MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
I. Lý do chọn đề tài . 1
II. Lịch sử nghiên cứu đề tài 3
III. Mục đích nghiên cứu đề tài 3
IV. Khách thể nghiên cứu của đề tài . 3
V. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 4
VI. Mức độ, phạm vi nghiên cứu . 4
VII. Giả thuyết khoa học của đề tài 4
VIII. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 4
IX. Phương pháp nghiên cứu . 4
X. Dự kiến nội dung công trình . 5
XI. Kế hoạch triển khai . 6
PHẦN II: NỘI DUNG . 7
Chương 1: Một số vấn đề về giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 7
1.1. Ý nghĩa 7
1.2. Nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo . 8
1.2.1. Bảo vệ tính mạng và tăng cường sức khoẻ, đảm bảo sự tăng
trưởng hài hoà của trẻ 9
1.2.2. Rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản và những phẩm
chất vận động . 10
1.2.3. Giáo dục nếp sống có giờ giấc, có thói quen và các kỹ năng, kỹ
xảo vệ sinh . 10
1.3. Nội dung và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo . 11
1.3.1. Giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh 11
1.3.2. Tổ chức cho trẻ ăn . 13
1.3.3. Tổ chức cho trẻ ngủ . 14
1.3.4. Sự phát triển vận động . 16
1.3.5. Chế độ sinh hoạt của trẻ ở trường mẫu giáo 17
Chương 2: Thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo ở một số
trường mầm non khu vực Sóc Sơn - Hà Nội . 20
2.1. Thực trạng về cơ sở vật chất và không gian . 21
2.2. Thực trạng về công tác quản lý và đội ngũ giáo viên 22
2.2.1. Thực trạng về công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý và chỉ đạo
trong các cơ sở giáo dục mầm non . 22
2.2.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên 24
2.2.2.1. Thực trạng về số lượng và trình độ của đội ngũ giáo viên . 24
2.2.2.2. Thực trạng nhận thức của giáo viên về vai trò của giáo dục
thể chất cho trẻ mẫu giáo . 25
2.3. Thực trạng thực hiện các nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ mẫu
giáo 25
2.4. Thực trạng thực hiện nội dung và phương pháp giáo dục thể chất
cho trẻ mẫu giáo trong các trường mầm non . 27
2.4.1. Thực trạng giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ
mẫu giáo . 27
2.4.2. Thực trạng tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ mẫu giáo . 29
2.4.2.1. Thực trạng đảm bảo chế độ sinh hoạt hợp lý . 29
2.4.2.2. Thực trạng tổ chức cho trẻ ăn 31
2.4.2.3. Thực trạng tổ chức cho trẻ ngủ 34
2.4.2.4. Thực trạng tổ chức cho trẻ vận động 36
2.5. Thực trạng về sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và địa phương
về công tác giáo dục mầm non . 39
2.6. Thực trạng kết quả giáo dục thể chất của trẻ mẫu giáo 41
Chương 3: Nguyên nhân và giải pháp 44
3.1. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo . 44
3.2. Giải pháp . 45
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ . 47
1. Kết luận 47
2. Kiến nghị 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 51
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Vì vậy,
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đảm bảo xây dựng một thế hệ kế tiếp
có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước. Đại hội Đảng khoá IX đã xác
định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,phát triển giáo dục - đào tạo là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người” [1]. Vì vậy, hiện nay giáo
dục đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Đặc biệt, giáo dục mầm non có
một vị trí rất quan trọng, là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc
học đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Chăm sóc - giáo dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc sống
là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp
chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người tương lai của
đất nước. Việt Nam đang có một bước chuyển mình mạnh mẽ trên con đường đi
đến xây dựng cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc. Trẻ em hôm nay là thế
giới ngày mai, trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và bảo vệ, được tồn tại,
được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Vì thế, giáo dục con người ở lứa
tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi con người đối với xã hội,
đối với cộng đồng.
Trẻ em là công dân của xã hội, là thế hệ tương lai của đất nước nên ngay từ
thuở lọt lòng chúng ta cần chăm sóc giáo dục trẻ thật chu đáo. Đặc biệt, giáo dục
thể chất cho trẻ càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi trong nghị quyết Trung ương
4 về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân
dân có ghi rõ: “Sức khoẻ là cái vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã
hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển toàn
diện, có mối quan hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và lao động.
Hơn nữa, giáo dục thể chất cho trẻ mầm non càng có ý nghĩa quan trọng hơn
bởi cơ thể trẻ đang phát triển mạnh mẽ, hệ thần kinh, cơ xương hình thành
nhanh, bộ máy hô hấp đang hoàn thiện. Cơ thể trẻ còn non yếu dễ bị phát triển
lệch lạc, mất cân đối nếu không được chăm sóc giáo dục đúng đắn thì có thể
gây nên những thiếu sót trong sự phát triển cơ thể trẻ mà không thể khắc phục
được. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần
đây đã đặc biệt chú trọng tới công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, tình hình sức khoẻ
còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Nhiều trẻ mắc bệnh còi xương, suy dinh
dưỡng, các bệnh đường hô hấp, các bệnh đường ruột các điều kiện đảm bảo
và chăm sóc sức khoẻ của trẻ còn nhiều thiếu thốn. Cơ sở vật chất ở các
trường và gia đình còn quá chật hẹp, chưa đảm bảo vệ sinh môi trường cho trẻ
sinh hoạt, học tập. Vì vậy, giáo dục thể chất cho trẻ em ở nước ta cần được
tiến hành một cách mạnh mẽ toàn diện, cần được sự quan tâm ủng hộ của toàn
xã hội, tạo điều kiện cho trẻ được phát triển tốt nhất.
Vì thế, là một giáo viên mầm non tương lai, tôi rất quan tâm tới vấn đề
giáo dục thể chất cho trẻ nên tôi chọn đề tài “Tìm hiểu thực trạng giáo dục
thể chất cho trẻ mẫu giáo ở một số trường mầm non khu vực Sóc Sơn -
Hà Nội” nhằm phát hiện ra thực trạng giáo dục thể chất, tìm ra nguyên nhân
và đề xuất một số giải pháp cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể
chất cho trẻ mầm non. Nhưng do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở một số trường mầm non khu vực Sóc Sơn - Hà Nội.
57 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 29206 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khoá luận Tìm hiểu thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo ở một số trường mầm non khu vực Sóc Sơn - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghỉ ngơi của trẻ trong một ngày, nhằm thoả mãn đầy đủ nhu cầu về ăn, ngủ,
vệ sinh cá nhân, hoạt động và nghỉ ngơi của trẻ theo lứa tuổi, đảm bảo trạng
thái cân bằng của hệ thần kinh, giúp cơ thể phát triển tốt.
Chế độ sinh hoạt là điều kiện quan trọng để giáo dục thể chất cho trẻ có
kết quả. Khi chế độ sinh hoạt đã trở thành thói quen thì nó giúp trẻ phát triển
tính độc lập tích cực, sáng tạo của trẻ, giúp trẻ có được những phẩm chất thói
quen đạo đức, sinh hoạt có nề nếp theo trật tự thời gian.
Chế độ sinh hoạt cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
– Chế độ sinh hoạt ở trường mẫu giáo được xây dựng trên cơ sở những
đặc điểm sinh lý, tâm lý của trẻ, trên cơ sở những nhiệm vụ giáo dục và điều
kiện sinh hoạt quyết định.
– Chế độ sinh hoạt phải thể hiện rõ các hoạt động trong ngày của trẻ, được
sắp xếp theo trình tự nhất định, phù hợp với chức năng cơ thể, với môi trường
sống.
– Chế độ sinh hoạt cần đảm bảo thời gian cần thiết cho mỗi hoạt động
trong ngày phù hợp với nhu cầu sinh lý và khả năng hoạt động của các độ
tuổi. Ví dụ: trẻ từ 1-5 tháng ăn 6 bữa trong ngày; trẻ từ 5-12 tháng ăn 5 bữa
trong ngày; trẻ từ 12-72 tháng ăn 4 bữa trong ngày. Thay vào đó khoảng thời
18
gian giữa các bữa ăn lại tăng lên theo lứa tuổi: từ 3.5 đến 4 giờ và 4.5 giờ một
lần.
– Chế độ sinh hoạt phải đảm bảo sự cân bằng giữa các hoạt động và nghỉ
ngơi, giúp trẻ có thể tiến hành hoạt động dưới nhiều dạng khác nhau và tránh
quá sức đối với trẻ.
– Chế độ sinh hoạt phải được lặp đi lặp lại tránh xáo trộn nhiều để tạo thói
quen, nề nếp cho trẻ.
