L à một ng ân hàng thương m ại Nh à nước hoạt động chủ yếu trong lĩ nh v ực ngoại
th ương, khách hàng số một c ủa VCB là những doanh nghi ệp hoạt động trong lĩ nh v ực
XNK. Giải ph áp quan trọng nhất để giữ chân những ng ười b ạn chung thuỷ l âu đời l à phải
xác định được m ức dị ch v ụ phí l à l ãi su ất đầu ra thật h ợp lý, mang l ại l ợi í ch cho cả hai bên.
Cải c ách hành chí nh trong ng ân hàng, giảm bớt các thủ t ục phiền hà cũng là một h ì nh thức
giảm chi phí trong huy động v à s ử dụng v ốn cho khách hàng. Cần kiên quyết ng ăn chặn v à
xử l ý nghiêm đối v ới c ác hiện tượng sách nhiễu, v òi v ĩ nh, thông đồng tham ô của cán bộ
ng ân hàng.
Có ch í nh sách khách hàng phù hợp, ưu đãi v ới kh ách hàng truyền thống như: Thi ết
l ập m ột bi ểu phí dị ch v ụ ưu đãi nh ằm thu hút kh ách hàng, tăng khả năng cạnh tranh. Xác
định m ức k ý quỹ một c ách phù hợp.
124 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 5642 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn nhân lực.
- Vấn đề tăng cường mối quan hệ giữa NH với bạn hàng, khách hàng, các cáp chính
quyền...
- Vấn đề giải quyết nợ quá hạn.
Vậy, từ tình trạng thực tế của VCB, em xin đưa ra một số giải pháp dành cho VCB là:
1. Phát triển hoạt động tài trợ XNK thông qua việc mở rộng và nâng cao chất lƣợng
các nghiệp vụ có liên quan:
1.1. Tăng cƣờng huy động mọi nguồn vốn phục vụ hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu:
Trong thời gian tới ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn song song với
việc điều chỉnh nguồn vốn theo hướng nâng cao nguồn vốn từ dân cư, duy trì và mở rộng
nguồn vốn tổ chức kinh tế, tranh thủ nguồn vốn đầu tư và nhàn rỗi của các công ty bảo
hiểm. Đặc biệt lưu ý các giải pháp huy động các nguồn vốn trung dài hạn, coi đây là khâu
then chốt có tính quyết định. Tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn phục
vụ nhu cầu ngày một tăng của nền kinh tế trong những năm tới.
79
Để có thể thực hiện thành công những nhiệm vụ quan trọng này, ngân hàng cần thực
hiện tốt các biện pháp sau:
Tiếp tục sử dụng lãi suất như là một công cụ tài chính linh hoạt và hiệu quả nhằm
thực thi các chủ trương chiến lược kinh doanh đã đề ra. Đối với khách hàng có
lượng tiền gửi lớn, thời gian dài, cần có chính sách ưu đãi riêng như được hưởng
mức lãi suất cao hơn mức lãi suất quy định hoặc được nhận một món quà có giá trị
khi gửi tiền. Nếu khách hàng rút tiền trước hạn thì vẫn cho khách hàng hưởng mức
lãi suất ứng với mức lãi suất của kỳ hạn gần nhất mà khách hàng đã gửi. Vào những
dịp lễ tết nên gửi thiệp chúc mừng để duy trì quan hệ tốt với khách hàng.
Để khuyến khích các Phòng giao dịch tích cực huy động vốn tại địa bàn, lãi suất nội
bộ cần tiếp tục được điều chỉnh linh hoạt, có chế độ phân biệt lãi suất với các Phòng
giao dịch có số dư gửi vốn lớn tại SGD.
Tiếp tục nghiên cứu đưa ra mức lãi suất nội bộ để có thể cân bằng nguồn vốn, sử
dụng vốn vay đặc biệt tại các kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, đồng thời hướng các chi
nhánh quan tâm hơn nữa tới việc phòng ngừa rủi ro lãi suất và đảm bảo thanh
khoản.
Tiếp tục mở rộng mạng lưới, tăng cường công tác đào tạo cho các cán bộ kinh doanh
vốn, nâng cao phong cách giao tiếp khách hàng, đào tạo chuyên môn cho các cán bộ
giao dịch bằng cách mở các đợt tập huấn công tác huy động vốn ( kỳ phiếu, trái
phiếu, quỹ tiết kiệm, đề án tiết kiệm tích luỹ) trong cả hệ thống, xây dựng cẩm nang
huy động vốn.
Mở rộng và khuyến khích các hình thức mở tài khoản cá nhân, tạo tiền đề đẩy mạnh
nghiệp vụ thanh toán thẻ, rút tiền tự động qua mạng ATM nhằm thu hút thêm các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân. Lên kế hoạch thuyết phục, thu hút thêm các
doanh nghiệp giao dịch với ngân hàng trả lương cho nhân viên trên các tài khoản cá
nhân.
Ngân hàng mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, các tổ chức quốc tế khác để
vay vốn trung dài hạn.
80
Ngân hàng cần thực hiện đảm bảo tiền gửi cho khách hàng. Những biến động kinh
tế có thể làm sụp đổ các ngân hàng nên người gửi muốn tiền của họ được đảm bảo
một các chắc chắn nhất.
1.2. Nâng cao chất lƣợng hoạt động kinh doanh ngoại tệ:
Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ chủ yếu tại ngân hàng là để phục vụ cho
nhu cầu mở L/C, chuyển tiền và nhờ thu của khách hàng. Tuy nhiên việc mua bán ngoại tệ
cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta, qua đó ảnh hưởng gián tiếp đến
hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của ngân hàng thông qua tác động làm thay đổi tỷ giá
hối đoái. Khi tỷ giá tăng sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Khi tỷ giá
giảm sẽ góp phần thúc đẩy nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu, ở nước ta, tỷ giá được điều
chỉnh bởi mối quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Do đó, trong thời
gian tới ngân hàng VCB cần tăng cường hoạt động mua bán ngoại tệ để phục vụ tốt cho
hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của mình. Cụ thể như sau:
Đẩy mạnh huy động vốn ngoại tệ, khai thác tốt các nguồn vốn tài trợ, nâng cao chất
lượng tín dụng ngoại tệ.
Để chủ động được nguồn vốn ngoại tệ phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế
trong điều kiện nhu cầu về ngoại tệ chưa ổn định. VCB cần đẩy mạnh hơn nữa các hình
thức kinh doanh ngoại tệ, đặc biệt thu hút nguồn ngoại tệ từ các doanh nghiệp có hàng hoá
xuất khẩu, ...
Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh đối ngoại
Mở rộng và quản lý tốt các đại lý thu đổi ngoại tệ, phát triển mạnh hoạt động thanh
toán thẻ, séc du lịch, khai thác dịch vụ chi trả kiều hối bằng cách giảm phí dịch vụ để thu hút
nguồn ngoại tệ chuyển về, đồng thời miễn phí đối với khách hàng nhận tiền bằng đồng nội
tệ, đồng thời quản lý tốt việc sử dụng ngoại tệ đảm bảo khả năng tái tạo ngoại tệ cho hoạt
động thanh toán XNK.
Thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế.
81
Chủ yếu cho các nhà thầu tham gia xây dựng các các công trình có vốn tài trợ hay
có sự tham gia của các đối tác nước ngoài vì tiềm lực ngoại tệ của các đối tác này rất lớn,
đây là nguồn lực để VCB đảm bảo cân đối ngoại tệ.
Đẩy mạnh nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn( Forward)
Nghiệp vụ này là một trong những hướng khả thi nhất nhằm tăng thêm nguồn ngoại
tệ cung cấp cho thanh toán. Các nhà đầu tư thường rất quan tâm tới thị trường kỳ hạn để họ
vay khoản ngoại tệ của mình, nếu có được dự báo tốt. Ngân hàng có thể thu lãi, tự bổ sung
cho dự trữ ngoại tệ để không phải từ chối những yêu cầu giao dịch khi nguồn ngoại tệ trở
nên khó khăn.
1.3. Nghiệp vụ tín dụng:
1.3.1. Nâng cao chất lƣợng thẩm định dự án xuất nhập khẩu:
Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình tín dụng xuất nhập khẩu được
chia thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay.
- Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay
- Giai đoạn phê duyệt và giải ngân
- Giai đoạn kiểm tra sau
Nhìn vào quy trình trên ta có thể thấy rằng về phía ngân hàng, dường như những thủ
tục, những yêu cầu vay vốn được quy định rất chặt chẽ. Nhưng một điều rõ ràng tất cả chỉ là
giấy tờ với những quy định và ràng buộc; còn thực tế thực hiện với độ trung thực và tính
hiệu qủa lại do yếu tố con người quyết định. Chính vì vậy ngân hàng cần phải xây dựng một
đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ cao về chuyên môn và có khả năng phân tích tốt để thu
thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng một cách chính xác về: Tính khả thi
của phương án kinh doanh, tình hình tài chính, tình hình công nợ của khách hàng; kết quả
kinh doanh của những năm trước, kỳ trước và dự kiến kỳ này; Làm rõ nguồn trả nợ từ đâu;
Đánh giá uy tín và khả năng phát triển của khách hàng (đánh giá bộ máy điều hành, lý lịch,
năng lực, của người điều hành và uy tín của họ), cán bộ tín dụng phải thu thập cả những
danh tiếng và tai tiếng của khách hàng để đánh giá chính xác uy tín của họ. Các thông tin
82
này ngân hàng có thể có được từ số sách lưu trữ (đối với những khách hàng đã có quan hệ
với ngân hàng); qua các thông tin trên sách, báo, các phương tiện thông tin đại chúng..., các
thông tin từ bạn hàng của khách hàng, từ nhà cung cấp đầu vào cho khách hàng, tư doanh
nghiệp cùng ngành nghề với khách hàng. Tuy nhiên nguồn thông tin này có thể bị sai lệch
do yếu tố cạnh tranh. Do đó việc điều tra các thông tin về khách hàng từ Trung tâm Thông
tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và sự hỗ trợ của các Bộ ngành liên quan là điều
không thể thiếu. Các thông tin này phải được kiểm soát chặt chẽ, liên tục trong suốt quá
trình cho vay để cập nhật thông tin về khách hàng, phát hiện kịp thời các dấu hiệu rủi ro và
áp dụng các biện pháp thích hợp, có những quyết định hợp lý đối với khách hàng.
Bên cạnh đó, khi thực hiện thẩm định dự án xuất nhập khẩu cần thiết phải sử dụng
một hệ thống đánh giá cho điểm các khách hàng đã được vi tính hoá. Để thực hiện được
điều đó ngân hàng phải xây dựng một hệ thống thông tin đẩy đủ và các chỉ tiêu đánh giá
chất lượng khách hàng được tiêu chuẩn hoá thông qua hệ thống phần mềm máy tính. Ngoài
ra, việc cho điểm khách hàng còn phải được củng cố thêm bằng việc cho điểm theo ngành
kinh tế: khi có một hiện tượng bất lợi ở một ngành nào đó thì hệ thống sẽ tự hạ điểm của tất
cả các khách hàng hoạt động ở ngành đó.
1.3.2. Quản lý tài sản cầm cố, thế chấp:
Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tư, hàng hoá, dùng làm tài
sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực hiện theo các chế độ khoán tài chính
của công ty thu mua. Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những
tài sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân hàng có kho bãi đầy
đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để làm hàng hoá vật tư
đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người vay.
Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt,
hoả hoạn... Ngân hàng có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm
trong nước và ngoài nước buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm
cố với ngân hàng.
83
Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của các tổ chức
tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả năng của công ty, tổ chức
tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở
hợp đồng chuyển nhượng theo thoả thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử
dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả.
1.3.3. Nâng cao chất lƣợng hoạt động quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ
xuất nhập khẩu:
Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong như trong tín dụng thông
thường, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn chịu ảnh hưởng lớn của 2 nhân tố là lãi suất và
tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của 2 nhân tố, nếu tạo thêm
thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ gây thiệt hại cho khách hàng và
ngược lại.
Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp dụng các
giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với các công cụ chủ yếu sau:
+ Hợp đồng mua bán kỳ hạn
+ Hợp đồng tương lai
+ Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá
+ Nghiệp vụ SWAP về lãi suất
Với các điều kiện về con người và cơ sở vật chất, thông tin và các quan hệ uy tín trên
thị trường quốc tế hiện nay. Ngân hàng Ngoại thương có thể áp dụng các hình thức kinh
doanh này nhằm tăng thu nhập về dịch vụ, đồng thời quản lý được các rủi ro về biến động
của thị trường tiền tệ. Để triển khai được nghiệp vụ này ngân hàng cần có đủ các điều kiện
chủ quan sau:
Đề án kinh doanh hiệu quả và các giải pháp bảo đảm an toàn phòng ngừa các rủi ro.
Có quy trình phù hợp với các quy chế của ngân hàng Nhà nước và thực tiễn kinh
doanh của ngân hàng VCB. Quan trọng là đảm bảo quản lý chặt chẽ phán quyết,
trạng thái hối đoái, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và thông tin tiếp thị.
84
Có đủ điều kiện về con người, trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng.
1.3.4. Tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh để từ đó giảm lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay là một công cụ cạnh tranh mạnh của các ngân hàng thương mại.
Giảm được lãi suất cho vay có nghĩa là tăng khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng khác.
Lãi suất cho vay của ngân hàng được xác định dựa trên các chi phí phải trả hợp lý phát sinh
trong kỳ. Các loại chi phí ngân hàng có thể tiết kiệm được đó là:
Thứ nhất: Các ngân hàng hoàn toàn có thể giảm được chi phí trả lãi huy động nếu
tạo được uy tín với khách hàng. Thực tế cho thấy đa số người dân lựa chọn gửi tiền vào một
ngân hàng có uy tín cao, như các Ngân hàng thương mại Nhà nước với lãi suất thấp hơn,
chứ không tin tưởng gửi tiền cho một ngân hàng trả lãi cao nhưng lại có uy tín thấp. Do đó,
VCB cần phải không ngừng củng cố danh tiếng của mình, tạo cho khách hàng nhiều lợi ích
khác ngoài khoản lãi suất được hưởng, từ đó có thể giảm được chi phí đầu vào và tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
Thứ hai: Tinh giảm bộ máy để có thể giảm đáng kể chi phí dành cho nhân viên,
đồng thời phải sắp xếp bố trí hợp lý và đào tạo nâng cao kién thức nghiệp vụ chuyên môn
nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng công tác của mỗi cán bộ.
