nhưng phần đông đều chưa có việc làm ổn định hoặc những gia đình có thành phần trên và dưới lao động cũng phải tham gia lao động để tạo thêm thu nhập cho gia đình. + Mức thu nhập từ 651.000 đ - 850.000 đ/người /tháng trong mẫu khảo sát cũng chiếm tỷ lệ khá cao khoảng 25%. Phần lớn đây là những gia đình có buôn bán nhỏ cộng thêm những dịch vụ nhỏ khác như : cắt tóc, sửa xe + Mức thu nhập từ 851.000 - 1 triệu đ/người /tháng. Theo mẫu khảo sát trường hợp này có tỷ lệ cao nhất chiếm đến 34,5%. Phần lớn đây là những gia đình làm nghề khá ổn định như: thợ nề, may Đại học Kin h tế Huế 46 + Mức thu nhập trên 1 triệu đ/người /tháng. Theo mẫu khảo sát, mức này chiếm 16,6%. Đây là những gia đình có lao động chính với công việc tương đối ổn định, trong đó có một số hộ là cán bộ, công nhân viên chức. Tuy nhiên, nếu dùng chuẩn mực nghèo của bộ LĐTB-XH hiện nay (giai đoạn 2011-2015) theo phương án với hộ có mức thu nhập bình quân từ 401 nghìn đồng đến 520.000 đồng/người/tháng là mức đặc trưng vượt ra khỏi ngưỡng nghèo của khu vực nông thôn; đối với khu vực thành thị, chuẩn để vượt ra khỏi ngưỡng nghèo là từ 501 nghìn đồng đến 650.000 đồng/người/tháng, thì phần lớn dân vạn đò tại khu tái định cư Bãi Dâu đều nằm trong ngưỡng nghèo của người dân thành thị (chiếm hơn 80% tổng số dân). Tóm lại, nguồn thu nhập chính của cư dân tái định cư vạn đò chủ yếu là những nguồn thu nhập ngoài quốc doanh (95,01%), với những ngành nghề đơn giản bất ổn địnhVới mức thu nhập này nhưng sinh sống ở đô thị thì thật sự họ gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày (bởi thực tế còn nhiều cảnh rất bi thương). Điều này đã làm cho sức khỏe của họ ngày càng suy yếu dẫn đến dễ mắc bệnh, đặc biệt là trẻ em và người già. Đó cũng là lý do dẫn đến tình trạng trẻ em thất học, và khi đến tuổi trưởng thành để có thể tìm được một công việc ổn định đối với họ càng khó khăn hơn .Suy cho cùng , cái nghèo là nguyên nhân của nhiều hậu quả xấu. Mặc dù, vấn đề XĐGN hiện nay đang là vấn đề được Nhà nước và nhiều tổ chức trong nước, quốc tế quan tâm nhưng để giải quyết đước vấn đề này không phải chỉ "ngày một ngày 2" mà là cả 1 quá trình và cần có sự đồng bộ từ cơ sở đến lãnh đạo các cấp. 3.6.2. Mức chi tiêu Phần lớn cộng đồng dân nghèo trong mẫu khảo sát có mức chi tiêu xấp xỉ hoặc vượt quá mức thu nhập. Mức chi tiêu bình quân đầu người một tháng của mẫu khảo sát là 900.000 đ, trong khi đó mức chi tiêu bình quân đầu người trong một tháng của người dân thành phố trong cả nước là 1,2 triệu đồng. Như vậy, cũng là người dân thành phố nhưng sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo vẫn có khoảng cách rất lớn. Qua khảo sát thực tế chúng tôi nhận thấy mức chi tiêu so với mức thu nhập được phân bổ như sau: +Đủ:40,67% +Thiếu:49,33% + Có dư:10,00% Đại học Ki h tế Hu ế 47 Qua khảo sát thực tế, số hộ chi tiêu bằng hoặc nhiều hơn mức thu nhập chiếm đến 90%, số hộ còn lại chi tiêu có dư so với mức thu nhập là 10% đối với những hộ gia đình ít số nhân khẩu, nhưng số tiền dành dụm được hàng tháng là không nhiều, chỉ đủ chi cho những sinh hoạt cần thiết khác, một số dành dụm để cho con cái học hành và lúc ốm đau Trong tổng số 60 hộ được điều tra thì 100% hộ cho biết chi tiêu chủ yếu là dành cho ăn uống, còn các khoản chi tiêu khác như chi tiêu cho thuốc men , cho con cái học hành là rất thấp. Nói như vậy không có nghĩa là người nghèo không có bệnh tật, nhưng thực chất do họ quá nghèo nên họ vờ đi không muốn quan tâm nhiều đến sức khỏe