– Chế độ sinh hoạt phải được tổ chức một cách linh hoạt cho phù hợp đối
với mọi trẻ; đồng thời chế độ sinh hoạt cần chú ý tới những đặc điểm riêng
của từng trẻ: với những trẻ yếu, hệ thần kinh dễ bị kích thích thì cần tăng
cường thời gian ngủ, nghỉ ngơi nhiều hơn các trẻ khác.
Để đảm bảo chế độ sinh hoạt đúng ở trường mầm non cần phải chia trẻ
thành các nhóm khác nhau theo lứa tuổi. Mỗi nhóm tuổi là một lớp và có chế
độ sinh hoạt riêng, nhằm đảm bảo cho việc giáo dục trẻ diễn ra thuận lợi và dễ
dàng, giúp cơ thể trẻ phát triển tốt. Các hoạt động diễn ra trong một ngày của
trẻ là ăn ngủ, vui chơi, dạo chơi, học tập, lao động… Các hoạt động này được
phân định rõ ràng trong chế độ sinh hoạt theo trình tự và thờ i gian khác nhau
theo lứa tuổi.Chế độ sinh hoạt của trẻ được chương trình chăm sóc giáo dục
do Bộ giáo dục - đào tạo ban hành cụ thể như sau:
19
TT Nội dung
Thời gian
Bé Nhỡ Lớn
1 Đón trẻ, chơi tự do, thể dục sáng, điểm danh 1h15 1h15 1h
2 Các tiết học 30ph 1h 1h20p
3 Hoạt động ngoài giờ 50ph 30ph 30ph
4 Trò chơi sáng tạo 50ph 50ph 50ph
5 Vệ sinh ăn trưa 1h 50ph 40ph
6 Ngủ trưa 2h50ph 2h50ph 2h40ph
7
Vệ sinh, vận động nhẹ, ăn quà chiều (ăn xế
chiều)
50ph 40ph 30ph
8
Sinh hoạt chiều (nêu gương bé ngoan chiều thứ
bảy)
50ph 1h 1h10ph
9 Hoạt động tự chọn, vệ sinh trả trẻ 1h20ph 1h20ph 1h20ph
Việc thực hiện chế độ sinh hoạt không cứng nhắc, khi áp dụng với mỗi em
cần có sự linh hoạt thích đáng. Có thể xê dịch thời gian biểu ở mức độ cần
thiết. Chẳng hạn, khi trẻ đang quá ham chơi và mệt mỏi, thì có thể kéo dài
thời gian chút ít, nếu cần ngủ sớm hay dậy sớm khi có yêu cầu, một số trẻ suy
dinh dưỡng cần ăn bữa bổ sung…
20
Chƣơng 2: Thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo ở một số
trƣờng mầm non khu vực Sóc Sơn - Hà Nội
Trường mầm non Mai Đình A và trường mầm non Tiên Dược là hai
trường mầm non đầu tiên được vinh dự đón nhận là trường chuẩn quốc gia ở
khu vực Sóc Sơn - Hà Nội. Hai trường luôn đi đầu trong công tác thi đua dạy
tốt, chăm sóc tốt của huyện và đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc, chất
lượng giáo dục không ngừng được nâng cao. Trong các nội dung giáo dục thì
giáo dục thể chất là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục
mầm non và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ nên được các
trường đặc biệt quan tâm, lưu ý. Và để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng giáo dục
thể chất cho trẻ trong các trường mầm non tôi đã sử dụng phương pháp điều
tra bằng phiếu điều tra kết hợp với phương pháp quan sát quá trình nuôi dạy
trẻ của giáo viên mầm non trong hai trường mầm non: Trường mầm non Mai
Đình A và trường Trường mầm non Tiên Dược thuộc khu vực Sóc Sơn - Hà
Nội.
Đối tƣợng điều tra: Giáo viên chủ nhiệm các khối lớp mẫu giáo.
Phạm vi điều tra: 2 trường mầm non thuộc khu vực Sóc Sơn - Hà Nội:
Trường mầm non Mai Đình A.
Trường mầm non Tiên Dược.
Tổng số phiếu phát ra: 24 phiếu, trong đó Trường mầm non Mai Đình A
là 12 phiếu và Trường mầm non Tiên Dược là 12 phiếu.
Số phiếu thu về: 24 phiếu.
Kết quả nhƣ sau:
21
2.1. Thực trạng về cơ sở vật chất và không gian
Để điều tra thực trạng vấn đề này tôi sử dụng câu hỏi với nội dung như
sau:
Cơ sở vật chất là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục thể chất, theo cô
điều kiện cơ sở vật chất trong trường có đáp ứng được nhu cầu giáo dục thể
chất cho trẻ không?
A. Có
B. Chưa đáp ứng đủ
C. Không
Cô đồng ý với ý kiến nào, xin cô hãy đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 1: Thực trạng về cơ sở vật chất và không gian
Tổng số phiếu
Ý kiến
A B C
24
21/24
(87.5%)
3/24
(12.5%)
0
Theo kết quả điều tra, khoảng 87.5% giáo viên cho rằng cơ sở vật chất của
trường đáp ứng được nhu cầu giáo dục thể chất cho trẻ. 12.5% ý kiến còn lại
cho rằng cơ sở vật chất của trường chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu giáo dục thể
chất cho trẻ.
Qua quan sát thực tế tôi thấy: Nhà trường đã xây dựng trường, lớp xanh,
sạch đẹp, an toàn và thân thiện. Trường lớp thoáng mát, khang trang và sạch
sẽ, đồ dùng đồ chơi phù hợp với lứa tuổi. Xung quanh trường trồng nhiều cây
cảnh được chăm sóc thường xuyên, bố trí phù hợp, đẹp mắt và an toàn cho
trẻ. Trường có đủ nguồn nước sạch đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho trẻ và cán
bộ nhân viên trong trường. Nhà trường đã xây dựng được bếp ăn đảm bảo vệ
22
sinh, chất lượng an toàn thực phẩm luôn được đặt lên hàng đầu. Mỗi lớp học
đều có nhà vệ sinh cho trẻ đảm bảo an toàn, sạch sẽ, các thiết bị vệ sinh phù
hợp cho trẻ. Nhà trường có khuôn viên sạch sẽ, thoáng mát, có góc thiên
nhiên rất thích hợp với những buổi đi dạo ngoài trời, những tiết học môi
trường xung quanh cho trẻ đồng thời góp phần cung cấp nguồn rau sạch cho
trẻ hàng ngày. Đặc biệt, trường mầm non Tiên Dược đã xây dựng được sân
khấu ngoài trời phục vụ những buổi sinh hoạt, biểu diễn, hội hè cho trẻ và
giáo viên.
Mặc dù, cơ sở vật chất không gian của trường khá khang trang, sạch sẽ
nhưng do số lượng trẻ đến trường khá đông nên vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu
của trẻ. Số lượng trẻ một lớp khoảng 50-60 trẻ nên việc chăm sóc giáo dục
của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Mỗi lớp có từ 2-3 giáo viên
nhưng nhiều lúc chưa thể hướng dẫn, chỉ bảo được từng trẻ. Do số lượng trẻ
đông như vậy nên thường xuyên phải tách lớp thành 2 nhóm để thay phiên
nhau học tập và vui chơi, nhà trường đã có sự đầu tư về trang thiết bị cơ sở
vật chất song vẫn còn thiếu, trẻ vẫn phải dùng chung đồ dùng đồ chơi của
nhau. Nhà trường vẫn chưa xây dựng được phòng tập thể dục, phòng âm nhạc
riêng, các thiết bị phục vụ cho quá trình vui chơi của trẻ như nhà bóng, đu
quay, cầu trượt… còn ít. Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng giáo dục thể chất của trẻ mầm non.
2.2. Thực trạng về công tác quản lý và đội ngũ giáo viên
2.2.1. Thực trạng về công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý và chỉ đạo
trong các cơ sở giáo dục mầm non
Để điều tra thực trạng vấn đề này tôi sử dụng câu hỏi với nội dung như
sau:
Theo cô cán bộ quản lý đã làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra công tác quản
lý, chỉ đạo công việc chăm sóc giáo dục trẻ trong các trường mầm non chưa?