Thứ ba: Để giảm đi khoản chi dịch vụ mua ngoài, VCB cần ban hành những quy
định về tiết kiệm, chống lãng phí, áp dụng cơ chế phạt tài chính kết hợp với khen thưởng
trong thực hành quy định về tiết kiệm. Ngoài ra, VCB nên sớm tham gia vào hoạt động
thương mại điện tử, vì giúp cho tiết kiệm đáng kể chi phí văn phòng. Trên thực tế, sử dụng
thương mại điện tử, tức là sử dụng những “văn phòng không giấy” (paperless ofice), theo số
liệu của hãng General Elecetric của Hoa Kỳ sẽ giúp giảm đến 30% chi phí văn phòng...
Ngoài ra, sử dụng thương mại điện tử cũng giúp giảm thiểu những chi phí khác như chi phí
tiếp thị, quảng cáo, chi phí giao dịch...Trên thực tế, chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng
85
khoảng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán
điện tử qua Internet chỉ bằng 10% đến 20% chi phí thanh toán theo hình thức thông thường.
1.4. Đối với nghiệp vụ chiết khấu:
Đây là một nghiệp vụ phổ biến mà các ngân hàng thương mại đã và đang áp dụng
để trợ giúp khách hàng của mình. Ngân hàng nên triển khai nghiệp vụ này trong chiến lược
đa dạng hoá hình thức tài trợ đồng thời để có thể cạnh tranh với những ngân hàng khác, đặc
biệt là ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hiện nay các ngân
hàng còn dè dặt khi khai thác nghiệp vụ này, đặc biệt là hoạt động chiết khấu miễn truy đòi.
Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế và môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt
giữa các ngân hàng để tạo nên sự khác biệt và tăng tính ưu việt của sản phẩm nhằm thu hút
thêm khách hàng VCB nên khuyến khích và tạo điều kiện mở rộng cả hai hình thức chiết
khấu.
1.5. Đối với nghiệp vụ bảo lãnh:
Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 196 QĐ -
NH14 ngày 16/9/1994 về “Quy chế và nghiệp vụ bảo lãnh cho các ngân hàng”.Quyết định
này hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm
hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng,
đảm bảo hoàn trả vốn vay.Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo lãnh theo
quyết định 196, các ngân hàng thương mại đã bảo lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham
gia đấu thầu thực hiện hợp đồng... giúp cho việc triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và
công nghệ cho việc phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những mặt được đó, qua hơn 8
năm thực hiện quy chế bảo lãnh theo quyết định 196 NH – QĐ14 đã bộc lộ một số tồn tại
bất hợp lý như. Mức chi phí dịch vụ bảo lãnh hiện nay trung bình khoảng 12%/năm tưởng
rằng đã cao vì ngân hàng không phải bỏ vốn, nhưng xét về mặt giá trị thì mức phí này thấp
hơn so với lãi suất tín dụng, trong khi về mức độ rủi ro thì cho vay và bảo lãnh là như nhau.
Chưa kể ngân hàng phải bỏ ra một tỷ lệ vốn nhất định từ nguồn vốn kinh doanh để trích lập
quỹ bảo lãnh nhằm phòng ngừa rủi ro...
86
Do đó, khi VCB áp dụng hình thức bảo lãnh xuất nhập khẩu thì cần lưu ý các điều
trên và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho vay cùng loại:
Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng
Phân kỳ kế hoạch thu nợ
Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng.
Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ.
1.6. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phƣơng thức L/C và nhờ thu:
Như chúng ta đã biết, hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động chứa đựng
nhiều rủi ro và rủi ro có thể xảy ra cho cả về phía khách hàng lẫn ngân hàng. Để phòng
chống các yếu tố rủi ro, nhằm củng cố và tăng cường uy tín, an toàn cho ngân hàng và
khách hàng của mình, VCB cần áp dụng một số biện pháp sau:
Về công tác điều hành: Tăng cường khả năng quản lý và kiểm soát việc chấp hành
nghiêm chỉnh quy trình nghiệp vụ đã ban hành của ngân hàng Ngoại thương đối với
các chi nhánh.
Về mặt nghiệp vụ:
Thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình kinh tế, chính trị của các quốc gia có
quan hệ thương mại với Việt Nam. Thông qua hệ thống đại lý để điều tra, khai thác các
thông tin về tình hình tài chính, về khả năng giao hàng và tư cách đạo đức của đối tác nước
ngoài trong hợp đồng kinh tế.
Tư vấn cho khách hàng khi ký kết hợp đồng lựa chọn phương thức và các điều kiện
thanh toán có lợi nhất. Trong quá trình thực hiện hợp đồng yêu cầu khách hàng phải thường
xuyên theo dõi việc giao hàng, chứng từ...
Trong các hợp đồng tín dụng cho vay bằng ngoại tệ phải có phương pháp phòng
ngừa rủi ro tỷ giá để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và khách hàng. (áp dụng các công cụ
phái sinh như Foward, Swap, Option...)
87
Chú ý đến các nghiệp vụ L/C đặc biệt là L/C xác nhận, chuyển nhượng... có nhiều
đặc điểm riêng biệt, tính chất khác nhau, vì vậy khi thực hành các thanh toán viên phải đặc
biệt tuân thủ quy trình và thông lệ quốc tế. Quản lý chặt các món bảo lãnh và L/C trả chậm:
tiếp tục chấn chỉnh việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và mở L/C trả chậm. Tổ chức kết hợp
chặt chẽ các phòng nghiệp vụ với nhau như: Phòng tín dụng, phòng thanh toán nhập, phòng
thanh toán xuất, phòng bảo lãnh... để giám sát tiến độ của L/C cũng như tính toán, rà soát,
lập phương án để tiến hành các bước tiếp theo trong quá trình TTQT như tiến độ giao hàng,
tình trạng của chứng từ, các tin có liên quan từ ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận,
ngân hàng chuyển nhượng...
2. Đa dạng hóa các hình thức dịch vụ tài trợ thƣơng mại quốc tế:
Như chúng ta đã biết, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển, kéo theo
nhu cầu cần tài trợ của doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng ngày càng đa dạng. Để đáp ứng
nhu cầu đó, VCB cần phải nghiên cứu các sản phẩm mới mà các ngân hàng nước ngoài áp
dụng, và ứng dụng nó trong điều kiện Việt Nam một cách phù hợp. Chính nhờ những sản
phẩm mới này sẽ là công cụ để tăng thêm uy thế, uy tín của ngân hàng VCB trong thị
trường ngân hàng cạnh tranh khắc nghiệt như hiện nay.