mà cứ thế phó mặc sinh mệnh cho số phận. Với mức thu nhập đang còn ở mức thấp lại sống ở đô thị nên phạm vị chi tiêu thực chất rất rộng, ngoài chi tiêu cho ăn uống hàng ngày họ phải chi trả tiền điện, nước, phí vệ sinhVì vậy, số hộ có khả năng chi cho con cái học hành rất thấp, đa số các em chỉ học hết bậc tiểu học hoặc chưa hết THCS đã phải thôi học Ngoài ra, đặc điểm chung của dân nghèo đô thị cũng như cư dân tái định cư là phần lớn hoàn toàn không có đủ kinh phí, đủ khả năng để chi cho việc sữa chữa và nâng cấp nhà ở. Nếu may mắn kiếm được một số tiền khá hơn mọi ngày thì cũng ưu tiên bổ sung cho bữa ăn, mua vài thứ sinh hoạt cần thiết * Tóm lại, nếu nhìn một cách tổng quát, với mức thu nhập và mức chi tiêu như đã đề cập thì rõ ràng sự chênh lệch giữa những hộ làm ăn có dư và những hộ nghèo tại khu vực nghiên cứu là không lớn lắm. Điều đó là tất yếu nhưng điều cần thiết hơn là làm thế nào để giúp đỡ những cư dân này sớm hội nhập vào các thành phần kinh tế khác để tiến đến sự bình đẳng trong cuộc sống xã hội. 3.6.3. Tình trạng vay mượn của cư dân tái định cư Như đã đề cập, phần lớn những hộ nghèo đều có mức chi lớn hoặc bằng mức thu nhập. Chính vì vậy tình trạng vay mượn là điều không thể tránh khỏi và cứ thế cái nợ cứ đeo bám cái nghèo- người dân không thể thoát ra được. Trước tình hình đó, nhằm có thể giải quyết việc làm và tạo điều kiện cho bà con sản xuất kinh doanh, giúp bà con tái định cư thoát ra khỏi ngưỡng nghèo, chính quyền các cấp đã không ngừng kêu gọi sự đầu tư hỗ trợ vốn từ các tổ chức, các dự án trong và ngoài nước, như dự án ENDA, dự án Tầm nhìn thế giới hay vốn Đại sứ quán Anh Đại họ Kin h tế Hu ế 48 thông qua hai kênh chính là Hội phụ nữ và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Có thể tóm tắt tình hình vay mượn của các khu tái định cư thông qua bảng sau: Bảng 17: Tình hình vay mượn của các khu tái định cư Đơn vị tính (%) Tên phường Hội phụ nữ Ngân hàng Vay nóng Kim Long 77,36 15,09 Bãi Dâu 65,22 26,08 8,70 Với số liệu điều tra như trên, cùng với báo cáo của chính quyền địa phương, có thể nói: với các nguồn vốn đang được hỗ trợ cho mục đích XĐGN nhưng thực chất thường được hỗ trợ cho những hộ có một ít vốn nhằm tạo điều kiện cho họ có cơ hội làm ăn được thuận tiện hơn. Đối với những gia đình quá nghèo thì hầu như không được vay bởi khả năng hoàn trả lại vốn là một điều khó hoàn thành. Vì vậy, họ đành vay nóng từ bạn bè, người quen tuy số lượng không nhiều nhưng lãi suất thường rất cao từ 15 - 20%/ tháng. CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ TẠO VIỆC LÀM ỔN ĐỊNH CHO NGƯỜI DÂN VẠN ĐÒ BÃI DÂU, PHƯỜNG PHÚ HẬU, THÀNH PHỐ HUẾ 4.1. Một số chính sách của Nhà nước đối với cư dân tái định cư Bãi Dâu 1. Chính sách cấp đất và nhà ở Năm 1998, thành phố Huế tiếp tục đầu tư xây dựng khu tái định cư Bãi Dâu nằm trên địa bàn phường Phú Hậu với quy mô đất là 6 ha. Do quỹ đất có hạn trong khi nhu cầu cần tái định cư của những đối tượng là hộ dân vạn đò và dân nghèo không có khả năng tự xây dựng nhà cửa là rất lớn. Do vậy, trong quy hoạch khu tái định cư này đã tự xây dựng 110 căn hộ tầng 1 diện tích từ 30-50 m2. Mỗi hộ đều có một không gian trống để làm nghề phụ hoặc xây dựng thêm nhà cửa(tùy thuộc vào khả năng hộ gia đình đó), tổng cộng lô đất cho mỗi hộ( kể cả diện tích nhà ở) trung bình là 72 m2. Ngoài ra, dự án còn xây dựng thêm một chung cư 3 tầng theo kiểu các căn hộ ghép với tầng cao là 3 tầng tại khu tái định cư Bãi Dâu. Mỗi căn hộ có diện tích