Chúng ta có thể thấy trên thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam,
ngoài một số doanh nghiệp nhà nước có hoạt động mạnh, giữ thị phần lớn,
những phần còn lại của thị trường là khá nhỏ, với đa số các doanh nghiệp và
ngân hàng đều có vốn ít, chưa thực sự có được sức mạnh thị trường như các
doanh nghiệp và ngân hàng mà Nhà nước nắm vốn chủ yếu. Trong điều kiệ n
thị trường như hiện nay và với yêu cầu của Nhà nước về tỷ lệ vốn tối thiểu,
tiềm năng cho các thương vụ thôn tính và sáp nhập trên thị trường tài chính
Việt Nam là rất lớn.
Trong hai năm 2008 và 2009, thị trường tài chính thế giới gặp khó
khăn, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không còn giá ở
mức cao như thời điể m trước đó. Hay nói cách khác, giá trị cổ phiếu sẽ dần
dần đi vào giá trị thực của nó. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc đàm phán và
định giá của các bên.
105 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2504 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu xu thế thôn tính và sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực tài chính ở châu Âu trong cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay - Bài học đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, quản trị tài sản và chứng khoán đã tận
dụng cơ hội trên để thâm nhập, mở rộng và gia tăng sức mạnh thị trường.
68
Đồng thời, ở những thị trường nhỏ, phân mảnh, một xu hướng nữa rất
đáng chú ý là các công ty hoạt động tại các thị trường phân mảnh tận dụng cơ
hội này để hợp nhất, sáp nhập nhằm tăng sức mạnh thị trường.
Nhìn chung, các thương vụ mua lại và sáp nhập trong hai năm 2008 và
2009 liên quan đến bên bán gặp khó khăn, muốn bán các hoạt động kinh
doanh không chủ yếu để tăng vốn, tăng độ an toàn hoạt động, tập trung vào
hoạt động chính của mình. Các thương vụ liên quan đến khả năng tận dụng cơ
hội rất cao của bên mua. Mục tiêu lớn nhất của bên mua là xâm nhập, mở
rộng và gia tăng sức mạnh thị trường.
Ở chương sau, khi phân tích hoạt động thôn tính và sáp nhập trên thị
trường tài chính Việt Nam, chúng ta sẽ thấy xu hướng trên cũng xuất hiện trên
thị trường Việt Nam. Dù thị trường tài chính Việt Nam không chịu ảnh hưởng
nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính như thị trường châu Âu, nhưng tình
hình kinh tế Việt Nam trong hai năm 2008 – 2009 cũng có nhiều biến động
mạnh, chính sách kinh tế vĩ mô và các yêu cầu về vốn đối với các tổ chức tín
dụng có một số thay đổi buộc nhiều ngân hàng và tổ chức lựa chọn thôn tính
và sáp nhập như một phương cách để đáp ứng các yêu cầu về vốn. Các tổ
chức nước ngoài đã tận dụng rất tốt cơ hội này để thâm nhập hoặc mở rộng
hoạt động trên thị trường tài chính Việt Nam. Ngoài ra, thị trường tài chính
Việt Nam cũng là một thị trường còn khá phân mảnh, do vậy, các tổ chức hoạt
động trên thị trường Việt Nam có thể tận dụng những cơ hội trên để tăng sức
mạnh thị trường của mình.
69
CHƢƠNG III: BÀI HỌC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT
ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
1. Tình hình hoạt động thị trƣờng thôn tính và sáp nhập (M&A) đối
với các doanh nghiệp tài chính ngân hàng ở Việt Nam trong hai
năm 2008 – 2009
Hiện nay, ở Việt Nam, các thương vụ thôn tính và sáp nhập có thể được phân
loại như sau (theo luật Cạnh tranh Việt Nam 2004)
- Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh
nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
(Điều 17, khoản 1)
- Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị
hợp nhất. (Điều 17, khoản 2)
- Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một
phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc
một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. (Điều 17, khoản 3). Hoạt động
này có thể diễn ra với một phần hoặc một bộ phận doanh nghiệp dưới các
phương thức sau đây:
Tham gia mua cổ phần khi doanh nghiệp tăng vốn điều lệ hoặc đấu
giá phát hành cổ phiếu ra công chúng, doanh nghiệp mua cần mua
đủ số lượng cổ phần để có quyền tham gia định đoạt quyền sở hữu
và quản trị doanh nghiệp bán theo mục tiêu chiến lược của bên mua.
Mua gom cổ phiếu để giành quyền sở hữu và chi phối.
Hoán đổi / chuyển đổi cổ phiếu.
Mua lại một phần doanh nghiệp hoặc tài sản.
70
Mua lại một dự án bất động sản của doanh nghiệp bán.
Mua nợ: khi một doanh nghiệp mất khả năng trả nợ, chủ nợ có thể
tìm một doanh nghiệp có khả năng tài chính để mua lại phần nợ đó
theo giá thỏa thuận. Doanh nghiệp mua nợ trở thành chủ nợ mới, có
thể thỏa thuận để chuyển đổi khoản nợ thành vốn cổ phần để thực
thi quyền sở hữu. Đây được coi là một hình thức mua lại gián tiếp.