23
A. Tốt
B. Chưa tốt
C. Không tốt
Cô đồng ý với ý kiến nào, xin cô hãy đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 2: Thực trạng về công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý và chỉ đạo
trong các cơ sở giáo dục mầm non
Tổng số phiếu
Ý kiến
A B C
24
20/24
(83.3%)
4/24
(16.7%)
0
Theo kết quả trên cho thấy, khoảng 83.3% ý kiến cho rằng cán bộ quản lý
đã làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý và chỉ đạo công việc chăm sóc
giáo dục trẻ trong các trường mầm non. 16.7% ý kiến cho rằng cán bộ quản lý
chưa làm tốt được công việc đó. Qua mấy tháng thực tập, tôi thấy rằng cán bộ
quản lý đặc biệt là hiệu trưởng các trường đã rất chú trọng đến việc chỉ đạo,
kiểm tra giáo viên, nhân viên thực hiện tốt công việc của mình. Cán bộ quản
lý ở sở, phòng giáo dục đào tạo do hạn hẹp về thời gian nên chưa có điều kiện
kiểm tra, giám sát, chỉ đạo các nhiệm vụ giáo dục mầm non tại các cơ sở giáo
dục mầm non một cách thường xuyên, sát sao. Nhiều lúc kiểm tra còn chưa
triệt để và đôi lúc còn mang tính hình thức. Trong quá trình chỉ đạo, kiểm tra
vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn chế như cơ sở vật chất và nguồn kinh phí
đầu tư còn hạn hẹp; nhận thức cũng như trình độ của giáo viên vẫn còn một số
những hạn chế nhất định… nên chất lượng giáo dục mầm non chưa cao. Nhà
trường đã và đang nỗ lực tìm ra những giải pháp hữu ích nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục mầm non.
24
2.2.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên
2.2.2.1. Thực trạng về số lượng và trình độ của đội ngũ giáo viên
Qua bảng thống kê về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên - nhân viên trong
các trường tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3: Thực trạng về số lượng và trình độ của đội ngũ giáo viên
Tên trường Số lượng giáo viên
Trình độ
Đại học Cao đẳng Trung cấp
MN Mai Đình
A
14
5/14
(35.7%)
3/14
(21.4%)
6/14
(42.9%)
MN Tiên Dược 17
6/17
(35.3%)
3/17
(17.6%)
8/17
(47.1%)
Qua bảng kết quả trên, tôi thấy 100% giáo viên có trình độ đạt chuẩn và
trên chuẩn trở lên theo quy định của Nhà nước đối với giáo viên mầm non.
Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ tuổi, năng động, hăng hái tham gia các
phong trào dạy tốt, chăm sóc tốt mà ngành đưa ra. Đội ngũ giáo viên đoàn
kết, thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm giảng dạy, chăm sóc trẻ của
nhau nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non. Số lượng giáo viên trình độ Đại học của trường mầm non
Mai Đình A là 5 chiếm 35.7%, trường mầm non Tiên Dược là 6 chiếm 35.3%,
tỷ lệ này ở cả 2 trường còn thấp và chủ yếu là Đại học tại chức. Tỷ lệ giáo
viên trình độ Cao đẳng không cao, ở trường mầm non Mai Đình A chiếm
21.4% và trường mầm non Tiên Dược là 17.6%. Phần lớn giáo viên mầm non
trong trường đều ở trình độ Trung cấp, tỷ lệ này chiếm trên 40% ở các trường.
Để khắc phục hạn chế này, các trường luôn tạo điều kiện và khuyến khích
giáo viên tự học tập và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tu dưỡng
đạo đức nhà giáo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mầm non.
25
2.2.2.2. Thực trạng nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của giáo dục
thể chất cho trẻ mẫu giáo
Để điều tra vấn đề này, tôi sử dụng câu hỏi:
Bàn về sự cần thiết của giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo trong trường mầm
non, có những ý kiến sau:
A. Rất cần thiết
B. Cần thiết
C. Không cần thiết
Cô đồng ý với ý kiến nào, xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 4: Thực trạng nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của giáo dục
thể chất cho trẻ mẫu giáo
Tổng số phiếu
Ý kiến
A B C
24
22/24
(91.7%)
2/24
(8.3%)
0
Qua bảng kết quả trên, tôi thấy 100% giáo viên có nhận thức đúng đắn về
sự cần thiết của giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo. Trong đó, 91.7% ý kiến
cho rằng giáo dục thể chất cho trẻ là rất cần thiết. Nhận thức được điều đó nên
các nhiệm vụ, nội dung giáo dục thể chất cho trẻ luôn được giáo viên thực
hiện một cách khá đầy đủ, nghiêm túc.
2.3. Thực trạng thực hiện các nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ mẫu
giáo
Để tìm hiểu thực trạng này, tôi đã sử dụng câu hỏi sau:
Trong các nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ thì nhiệm vụ nào là quan trọng
nhất (1) và cô đã thực hiện được các nhiệm vụ nào (2)?
26
A. Bảo vệ tính mạng và tăng cường sức khoẻ, đảm bảo sự tăng trưởng hài
hoà cho trẻ.
B. Rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản và những phẩm chất vận
động.
C. Giáo dục nếp sống có giờ giấc, có thói quen và các kỹ năng, kỹ xảo vệ
sinh.
Cô đồng ý với ý kiến nào, xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng cho ý (1) và đánh
dấu (+) cho ý (2).
Bảng kết quả như sau:
Bảng 5: Thực trạng thực hiện các nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ mẫu
giáo
Tổng số phiếu Ý
Ý kiến
A B C
24
(1) 24/24 (100%) 0 0
(2) 22/24 (91.7%) 12/24 (50%) 17/24 (70.8%)
Từ bảng số liệu trên, tôi thấy tất cả các giáo viên đều đặt nhiệm vụ bảo vệ
tính mạng và tăng cường sức khoẻ, đảm bảo sự tăng trưởng hài hoà cho trẻ
lên hàng đầu, coi đó là nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác giáo dục thể
chất cho trẻ mầm non. Nhận thức được tầm quan trọng của nó mà hơn 90%
các giáo viên đã thực hiện được tốt nhiệm vụ này. Cùng với việc thực hiện
nhiệm vụ thứ nhất thì hai nhiệm vụ còn lại cũng luôn được giáo viên quan tâm
thực hiện nhưng kết quả còn chưa cao. Do khả năng nhận thức của trẻ có hạn
nên trẻ chưa hiểu được hết ý nghĩa của các hoạt động hàng ngày cũng như
những thói quen, nề nếp và những kỹ năng, kỹ xảo vệ sinh. Vì vậy, giáo dục
nếp sống có giờ giấc, có thói quen và các kỹ năng, kỹ xảo vệ sinh chỉ đạt
70.8%. Đặc biệt hệ cơ, xương của trẻ còn non yếu, khả năng vận động còn
27
hạn chế, thiếu độ chính xác, nhịp nhàng và ổn định vì thế mà giáo viên còn
gặp nhiều khó khăn trong việc rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản
và những phẩm chất vận động cho trẻ. Do vậy, kết quả các giáo viên thực
hiện nhiệm vụ này còn thấp chỉ đạt 50%.
2.4. Thực trạng thực hiện nội dung và phƣơng pháp giáo dục thể chất cho
trẻ mẫu giáo trong các trƣờng mầm non
2.4.1. Thực trạng giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu
giáo
Để tìm hiểu thực trạng này, tôi đã sử dụng những câu hỏi với nội dung
sau:
Câu 1: Giáo dục kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ gồm các nội dung sau:
A. Vệ sinh thân thể
B. Vệ sinh quần áo
C. Vệ sinh ăn uống
D. Vệ sinh môi trường
Cô đã thực hiện được những nội dung giáo dục nào, xin cô đánh dấu (X) vào
đầu dòng.
Kết quả thu được:
Bảng 6a: Thực trạng giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu
giáo
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C D
24
17/24
(70.8%)
15/24
(62.5%)
24/24
(100%)
16/24
(66.7%)
Theo bảng kết quả trên, tôi thấy các giáo viên đã chú ý thực hiện đầy đủ
các nội dung giáo dục kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ trong đó
28
việc tổ chức hướng dẫn trẻ vệ sinh ăn uống vẫn được chú trọng hơn cả
(100%). Khoảng 70% giáo viên tổ chức, hướng dẫn trẻ vệ sinh thân thể và có
hơn 60% giáo viên tổ chức hướng dẫn trẻ vệ sinh quần áo, giữ gìn môi trường
sạch sẽ.
Theo thực tế quan sát, tôi thấy hầu hết tất cả các trẻ đã hình thành được
một số kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh cơ bản như: rửa tay trước khi ăn
và sau khi đi vệ sinh, ăn xong biết súc miệng, biết đi vệ sinh đúng nơi quy
định, chơi xong biết cất đồ chơi, không vứt rác bừa bãi ra lớp học, không
nghịch bẩn đất cát… Bên cạnh những kết quả đạt được thì giáo dục kỹ năng,
kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân của thực
trạng này là do số lượng trẻ còn đông (50-60 trẻ/lớp), trẻ hiếu động thích nô
đùa chạy nhảy nên nhiều lúc giáo viên không thể hướng dẫn được toàn bộ các
trẻ. Bên cạnh đó, nhận thức của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa ý thức được hết tầm
quan trọng của các kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh ấy nên hầu hết ở độ
tuổi mẫu giáo bé việc vệ sinh cho trẻ đều do giáo viên tự làm cho trẻ. Để hình
thành kỹ năng, kỹ xảo và thói quen tốt cho trẻ đòi hỏi một quá trình lâu dài
cùng với sự hướng dẫn tỉ mỉ, kiên trì, sự ân cần chỉ bảo của giáo viên thì mới
đạt được kết quả cao.