Điển hình, đối với hoạt động bao thanh toán, ở Việt Nam chỉ mới có một số ít ngân
hàng cung cấp như VCB, ACB, ANZ. Các khách hàng ở Việt Nam vẫn chưa quen với dịch
vụ này. VCB cần phải tận dụng lợi thế về đội ngũ chuyên viên am hiểu nghiệp vụ của mình,
tư vấn hỗ trợ cho khách hàng, khuyến khích họ sử dụng dịch vụ. VCB cần phải phát huy
hơn nữa vai trò tư vấn của ngân hàng đối với các dự án sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu
của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, cần xem xét lại quy trình xây dựng, thiết kế và đưa vào ứng dụng các sản
phẩm mới cho tài trợ thương mại quốc tế, trong đó phần rõ trách nhiệm các phòng/ban liên
quan như Quan hệ khách hàng, Quan hệ ngân hàng đại lý, Quản lý các đề án công nghệ,
Trung tâm tin học,… cũng như giữa Hội sở chính và các chi nhánh nhằm đảm bảo xây
dựng sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách hàng cả về mặt nghiệp vụ và thời gian.
88
3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế:
Để phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, ngân hàng không thể không đẩy
mạnh thêm việc mở rộng mạng lưới và quan hệ hợp tác quốc tế. Đây là điều rất quan trọng,
quan hệ hợp tác quốc tế là hạn chế cũng kéo theo hạn chế tầm hoạt động của tài trợ thương
mại quốc tế. Đăc biệt VCB cần quan tâm hơn đến việc thiết lập quan hệ ngân hàng ở khu
vực châu Phi và Nam Mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu xúc tiến thương mại và đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa dịch vụ của Việt Nam sang các nước thuộc khu vực này cũng như đáp ứng
nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư tài chính quốc tế của VCB. Bên cạnh đó, từng bước mở
rộng hoạt động ngân hàng kể cả thanh toán quốc tế trực tiếp tại một số vùng biên giới có
tiềm năng về biên mậu cũng như tại một số trung tâm ngân hàng tài chính quốc tế lớn như
Hongkong, Singapore, Mỹ.
4. Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động kinh doanh nhằm thúc đẩy
hiện đại hoá ngân hàng:
Thời gian qua, VCB đã cố gắng nâng cấp hệ thống trang thiết bị, công nghệ,...để
ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Hệ thống mạng hiện nay đã được nâng
cấp giúp cải tiến nghiệp vụ và giúp xây dựng các chương trình ứng dụng trong môi trường
công nghệ mới với các tính năng đa dạng, tiện lợi khi giao dịch với khách hàng, đồng thời
phát triển nhanh tốc độ xử lý nghiệp vụ tài chính và thương mại điện tử. Tuy nhiên, để chủ
động hội nhập, VCB cần phải tiếp tục nâng cấp hệ thống tin học. Đây là tiền đề quan trọng
để tiếp tục triển khai một loạt các ứng dụng công nghệ tiên tiến như ngân hàng điện tử, mở
rộng hệ thống rút tiền tự động (ATM), tăng cường hệ thống thông tin quản lý, ứng dụng các
chuẩn mực của hệ thống kế toán quốc tế (IAS). Ngoài ra, đầu tư phát triển công nghệ hiện
đại cũng là điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại vì đây là một yếu tố quan
trọng tạo nên sức mạnh cạnh tranh. Đảm bảo an toàn và hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc
tế, kinh doanh ngoại tệ.
89
5. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực của ngân hàng thông qua chiến lƣợc con
ngƣời trong mô hình ngân hàng hiện đại:
Sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đã khẳng định con người luôn là nhân
tố quyết định mọi thành công. Chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thị trường nên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất
tốt, có kiến thức và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và
có trình độ ngoại ngữ. Đây là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động của ngân
hàng. Cùng với đầu tư về cơ sở vật chất, ứng dụng về công nghệ thông tin thì VCB cũng
cần chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực. Cần tiếp tục nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực theo hướng:
Thường xuyên thực hiện công tác đào tạo lại nghiệp vụ cho nhân viên, tiến tới 100%
cán bộ ngân hàng đều được đào tạo và nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức
pháp luật, thông lệ quốc tế và ngoại ngữ... Tạo điều kiện giúp cán bộ, nhân viên ngân hàng
có đủ trình độ nghiệp vụ phù hợp với các cương vị đảm nhiệm. Đối với lĩnh vực kinh doanh
đối ngoại của VCB hiện còn nhiều cán bộ, phòng giao dịch chưa đáp ứng được nhu cầu của
thị trường, chẳng hạn xử lý chưa thuần thục kỹ thuật nghiệp vụ, thực hiện chưa đúng theo
các thông lệ quốc tế, lúng túng khi xử lý các tình huốn khó phát sinh trong quá trình thanh
toán. Do vậy, muốn hiểu rõ và áp dụng các thể lệ, chế độ đã ban hành thì đòi hỏi mỗi người
cán bộ cần phải nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ. Hơn nữa, nghiệp vụ thanh toán ngày
càng phát triển nên kiến thức cần phải được cập nhật kịp thời và toàn diện. Đối với các
doanh nghiệp, chất lượng dịch vụ quan trọng hơn cả giá cả dịch vụ vì nhu cầu chính của họ
là thanh toán được tiền. Việc làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ cho cấn bộ có tác dụng tích
cực: Nâng cao uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng, thu hút khách hàng thêm nhiều
khách hàng mới. Do vậy, VCB cần phải thực hiện tốt công tác đào tạo nhằm nâng cao trình
độ nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cho cán bộ ngân hàng có liên quan đến hoạt động tài trợ
thương mại quốc tế. Chính vì vậy việc cần thực hiện đó là:
Cử cán bộ đi học tại các ngân hàng có kinh nghiệm (có thể ở nước ngoài) về nghiệp
vụ thanh toán quốc tế nâng cao, học tập kinh nghiệm, từ đó hình thành một đội ngũ giảng
90
viên kiêm nghiệm của VCB đào tạo lại cho các cán bộ khác trong nội bộ hệ thống VCB.
Hàng năm, tổ chức các hội nghị chuyên đề và tập huấn nghiệp vụ thanh toán quốc tế để cập
nhật nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm.
Bên cạnh việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ tài trợ thương
mại thì cũng phải bồi dưỡng cả phẩm chất đạo đức. Đội ngũ cán bộ phải là những người
nhiệt tình, năng nổ có tinh thần trách nhiệm trong công tác, có thái độ và phong cách giao
tiếp văn minh lịch sự.
Đối với công tác nhân sự, VCB cần thực hiện tốt chế độ thi tuyển theo những tiêu
chí có chất lượng để tuyển được các cán bộ mới thực sự có năng lực. Việc tuyển chọn cán
bộ trẻ kế thừa có ý nghĩa quyết định tương lai phát triển của ngân hàng. Công tác quy hoạch
cán bộ phải luôn tính đến yếu tố trình độ năng lực chuyên môn, năng lực điều hành và gắn
liền với chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động tài trợ thương mại,
VCB cần có chiến lược phát triển con người, lựa chọn đội ngũ cán bộ trẻ có chuyên môn
cao, có trình độ ngoại ngữ và vi tính tốt, am hiểu về lĩnh vực ngoại thương bố trí làm nghiệp
vụ đối ngoại.