1.1. Diễn biến các hoạt động thôn tính và sáp nhập (M&A) ở các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở
Việt Nam
Nhìn chung, thị trường các thương vụ thôn tính và sáp nhập Việt Nam
vẫn diễn ra sôi động trong hai năm 2008 và 2009. Năm 2008, số vụ thôn tính
và sáp nhập tăng so với năm 2007, tăng từ 108 thương vụ trong năm 2007 lên
167 thương vụ năm 2008. Tuy vậy, tổng giá trị các thương vụ năm 2008 lại
giảm so với năm 2007. Giảm từ 1719 triệu đôla năm 2007 xuống 1117 triệu
đôla năm 200845. Điều này thể hiện việc tuy số thương vụ gia tăng nhưng rất
nhiều thương vụ liên quan đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và giá trị các
thương vụ giảm. Năm 2009 chứng kiến sự gia tăng đột biến cả về số lượng
lẫn giá trị các thương vụ. Trong năm 2009, có 295 thương vụ với tổng giá trị
vào khoảng trên 1138 triệu đôla46. Nhưng, một lần nữa chúng ta thấy, sự gia
tăng về số lượng và giá trị thương vụ không tương xứng với nhau. Trong khi
số lượng thương vụ gia tăng trên 70% so với năm 2008, giá trị thương vụ chỉ
biến đổi khoảng 2%.
Quy mô của các thương vụ trên thị trường Việt Nam còn khá nhỏ. Hầu
hết các thương vụ đều có giá trị dưới 20 triệu đô la. Theo thống ke của công
45 PricewaterhouseCooper, Vietnam M&A Report, 1/2009.
46 PricewaterhouseCooper, Vietnam M&A Report, 1/2010.
71
ty cung cấp dịch vụ tư vấn thôn tính và sáp nhập Avalue Vietnam, trên 60%
các thương vụ diễn ra tại Việt Nam có giá trị từ 5 đến 20 triệu đôla, trên 20%
các thương vụ có giá trị dưới 5 triệu đôla và chỉ có khoảng 15% các thương
vụ có giá trị trên 20 triệu đôla.47
Tại Việt Nam, chủ yếu các thương vụ rơi vào hai loại: doanh nghiệp
nước ngoài mua các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp trong nước
mua lại một doanh nghiệp trong nước khác. Việc doanh nghiệp nước ngoài
mua một doanh nghiệp nước ngoài và một doanh nghiệp trong nước mua một
doanh nghiệp nước ngoài còn không phải là xu hướng chủ yếu trên thị trường
Việt Nam.
Phân loại M&A theo tính chất thương vụ năm
2009 (%)
15
40
5
40
Doanh nghiệp nước ngoài mua
doanh nghiệp nước ngoài
Doanh nghiệp nước ngoài mua
doanh nghiệp Việt Nam
Doanh nghiệp Việt Nam mua
doanh nghiệp nước ngoài
Doanh nghiệp Việt Nam mua
doanh nghiệp Việt Nam
Đồ thị 3.1. Phân loại M&A theo tính chất thương vụ năm 2009 (%)
Nguồn: Avalue Vietnam, Báo cáo M&A Vietnam 2009 & triển vọng 2010.
Ngành tài chính ngân hàng là một trong hai ngành trong hai ngành tập
trung nhiều thương vụ thôn tính và sáp nhập nhất. Trong năm 2009, số thương
47 Avalue Vietnam, Báo cáo M&A Vietnam 2009 & triển vọng 2010.
72
vụ thôn tính và sáp nhập trong ngành tài chính là trên 60 thương vụ, chiếm
trên 21% tổng số thương vụ xảy ra, chỉ sau số thương vụ xảy ra trong ngành
công nghiệp (trên 100 vụ)
Do vậy, chúng ta có thể thấy những đặc điểm chung về các thương vụ
thôn tính và sáp nhập trên thị trường Việt Nam trong hai năm 2008 và 2009
cũng là những đặc điểm chung về các thương vụ thôn tính và sáp nhập xảy ra
trên lĩnh vực tài chính thị trường Việt Nam trong hai năm qua.
Số thƣơng vụ M&A theo ngành (%)
7
9
35
7
16
3
1
1
21
Bất động sản
Công nghệ thông tin - truyền
thông
Công nghiệp
Năng lượng
Thực phẩm
Dược phẩm - y tế
Hàng tiêu dùng
P hân phối
T ài chính
Đồ thị 3.2. Số thương vụ M&A theo ngành năm 2009(%)
Nguồn: Avalue Vietnam, Báo cáo M&A Vietnam 2009 & triển vọng 2010.
1.1.1. Các thương vụ thôn tính và sáp nhập trong ngành ngân hàng.
Một số thương vụ nổi bật trong ngành ngân hàng ở Việt Nam trong hai
năm 2008 và 2009 đều có sự tham gia của các đối tác nước ngoài. Trong
những thương vụ này, mục đích của bên mua là thâm nhập hoặc mở rộng tầm
ảnh hưởng ở thị trường Việt Nam. Còn mục đích của bên bán là nhận sự trợ
giúp của bên mua về vốn, và kiến thức chuyên môn và trợ giúp kỹ thuật. Một
đặc điểm rất lớn trong các thương vụ diễn ra tại thị trường Việt Nam là các trị
73
giá các thương vụ rất nhỏ, thông thường chỉ tương đương từ 5 đến 10% tổng
số cổ phần của bên bán. Sau các thương vụ này, bên mua là ngân hàng nước
ngoài sẽ đạt được từ 15 đến 20 % cổ phần sở hữu của bên bán. Nhiều ngân
hàng nước ngoài chọn việc mua lại một phần cổ phần trong các doanh nghiệp
trong nước như bước đầu của việc sở hữu thêm cổ phần tại các ngân hàng
trong nước.