từ 24- 36 m2, kiểu nhà cấp 4, kết cấu gạch kết hợp khung bêtong cốt thép. Do số tầng không cao, quy mô nhỏ, không phải sử lý nền móng phức tạp nên đây là loại nhà được xem có hiệu quả sử dụng đất cao. Đại học Kin h tế Hu ế 49 Hiện tại, những căn hộ xây trên đã giao cho 152 hộ thuộc phường Phú Hòa sử dụng, bán trả góp trong 7-10 năm. Tuy nhiên, với hình thức này đến nay vẫn còn gặp khó khăn do đa số các hộ đều không có việc làm ổn định và với mức thu nhập chỉ đủ sống qua ngày không có tích lũy như đã phân tích. [Nguồn số liệu từ UBND phường Phú Hậu]. 2. Chính sách nhằm giải quyết công ăn việc làm cho cư dân tái định cư Cùng với việc cấp đất và chính sách ưu đãi về nhà ở, Đảng bộ và chính quyền địa phương cũng rất quan tâm đến đời sống kinh tế của nhân dân các khu tái định cư. Nhiều chính sách, hoạt động xã hội như chính sách cho vay vốn nhằm sản xuất và kinh doanh mà chính quyền các cấp và thành phố đã đề ra. Đa phần vốn cho vay đều xuất phát tư các quỹ vốn như: Qũy vốn 120: giải quyết việc làm, quỹ vốn Hội phụ nữ, quỹ vốn cho đội công tác xã hội, quỹ vốn của chương trình 05, quỹ vốn của ngân hàng người nghèo "giải quyết việc XĐGN" cho nhân dân. Ngoài các hỗ trợ nhất định của tỉnh và thành phố, các phường có cư dân tái định cư còn xin liên hệ các nguồn vốn vay từ các dự án khác nhau. Cụ thể: + Dự án Tầm nhìn Thế giới( Uc) Đây là một chương trình mà dự án dành cho người nghèo (đặc biệt là dân vạn đò) đã tái định cư, họ vay vốn không phải thế chấp nhằm tạo vốn ban đầu cho cư dân làm ăn, chống lại tình trạng cho vay nặng lãi. Tổng kinh phí hoạt động tín dụng 1999- 2002 là 191.500.000 đ. Cụ thể ở phường Phú Hậu : Tên phường Tổng vốn vay Mục đích vay Số lượt hộ vay Hình thức thanh toán Lãi (đồng) Phương thức thực hiện Phú Hậu 17.500.000 Vay tạo công ăn việc làm 29 Không lãi 38.636.516 Tín dụng quay vòng [Nguồn số liệu từ UBND phường Phú Hậu] Qua 3 năm thực hiện dưới sự tài trợ của tổ chức Tầm nhìn thế giới, người dân đã ý thức lợi ích tiết kiệm tín dụng. Hầu hết những người được vay vốn đúng thời hạn, Đại học Ki h tế Hu ế 50 chỉ có một số trường hợp gặp rủi ro phải trả vốn chậm, thời gian kéo dài không quá 3 tháng. Tuy nhiên, một số người dân hiện vẫn còn ỷ lại vào chương trình, dự án nên nhiều gia đình chưa phát huy được nội lực của bản thân. Nhiều hộ còn chưa hiểu được lợi ích của tiết kiệm tín dụng. Đặc biêt trong năm 2009 được sự quan tâm của Dự án CODEV Việt-Pháp, hỗ trợ giải ngân vốn vay 100 triệu đồng cho 50 hộ (phụ nữ nghèo) tại tổ dân phố 14 (tái định cư). 3. Chính sách ưu đãi về giáo dục và đào tạo nghề Do mới hình thành nên khu tái định cư này ít được các tổ chức cũng như các dự án trong và ngoài nước quan tâm. Hiện tại, về hỗ trợ giáo dục chỉ có tổ chức Shibanokai (Nhật Bản) đã xây dựng một trường mầm non, 1 trường tiểu học và năm học 2007-2008 mới đưa vào sử dụng trường THCS tại khu vực với vốn đầu tư chủ yếu từ UBND thành phố Huế. Năm 2011, hoàn thành việc xây dựng trường tiểu học Phú Hậu đã được ký kết trước đó, ngày 29/10/2009 nhằm góp phần cải thiện môi trường giáo dục tại địa phương, nơi có tỷ lệ hộ nghèo lên đến 18,5%. Công trình được khởi công xây dựng một tháng sau đó, ngày 30/11/2009. Công trình có diện tích sàn 662m2 với quy mô nhà 2 tầng 6 phòng học. Tổng kinh phí xây dựng hơn 4,7 tỉ đồng; trong đó vốn đối ứng phía nhà nước Việt Nam hơn 2,9 tỷ và vốn viện trợ của Đại sứ quán Nhật Bản là 1,8 tỷ đồng. Từ năm 2000-2002 khu vực này được tổ chức Tầm nhìn tài trợ nên đã