Đào tạo người đã khó, giữ được người càng khó hơn, đối với hiện tượng ” chảy máu
chất xám”, ban lãnh đạo VCB cần xem xét đưa ra phương án cụ thể để khắc phục. Hướng
đến nhân viên, tìm hiểu những băn khoăn, khó khăn của nhân viên, đáp ứng giải quyết, và
đưa ra các chế độ đãi ngộ tốt để họ có thể an tâm làm việc hết trách nhiệm và gắn bó với
ngân hàng.
6. Thực hiện tài trợ thƣơng mại quốc tế trọn gói thông qua việc tăng cƣờng hiệu quả
của phòng tài trợ thƣơng mại:
Sự ra đời của Phòng tài trợ thương mại là tất yếu và cần thiết như đã phân tích.
Nhưng từ khi ra đời Phòng tài trợ thương mại chưa phát huy hết được vai trò của mình. Để
tăng cường hiệu quả của hoạt động này, bắt đầu từ cán bộ của Phòng cũng cần được nâng
91
cao khả năng, trình độ…Để thực hiện hỗ trợ, giúp đỡ và tư vấn cho các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu trong suốt quá trình thực hiện thương vụ, các cán bộ được lựa chọn vào phòng tài
trợ thương mại phải là những cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động và có ý thức
không ngừng học hỏi để hoàn thiện mình. Công tác tài trợ yêu cầu cán bộ phải có hiểu biết
trên nhiều lĩnh vực nghiệp vụ vì vậy VCB có thể thực hiện việc luân chuyển vị trí công tác
của các cán bộ trong phòng tài trợ thương mại theo năm. Chẳng hạn một cán bộ năm trước
có thể công tác ở vị trí chuyên về thanh toán nhập thì năm nay chuyển sang công tác ở vị trí
chuyên thanh toán xuất dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của người đã đảm nhận vị trí đó năm
trước. Cứ như vậy, cùng với sự thay đổi vị trí công tác và tinh thần giúp đỡ, học hỏi lẫn nhau
các cán bộ trong phòng sẽ ngày càng hoàn thiện kỹ năng của mình trên nhiều lĩnh vực tiến
tới việc để thực hiện tài trợ cho 1 thương vụ chỉ cần một người thực hiện tất cả các nghiệp
vụ thay vì nhiều người mỗi người thực hiện một nghiệp vụ.
Về mô hình hoạt động tài trợ thương mại, mô hình phân cấp Chi nhánh hoạt động
đầu đủ và Chi nhánh hoạt động không đầy đủ chưa phải là một mô hình hoàn thiện mà chỉ
là bước đi đầu tiên trên con đường tập trung hóa, chuyên môn hóa hoạt động tài trợ thương
mại quốc tế tại ngân hàng Ngoại thương. Có thể chia quá trình đó thành 3 giai đoạn chính
như sau:
Giai đoạn I (2006-2007): Phân loại và hoàn thiện quy trình tác nghiệp, quy trình
luân chuyển chứng từ giữa các Chi nhánh hoạt động đầy đủ và chi nhánh hoạt động
không đầy đủ.
Giai đoạn II ( 2007-2009 ): Sắp xếp lại hoạt động thanh toán quốc tế theo hướng
đẩy mạnh tài trợ xuất nhập khẩu, phát triển các sản phẩm tài trợ mới, tiếp tục tập
trung hóa xử lý các giao dịch tài trợ thương mại tại các Chi nhánh có chất lượng xử
lý cao.
Giai đoạn III ( 2009-2010): ứng dụng mô hình các phòng Dịch vụ tài trợ thương
mại tại các Chi nhánh chịu trách nhiệm tiếp thị, quảng bá, cung ứng các sản phẩm tài
trợ thương mại bên cạnh các Trung tâm miền chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch
tài trợ thương mại. Tối đa có thể là 2 hoặc 3 Trung tâm miền trên toàn lãnh thổ.
92
Các bước đi này phù hợp với thực tế phát triển của các trung tâm thương mại, công
nghiệp tại Việt Nam, phù hợp với xu hướng tập trung hóa của các ngân hàng hiện đại trên
thế giới và phù hợp với tính tất yếu ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ ngân hàng
tại ngân hàng Ngoại thương. Để mô hình này đi vào hiện thực, trong các năm tới cần: tăng
cường công tác kiểm tra giám sát số lượng, chất lượng xử lý để các Chi nhánh không trực
tiếp xử lý vẫn có thể đứng danh trong giao dịch.
Cùng với việc tổ chức lại mô hình hoạt động thành công, khi hiệu quả và uy tín của
phòng tài trợ đã được khẳng định và các cán bộ đã tích luỹ được những kinh nghiệm cần
thiết, hoạt động của phòng tài trợ thương mại sẽ không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp 90-
91 nữa mà VCB có thể mở rộng phạm vi phục vụ của Phòng đối với các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có nhiều nhu cầu tài trợ.
7. Tăng cƣờng áp dụng các biện pháp Marketting vào hoạt động ngân hàng. Xây
dựng chiến lƣợc khách hàng từ tổng thể đến chi tiết:
VCB cũng là một đơn vị kinh doanh và mục tiêu đầu tiên là lợi nhuận, nên việc
khuyếch trương thanh thế, uy tín, chất lượng hoạt động của mình nhằm thu hút khách hàng
là một biện pháp quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công. Vì vậy trong mỗi nghiệp
vụ cần tăng cường hoạt động marketting, nhất là trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa
các ngân hàng, đặc biệt là với các ngân hàng nước ngoài đã có nhiều kinh nghiệm, có tiềm
lực tài chính sẽ vào kinh doanh ở Việt Nam theo Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đã được
ký kết và cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Thực hiện Marketing nhằm tối đa hoá hiệu quả các hoạt động kinh doanh, hoạch
định và kiểm soát vị thế của VCB trên thị trường. Đặc biệt, khi các ngân hàng nước ngoài
được phép vào Việt Nam, thì Marketing sẽ giúp VCB tìm được những thời cơ thách thức,
nghiên cứu nội lực để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình để có thể đứng vững
trong cuộc cạnh tranh này. Chẳng hạn, điểm yếu của các ngân hàng trong nước là vốn nhỏ,
tiềm lực tài chính thấp, thủ tục rườm rà... khiến cho nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn
không hài lòng. Tuy nhiên lại có những điểm mạnh như: mạng lưới rộng, chi phí dịch vụ
thấp, hiểu rõ về khách hàng trong nước, các dịch vụ phù hợp với hoạt động của các doanh
93
nghiệp vừa và nhỏ,... Hiểu được như vậy có thể chủ động đưa ra những biện pháp để thu hút
khách hàng, các dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng... từ đó có thể hoà nhập tốt
hơn, để hoạt động có hiệu quả hơn.
Tới đây, trước các xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá và tin học hoá, VCB chắc chắn sẽ
phải đối mặt với các lực lượng cạnh tranh đông đảo hơn, mạnh hơn và dày dặn kinh nghiệm
hơn. Chính vì vậy, để có thể đứng vững và đi lên cần phải phát triển hoạt động marketting
với đúng tầm và vị trí quan trọng của nó.