Tháng 2/2008, ngân hàng Malayan Banking Bhd (Maybank) có trụ sở
tại Kuala Lumpur, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng như dịch vụ
tài chính bán lẻ, dịch vụ tài chính doanh nghiệp, tuyên bố mua 15% cổ phần
ngân hàng Cổ phần Thương mại An Bình, với trị giá lên đến 135 triệu đô la
Mỹ. Tại thời điểm công bố thương vụ, An Bình đã có 53 chi nhánh trên toàn
quốc48. Qua thương vụ này, Maybank sẽ cử người tham gia công tác quản trị,
điều hành và kiểm soát công việc kinh doanh tại ngân hàng An Bình.
Maybank sẽ cùng ngân hàng An Bình xây dựng kế hoạch kinh doanh, phát
triển và quản lý hệ thống khách hàng, phát triển mạng lưới trong nước, nghiên
cứu việc nâng cấp các dịch vụ liên quan đến máy rút tiền ATM, phát triển
hoạt động kinh doanh ngoại tệ và nguồn vốn, các hoạt động thương mại như
thiết lập hoạt động tài trợ thương mại, tài trợ xuất nhập khẩu. Bên cạnh nhận
được sự trợ giúp về vốn lớn và hợp tác kinh doanh từ phía Maybank, ngân
hàng An Bình cũng sẽ nhận được sự trợ giúp về kiến thức và kỹ thuật.
Maybank sẽ hỗ trợ ngân hàng An Bình về nghiệp vụ và kỹ thuật ngân hàng
thương mại, kiến thức và nghiệp vụ quản lý rủi ro hoạt động và rủi ro thị
trường, chia sẻ kinh nghiệm và xây dựng chiến lược nhân sự, tư vấn và cung
cấp các giải pháp công nghệ thông tin. Trong giai đoạn đầu, Maybank sẽ giúp
ngân hàng An Bình phát triển nguồn lực và mảng cho vay các nhân tiêu dùng
48 PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin Mid-year 2008
74
là hai thế mạnh của Maybank và cũng là mục tiêu mà An Bình đang muốn tập
trung vào phát triển hiện nay49. Sau thương vụ này, ngân hàng Maybank tiếp
tục thể hiện dự định sẽ tăng mức nắm giữ cổ phần tại An Bình lên 20%.
Tháng 5/2008, ngân hàng Standard Chartered Bank tuyên bố mua thêm
6,16% cổ phần thông thường tại ngân hàng Á Châu (ACB) cùng với việc mua
thêm 7,1% trái phiếu chuyển đổi của ngân hàng này. Thương vụ này sẽ nâng
tỷ lệ nắm giữ cổ phần phổ thông của Standard Chartered tại ACB từ 8,84%
lên 15%, và mức nắm giữ trái phiếu chuyển đổi từ 8,67% lên 15,86%50. ACB
là ngân hàng lớn thứ năm tại thị trường ngân hàng Việt Nam.
Tháng 8/2008, ngân hàng Societe Generale của Pháp, chuyên cung cấp
các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, dịch vụ quản lý đàu tư, bao gồm cho vay tiêu
dùng, môi giới, lưu ký, quản lý tiền và tài sản, quản lý quỹ, và các dịch vụ
ngân hàng tư nhân, ngân hàng đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1989 và là một
trong những công ty dẫn đầu trong lĩnh vực tài chính cho dự án và nhập khẩu
tại Việt Nam, thông báo việc mua lại 15% cổ phần tại ngân hàng Đông Nam
Á (SeaBank). Hiện SeaBank có mạng lưới giao dịch gồm 55 chi nhánh tại
Việt Nam. Bên cạnh việc hợp tác kinh doanh và quản trị hoạt động tại
SeaBank, Societe Generale cam kết cung cấp trợ giúp kỹ thuật đặc biệt trong
lĩnh vực quản trị rủi ro, công nghệ và dịch vụ thanh toán quốc tế, tăng cường
khả năng cung cấp sản phẩm ngân hàng bán lẻ cho SeaBank51.
Tháng 8/2008, ngân hàng HSBC đã trở thành ngân hàng nước ngoài
đầu tiên tại Việt Nam được cho phép nắm giữ 20% cổ phần của ngân hàng
trong nước bằng cách tăng số cổ phần tại ngân hàng Techcombank từ 14,4%
lên 20%. Thương vụ này nằm trong chiến lược mở rộng hoạt động kinh doanh
49
Manetwork.vn, Cơ sở dữ liệu về thương vụ giữa ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình và Maybank,
truy cập ngày 17/4/2010
50 PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin Mid-year 2008
51 PricewaterhouseCooper, Vietnam M&A Report, 1/2009.
75
của HSBC tại các thị trường mới như Việt Nam. Việc gia tăng vốn đầu tư vào
Techcombank cho phép HSBC thâm nhập sâu hơn một cách trực tiếp vào lĩnh
vực tài chính ngân hàng của Việt Nam. Ngoài việc tăng cổ phần đầu tư,
HSBC cam kết sẽ dành 13,5 triệu đô la Mỹ để hỗ trợ các thỏa thuận cung cấp
dịch vụ kỹ thuật cho TechcomBank trong thời gian năm năm. Về phía ngân
hàng TechcomBank, việc tăng tỷ lệ sở hữu của HSBC lên 20% nằm trong kế
hoạch tăng vốn điều lệ của TechcomBank từ 1500 tỷ đồng lên 2524 tỷ đồng52.