Câu 2: Cô đã thực hiện việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh
cho trẻ ở mức độ nào?
A. Thường xuyên
B. Thỉnh thoảng
C. Đôi khi
Cô đồng ý với ý kiến nào, xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được:
Bảng 6b: Thực trạng giáo dục các kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu
giáo
29
Số lượng phiếu
Ý kiến
A B C
24 17/24 (70.8%) 7/24 (29.2%) 0
Như vậy có khoảng 70% các giáo viên đã tổ chức thực hiện hướng dẫn trẻ
hình thành các kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh một cách thường xuyên,
liên tục. Có khoảng 30% số giáo viên còn lại thực hiện nội dung này còn chưa
thường xuyên. Số giáo viên này hầu hết là các cô giáo chủ nhiệm lớp mẫu
giáo bé vì các cô cho rằng khả năng nhận thức, vận động của trẻ còn non yếu
nên nhiều khi giáo viên chưa tổ chức, hướng dẫn trẻ thường xuyên. Vì vậy,
những kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh của trẻ còn hạn chế. Ví dụ: Một
số trẻ còn xé vụn giấy ra sàn nhà, vứt đồ chơi quanh lớp, ăn uống còn rơi vãi
nhiều, rửa tay còn làm ướt quần áo… Các giáo viên cần quan tâm tổ chức
hướng dẫn trẻ hơn nữa để hình thành những thói quen tốt cho trẻ.
2.4.2. Thực trạng tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ mẫu giáo
2.4.2.1. Thực trạng đảm bảo chế độ sinh hoạt hợp lý
Để điều tra thực trạng này, tôi sử dụng những câu hỏi với nội dung sau:
Câu 1: Theo cô nhà trường đã đảm bảo việc xây dựng và thực hiện một chế
độ sinh hoạt hợp lý cho trẻ chưa?
A. Đảm bảo
B. Chưa đảm bảo
C. Không đảm bảo
Cô đồng ý với ý kiến nào, xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được:
Bảng 7a: Thực trạng đảm bảo chế độ sinh hoạt hợp lý
Số lượng phiếu
Ý kiến
A B C
30
24 21/24 (87.5%) 3/24 (12.5%) 0
Theo kết quả điều tra cho thấy, khoảng 87.5% ý kiến cho rằng chế độ sinh
hoạt được xây dựng và thực hiện hoàn toàn phù hợp với trẻ. 12.5% số ý kiến
còn lại cho rằng chế độ sinh hoạt của trẻ vẫn chưa được đảm bảo, khi tổ chức
thực hiện vẫn còn một số sai sót, chưa đảm bảo. Theo thực tế quan sát, tôi
thấy rằng nhà trường đã xây dựng một chế độ sinh hoạt hợp lý phù hợp đặc
điểm tâm lý, sinh lý, giáo dục và thực tiễn xã hội ở địa phương.
Các hoạt động học tập, vui chơi, lao động, đi dạo, ăn ngủ, nghỉ ngơi của
trẻ được tổ chức thực hiện một cách chu đáo và đầy đủ. Việc ăn uống của trẻ
luôn được các giáo viên quan tâm chú ý. Thực đơn của trẻ được xây dựng phù
hợp dựa trên cơ sở mức năng lượng cần thiết ở từng độ tuổi, đảm bảo cung
cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cho trẻ. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm
cũng luôn được đảm bảo. Ngoài ra, việc tổ chức giấc ngủ cho trẻ cũng được
chuẩn bị khá chu đáo từ việc vệ sinh phòng ngủ đến việc quan sát theo dõi trẻ
trong quá trình ngủ. Chế độ vận động của trẻ được thực hiện khá thường
xuyên với nhiều hình thức khác nhau như: tập thể dục buổi sáng, tham quan,
dạo chơi, các trò chơi vận động… Tuy nhiên, giáo viên mỗi lớp thực hiện chế
độ sinh hoạt cần có sự linh hoạt, phù hợp với mỗi lớp và từng cá nhân trẻ.
Chẳng hạn, với những trẻ biếng ăn, trẻ ăn chậm giáo viên cho trẻ ngồi riêng
một bàn và cho trẻ ăn trước các trẻ khác; những trẻ yếu thời gian ngủ có thể
dài hơn một chút… Mặc dù, các giáo viên đã thực hiện chế độ sinh hoạt của
trẻ một cách khá nghiêm túc, đảm bảo giờ nào việc ấy nhưng khi thực hiện
còn gặp một số khó khăn như giáo viên phải chia lớp làm hai nhóm, một
nhóm học trước và một nhóm học sau; khi ăn nhiều trẻ còn làm rơi vãi thức
ăn, chưa ăn hết suất; tổ chức cho trẻ vận động còn ít chưa hiệu quả… Vì vậy,
nhà trường cần khắc phục những khó khăn trên nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục cho trẻ trong các trường mầm non.
31
Câu 2: Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ có các nội dung sau:
A. Tổ chức cho trẻ ăn
B. Tổ chức cho trẻ ngủ
C. Tổ chức cho trẻ chơi
D. Tổ chức cho trẻ học tập
E. Tổ chức cho trẻ thực hiện các bài tập thể dục
Theo cô những nội dung nào có liên quan nhiều đến giáo dục thể chất cho trẻ,
xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được:
Bảng 7b: Thực trạng đảm bảo chế độ sinh hoạt hợp lý
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C D E
24
23/24
(95.8%)
22/24
(91.7%)
22/24
(91.7%)
19/24
(79.2%)
21/24
(87.5%)
Từ bảng kết quả trên, tôi thấy hầu hết tất cả giáo viên đều đánh giá rất cao
vai trò của tất cả các nội dung trong chế độ sinh hoạt hàng ngày đối với sự
phát triển thể chất của trẻ mầm non. Trong đó, nội dung được đánh giá cao
nhất là tổ chức cho trẻ ăn (95.8%), tiếp theo là tổ chức cho trẻ ngủ và vui chơi
(91.7%), tiếp sau nữa là tổ chức cho trẻ thực hiện các bài tập thể dục (87.5%)
và tổ chức hoạt động học tập cho trẻ (79.2%). Mỗi một hoạt động đều đóng
một vai trò nhất định đối với việc phát triển thể chất của trẻ. Vì vậy, các hoạt
động trong ngày của trẻ phải được sắp xếp theo trình tự nhất định, phù hợp
với chức năng cơ thể và môi trường sống, tránh xáo trộn nhiều để tạo thói
quen, nề nếp cho trẻ.
2.4.2.2. Thực trạng tổ chức cho trẻ ăn
Để điều tra thực trạng này, tôi sử dụng những câu hỏi sau:
32
Câu 1: Theo cô nhà trường đã xây dựng và thực hiện được thực đơn phù hợp
với trẻ chưa?
A. Đảm bảo
B. Chưa đảm bảo
C. Không đảm bảo
Cô đồng ý với ý kiến nào, xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 8a: Thực trạng tổ chức cho trẻ ăn
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C
24 21/24 (87.5%) 3/24 (12.5%) 0
Dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển thể chất của
trẻ. Vì vậy, vấn đề ăn uống của trẻ luôn được quan tâm, lưu ý. Khoảng 87.5%
ý kiến cho rằng nhà trường đã xây dựng và thực hiện được một thực đơn phù
hợp dựa trên cơ sở mức năng lượng cần thiết ở từng độ tuổi. Theo thực tế
quan sát, tôi thấy rằng, thực đơn hàng ngày của trẻ được xây dựng theo hai
mùa (mùa đông và mùa hè), thức ăn của trẻ đầy đủ chất dinh dưỡng, nguồn
thực phẩm đa dạng và được chế biến thành các món rất đa dạng và phù hợp
với trẻ, đảm bảo không phải lặp lại các món trong một tuần. Chẳng hạn, trong
thực đơn mùa đông của trẻ: thứ hai trẻ ăn trứng đúc thịt đậu dán, canh cua nấu
rau thì thứ ba trẻ ăn món cá (tôm), thịt sốt cà chua, canh cá nấu chua; thứ tư
lại ăn thịt gà om nấm, canh xương hầm củ quả… Các món ăn được chế biến
đảm bảo vệ sinh, phù hợp với khả năng tiêu hoá của trẻ. Mỗi một ngày thức
ăn đều được lưu lại các mẫu thức ăn để kiểm tra xem đã đảm bảo vệ sinh
chưa. Tuy nhiên, đôi khi thực đơn của trẻ chưa được đảm bảo một cách tuyệt
đối. Các món canh của trẻ chưa đúng với thực đơn. Hầu như, trẻ rất ít được ăn
33
rau xanh mà hầu hết là ăn canh bí đỏ, canh cà chua nấu thịt (tôm). Nhà trường
cần đảm bảo thực theo đúng thực đơn của trẻ để trẻ ăn ngon miệng hơn, đầy
đủ chất dinh dưỡng hơn.