Mặt khác, như chúng ta đã biết, đối với mọi hoạt động kinh doanh thì yếu tố khách
hàng là cực kỳ quan trọng, đặc biệt trong cơ chế thị trường “khách hàng là thượng đế”. VCB
tuy là một đơn vị hoạt động lâu năm và có nhiều kinh nghiệm, uy tín trong hoạt động thanh
toán quốc tế nhưng trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt như hiện
nay thì để hoàn thiện và phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế ngân hàng cần lưu ý
một số vấn đề sau:
7.1. Công tác tiếp thị khách hàng.
Là một ngân hàng thương mại Nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực ngoại
thương, khách hàng số một của VCB là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
XNK. Giải pháp quan trọng nhất để giữ chân những người bạn chung thuỷ lâu đời là phải
xác định được mức dịch vụ phí là lãi suất đầu ra thật hợp lý, mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Cải cách hành chính trong ngân hàng, giảm bớt các thủ tục phiền hà cũng là một hình thức
giảm chi phí trong huy động và sử dụng vốn cho khách hàng. Cần kiên quyết ngăn chặn và
xử lý nghiêm đối với các hiện tượng sách nhiễu, vòi vĩnh, thông đồng tham ô của cán bộ
ngân hàng.
Có chính sách khách hàng phù hợp, ưu đãi với khách hàng truyền thống như: Thiết
lập một biểu phí dịch vụ ưu đãi nhằm thu hút khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh. Xác
định mức ký quỹ một cách phù hợp.
94
Đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp văn minh với khách hàng: Phong cách giao
tiếp chính là nghệ thuật lôi kéo và giữ khách có hiệu quả nhất. Nhân viên ngân hàng phải
luôn là người niềm nở, nhiệt tình giải quyết công việc một cách nhanh chóng chính xác,
luôn sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ khách hàng làm thủ tục cần thiết, không gây khó khăn
cho khách hàng, sẵn sàng tư vấn giúp khách hàng ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với
phương thức thanh toán an toàn nhất và có lợi nhất. Ngoài ra, để nâng cao văn hoá kinh
doanh của mình, VCB cần có chiến lược phục vụ khách hàng theo phương châm “cung ứng
dịch vụ với nụ cười thân thiện” theo tiêu chí 3S dưới đây, bởi vì chỉ cần một nụ cười thân
thiện hay một cử chỉ đúng mực của nhân viên cũng đủ để gây ấn tượng tốt đầu tiên đối với
khách hàng. Tiêu chí 3S là: Thứ nhất, Smile: luôn luôn thể hiện sự niềm nở, nhiệt tình đối
với khách hàng.Thứ hai: Secret: luôn luôn bí mật không tiết lộ thông tin cá nhân của khách
hàng như số dư tiền gửi, tiền vay, tình hình tài chính nếưnh chưa thật sự cần thiết.Thứ ba,
Sincerity: luôn phục vụ khách hàng một cách chân thành, nhiệt tình.
7.2. Phân loại khách hàng:
Để thực hiện chính sách khách hàng được chính xác, thì VCB phải thực hiện công
tác phân loại khách hàng theo định kỳ. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực
tài chính, năng lực kinh doanh và mối quan hệ với các ngân hàng thương mại. Cần phải
phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn để xếp loại và có giải pháp xử lý.
Ngân hàng Ngoại thương đã có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chung việc phân loại khách
hàng, nhưng quan trọng nhất là việc thực hiện đối với từng đối tượng khách hàng sao cho
phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, đối với khách hàng đang bị thua lỗ vì những nguyên nhân
khách quan, nếu không cho vay tiếp thì dẫn khách hàng đến bờ vực phá sản mà cuối cùng
nguồn vốn ngân hàng cũng bị thất thoát, nhưng cũng cần phải cảnh giác đối với những
khách hàng mới giao dịch hoặc từ ngân hàng khác chuyển qua, không vì mục tiêu cạnh
tranh mà bỏ qua hoặc coi nhẹ các nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ.
7.3. Quảng cáo và hội nghị khách hàng
95
Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo: Với cơ chế thị trường hiện nay, sự cạnh
tranh giữa các ngân hàng luôn diễn ra gay gắt, do vậy VCB cũng cần đẩy mạnh công tác
tiếp thị, quảng cáo, để tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng của khách hàng và tiếp xúc với khách
hàng để nắm bắt ý kién phản hồi.
Thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, hội nghị chuyên đề nhằm giúp khách
hàng có những hiểu biết cơ bản trong thanh toán quốc tế... Đây là hình thức tổ chức hoạt
động có hiệu quả cho cả khách hàng và ngân hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng,
khách hàng có đủ điều kiện tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau đồng thời tạo cơ hội cho họ
và ngân hàng hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ. Tổ chức
một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất lượng, trước hết là công tác
thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng
tâm, đồng thời tạo được không khí cởi mở với mối quan tâm chung, cũng thông qua khách
hàng mà đánh giá rút kinh nghiệm về năng lực phẩm chất cán bộ ngân hàng. Một hình thức
hội nghị phổ biến hiện nay của ngân hàng nước ngoài là hội thảo chuyên đề do một ngân
hàng chủ trì với sự tham gia của các doanh nghiệp với nhiều nội dung phong phú như: trao
đổi kinh nghiệm, thông tin, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và các biện pháp quản lý rủi
ro....
7.4. Tƣ vấn tiếp thị và hợp tác kinh doanh với khách hàng:
Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính cho dự án kinh
doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tư vấn của khách hàng rất quan trọng,
giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và sản phẩm mới. Xác định tư cách và khả
năng của đối tác nước ngoài tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng cho hàng hoá xuất
khẩu... Trong các nước tư bản, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và lưu thông. Sự
sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp về tài chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá.
8. Tăng cƣờng củng cố bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ và hệ thống thanh tra ngân
hàng:
96
Việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh không những được ngân hàng
quan tâm, mà còn là mối quan tam của người gửi tiền, của các cơ quan quản lý Nhà nước,
của toàn xã hội, vì sự phá sản của một ngân hàng có thể gây nên đổ vỡ dây chuyền trong hệ
thống tài chính – ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Theo kinh
nghiệm từ nhiều vụ phá sản của các ngân hàng trên thế giới, thì để ngăn ngừa những tổn thất
và rủi ro có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh, ngoài các biện pháp thanh tra, giám sát
của các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết bản thân các NH phải có những biện pháp hữu
hiệu, quan trọng nhất là phải thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ một cách đầy đủ và có
hiệu quả. Vì thế VCB cần phải chú ý đến các vấn đề:
- Xây dựng và thực hiện hệ thống kiểm soát chuẩn mực về đạo đức, tính tuân thủ các
nguyên tắc kiểm soát nội bộ, khen thưởng đối với những cán bộ kiểm toán nội bộ
làm tốt, tổ chức cơ cấu hoạt động kiểm soát một cách khoa học, phân công phân
nhiệm cho các đơn vị, bộ phận, cán bộ một cách rõ ràng.