Tháng 8/2009, sau khi được sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông (OCB) đã đồng ý bán ra
thêm 5% cổ phần cho ngân hàng BNP Paribas có trụ sở tại Pháp, qua đó, giúp
BNP Paribas tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần tại OCB từ 10% lên 15% vốn điều lệ
của OCB. Tiếp đó, tháng 11/2009, hai ngân hàng đã ký thỏa thuận về việc
ngân hàng BNP Paribas sẽ tăng tỷ lệ cổ phần tại OCB lên 20% trong năm
2010. Cũng như các thương vụ khác, ngân hàng BNP Paribas sẽ trợ giúp ngân
hàng OCB về các vấn đề liên quan đến kỹ thuật sau thương vụ này53.
Trong hai năm 2008 và 2009, cũng có một số thương vụ giữa các tổ
chức trong nước.
Một thương vụ nổi bật là tháng 1/2009, tập đoàn dầu khí Việt Nam
(PetroVietnam) đã mua lại 20% cổ phần tại ngân hàng Thương mại Cổ phần
Đại Dương (OceanBank). Sau thương vụ, PetroVietnam sẽ trở thành cổ đông
chiến lược của OceanBank. Việc đầu tư vào OceanBank giúp PetroVietnam
tận dụng được những cơ sở hạ tầng của ngân hàng Hồng Việt (ngân hàng
được PetroVietnam thành lập trước đó nhưng phải giải tán vì không đủ điều
52
Manetwork.vn, Cơ sở dữ liệu về thương vụ giữa ngân hàng HSBC và TechcomBank,
truy cập ngày 17/4/2010
53 PricewaterhouseCooper, Vietnam M&A Report, 1/2010.
76
kiện hoạt động). Thương vụ trị giá 400 triệu Việt Nam đồng này sẽ giúp
OceanBank nâng số vốn điều lệ của mình lên 2000 tỷ đồng54.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, một đặc điểm chung liên quan đến bên
bán trong các thương vụ này, dù có sự tham gia của đối tác nước ngoài hay
không, đó là mục đích của bên bán là tăng vốn điều lệ.
1.1.2. Các thương vụ thôn tính và sáp nhập trong ngành bảo hiểm
Cũng như trong ngành ngân hàng, đa số các thương vụ trong ngành bảo
hiểm đều có sự tham gia của đối tác nước ngoài. Mục đích của bên bán là tăng
vốn, trong khi đó mục đích của bên mua là thâm nhập sâu hơn vào thị trường
bảo hiểm Việt Nam, một thị trường được coi là rất tiềm năng.
Tháng 1/2008, Swiss Reinsurance Co, tổ chức tại bảo hiểm quốc tế có
trụ sở tại Thụy Sỹ và hoạt động tại 25 quốc gia, mua lại 25% cổ phần của tập
đoàn Tái Bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VinaRe), với 81,9 triệu đôla Mỹ. Sau
thương vụ Swiss Insurance sẽ trở thành đối tác chiến lược nước ngoài duy
nhất của VinaRe. VinaRe là công ty tái bảo hiểm duy nhất tại Việt Nam, kiểm
soát 34% thị phần tái bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ và 58% thị phần tái
bảo hiểm phi nhân thọ trong nước, theo ước tính năm 2006. Swiss Re thỏa
thuận sẽ không bán số cổ phần này ít nhất trong vòng 3 năm và sẽ chỉ định
một đại diện vào ban quản lý của VinaRe. Còn VinaRe thì thỏa thuận Swiss
Re sẽ là đối tác chiến lược duy nhất của mình. Swiss Re có mối quan hệ làm
ăn với VinaRe trong hơn một thập kỷ qua, và các hoạt động này sẽ được mở
54 Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương (OceanBank), Thông cáo báo chí, 15/1/2009.
77
rộng hơn nữa, trong đó bao gồm cả việc hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực
tái bảo hiểm cho phía Việt Nam55.
Thương vụ đáng chú ý nhất trong thời gian hai năm 2008 và 2009 là
thương vụ công ty HSBC Insurance (Asia Pacific) Holdings Limited ký thỏa
thuận tăng tỷ lệ cổ phần năm giữ của công ty này tại tập đoàn Bảo Việt (Bao
Viet Holdings), tập đoàn dịch vụ tài chính và bảo hiểm hàng đầu của Việt
Nam, từ mức 10% hiện nay lên 18% với giá trị là 1,88 nghìn tỷ đồng (khoảng
105,3 triệu đô la Mỹ) vào tháng 10/2009. Tổng số 53.682.474 cổ phiếu mới sẽ
được phát hành cho HSBC thông qua phát hành trực tiếp để tăng cổ phần nắm
giữ của HSBC. Với hình thức phát hành thêm cổ phiếu này, vốn điều lệ của
Bảo Việt tăng lên 6.267 tỷ đồng. Năm 2007, sau khi mua 10% cổ phần của
Bảo Việt, HSBC trở thành một trong hai cổ đông sáng lập của công ty này,
bên cạnh Bộ Tài Chính. Trong khuôn khổ của thỏa thuận ban đầu, HSBC tiếp
tục giữ các quyền ưu tiên mua thêm cổ phần nhất định để mua lại cổ phần
hiện hành đang do Bộ Tài chính nắm giữ để nâng tỷ lệ cổ phần nắm giữ tối đa
của HSBC lên 25% trong vòng năm năm đầu tiên kể từ ngày ký kết thỏa
thuận và tăng mức trần sở hữu mà các công ty nước ngoài được phép cho
phép sau thời gian đó. Thương vụ này cũng hoàn toàn nhất quán với trọng
tâm chiến lược đã được công bố của HSBC là các thị trường đang tăng trưởng
nhanh trên thế giới và dự định của tập đoàn tại các thị trường đang phát triển
nhanh chóng này
56
.