duy trì được lớp học tình thương gồm 12 người. Tuy nhiên, từ 2002 đến nay do tổ chức này không còn tài trợ cho khu vực vì vậy lớp học tình thương không có kinh phí và giáo viên nên không còn hoạt động nữa. Đây là một thiệt thòi lớn của khu vực, vì vậy thiết nghĩ chính quyền địa phương cần tích cực hơn nữa trong việc kêu gọi sự đầu tư hỗ trợ của các tổ chức trong nước cũng như quốc tế để người dân khu vực sớm nhận được sự quan tâm ưu tiên mà các tổ chức, dự án đó đem lại. 4. Chính sách ưu đãi nhằm xóa đói giảm nghèo XĐGN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thực hiện chủ trương đó của Nhà nước xác định rõ mục tiêu "Không còn hộ đói kinh niên, từng bước giảm hộ nghèo".Cụ thể không chỉ ở thành phố Huế nói chung mà đặc biệt là các phường, xã Đại học Ki h tế Hu ế 51 hiện có cư dân vạn đò sinh sống nói riêng. Nhiều chính sách hỗ trợ đã được thực hiện nhằm đẩy nhanh chương trình xóa đói giảm nghèo có hiệu quả như: + Hỗ trợ xây dựng, tu sửa cơ sở hạ tầng + Hỗ trợ những gia đình đặc biệt khó khăn + Hỗ trợ định cư + Hỗ trợ tín dụng tạo công ăn việc làm + Hỗ trợ y tế + Hỗ trợ giáo dục Cụ thể hơn tại phường Phú Hậu,công tác XĐGN được giao cho Chủ tịch Hội chữ thập đỏ của phường kiêm nhiệm. Kết quả thực hiện các chính sách này: nhiều hộ nghèo đã vượt ra khỏi ngưỡng nghèo, đời sống của cư dân tái định cư cũng được nâng lên. Thật vậy, từ ? 57 hộ nghèo ( năm2001) giảm xuống còn?42 hộ. Trong khi đó, tại khu tái định cư Kim Long số hộ nghèo từ 297 ( năm 2005) giảm xuống còn 132 ( năm 2010). Đây là một kết quả thực sự đáng mừng đồng thời cũng là sự nỗ lực lớn của chính quyền địa phương tại khu vực nghiên cứu. Tất nhiên, chúng ta cũng cần hiểu rằng trong điều kiện đất nước hiện nay thì sự trợ giúp các chính sách xã hội vẫn chỉ là nguồn giúp thêm, chứ không phải là nguồn thu nhập chính đối với các hộ nằm trong diện chính sách. Do vậy, muốn đưa các hộ nghèo vượt ra khỏi ngưỡng nghèo thì không chỉ riêng chính quyền các cấp phải nỗ lực nhằm giảm được đói, xóa được nghèo mà còn có sự nỗ lực không ngừng của chính bản thân các gia đình nghèo đó.[Nguồn: Dự án định cư và cải thiện cuộc sống dân vạn đò thành phố Huế] 4.2 Nguyện vọng của người dân tái định cư Bãi Dâu Ước muốn có một mảnh đất vừa đủ để xây dựng một căn nhà đủ sức chống chịu với thời tiết hầu như đã được thực hiện đối với cư dân tái định cư này. Họ chỉ còn mong muốn được sống trong ngôi nhà khang trang, sạch sẽ, đủ mọi tiện nghi và mong muốn chất lượng cuộc sống được đảm bảo để có thể tái sản xuất. Tuy nhiên, giữa mong muốn và hiện thực bao giờ cũng có khoảng cách, mà đối với người nghèo khoảng cách này quá lớn, do vậy để khắc phục được thường gặp nhiều khó khăn. Thật vậy, việc xa rời nơi ở quen thuộc để đến một nơi hoàn toàn xa lạ, người dân tái định cư đã thực sự gặp nhiều khó khăn như công việc chưa quen, ít thuận lợi hay cuộc sống bị xáo trộn bởi những tập tục thói quen, vấn đề học hành của con cái. Vì Đại học Kin h tế Hu ế 52 vậy, họ rất mong được sự hỗ trợ về mọi mặt để ổn định cuộc sống tại nơi ở mới này. Sau đây là những mong muốn được sự giúp đỡ của họ: Bảng 11 : Nguyện vọng của cư dân tái định cư Bãi Dâu Đơn vị tính: (%) Nội dung Bãi Dâu Vay vốn làm ăn, chuyển đổi nghề nghiệp 35,05 Con cái học hành 13,33 Xây dựng và sữa chữa nhà cửa 5,00 Trả xong tiền nhà 31,67 Cư dân khác lên định cư 4,25 Có hộ khẩu chính thức 2,25 Muốn có bệnh viện tại khu vực 2,25 Không muốn vay 4,50 Không có ý kiến 1,7 Tổng 100,00 Qua bảng số liệu trên cho