- Phân tích từng lĩnh vực kinh doanh để nhận biết và đánh giá rủi ro một cách đầy đủ,
đặc biệt khi hoạt động ở lĩnh vực mới, kinh doanh một loại sản phẩm mới,...Từ đó,
xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn với quy trình nghiệp vụ đầy đủ, hiệu quả.
- Phối hợp hiệu qủa giữa các cơ quan giám sát ngân hàng với kiểm toán nội bộ. Kiểm
soát nội bộ là vô cùng quan trọng, nhưng một điều không thể thiếu là việc kiểm tra,
thanh tra từ ngân hàng Nhà nước, từ Chính phủ...
Về hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của VCB hiện nay còn không ít những bất
cập. Để thực hiện được nội dung của các mục tiêu đã đề ra thì VCB cần giải quyết theo các
hướng sau:
Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa, chỉnh sửa chế độ thông
tin, báo cáo qua mạng truyền dẫn, nâng cao kỹ năng phân tích, đánh giá tình hình nhằm phát
hiện sớm và đề xuất các giải pháp phù hợp.
Thứ hai: Tiếp tục và tăng cường quan hệ phối hợp với các cấp, các ngành, các địa
phương trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động ngân hàng. Đồng thời,
97
phối hợp có hiệu quả với các cơ quan liên quan, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong việc phát hiện, ngăn chặn, chấn chỉnh và xử lý các sai phạm.
Thứ ba: Triển khai đào tạo và đào tạo lại cán bộ thanh tra và kiểm soát viên, triển
khai các dự án song phương về thanh tra ngân hàng do các tổ chức tài chính quốc tế giúp đỡ,
xây dựng và biên soạn tài liệu, xây dựng cẩm nang thanh tra để có hành trang mới cho hoạt
động thanh tra ngân hàng.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ :
1. Kiến nghị với Chính phủ và các bộ ngành:
1.1. Hoàn thiện môi trƣờng pháp lý:
Trong thời gian tới khi mở cửa thị trường tài chính-ngân hàng theo đúng lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế sẽ xuất hiện ngày càng nhiều các chi nhánh ngân hàng nước ngoài với
nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới mà ở Việt Nam chưa có quy định điều chỉnh. Tình
hình đó đòi hỏi Nhà nước phải sớm ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh các nghiệp
vụ mới nhằm làm cơ sở hoạt động cho hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, Nhà nước cũng phải
đảm bảo sự ổn định, nhất quán của hệ thống các quy phạm pháp luật như luật thương mại,
luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật thuế… tránh những thay đổi không dự báo trước làm
ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và đến các ngân hàng
thương mại nói riêng.
Trước hết cần phải luật hoá các yêu cầu quản lý đảm bảo tính thống nhất trong thể
chế quản lý và chế tài. Cần có nghị định của Chính phủ quy định kiểm toán các doanh
nghiệp là điều kiện bắt buộc trong hồ sơ xin bảo lãnh, tài trợ, vay ngân hàng để có đủ cơ sở
chính xác về mặt kế toán và tài chính cho việc thẩm định của các tổ chức tài chính tín dụng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng cần được hoàn thiện cho phù hợp hơn
với thông lệ quốc tế. Các doanh nghiệp nói chung hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong
việc đáp ứng các điều kiện để được vay tín chấp của ngân hàng. Ngoài ra, còn tồn tại các
vấn đề về việc đưa các văn bản pháp luật vào thực tiễn sản xuất bằng triển khai đồng bộ
98
giữa các cơ quan pháp luật Nhà nước từ Hải quan, Biên phòng, Thuế vụ đến Công an,Viện
kiểm soát và Toà án. Đơn cử trường hợp quyết định số 44 của Thủ tướng Chính phủ ký
ngày 21/03/2002 về việc sử dụng chứng từ điện tử, chữ ký điện tử làm chứng từ thanh toán
đã phần nào mở ra hướng phát triển mới cho ngành tài chính ngân hàng nói riêng và quá
trình thực hiện thương mại điện tử ở Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, thực thi được điều đó
cũng còn cần phải có sự ra đời của nhiều văn bản, thông tư hướng dẫn triển khai cho từng
vấn đề cụ thể, không chỉ đối với trong thanh toán ngân hàng mà còn cả trong dân cư và các
tổ chức tài chính phi ngân hàng.
1.2. Hoàn thiện chính sách quản lý của Nhà nƣớc:
Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước cần đẩy mạnh việc thực hiện các biện pháp
hữu hiệu chống lại các hiện tượng gian lận thương mại và các hoạt động kinh doanh phi
pháp như lừa đảo, làm hàng nhái, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế… Chẩng hạn, hiện nay
hoạt động xuất nhập khẩu qua đường tiểu ngạch còn trong tình trạng buông lỏng quản lý và
thiếu các chính sách quản lý hiệu quả, hầu hết quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu đều sử
dụng tiền mặt mà không thông qua hệ thống ngân hàng, điều này vừa làm giảm khả năng
quản lý của nhà nước, đặc biệt là vấn đề quản lý thu thuế, vừa làm giảm vai trò của các ngân
hàng trong việc phát triển thương mại quốc tế và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hoạt
động thương mại quốc tế.
2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nƣớc:
2.1. Hoàn thiện chế độ quy định về hoạt động kinh doanh, đầu tƣ vay vốn.
Theo quy định hiện nay, các doanh nghiệp nếu thoả mãn các điều kiện vay vốn thì
được quyền vay vốn ở nhiều ngân hàng. Quy định này đem lại rất nhiều thuận lợi cho các
doanh nghiệp, có thể vay vốn ở nhiều nơi nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của
đơn vị mình. Nhưng chính điểm mở này cũng cho thấy hệ thống pháp luật về hoạt động
kinh doanh và đầu tư vay vốn còn nhiều bất cập. Trong đó có tình trạng các ngân hàng cạnh
tranh với nhau, lôi kéo khách hàng nên đã tạo điều kiện cho các khách hàng vay ở nhiều nơi,
thực hiện đảo nợ, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong quản lý vốn vay của các ngân hàng. Do
99
vậy, rất cần ngân hàng Nhà nước tăng cường kiểm tra kiểm soát, yêu cầu các ngân hàng
phải chấp hành đúng các quy định, đồng thời ngân hàng Nhà nước phải làm đầu mối để các
ngân hàng cùng phối hợp chặt chẽ trong quá trình cho vay, kiểm tra, giám sát sử dụng vốn
vay của doanh nghiệp.
Từ thực tế trên, để nâng cao hiệu quả của việc quản lý vốn tín dụng các doanh
nghiệp, ngân hàng Nhà nước nên thực thi quản lý và định hướng các ngân hàng thương mại
theo các nội dung sau.
- Các ngân hàng cần tạo lập mối quan hệ trong kinh doanh với nhau trên mọi phương
diện để thu thập các thông tin chung về khách hàng.
- Đối với các dự án kinh tế lớn, các ngân hàng thương mại nên phối hợp thực hiện cho
vay đồng tài trợ để phân tán rủi ro và quản lý vốn vay được chặt chẽ hơn.