Câu 2: Trong khi tổ chức cho trẻ ăn cô đã thực hiện được những yêu cầu nào,
xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
A. Khẩu phần ăn hợp lý, trẻ ăn hết suất.
B. Cho trẻ ăn đúng giờ, tạo tâm lý thoải mái trong phòng ăn.
C. Đảm bảo vệ sinh trong ăn uống.
D. Giáo dục hành vi và thói quen có văn hoá khi ăn.
Kết quả thu được:
Bảng 8b: Thực trạng tổ chức cho trẻ ăn
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C D
24 20/24 (83.3%) 19/24 (79.2%) 22/24 (91.7%) 17/24 (70.8%)
Nhận thức được tầm quan trọng của việc ăn uống nên các giáo viên đã
chấp hành nghiêm túc những yêu cầu trong tổ chức cho trẻ ăn, hướng dẫn trẻ
ăn uống hợp lý vệ sinh. Khoảng 91.7% giáo viên đảm bảo vệ sinh trong ăn
uống cho trẻ, khoảng 80% giáo viên cho trẻ ăn đúng giờ, tạo tâm lý thoải mái
cho trẻ trong phòng ăn và động viên trẻ ăn hết suất của mình. Bên cạnh đó thì
việc giáo dục hành vi và thói quen có văn hoá cho trẻ khi ăn cũng được quan
tâm chú ý thực hiện (70.8%). Theo thực tế quan sát, tôi thấy rằng bữa ăn của
trẻ được chuẩn bị và tổ chức chu đáo. Thực đơn của trẻ được xây dựng phù
hợp với năng lượng cần thiết của trẻ theo từng độ tuổi. Từ khâu thu mua
lương thực thực phẩm đều được lựa chọn, cân nhắc kỹ càng. Hơn nữa, nhà
trường đã xây đựng được mô hình VC cung cấp rau sạch cho các cháu trong
các bữa ăn của trẻ. Nhà bếp luôn đảm bảo sạch sẽ, nhà bếp xây dựng xa khu
34
vệ sinh, nơi đổ rác… Các cô nuôi khoẻ mạnh, luôn đeo khẩu trang, tạp dề khi
nấu nướng và được thăm khám sức khoẻ định kỳ để đề phòng lây lan d ịch
bệnh cho trẻ trong quá trình chế biến.
Trước khi ăn, giáo viên chuẩn bị phòng ăn sạch sẽ, bàn ghế được sắp xếp
thuận tiện cho việc đi lại, đứng lên ngồi xuống. Mỗi bàn đều có đĩa đựng thức
ăn thừa, có khăn tay, khăn lau bàn riêng. Giáo viên nhắc nhở hướng dẫn trẻ
rửa tay trước khi ăn và ngồi đúng vị trí của mình cho việc quan sát của giáo
viên được thuận tiện hơn. Trẻ được giáo viên dạy mời cô giáo, các bạn trước
khi ăn, biết ăn đúng suất ăn của mình. Một số trẻ nói chuyện được cô nhắc
nhở, còn những trẻ ăn chậm thì thường được cô bón cơm cho để ăn kịp cùng
các bạn khác. Sau khi ăn, trẻ biết lau tay, lau miệng, uống nước… rồi chuyển
sang hoạt động khác.
Tuy vậy, do số lượng trẻ nhiều, khả năng tự phục vụ của trẻ còn kém nên
giáo viên không thể quán xuyến được cả lớp. Một số trẻ yếu, chậm còn làm
rơi vãi, đổ thức ăn xuống sàn nhà, có những trẻ còn nói chuyện, cười đùa
thậm chí tranh giành thức ăn của bạn khác, một số trẻ biếng ăn nên mặc dù
giáo viên động viên trẻ nhưng nhiều khi trẻ vẫn không ăn hết suất của mình…
Do vậy, nhà trường cần bổ sung thêm giáo viên để họ có điều kiện quan tâm
chăm sóc trẻ hơn nữa trong bữa ăn.
2.4.2.3. Thực trạng tổ chức cho trẻ ngủ
Để tìm hiểu thực trạng này, tôi sử dụng những câu hỏi sau:
Cô đã thực hiện được yêu cầu nào trong việc tổ chức cho trẻ ngủ?
A. Vệ sinh phòng ngủ
B. Đúng giờ và đủ giấc
C. Tạo tâm lý thoải mái cho trẻ trước và sau khi ngủ
D. Giáo viên luôn quan sát, theo dõi trẻ trong quá trình ngủ
Cô đã thực hiện được những yêu cầu nào xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
35
Kết quả thu được như sau:
Bảng 9: Thực trạng tổ chức cho trẻ ngủ
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C D
24 24/24 (100%) 22/24 (91.7%) 21/24 (87.5%) 23/24 (95.8%)
Qua kết quả điều tra và thực tế quan sát, tôi thấy hầu hết các giáo viên đã
rất quan tâm đến việc tổ chức giấc ngủ cho trẻ. 100% giáo viên đã vệ sinh
phòng ngủ cho trẻ sạch sẽ, chuẩn bị chiếu, chăn gối cho trẻ phù hợp với điều
kiện thời tiết. Chăn, chiếu, gối cho trẻ cũng thường xuyên được giặt giũ, phơi
nắng đảm bảo vệ sinh. Trước khi ngủ, giáo viên nhắc nhở trẻ đi vệ sinh, cởi
áo, giầy, dây buộc tóc. Phòng ngủ được thông thoáng, có rèm che cửa ngăn
ánh sáng chói khiến trẻ khó ngủ.
Việc cho trẻ ngủ đúng giờ và đủ giấc được thực hiện khá tốt (91.7%). Một
số trẻ chưa được ngủ đủ giấc là do trẻ khó đi vào giấc ngủ, ở nhà trẻ không có
thói quen ngủ trưa hay trẻ đã ngủ quá nhiều ở nhà… hoặc một số trẻ yếu
thường thấy khó chịu trong người ngủ không say giấc… Để khắc phục tình
trạng này giáo viên cũng đã tìm ra một số biện pháp giải quyết phù hợp như:
Cho những trẻ khó ngủ, ngủ ít nằm riêng để tiện chăm sóc và tránh ảnh hưởng
đến trẻ khác, đồng thời cô giáo cũng ra vỗ về và động viên trẻ đi vào giấc ngủ
tốt hơn.
Trẻ em thường hiếu động nên lúc đầu trẻ thường nói chuyện, đùa nghịch
với nhau, khó đi vào giấc ngủ nên không phải lúc nào giáo viên cũng nhẹ
nhàng với trẻ được mà nhiều lúc phải bắt trẻ ngủ thì trẻ mới ngủ. Cơ thể trẻ
còn non nớt rất nhạy cảm với những tác động bên ngoài. Hơn nữa, khả năng
tự phục vụ của trẻ còn kém nên trong giờ ngủ trưa giáo viên luôn có mặt trên
lớp để quan sát, theo dõi trẻ trong quá trình ngủ để động viên, nhắc nhở
36
những trẻ chưa ngủ và đề phòng những trường hợp đáng tiếc xảy ra. Tuy
nhiên, nhiều lúc giáo viên còn chưa nhắc nhở được từng trẻ ngủ nên một số
trẻ còn nói chuyện, nghịch chăn chiếu do vậy nên ngủ chưa đủ giấc và ảnh
hưởng đến các bạn khác. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm, lưu ý đến trẻ hơn
nữa để giấc ngủ của trẻ được đảm bảo hơn nữa.
2.4.2.4. Thực trạng tổ chức cho trẻ vận động
Để điều tra thực trạng này tôi sử dụng những câu hỏi sau:
Câu 1: Vận động là một nhu cầu không thể thiếu được đối với trẻ, cô đã sử
dụng hình thức nào để tổ chức cho trẻ vận động, xin cô đánh dấu (X) vào đầu
dòng?