Việc gia tăng sở hữu, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trên
thị trường bảo hiểm Việt Nam cho thấy các tập đoàn nước ngoài chú trọng
vào các thị trường có mức tăng trưởng nhanh hơn trung bình chung của thế
55 Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam, Tập đoàn Swiss Re mua 25% cổ phần của VinaRe,
, truy cập ngày 17/4/2010
56
Avalue Vietnam, Báo cáo M&A Vietnam 2009 & triển vọng 2010
78
giới, đồng thời đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm và bảo vệ tài sản của khách hàng
ở các thị trường này.
1.1.3. Các thương vụ liên quan đến các công ty hoạt động trong lĩnh vực
chứng khoán
Các thương vụ liên quan đến các công ty hoạt động trong lĩnh vực
chứng khoán cũng có đặc điểm chung giống các công ty bảo hiểm và ngân
hàng là bên bán cần tăng vốn. Trong những thương vụ có sự tham gia của
nước ngoài, thì mục đích của bên mua là thâm nhập hoặc mở rộng hoạt động
tại thị trường Việt Nam.
Tháng 1/2008, công ty Cổ phần Chứng khoán Hướng Việt chuyển
nhượng 14,5 triệu cổ phần có giá trị 145 tỷ đồng, tương đương 48,33% vốn
điều lệ cho Morgan Stanley (Singapore) Holdings Ptc. Ltd. Sau thương vụ
chuyển nhượng trên, ngày 5/2/2008, công ty chứng khoán Hướng Việt đổi tên
thành Công ty Cổ phần Chứng khoán Morgan Stanley Hướng Việt (Morgan
Stanley Gateway Securities JSC). Chứng khoán Morgan Stanley Hướng Việt
được triển khai các nghiệp vụ kinh doanh là môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Đi cùng với việc đầu tư của Morgan Stanley, vốn điều lệ của công ty này
được tăng vọt từ 20 tỷ đồng lên 300 tỷ đồng57.
Một thương vụ khác là việc tháng 2/2008, công ty Franklin Resources
Inc. (hoạt động với tên là Franklin Temleton Investments), trụ sở ở California,
cung cấp dịch vụ quản lý đầu tư và quản lý quỹ theo kiểu công ty đầu tư mở
và đầu tư khép kín, lập tài khoản, mạng gia đình, cá nhân lớn và tài khoản độc
57 Manetwork.vn, Cơ sở dữ liệu Morgan Stanley đầu tư vào công ty chứng khoán,
truy cập ngày 17/4/2010
79
lập trên toàn thế giới, mua lại 49% cổ phần của công ty Quản lý quỹ
VietcomBank. 1% còn lại được nắm giữ bởi ngân hàng Ngoại Thương.
Franklin Templeton tuyên bố dự định lập các quỹ đầu tư cho các nhà đầu tư
Việt Nam. Theo công ty này, khoảng 9% số tiền của các quỹ của Franklin
Templeton đến từ các nhà đầu tư khu vực Châu Á, Thái Bình Dương, và Việt
Nam sẽ là một trong những khu vực quan trọng trong chiến lược mở rộng
hoạt động của công ty tại Châu Á58.
Tháng 8, CIMB Investment Bank Bhd (CIMB) của Malaysia, công ty
con cùa Bumiputra Commerce Holdings Bhd đã đồng ý mua lại 10% cổ phần
tại công ty Tài chính chứng khoán công nghiệp tàu thủy từ công ty Tài cính
Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin Shipbuilding Finance), một đơn vị
thuộc sở hữu 100% vốn của tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, với
giá trị 34 tỷ đồng (1,9 triệu đôla mỹ). Đồng thời CIMB đã được cấp quyền
chọn để tăng cổ phần của mình lên bằng cách mua thêm 30% cổ phần từ công
ty Tài chính công nghiệp Tàu thủy. CIMB Group là nhà cung cấp các dịch vụ
tài chính lớn thứ hai của Malaysia và là một trong những tập đoàn ngân hàng
hàng đầu tại Đông Nam Á59.
Tháng 8/09, Woori Investment & Securities Co Ltd (Woori I&S) của
Hàn Quốc tăng tỷ lệ cổ phần nắm giữ của mình từ 12,7% lên 49% bằng cách
mua thêm 36,3% cổ phần trong công ty Cổ phần chứng khoán Biển Việt
(CBV), công ty môi giới chứng khoán có trụ sở tại Hà Nội, với giá trị 107,8 tỷ
đồng (6 triệu đôla Mỹ). Tháng 12, công ty chứng khoán biển Việt đổi tên
thàng công ty Cổ phần chứng khoán Woori CBV. Woori I&S là công ty
chứng khoán hàng đầu ở Hàn Quốc hoạt động trong các lĩnh vực môi giới,
58 PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin Mid-year 2008
59 PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin Mid-year 2008
80
kinh doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ tài chính cho các
nhà đầu tư Hàn Quốc và nước ngoài60.
Một thương vụ đáng chú ý giữa hai công ty trong nước là tháng 9/09,
ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín (TrustBank) mua lại 11% cổ phần
trong công ty chứng khoán Đại Việt (DVSV), công ty môi giới chứng khoán
có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh. Trị giá thương vụ không được công bố.