thấy phần lớn các hộ gia đình ở khu vực này mong muốn được Nhà nước quan tâm tạo công ăn việc làm, hoặc tạo điều kiện vay vốn để có nghề nghiệp vững chắc và ổn định cuộc sống lâu dài. Một số hộ đã bắt đầu thấy vấn đề học hành của con cái là quan trọng, tuy nhiên họ cho biết rằng những khoản tiền phải nộp vẫn là quá lớn đối với họ. Một số hộ nghèo khác mong muốn được vay tiền của Nhà nước để sửa chữa nhà cửa bởi hiện tại nhiều căn hộ vẫn còn là những ngôi nhà che tạm, chưa xây. Ngoài ra, tại khu định cư Bãi Dâu còn mong có bệnh viện tại khu vực với đội ngũ bác sĩ đầy đủ, túc trực 24/24 và trang thiết bị hiện đại để người dân yên tâm hơn về vấn đề sức khỏe, chăm lo cải thiện đời sống tại nơi mới. Nhiều hộ còn mong muốn trả xong tiền nhà, bởi căn hộ của họ đang sinh sống phải trả góp hàng tháng hoặc hàng quý. Một số hộ khác vẫn mong được Nhà nước quan tâm hơn nữa để tiếp tục đưa các bà con đang còn sống lênh đênh trên sông nước lên định cư. Cũng có nhiều ý kiến mong muốn vay mặc dù với lãi suất ưu đãi nhưng theo họ do công việc không ổn định, nên vay vốn vô tình lại trở thành gánh năng, hàng tháng họ phải trả góp 250.000 đ/tháng. Đại học Kin h tế Hu ế 53 * Tóm lại, mong muốn của người dân tái định cư thì rất nhiều, nhưng nguyện vọng thiết tha nhất vẫn là muốn được Nhà nước tiếp tục hỗ trợ vay ưu đãi nhiều hơn nữa nhằm cải thiện đời sống bởi mong muốn của họ bây giờ không chỉ có cơm ăn đủ no, áo ấm đủ mặc mà còn mong muốn có đủ tiền để con cái học hành và một ít tích lũy khi có bất trắc xảy ra như ốm đau, bệnh tật hay mưa lũ kéo dài. Vẫn còn nhiều hộ nghèo trong khu vực có nguyện vọng vay vốn của Nhà nước nhưng sợ không đủ điều kiện thế chấp hoặc không có khả năng trả lại vốn. Ngoài ra, một số hộ con đông hằng năm có 3-4 cháu đang học và hiện tại họ không thuộc diện XĐGN nhưng vẫn mong có chính sách miễn giảm học phí cho các cháu để họ có điều kiện cho con cái tiếp tục đến trường. Do vậy, thiết nghĩ chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội khác cần có những chính sách thiết thực, cụ thể và linh động hơn trong việc giúp đỡ người nghèo cải thiện đời sống. 4.3 Giải pháp sử dụng lao động và tạo việc làm ổn định cho cư dân tái định 4.3.1 Giải pháp về chính sách tín dụng Đối với cư dân tái định cư vạn đò cần hướng dẫn họ xây dựng các mô hình sản xuất vừa và nhỏ để tạo công ăn việc làm cho các hộ này, cụ thể: + Đối với các phương tiện lao động khác như xe thồ, xe xích lô cũng cần phát triển theo hình thức lao động hợp tác, thành lập thành các đội như: đội xích lô, đội xe thồ. trong việc vận chuyển hành khách hoặc hàng hóa. Việc thành lập các đội nghề này cũng được bố trí cho vay vốn ưu đãi nhằm phát triển ngành nghề cũng như trong việc mua sắm phương tiện mới hoặc sữa chữa, nâng cấp phương tiện cũ sẵn có. + Đối với các hoạt động buôn bán nhỏ (bán hàng rong, bán quán) tạo điều kiện cho người dân vay vốn để có thể mở quán tại một vị trí cố định, đa dạng hóa các mặt hàng và số lượng hàng hóa. + Cộng đồng vạn đò có sức lao động có nhu cầu làm việc sẽ được bố trí cho vay vốn với lãi suất thấp để thành lập các nhóm như: nhóm đúc bờ lô, nhóm khai thác cát sạn . Do sự thay đổi về môi trường sống làm cho người lao động vạn đò sau khi định cư thường gặp rất nhiều khó khăn về điều kiện làm việc, vốn và phương tiện. Vì vậy, việc phát triển các hình thức hợp tác lao động, các đội nghề như xích lô, xe thồcủa người lao động vạn đò sau định cư là rất cần thiết, nhằm tạo sự liên kết, hỗ trợ trong