A. Trò chơi vận động
B. Cho trẻ tập thể dục buổi sáng
C. Tiết học thể dục
D. Dạo chơi, tham quan, lao động
Kết quả thu được như sau:
Bảng 10a: Thực trạng tổ chức cho trẻ vận động
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C D
24 21/24 (87.5%) 24/24 (100%) 22/24 (91.7%) 21/24 (87.5%)
Qua bảng kết quả trên, tôi thấy giáo viên của các trường đã thường xuyên
tổ chức cho trẻ vận động dưới nhiều hình thức khác nhau. 100% giáo viên tổ
chức cho trẻ tập thể dục buổi sáng; 87.5% giáo viên tổ chức cho trẻ tham gia
vào các trò chơi vận động, các buổi dạo chơi, tham quan, lao động ngoài trời;
91.7% giáo viên cho trẻ học các tiết học thể dục theo đúng nội dung chương
trình đề ra. Mỗi một hình thức đều có những ưu nhược điểm riêng đối với
37
từng sự phát triển của trẻ. Vì vậy, giáo viên cần phối hợp, xem kẽ các hình
thức vận động trên một cách hợp lý để củng cố, tăng cường sức khoẻ cho trẻ.
Qua thực tế quan sát tại trường, tôi thấy việc tổ chức cho trẻ tập thể dục
buổi sáng được thực hiện một cách thường xuyên và đảm bảo. 100% trẻ được
tập thể dục buổi sáng hàng ngày (trừ những ngày mưa hay rét đậm). Các tiết
học thể dục, trò chơi vận động hay những buổi tham quan, dạo chơi ngoài trời
cũng được giáo viên tổ chức cho trẻ thực hiện khá đầy đủ. Các trò chơi vận
động được giáo viên lựa chọn phù hợp với từng độ tuổi, khả năng của từng
lớp cũng như địa điểm diễn ra trò chơi. Đặc biệt, những trò chơi dân gian như
mèo đuổi chuột, bịt mắt bắt dê, cáo và thỏ… luôn được giáo viên chú trọng
hơn cả, trẻ cũng rất thích thú tham gia trò chơi. Thông thường vào mỗi buổi
sáng, trẻ được cô giáo dẫn đi dạo chơi tham quan vườn trường, khám phá môi
trường xung quanh, thời gian từ 20-40 phút tuỳ theo độ tuổi và hứng thú của
trẻ. Tuy vậy, khi tổ chức các trò chơi, các buổi dạo chơi giáo viên chưa chuẩn
bị kỹ càng, chu đáo nên trẻ chưa tích cực tham gia vào trò chơi, giáo viên
chưa lồng ghép được nhiều nội dung tích hợp cho trẻ. Chẳng hạn, nhiều lúc
cho trẻ đi dạo vườn trường trẻ chỉ được ngồi im một chỗ hoặc giáo viên cho
trẻ khám phá môi trường xung quanh thì hệ thống câu hỏi, trò chơi chưa được
chuẩn bị chu đáo nên trẻ dễ nhàm chán, hiệu quả buổi học chưa cao. Vì vậy,
muốn đạt hiệu quả cao, cô giáo cần làm tốt công tác chuẩn bị cho các buổi đi
dạo. Chuẩn bị về mặt tâm lý để gây hứng thú cho cuộc đi. Chuẩn bị cơ sở vật
chất như quần áo, giầy dép, mũ nón, các phương tiện vui chơi ngoài trời. Đặc
biệt, cần phải chuẩn bị về nội dung trong cả quá trình đi dạo để hoạt động của
trẻ được liên tục, hấp dẫn và vừa sức với trẻ. Đồng thời, nhà trường cần đầu
tư những thiết bị cần thiết. Sân chơi phải được thiết kế phù hợp với các yêu
cầu sư phạm và vệ sinh, đáp ứng được các hoạt động đa dạng của trẻ trong
giờ đi dạo, hoạt động ngoài trời.
38
Câu 2: Khi tổ chức cho trẻ vận động, cô đã thực hiện được các yêu cầu nào
sau đây:
A. Đảm bảo an toàn cho trẻ
B. Lượng vận động và thời gian phù hợp với trẻ
C. Hình thành kỹ năng và kỹ xảo vận động cho trẻ
Cô đã thực hiện được yêu cầu nào xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 10b: Thực trạng tổ chức cho trẻ vận động
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C
24 24/24 (100%) 20/24 (83.3%) 12/24 (50%)
Qua kết quả điều tra và thực tế quan sát tôi thấy rằng, khi tổ chức cho trẻ
vận động vấn đề an toàn của trẻ luôn được đảm bảo tuyệt đối. Giáo viên luôn
quan sát hướng dẫn trẻ trong quá trình chơi không để trẻ chạy ra ngoài sân
trường, không để trẻ đánh nhau hay chơi những trò chơi nguy hiểm với trẻ.
Lượng vận động và thời gian vận động cũng được giáo viên chú ý đến, giáo
viên đã biết lựa chọn bài tập phù hợp, vừa sức với trẻ. Ví dụ: Đối với trẻ 4-5
tuổi giáo viên cho trẻ học bài, tung bóng bằng hai tay hoặc đi trong đường hẹp
còn với trẻ 5-6 tuổi khả năng vận động của trẻ tốt hơn nên những bài tập cho
trẻ cũng phức tạp hơn như bò, trườn theo đường zích zắc, nhảy khép và tách
chân… Tuy nhiên, thời gian vận động cho trẻ thường bị rút ngắn đi; những
tiết học thể dục, những buổi dạo chơi thường bị cắt mất phần gợi mở gây
hứng thú, giáo viên không chuẩn bị chu đáo nên chưa gây được hứng thú cho
trẻ, trẻ chưa tích cực cho buổi tập. Đặc biệt, khi tổ chức vận động cho trẻ thì
việc hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động cho trẻ chưa được chú ý lắm
(chỉ đạt 50%). Do số lượng trẻ đông nên giáo viên thường chia lớp thành hai
39
nhóm để tổ chức cho trẻ vận động được tốt hơn. Mỗi một giáo viên phải vừa
quan sát, hướng dẫn và tổ chức vận động cho khoảng 20-30 trẻ nên hiệu quả
buổi tập chưa cao. Giáo viên mới chỉ hướng dẫn trẻ tập luyện được những
động tác, vận động cơ bản còn việc rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo vận
động hầu như chưa được chú ý đến. Chỉ có một số trẻ khá giỏi thì những kỹ
năng, kỹ xảo vận động mới được hình thành và củng cố. Tuy nhiên, những kỹ
năng, kỹ xảo vận động ấy còn rất đơn giản, thô sơ, chưa bền vững và ổn định
nếu không được rèn luyện, tập luyện thường xuyên thì rất dễ mất đi. Ví dụ:
Kỹ năng bật nhảy kết hợp với vận động của các bộ phận cơ thể với nhau (đầu,
chân, tay, mình) còn kém. Để nâng cao hiệu quả của buổi tập, giáo viên cần
nêu cao ý thức của mình hơn nữa, đồng thời nhà trường cần đầu tư thêm cơ sở
vật chất, bổ sung thêm đội ngũ giáo viên để giáo viên có nhiều điều kiện nâng
cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ.
2.5. Thực trạng về sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và địa phƣơng
về công tác giáo dục mầm non
Để tìm hiểu thực trạng này tôi sử dụng câu hỏi sau:
Theo cô sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và địa phương về công tác
giáo dục mầm non của nhà trường đã tốt chưa?
A. Tốt
B. Chưa tốt
C. Không tốt
Cô đồng ý với ý kiến nào xin cô đánh dấu (X) vào đầu dòng.
Kết quả thu được như sau:
40
Bảng 11: Thực trạng về sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và địa phương
về công tác giáo dục mầm non
Số lượng
phiếu
Ý kiến
A B C
24 19/24 (79.2%) 5/24 (20.8%) 0
Theo bảng kết quả trên cho thấy khoảng 80% ý kiến cho rằng việc phối
hợp giữa gia đình, nhà trường và địa phương về công tác giáo dục mầm non
đã được thực hiện tốt. Khoảng 20% ý kiến còn lại cho rằng sự phối hợp giữa
các lực lượng đó về công tác giáo dục mầm non vẫn chưa tốt lắm. Xã và địa
phương đã quan tâm đến chất lượng giáo dục mầm non và cũng đã có sự đầu
tư hỗ trợ kinh phí cho các trường mầm non; những ngày lễ hội của trường
mầm non cán bộ xã đã đến dự và động viên cán bộ, giáo viên, nhân viên trong
trường hoàn thành nhiệm vụ của mình tốt hơn nữa, khích lệ tinh thần làm việc
của các anh chị em trong trường. Với phụ huynh, nhà trường thường xuyên
trao đổi về tình hình sức khoẻ, học tập của trẻ đồng thời nhà trường cùng với
xã, địa phương đã tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức chăm
sóc giáo dục trẻ cho cha mẹ và cộng đồng. Nhà trường cũng đã huy động sự
tham gia của các bậc phụ huynh, các tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ khai
thác học liệu, phương tiện giáo dục văn hoá truyền thông… góp phần xây
dựng trường lớp xanh, sạch, đẹp. Tuy vậy, sự phối hợp với xã, địa phương
còn chưa hiệu quả, sự đầu tư kinh phí của xã, địa phương còn hạn hẹp. Bên
cạnh đó, điều kiện kinh tế vùng còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng cuộc
sống chưa cao nên nhận thức của các bậc phụ huynh về vai trò của giáo dục
mầm non đối với sự phát triển của trẻ chưa đúng đắn. Ngoài ra, những kiến
thức về chăm sóc giáo dục trẻ của các bậc phụ huynh cũng còn nhiều hạn chế;
chất lượng cuộc sống chưa cao nên họ chưa có điều kiện chăm sóc con mình
41
một cách chu đáo và đầy đủ. Những hạn chế này cũng đã ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ.