Đại Việt sẽ có cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh từ phần góp vốn của
TrustBank. Bên cạnh đó, khi góp vốn vào công ty chứng khoán, ngân hàng có
thể hỗ trợ cho khách hàng của Đại Việt vay tiền. Trustbank có 60 chi nhánh,
phòng giao dịch, trong tương lai Trustbank sẽ tổ chức những điểm giao dịch
này thành điểm nhận lệnh giao dịch của DVSC. Hiện Trustbank và DVSC
đang thực hiện kết nối công nghệ để nhà đầu tư dễ dàng mở tài khoản giao
dịch qua Trustbank. Điều này giúp tạo thuận lợi cho công việc làm ăn của
công ty chứng khoán và cũng giúp ngân hàng mở rộng mạng lưới khách hàng
của mình với chi phí thấp hơn so với việc mở thêm văn phòng đại diện hoặc
chi nhánh
61
.
1.2. Nguyên nhân của những diễn biến hoạt động thôn tính và sáp
nhập của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng ở Việt Nam trong hai năm 2008 và 2009.
1.2.1. Môi trường kinh tế vĩ mô
Cũng như các nước khác trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam chịu một
số ảnh hưởng nhận định từ cuộc khủng hoảng tài chính. Tăng trưởng GDP
trong hai năm 2008 và 2009 chậm lại so với những năm trước đó. So với tăng
trưởng GDP 8,5% của năm 2007, năm 2008, Việt Nam đạt mức tăng trưởng
60 PricewaterhouseCooper, Vietnam M&A Report, 1/2010
61 Nguyễn Quân, Công ty Chứng khoán tìm đối tác, , truy cập ngày 17/4/2010
81
GDP 6,2% và năm 2009 là 5,3%. Tuy vậy, trong những tháng cuối năm, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Quý I năm
2009, tốc độ tăng GDP là 3,1%, quý II là 4,5%, quý III là 6%. Quý IV là
6,9%. Đặc biệt ngành dịch vụ tài chính nằm trong năm ngành có tốc độ tăng
trưởng GDP nhanh nhất, đạt mức 8,7%, chỉ đứng sau ngành xây dựng
(11,4%). Điều này chứng tỏ, ngành dịch vụ tài chính ở Việt Nam vẫn tiếp tục
phát triển với tốc độ nhanh trong tình hình cuộc khủng hoảng kinh tế. Chính
điều này tạo điều kiện cho số lượng thương vụ thôn tính và sáp nhập vẫn tiếp
tục tăng trong ngành62.
Đồ thị 3.3. Tăng trưởng GDP Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2009 (%)
Nguồn: HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 25).
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam đạt mức cao nhất trong mười năm, 28,3%
vào tháng 8/2008. Chỉ số CPI trung bình cho cả năm 2008 là 23%. Tỷ lệ lạm
phát đáng kể vào năm 2009, đạt mức bình quân cả năm là 6,88%, là mức thấp
62 HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 25).
82
nhất trong sáu năm qua. Tuy vậy, nếu so với các nước trên thế giới thì mức
CPI của Việt Nam vẫn ở mức rất cao.
Để chống lại tỷ lệ lạm phát cao trong năm 2008, chính phủ đã thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt, đẩy mức lãi suất cơ bản lên 14% vào giữa năm
2008, tăng mức dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại lên 7% đối
với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng. Điều này gây lên tình trạng thiếu hụt vốn
cho các doanh nghiệp Việt Nam và làm lộ rõ yếu điểm của một số ngân hàng
nhỏ ở Việt Nam. Lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng Việt Nam có lúc
bị đẩy lên đến mức 25%. Cuối năm 2008, đầu năm 2009, để kích thích kinh
tế, chống suy thoái, lãi suất cơ bản giảm xuống còn 8,5% vào cuối năm 2008
và xuống 7% vào năm 200963. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi kỳ hạn
dưới 12 tháng được hạ xuống 4% vào tháng 2/2009. Chính phủ thực hiện gói
hỗ trợ lãi suất 4% trị giá hơn 400.000 tỷ đồng. Tăng trưởng tính dụng năm
2009 đạt xấp xỉ mức 38%, cao hơn mức 27% của năm 2008 và cao hơn mục
tiêu của chính phủ. Đầu năm chính phủ đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng
dưới 30%, sau đó được điều chỉnh về mức 25 đến 27%. Tuy vậy, mục tiêu
này nhanh chóng bị phá vở trong quý III năm 2009. Năm 2009, mức tăng
trưởng tín dụng gấp 7,14 lần so với tăng trưởng GDP, mức được các chuyên
gia kinh tế cho là quá cao so với nền kinh tế, có thể gây ra khủng hoảng.
Tháng 12/2009, để chống lạm phát tăng trở lại, lãi suất cơ bản được tăng 1%
lên mức 8%64.
63 HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 25).
64 Avalue Vietnam, Báo cáo M&A Vietnam 2009 & triển vọng 2010
83
Tỷ lệ lạm phát theo năm
Tỷ lệ lạm phát theo tháng
Đồ thị 3.4. Tỷ lệ lạm phát Việt Nam thời kỳ 2003 – 2009 (%)
Nguồn: HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 27).
Tháng 12/2009, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam hạ giá đồng Việt Nam
xuống còn mức 18.479 đồng/1 đôla Mỹ. Trước đó, tỷ giá chính thức là 17.489
đồng/1 đôla Mỹ. Cùng với việc hạ giá đồng Việt Nam, biên độ giao dịch tiền
đồng so với đồng đôla cũng bị hạ xuống 3% từ 5% trước đó65. Điều này sẽ tạo
thuận lợi cho các tổ chức nước ngoài muốn mua lại các công ty Việt Nam bởi
giá trị các công ty Việt Nam khi tính ra giá trị bằng đôla Mỹ sẽ thấp hơn so
với trước đó.