quá trình lao động, khắc phục sự hạn chế về vốn và phương tiện. Đại học Kin tế H uế 54 - Cần có chính sách cho vay để khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh: trong trường hợp khi hộ vay vốn ( đặc biệt là hộ nghèo) gặp rủi ro bất khả kháng như: thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn làm thiệt hại nặng đến vốn vay cần cho vay bổ sung để khôi phục sản xuất tạo nguồn trả nợ cho vốn vay, hoặc có thể xóa nợ vay tùy theo mức độ thiệt hại. - Chính sách huy động nguồn lực: Cần huy động tối đa các nguồn lực của các tổ chức trong và ngoài nước tham gia các dự án tín dụng. 4.3.2 Giải pháp về giáo dục và đào tạo nghề + Tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao trình độ dân trí cho các bậc phụ huynh để họ tạo điều kiện cho con em đến trường, xóa bỏ tư tưởng lạc hậu về vấn đề học hành của con em họ, coi việc kiếm sống hơn học hành. + Vận động các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm tham gia xây dựng quỹ bảo trợ học tập đối với con em những hộ dân tái định cư. + Vận động người dân nên xóa bỏ mặc cảm tâm lý và nâng cao ý thức tích cực tự tạo việc làm của người lao động thông qua các buổi hội thảo, họp tổ dân phố để người dân tại khu vực ý thức được việc lựa chọn nghề nghiệp thích hợp, phù hợp với trình độ và năng lực của bản thân nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình và xã hội. + Các cán bộ phường và khu vực tiếp tục liên hệ các dự án hỗ trợ giáo dụcnhằm giải quyết một phần khó khăn cho các hộ còn nghèo để các hộ này tiếp tục cho con cái đến trường. + Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao trình độ học vấn tay nghề cho người lao động vạn đò như xây dựng thêm những trường nghề, trường học THCS, THPT dành riêng cho con em trên địa bàn các phường xã nói chung và con em tại các khu định cư nói riêng. + Tổ chức các khóa học bồi dưỡng về kiến thức buôn bán, khả năng thanh toán + Tổ chức hướng nghiệp, dạy nghề và bố trí công ăn việc làm cho những người có ý định đổi nghề và những người vì lý do sức khỏe không thể tiếp tục hoạt động trong nghề này được. + Phát triển kinh tế hộ gia đình và các ngành nghề truyền thống trong khu vực như thêu ren, chằm nón Hiện nay, việc phát triển kinh tế hộ gia đình là giải pháp tốt để tạo nhiều việc làm tại chỗ, phù hợp với mọi trình độ, mọi lứa tuổi và tận dụng được Đại ọc Kin h tế Hu ế 55 các nguồn lực tại chỗ như đất đai, tài nguyên, nguồn vốn nhàn rỗi, kinh nghiệm quản lý và tận dụng được cả nguồn lao động dư thừa, đặc biệt là lao động ở các khu tái định cư. 4.3.3. Giải pháp hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động để tạo việc làm là một biện pháp quan trọng, nhất là đối với người lao động có sức lao động lại không có vốn, kỹ thuật. + Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. + Lập quỹ hỗ trợ việc làm để tạo đối tác cùng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho người lao động vay vốn với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất tạo việc làm bằng cách hàng năm trích 1% tổng chi ngân sách theo chương trình giải quyết việc làm. +Tổ chức cho vay vốn từ ngân hàng người nghèo đảm bảo cho vay đúng đối tượng là lao động nghèo có nhu cầu tạo việc làm. + Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm thông quá những công việc sau:  Nắm chắc số lượng, chất lượng lao động thông qua điều tra lao động việc làm hàng năm.  