2.6. Thực trạng kết quả giáo dục thể chất của trẻ mẫu giáo
Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa ra chỉ tiêu đánh giá sức khỏe của trẻ mẫu
giáo như sau:
* Trẻ 48 tháng: [8]
– Cân nặng
+ Trẻ trai: 12.7 - 21.2 kg
+ Trẻ gái: 12.3 - 21.5 kg
– Chiều cao
+ Trẻ trai: 94.9 - 111.7 cm
+ Trẻ gái: 94.1 - 111.3 cm
* Trẻ 60 tháng: [9]
– Cân nặng
+ Trẻ trai: 14.1 - 24.2 kg
+ Trẻ gái: 13.7 - 24.9 kg
– Chiều cao
+ Trẻ trai: 100, 7 - 119.2 cm
+ Trẻ gái: 99.9 - 118.9 cm
* Trẻ 72 tháng: [10]
– Cân nặng
+ Trẻ trai: 15, 9 - 27, 1 kg
+ Trẻ gái: 15, 3 -27, 8 kg
– Chiều cao
+ Trẻ trai: 106, 1 - 125, 8 cm
+ Trẻ gái: 104, 9 - 125, 4 cm
42
Căn cứ vào chỉ tiêu đánh giá sức khỏe trên mà các trường mầm non đã
theo dõi sức khỏe của trẻ mẫu giáo trong trường như sau:
Bảng 12: Bảng theo dõi sức khoẻ của trẻ mẫu giáo trong toàn trường
(2009 - 2010)
Tên
trường
Tháng,
năm
Tổng
số trẻ
Cân nặng Chiều cao
Bình
thường
Suy
dinh
dưỡng
Béo
phì
Bình
thường
Thấp
còi
Mầm non
Mai Đình
A
09/2009 400
378
(94.5%)
22
(5.5%)
0
377
(94.2%)
23
(5.7%)
12/2009 397
380
(95.7%)
17
(4.2%)
0
378
(95.2%)
19
(4.7%)
02/2010 398
387
(97.2%)
11
(2.7%)
0
380
(95.4%)
18
(4.5%)
Mầm non
Tiên
Dược
09/2009 458
436
(95.1%)
22
(4.9%)
0
434
(94.8%)
24
(5.2%)
12/2009 464
445
(95.9%)
19
(4.1%)
0
443
(95.4%)
21
(4.6%)
02/2010 460
442
(96%)
18
(4%)
0
441
(95.9%)
19
(4.1%)
Qua bảng theo dõi sức khoẻ của trẻ mẫu giáo trong toàn trường, tôi thấy
rằng số trẻ đạt cân bình thường ở cả hai trường luôn đạt trên 94%. Số trẻ đạt
cân bình thường hầu hết đều tăng dần lên trong suốt năm học chẳng hạn ở
trường Mầm non Mai Đình A đầu năm học (09/2009) có 94.5% trẻ ở kênh
bình thường thì đến tháng 12/2009 đã đạt 95.7% và đến tháng 02/2010 đã
tăng lên 97.2% trẻ đạt kênh bình thường. Tỷ lệ trẻ béo phì ở cả hai trường đều
43
là 0%. Tuy nhiên, trẻ suy dinh dưỡng, trẻ thấp còi ở cả hai trường tương đối
cao. Điều này cho thấy, bên cạnh những kết quả giáo dục thể chất mà trường
đã đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Nhà
trường cần phải quan tâm đến nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục
thể chất cho trẻ hơn nữa để giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ thấp còi
xuống giúp trẻ được tăng trưởng và phát triển bình thường. Giáo viên mầm
non cũng cần nhận thức đúng đắn về ý nghĩa, vai trò của giáo dục thể chất cho
trẻ, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao ý thức
trách nhiệm của mình hơn nữa để đạt kết quả giáo dục cao hơn. Đồng thời,
nhà trường cần tăng cường hơn nữa mối liên hệ với gia đình, địa phương và
xã hội để mọi người có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục
mầm non, tranh thủ sự tham gia ủng hộ của toàn xã hội nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất cho trẻ.
44
Chƣơng 3: Nguyên nhân và giải pháp
3.1. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo
Giáo dục thể chất cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất
của các trường mầm non. Vì vậy, mà nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ luôn
được nhà trường quan tâm, lưu ý thực hiện nghiêm túc và đầy đủ. Nhờ đó,
chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo không ngừng được nâng cao.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, nội dung giáo dục thể chất
cho trẻ vẫn còn gặp những khó khăn, hạn chế nhất định. Qua tìm hiểu thực
trạng giáo dục thể chất cho trẻ ở một số trường mầm non khu vực Sóc Sơn -
Hà Nội cụ thể là trường Mầm non Mai Đình A và trường Mầm non Tiên
Dược, tôi thấy nhà trường đã thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ, nội dung giáo
dục thể chất cho trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn
chế, yếu kém nhất định, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi còn cao. Theo tôi,
nguyên nhân của thực trạng đó là do:
– Cơ sở vật chất của trường khá khang trang nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu
cầu của trẻ. Các đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị phục vụ quá trình giáo dục thể
chất còn thiếu.
– Số lượng trẻ trong một lớp còn đông nên giáo viên còn gặp nhiều khó
khăn trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
– Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của giáo viên chưa cao, nhận thức về
vai trò, ý nghĩa của giáo dục thể chất đối với trẻ chưa đầy đủ. Nhiều lúc giáo
viên chưa nêu cao được tinh thần trách nhiệm của mình trong công tác giảng
dạy.
– Phương pháp, cách thức tổ chức các hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ
của giáo viên chưa hiệu quả, chưa phát huy được tính tích cực của trẻ trong
giờ học và các hoạt động giáo dục thể chất.
45
– Đối với những trẻ yếu kém, chậm phát triển giáo viên cần quan tâm, lưu
ý chỉ bảo trẻ hơn nữa, tạo điều kiện cho trẻ được phát triển tốt hơn.
– Công tác tuyên truyền, sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường, địa
phương về việc chăm sóc giáo dục mầm non chưa cao, chưa hiệu quả. Nhận
thức của các bậc phụ huynh về vai trò của giáo dục thể chất cho trẻ nói riêng
và giáo dục mầm non nói chung chưa đúng đắn. Những kiến thức về chăm
sóc giáo dục trẻ của các bậc phụ huynh còn hạn chế. Bên cạnh đó, điều kiện
kinh tế vùng còn gặp nhiều khó khăn nên việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục
mầm non, huy động mọi nguồn lực của xã hội cùng với ngân sách của nhà
nước để chăm lo phát triển mầm non còn hạn hẹp.
3.2. Giải pháp
Để góp phần khắc phục những hạn chế trên tôi đề xuất một số giải pháp
sau:
– Phòng giáo dục, xã phường, địa phương cần đầu tư thêm cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên và các hoạt động
học tập, vui chơi của trẻ.
– Chỉ đạo và tạo điều kiện cho các trường mầm non đảm bảo số trẻ trong
nhóm lớp theo quy định, tránh tình trạng lớp chật chội và trẻ quá đông.
– Tăng cường đội ngũ giáo viên, nhà trường tạo điều kiện về thời gian
cũng như kinh phí để các cô theo học các lớp học đại học nhằm nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình.
– Tăng cường công tác kiểm tra, tổ chức nhiều hình thức thi đua, động
viên khen thưởng khuyến khích giáo viên, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ và
tay nghề.
– Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của việc chăm sóc bảo vệ trẻ em, vai trò của giáo dục mầm non trong hệ
46
thống giáo dục quốc dân, nhằm tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa gia
đình, nhà trường và xã hội trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
– Thường xuyên trao đổi về tình hình sức khỏe, học tập của cháu ở trường
và ở nhà để gia đình, nhà trường nắm rõ hơn về tình hình sức khỏe của cháu.
Thống nhất về nội dung, phương pháp giáo dục trẻ, bồi dưỡng phổ biến kiến
thức chăm sóc giáo dục trẻ cho các bậc phụ huynh.