Năm 2008, thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm mạnh so với
năm 2007. Chỉ số VNIndex, trong ngày giao dịch cuối cùng của năm đạt
315.6 điểm, giảm 918 điểm so với cuối năm 2007. Năm 2009, thị trường
65 HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 27).
84
chứng khoán tăng nhẹ. Cuối tháng 6/2009, chỉ số VNIndex đạt 448,3 điểm,
cuối tháng 12/2009, đạt 494 điểm66.
Đồ thị 3.5. Chỉ số VNIndex thời kỳ 1/2006 – 7/2009
Nguồn: HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 25).
Thị trường chứng khoán giảm mạnh có thể gây khó khăn cho các công
ty, đặc biệt công ty trong nước khi muốn huy động vốn. Rất nhiều công ty
hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và tài chính gặp khó khăn. Điều này
cũng tác động làm số thương vụ gia tăng. Tuy vậy, cổ phiếu các công ty giảm
giá cũng tác động làm giảm giá trị tài sản và giảm giá trị các thương vụ. Do
vậy, tuy số thương vụ gia tăng, nhưng tổng giá trị thì không tăng, ngược lại
còn giảm.
1.2.2. Môi trường pháp lý
a. Số cổ phần nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ trong một công
ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
66 HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 25).
85
Năm 2009, các quy định pháp lý bắt đầu có hiệu lực khiến cho nhiều
ngành dịch vụ trở nên hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Nghị định
13/2007/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/1/2008, đã cởi bỏ những hạn định
quyền sở hữu của bên nước ngoài tại các công ty Việt Nam, ngoại trừ liên
quan đến hạn mức 49% trong các công ty đại chúng được niêm yết và 40% tại
các công ty đại chúng không niêm yết. Ngoài ra, tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu tư
nước ngoài được phép nắm giữ tại các tổ chứng tín dụng, chứng khoán và
kinh doanh bảo hiểm vẫn chịu sự điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng,
Luật chứng khoán, và Luật Kinh doanh bảo hiểm67.
Theo nghị định của chính phủ số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 về
việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt
Nam, điều 4, khoản 1, 2, 3, 4, 5:
1. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm
cả cổ đông nước ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư
nước ngoài đó không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
2. Mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài không phải là tổ
chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó
không vượt quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
3. Mức sở hữu cổ phần của một tổ chức tín dụng nước ngoài và người
có liên quan của tổ chức tín dụng nước ngoài đó không vượt quá 10% vốn
điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
4. Mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người
có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó không vượt quá 15%
vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
67 Nghị định 13/2007/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành mốt số điều của luật Doanh Nghiệp 2005, điều 10,
khoản 1.
86
Trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ căn cứ đề nghị của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, quyết định mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư
chiến lược nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài đó vượt quá 15%, nhưng không được vượt quá 20% vốn điều lệ của
một ngân hàng Việt Nam.
5. Trường hợp tổ chức tín dụng nước ngoài nắm giữ trái phiếu chuyển
đổi, khi chuyển đổi trái phiếu sang cổ phiếu phải đảm bảo tỷ lệ sở hữu cổ
phần theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều này.
b. Số vốn điều lệ tối thiểu của một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng
Theo nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 do Chính phủ
ban hành về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, các tổ
chức tín dụng phải đảm bảo số vốn điều lệ đến hết ngày 31/12/2008 và ngày
31/12/2010 như sau:
STT Loại hình tổ chức tín dụng
Mức vốn pháp định áp dụng cho
đến ngày
31/12/2008 31/12/2010
I. Ngân hàng
1. Ngân hàng thương mại
a. Ngân hàng thương mại Nhà nước 3000 tỷ đồng 3000 tỷ đồng
b. Ngân hàng thương mại cổ phần 1000 tỷ đồng 3000 tỷ đồng
c. Ngân hàng liên doanh 1000 tỷ đồng 3000 tỷ đồng
d. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1000 tỷ đồng 3000 tỷ đồng
e. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD
2. Ngân hàng chính sách 5000 tỷ đồng 5000 tỷ đồng
3. Ngân hàng đầu tư 3000 tỷ đồng 3000 tỷ đồng
4. Ngân hàng phát triển 5000 tỷ đồng 5000 tỷ đồng
5. Ngân hàng hợp tác 1000 tỷ đồng 3000 tỷ đồng
87
6. Quỹ tín dụng nhân dân
a. Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 1000 tỷ đồng 3000 tỷ đồng
b. Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 100 triệu đồng 100 triệu đồng
II. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
1. Công ty tài chính 300 triệu đồng 500 triệu đồng
2. Công ty cho thuê tài chính 100 triệu đồng 150 triệu đồng
Để đảm bảo thực hiện đủ số vốn yêu cầu đến hai thời điểm trên, rất
nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụng đã bán cổ phần hoặc phát hành thêm cổ
phần cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác.