Củng cố các trung tâm dịch vụ việc làm trong tỉnh đẻ tư vấn cho người lao động chọn việc làm, nơi làm việc, tư vấn chọn học nghề, hình thức học nghề, tổ chức cung ứng lao động cho người sử dụng lao động;  Cung cấp thông tin về thị trường lao động cho người lao động và người sử dụng lao động.  Thành lập công ty xuất khẩu lao động để thúc đẩy việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là một trong những giải pháp để giải quyết việc làm cả khi lao động đi và lao động trở về . 4.3.4 Giải pháp hạn chế tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của chính quyền và các tổ chức xã hội đối với cư dân tái định cư + Nếu nguồn tài trợ này dành trực tiếp cho người dân (giáo dục, y tế) thì phải có xu hướng giảm dần theo các giai đoạn tài trợ để giai đoạn cuối người dân tự thấy không thể trông chờ mãi vào nguồn tài trợ trên, thấy rõ nhiệm vụ của mình mà tự nguyện phấn đấu, tự giải quyết lấy. Đại học Kin tế H uế 56 + Nếu nhận thấy vốn bị sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả thì phải xem xét cụ thể để thu hồi hoặc chấm dứt việc cung cấp cho đối tượng vay vốn đó. + Khuyến khích khen thưởng, động viên các hộ gia đình (hoặc cá nhân) sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tài trợ bằng cách: tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng và được ưu tiên giải quyết ở các dự án tài trợ khác (nếu có). + Tăng cường tổ chức các khóa bồi dưỡng về xã hội tâm lý học để người dân trong khu vực hiểu được rằng họ có đủ khả năng, đủ nghị lực để tự mình phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. + Tránh tình trạng tách biệt giữa người dân vạn đò với người dân thành phố. 4.3.5 Giải pháp về vai trò cộng đồng + Tăng cường các buổi họp cho dân bàn bạc, thảo luận để xây dựng một số quy ước trong khu định cư theo đúng quy chế dân chủ của Nhà nước với các nội dung về an ninh trật tự, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Sau khi thống nhất, các quy ước được trình lên UBND phường để thông qua. Được dân chủ đóng góp ý kiến, mỗi người dân sẽ tự nguyện chấp hành quy ước mà chính họ và cộng đồng của họ đã xây dựng. + Tạo công ăn việc làm cho người trong độ tuổi lao động, trẻ em được đến trường, đảm bảo không có đối tượng nhàn rỗi rất dễ bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội. + Tuyên truyền phát thanh phổ biến kiến thức nâng cao dân trí để họ hiểu được quyền lợi thiết thực là sống trong một môi trường đảm bảo an ninh và nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong việc xây dựng và bảo vệ nền an ninh đó, tránh bị các thế lực phản động lợi dụng. Đại học Ki h tế Hu ế 57 PHẦN 3 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết luận Với một phường thường xuyên tiếp nhận các hộ dân tái định cư vạn đò thì vấn đề giải quyết việc làm còn rất nhiều khó khăn. Giải quyết vấn đề này không phải một sớm một chiều mà phải có sự đầu tư lâu dài, sự phối hợp từ trên xuống dưới để tháo gỡ dần dần những khó khăn về kinh tế xã hội. Giảiquết tốt việc làm cho người lao động mà đặc biệt là dân vạn đò tái định cư sẽ làm giảm lượng thất nghiệp của phường, từ đó nền kinh tế xã hội của phường sẽ dần dần được nâng cao dẫn đến ngày càng phát triển. Trong quá trình nghiên cứu để nghiên cứu đề tài một cách thực sự khoa học là việc làm không dễ dàng. Chúng tôi chỉ tiến hành trong phạm vi số liệu điều tra và đã đạt được những kết quả sau: - Đã tổng hợp và hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về lao động, việc làm như các khái niệm, các loại hình việc làm - Khái quát được lịch sử hình thành và đặc điểm kinh tế- xã