47
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển toàn
diện. Đặc biệt, giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo càng có ý nghĩa quan trọng
hơn bởi tốc độ tăng trưởng, phát triển của cơ thể đang diễn ra mạnh mẽ, trong
khi sức đề kháng của trẻ còn non yếu, rất nhạy cảm với những tác động của
môi trường bên ngoài. Nếu trẻ không được chăm sóc giáo dục một cách hợp
lý có thể dẫn tới những thiếu sót, phát triển mất cân đối mà sau này không thể
khắc phục được. Hơn nữa, nước ta một nước đang phát triển, điều kiện kinh tế
xã hội còn gặp nhiều khó khăn nên tỷ lệ trẻ em bị mắc các bệnh còi xương,
suy dinh dưỡng, các bệnh đường hô hấp và đường ruột còn cao. Do vậy, chất
lượng giáo dục thể chất cho trẻ còn chưa được bảo đảm. Đề tài: “Tìm hiểu
thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo ở một số trƣờng mầm non
khu vực Sóc Sơn-Hà Nội” đã tìm hiểu những vấn đề lý luận về giáo dục thể
chất cho trẻ mẫu giáo và điều tra thực trạng giáo dục thể chát cho trẻ mẫu
giáo ở 2 trường: Trường mầm non Mai Đình A và Trường mầm non Tiên
Dược khu vực Sóc Sơn - Hà Nội. Qua việc tìm hiểu thực trạng đó tôi thấy
rằng:
– Điều kiện cơ sở vật chất, không gian là một yếu tố không thể thiếu được
trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ. Nhà trường đã trang bị cơ sở vật
chất, thiết bị cần thiết phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên cũng như
hoạt động của trẻ. Tuy nhiên, trang thiết bị của trường còn thiếu, chưa đáp
ứng đủ nhu cầu của trẻ.
– Khoảng 83.3% giáo viên cho rằng cán bộ quản lý đã làm tốt công tác
thanh tra, kiểm tra, quản lý, chỉ đạo việc chăm sóc giáo dục trẻ trong các
trường mầm non.
48
– 100% giáo viên đạt trình độ chuẩn theo quy định của nhà nước đối với
giáo viên mầm non. Điều này cho thấy rằng, tất cả các trường mầm non đã rất
quan tâm đến khâu tuyển dụng giáo viên. Đồng thời, các giáo viên cũng đã
không ngừng học tập nâng cao bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
mình. Đây là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục thể
chất cho trẻ mầm non.
– 100% giáo viên có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục
thể chất đối với trẻ mẫu giáo.
– Hầu hết, các giáo viên đều nhận thức rõ các nhiệm vụ giáo dục thể chất
cho trẻ nhưng chỉ có khoảng 50% giáo viên đã thực hiện đầy đủ cả 3 nhiệm
vụ này.
– Khoảng 95.8% giáo viên đã thực hiện đầy đủ tất cả các nội dung giáo
dục thể chất cho trẻ như: tổ chức cho trẻ ăn, ngủ, vận động…Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện các nội dung trên vẫn còn nhiều hạn chế cần được khắc
phục.
– Việc hình thành các kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh cho trẻ hầu hết
được giáo viên tổ chức hướng dẫn trẻ thực hiện. Tuy nhiên, mức độ chưa
thường xuyên nên những kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh mà trẻ có được
còn ít, chưa bền vững đặc biệt là trẻ mẫu giáo bé.
– Khoảng 87.5% giáo viên cho rằng, nhà trường đã đảm bảo xây dựng và
thực hiện một chế độ sinh hoạt hợp lý cho trẻ.
– Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của trẻ. Tuy vậy,
chỉ có 87.5% giáo viên cho rằng nhà trường đã xây dựng và đảm bảo thực
hiện một thực đơn phù hợp với trẻ. Trong quá trình tổ chức cho trẻ ăn, giáo
viên cũng đã rất quan tâm đến việc cho trẻ ăn đầy đủ cả về số lượng, chất
lượng cũng như việc đảm bảo vệ sinh trong ăn uống. Tuy vậy, một số trẻ còn
49
làm rơi vãi thức ăn trong khi ăn, ăn chưa hết suất, biếng ăn nên tỷ lệ trẻ bị còi
xương, suy dinh dưỡng còn nhiều.
– Trong khi tổ chức cho trẻ ngủ, hầu hết các giáo viên đã cho trẻ ngủ đúng
giờ và đủ giấc. Giáo viên đã chuẩn bị phòng ngủ, chăn chiếu phù hợp với thời
tiết. Tuy vậy, đối với một số trẻ khó ngủ hoặc không ngủ trưa một số giáo
viên còn quát mắng trẻ, việc vệ sinh chăn, chiếu cho trẻ cần được đảm bảo
hơn.
– Việc tổ chức vận động cho trẻ được thực hiện khá thường xuyên dưới
nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, do thiếu cơ sở vật chất hoặc do giáo
viên chưa chuẩn bị chu đáo nên trẻ chưa hứng thú, tích cực trong buổi học.
– 79.2% giáo viên cho rằng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và địa
phương về công tác giáo dục mầm non đã được thực hiện tương đối tốt. Song
điều kiện kinh tế vùng còn gặp nhiều khó khăn nên nhận thức của cũng như
những kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ mầm non còn nhiều hạn chế. Điều
này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ.
– Qua bảng theo dõi sức khỏe của trẻ mẫu giáo ở cả 2 trường, tôi thấy số
trẻ ở kênh bình thường luôn đạt 94% trở lên. Số trẻ đạt kênh bình thường hầu
như đều tăng dần lên trong suốt năm học. Song bên cạnh đó, vẫn còn nhiều trẻ
bị suy dinh dưỡng, trẻ thấp còi mong được gia đình, nhà trường và xã hội
quan tâm hơn nữa.
2. Kiến nghị
Để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ thì cần có sự quan tâm
hơn nữa của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội:
– Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương cần quan tâm đầu tư hơn nữa
cho giáo dục mầm non, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng kinh phí cho các hoạt
động giáo dục.
50
– Cần có sự chỉ đạo, kiểm tra công tác giáo dục đồng bộ từ Bộ, Sở, Phòng
và các trường mầm non.
– Đảng và Nhà nước cần có chính sách, chế độ đãi ngộ đặc thù với giáo
viên mầm non theo quy định của nhà nước. Biên chế cho giáo viên góp phần
làm cho cuộc sống của các cô được đảm bảo hơn, các cô có thời gian chuyên
tâm vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hơn.
– Tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viên, nhân viên có cơ hội tham gia học
tập, bồi dưỡng kiến thức, năng lực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của nình.
– Cần phát huy những thuận lợi của khu vực nông thôn để vừa tiết kiệm,
vừa nâng cao được chất lượng bữa ăn cho trẻ. Chú ý đến các loại thực phẩm
sẵn có và rẻ tiền ở địa phương.
– Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và điạ phương về
công tác giáo dục mầm non:
+ Không ngừng đầu tư thêm cơ sở vật chất và tuyên truyền nâng cao
nhận thức của các bậc phụ huynh và toàn xã hội về tầm quan trọng của giáo
dục thể chất nói riêng và của giáo dục mầm non nói chung đối với sự phát
triển của trẻ.
+ Bồi dưỡng kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ cho các bậc phụ
huynh để trẻ được chăm sóc giáo dục trong điều kiện tốt hơn.
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb chính trị Quốc gia, tr.65.
2. Đào Thanh Âm (1995), Giáo dục mầm non tập I, Đại học sư phạm Hà Nội
I, tr.129.
3. Đào Thanh Âm (1995), Giáo dục mầm non tập II, Đại học sư phạm Hà Nội
II.
4. Hoàng Thị Bưởi (1995), Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non,
Cao đẳng sư phạm nhà trẻ mẫu giáo TW I.
5. Vũ Đào Hùng (1998), Phương pháp nghiên cứu khoa học thể dục thể thao,
Nxb Giáo dục.
6. Đặng Hồng Phương (2008), Giáo trình lí luận và phương pháp giáo dục thể
chất cho trẻ em lứa tuổi mầm non, Đại học sư phạm.
7. Hoàng Thị Phương (2005), Giáo trình vệ sinh trẻ em, Nxb Đại học sư
phạm, tr.80.
8. Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Tuyết (2010), Hướng
dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non Mẫu giáo bé, Nxb
Giáo dục Việt Nam, tr.172.
9. Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Tuyết (2010), Hướng
dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non Mẫu giáo nhỡ, Nxb
Giáo dục Việt Nam, tr.191.
10. Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Tuyết (2010), Hướng
dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non Mẫu giáo lớn, Nxb
Giáo dục Việt Nam, tr.200.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoá luận Tìm hiểu thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo ở một số trường mầm non khu vực Sóc Sơn-Hà Nội.pdf