- Tăng cường các biện pháp quản lý kinh doanh đối với các doanh nghiệp theo đúng
chức năng, quy mô hoạt động phù hợp với năng lực và trình độ quản lý, yêu cầu
thực hiện kiểm toán hàng năm.
- Thực hiện cho vay có tài sản đảm bảo với doanh nghiệp nhà nước để xác định tài
sản đảm bảo vốn vay cụ thể cho mỗi ngân hàng.
2.2. Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá.
Để triển khai và tiến hành cơ chế điều hành tỷ giá, một vấn đề có tính then chốt là
phải phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng – một kênh quan trọng để ngân hàng Nhà
nước điều tiết can thiệp mua bán ngoại tệ nhằm cân đối cung cầu và thực hiện chính sách tỷ
giá theo đúng định hướng của Nhà nước. Hoạt động liên ngân hàng cần thực hiện thông
suốt liên tục để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong hoạt động mua bán ngoại tệ, giải
quyết nhanh chóng nhu cầu thanh toán ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Đồng thời có cơ chế xúc tiến các giải pháp nhằm tăng quyền tự chủ trong cân đối
ngoại tệ, tháo gỡ các bất hợp lý gây ách tắc, giảm thiểu các thiệt hại đôi khi là đáng kể do tỷ
giá mang lại trong hoạt động kinh tế đối ngoại của các doanh nghiệp.
10
0
Để thực hiện tốt chính sách tỷ giá và hạn chế những rủi ro cho bản thân ngân hàng
và cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu do sự lên xuống của tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước
cần hỗ trợ các ngân hàng thương mại tổ chức thực hiện tốt công tác phân tích, dự báo tỷ giá
thông qua các tín hiệu của thị trường như cung cầu ngoại tệ, áp lực tăng giảm giá đối với
đồng Việt Nam, tăng cường kiểm tra, kiểm soát trực tiếp việc thực thi chính sách tỷ giá tại
các ngân hàng thương mại…
2.3. Hoàn thiện và phát triển thị trƣờng ngoại tệ liên ngân hàng.
Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một trong những
điều kiện quan trọng để các ngân hàng thương mại mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ
và thanh toán quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ giữa khách hàng và ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế. Việc phát triển thị trường ngoại hối ở Việt Nam theo hướng:
- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các phương tiện thanh toán quốc tế được mua bán
trên thị trường.
- Đa dạng các hình thức mua bán như mua bán giao ngay(SPOT), mua bán kỳ hạn
(FOWARD), mua bán quyền chọn (OPTION). Tức là cho phép các ngân hàng
thương mại được linh hoạt chọn các công cụ giao dịch hối đoái để giúp các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tránh được một phần rui ro khi tỷ giá biến động.
- Mở rộng thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, trong đó ngân hàng thương mại tham
gia thị trường với tư cách là người kinh doanh cho bản thân và cho khách hàng; ngân
hàng Nhà nước tham gia với vai trò điều tiết thị trường trên cơ sở đó mà thực thi
Chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá; người môi giới là người làm cho quá trình giao
dịch được nhanh chóng và hưởng hoa hồng. Phát triển nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ,
nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ qua đêm...
2.4. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy:
Ngân hàng Nhà nước xúc tiến nhanh việc xây dựng, sửa đổi một số văn bản pháp
quy về chiết khấu, tái chiết khấu, cơ chế bảo đảm tiền vay, bảo lãnh, mở rộng hình thức cấp
10
1
tín dụng đối với doanh nghiệp xuất khẩu... nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp
cận dễ dàng thuận lợi hơn tới nguồn vốn ngân hàng.
10
2
KẾT LUẬN
Ngày nay khi quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa ngày càng được mở rộng và đi
vào các cam kết thực chất thì các hình thức tài trợ thương mại quốc tế của các chủ thể như
nhà nước và ngân hàng trung ương ngày càng bị hạn chế, thu hẹp thậm chí bị cấm đoán.
Thay vào đó là vai trò của các ngân hàng thương mại với hình thức tài trợ đa dạng, linh hoạt
và đảm bảo tính cạnh tranh công bằng cho hoạt động thương mại quốc tế. Theo đó, với tính
chuyên nghiệp cao, tài chính hùng mạnh và mạng lưới cơ sở rộng khắp, các ngân hàng
thương mại đã trở thành nhà tài trợ chủ yếu cho hoạt động thương mại quốc tế, thành đòn
bẩy hữu hiệu giúp cho hoạt động thương mại quốc tế được thông suốt, hiệu quả hơn.
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu đã đề ra khi lựa chọn đề tài “ Tìm hiểu hoạt động
tài trợ thương mại quốc tế tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”, khóa luận đã giải quyết
được vấn đề sau:
Dựa trên những kiến thức đã học và tìm hiểu từ các tài liệu có liên quan, sách báo
tạp chí,... luận văn đã hệ thống được các vấn đề cơ bản về tài trợ thương mại quốc tế
và chỉ ra các hình thức tài trợ để từ đó ngân hàng có thể tham khảo và lựa chọn
những hình thức phù hợp với ngân hàng.
Đi sâu phân tích thực trạng hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại Ngân hàng
Ngoại thương, từ đó đánh giá những kết quả, thành tựu mà ngân hàng đạt được
trong lĩnh vực này, cũng chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế đó, làm cơ sở thực tiễn để đưa ra các giải pháp khắc phục trong thời
gian tới.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn khoa luận đã đưa ra các giải pháp xuất phát từ nội
dung công tác tài trợ nhằm thực hiện có hiệu quả việc hoàn thiện và phát triển hoạt
động tài trợ thương mại quốc tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Có thể nói, tài trợ TMQT không còn là một nghiệp vụ xa lạ và mới mẻ đối với các
NHTM Việt Nam, nhưng làm thế nào để có thể cung cấp dịch vụ đáp ứng một cách tốt nhất
nhu cầu của các doanh nghiệp XNK vẫn còn là một vấn đề mà các ngân hàng đang tích cực
10
3
nghiên cứu. Ngay cả Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, với bề dày kinh nghiệm và uy tín
trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng chưa thực sự đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng
của hoạt động thương mại quốc tế. Trong khuôn khổ bài khoá luận của mình, em mới chỉ
tập trung nghiên cứu một số vấn đề được xem là cơ bản nhất của hoạt động tài trợ thương
mại quốc tế, có thể chưa đủ để tháo gỡ những vướng mắc, nhưng đây là những vấn đề cơ
bản, là điều kiện cần thiết để phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế. Em hy vọng
những nghiên cứu của mình có thể góp một phần nhỏ bé vào quá trình phát triển của Ngân
hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới thầy giáo Tiến sĩ Trần Việt
Hùng, đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn
tới các cô các chú, các anh các chị đang công tác tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành bản khoá luận.
Do thời gian nghiên cứu không dài và kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên
khoá luận còn nhiều thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý và đánh giá của các thầy
cô giáo, các anh chị cán bộ trong ngân hàng và tất cả các bạn quan tâm tới đề tài này, để
luận văn được hoàn thiện hơn và mang tính khả thi có tác dụng tham khảo, nghiên cứu và
ứng dụng vào thực tế hoạt động tài trợ thương mại quốc tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3956_1587.pdf