hội của khu tái định cư Bãi Dâu. -Đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng hợp lý lao động và tạo việc làm ổn định cho người dân tái định cư Bãi Dâu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song đề tài vẫn còn có một số tồn tại như: - Chỉ thực hiện được ở khu tái định cư dân vạn đò tập trung là Bãi Dâu chưa tìm hiểu được các khu tái định cư khác. - Đề tài cũng không thể đưa ra một cách toàn diện, đầy đủ các biện pháp nhằm sử dụng hợp lý lao động và tạo việc làm ổn định. II. Kiến nghị 1. Đối với bản thân người dân tái định cư  Nhìn nhận lại mình, đánh giá đúng vị trí của mình  Tích cực, chủ động trong làm ăn, mạnh dạn vay vốn phát triển kinh tế  Gạt bỏ tâm lý tự ti mặc cảm  Không được bất mãn với cuộc đời và phải có trách nhiệm với chính cuộc sống của bản thân mình  Nâng cao hiểu biết, kiến thức về văn hóa, xã hội để hòa nhập tốt hơn với cộng đồng. Đại học Ki h tế Hu ế 58 2. Đối với Nhà nước và chính quyền địa phương  Chú trọng giải quyết việc làm cho người dân đang sinh sống tại các khu định cư trên bờ  Thực hiện tốt các chính sách: cho vay vốn tín dụng, xóa nạn mù chữ, dân số - KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng  Tích cực vận động nguồn vốn tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước  Cán bộ địa phương phải thấy rõ vai trò và trách nhiệm của mình, nhiệt tình với công việc  Tránh sự rườm rà, phiền hà cho người dân trong việc giải quyết các thủ tục giấy tờ.  Cần có những chính sách và biện pháp hợp lý để hạn chế tình trạng trẻ em phải tham gia làm việc, đưa các em đến trường trở lại, tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa vào ban đêm, dạy nghề cho các em để các em sau này bước vào đời với tâm lý tự tin và vững vàng hơn.  Cần có chính sách hợp lý để vận động các bậc phụ huynh cho con em mình đi học đúng tuổi, đảm bảo tất cả các em đều được đến trường, hạn chế tình trạng các em bỏ học. Đại học Kin h tế Hu ế 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Số liệu thống kê lao động, việc làm các tổ dân phố 2. UBND phường Phú Hậu, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội qua 3 năm 2008, 2009, 2010. 3. UBND phường Kim Long, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội qua 3 năm 2008, 2009, 2010. 4. Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng Kinh tế- xã hội và một số giải pháp nhằm nâng cao đời sống của cộng đồng cư dân vạn đò ở thành phố Huế, Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Khoa, năm 2003. 5. Thị trường lao động : Cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, TSKH PHẠM ĐỨC CHÍNH, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội - 2005 6. Ths. Hà Thị Hằng (2008), "Định cư" và "định canh" cho dân vạn đò Huế, Báo Thừa Thiên Huế ngày 16-08-2008. 7. http//w.w.w.Chinhphu.vn 8. http//w.w.w.huecity.gov.vn 9. http//w.w.w.thuathienhue.gov.vn 10. http//w.w.w.netdephue, Phú Hậu đi lên từ một phường nghèo 11. http//w.w.w.baogialai.com.vn, Ban hành chuẩn hộ nghèo, cận nghèo mới giai đoạn 2011-2015 12. http//w.w.w.trt.com, TT Huế triển khai chính sách hỗ trợ giá điện cho hộ nghèo 13. http//w.w.w.thitruonghue.com, Thừa Thiên Huế: Dân vạn đò vừa lên bờ vừa kêu khổ với nhà tái định cư 14. http//w.w.w.dulichhue.com.vn, Người dân vạn đò sông Hương, an cư nhưng chưa lạc nghiệpĐại ọc Kin h tế Hu ế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_ve_lao_dong_va_viec_lam_cua_nguoi_dan_van_do_bai_dau_sau_khi_dinh_cu_len_bo_o_phuong_phu.pdf
Luận văn liên quan