c. Việt Nam còn thiếu luật điều chỉnh hoạt động thôn tính và sáp nhập
(M&A)
Hiện nay, hoạt động M&A vẫn còn đang được quy định rải rác ở các
luật và văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, hơn nữa mới chỉ quy định một
cách chung chung, chứ chưa có hệ thống chi tiết, ví dụ như trong luật Doanh
nghiệp 2005, luật Cạnh tranh 2004 quy định định nghĩa và phân loại các hoạt
động mua lại, hợp nhất, sáp nhập. Các quy định này hầu như mới chỉ dừng lại
ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động thôn tính và sáp nhập. Trong
khi đó, để hoạt động thôn tính và sáp nhập diễn ra thuận lợi và đảm bảo các
quy định pháp luật về cạnh tranh và quyền, trách nhiệm các bên đòi hỏi phải
có quy định cụ thể, có một cơ chế thị trường để chào bán, chào mua doanh
nghiệp, giá cả, cung cấp thông tin, chuyển giao và xác lập sở hữu, chuyển
dịch tư cách pháp nhân, các nghĩa vụ tài chính, thương hiệu... và quy định về
các vấn đề mà pháp luật Việt Nam còn chưa có quy định cụ thể như kiểm
toán, định giá, tư vấn, môi giới, bảo mật, thông tin, cơ chế giải quyết tranh
chấp.
Riêng giao dịch M&A của các công ty chứng khoán có những nét đặc
thù có thể cần có những hướng dẫn riêng. Đồng thời cũng cần có biện pháp
88
tránh nguy cơ nhiều công ty chứng khoán Việt Nam bị thâu tóm bởi một ít số
tổ chức, cá nhân nước ngoài .
Nhìn chung, hiện nay ở Việt Nam, còn thiếu các quy định cụ thể cho
hoạt động thôn tính và sáp nhập để điều chỉnh trên cả hai phương diện: (i) các
thủ tục, nguyên tắc, phương pháp định giá, quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia…; (ii) các tình huống xử lý tài chính, lao động và các vấn đề phát
sinh sau khi thực hiện thương vụ.
Điều này vừa làm cho các chủ thể tham gia hoạt động M&A gặp khó
khăn trong việc thực hiện, vừa làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước khó
kiểm soát các hoạt động M&A.
1.2.3. Đặc điểm của thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam
a. Thị trường ngân hàng Việt Nam
Hiện tại ở Việt Nam có 84 ngân hàng (34 ngân hàng thương mại cổ
phần, 6 ngân hàng quốc doanh, 37 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân
hàng liên doanh và 2 ngân hàng nước ngoài mới cấp phép thành lập). Hệ
thống ngân hàng Việt Nam là khá tập trung ở nhóm các ngân hàng lớn, nhưng
khá phân mảnh trong các ngân hàng vừa và nhỏ. Cuối tháng 8/2009, tổng giá
trị tài sản mà các ngân hàng hoạt động ở Việt Nam đang nắm giữ bằng 120%
GDP. Trong đó, bốn ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước nắm giữ 60%
tổng giá trị tài sản, hai trong số đó, ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
(VietcomBank) và Ngân hàng Công Thương Việt Nam (ViettinBank) đã được
cổ phần hóa một phần68.
68 Moody’s Global Banking, Banking System Outlook, 8/2009.
89
Hoạt động chính để thu lợi nhuận của các ngân hàng là hoạt động cho
các doanh nghiệp vay. Nguồn vốn chính của các ngân hàng là từ tiền gửi
trong dân.
Tuy vậy, thị trường ngân hàng ở Việt Nam còn rất nhỏ. Hiện nay ở Việt
Nam mới chỉ có 17% dân số có tài khoản ngân hàng69. Tuy nhiên, tỷ lệ người
dân thật sự sử dụng dịch vụ này còn thấp hơn, do người dân có thói quen sử
dụng tiền mặt trong các giao dịch. Bên cạnh đó, tỷ lệ người dân gửi tiết kiệm
cũng không cao, do ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu
dùng Việt Nam còn có khá nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào
chứng khoán, các hình thức bảo hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim
cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó là chưa kể các hình thức không hợp
pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn
người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng đang sốt, tăng giảm
đột biến trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị trường tự do cũng biến động thì
lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7-8% một năm. Nhìn
chung các ngân hàng Việt Nam phải cạnh tranh trong một thị trường khá nhỏ,
trong khi số lượng ngân hàng là quá lớn. Bên cạnh đó, các ngân hàng chủ yếu
chú trọng vào vấn đề mở rộng thị trường theo chiều rộng, chưa chú trọng vào
việc mở rộng theo chiều sâu, cung cấp thêm nhiều dịch vụ cho khách hàng.
Thị trường ngân hàng còn phân mảnh, các ngân hàng vừa và nhỏ chưa
đủ tiềm lực tài chính để đạt được sức mạnh trên thị trường so với các ngân
hàng quốc doanh và các ngân hàng phải tìm cách tăng vốn để đáp ứng yêu cầu
về số vốn điều lệ tốn thiểu 1000 tỷ đồng vào cuối năm 2008 và 3000 tỷ đồng
69 Moody’s Global Banking, Banking System Outlook, 8/2009.
90
vào cuối năm 2010 là những động cơ của các ngân hàng Việt Nam trong việc
bán cổ phần của mình cho các ngân hàng nước ngoài trong hai năm vừa qua.
Bên cạnh đó, các ngân hàng Việt Nam cũng còn khá yếu về nguồn nhân
lực và cơ sở hạ tầng phục vụ cho các dịch vụ như quản trị rủi ro, đánh giá tín
dụng. Hợp tác với các ngân hàng nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các ngân hàng trong nước để mở rộng các loại hình dịch vụ và cung cấp dịch
vụ tốt hơn.
Với thị trường ngân hàng còn quá nhỏ, nhưng với dân số trẻ, kinh tế
đang phát triển, thị trường ngân hàng Việt Nam lại trở nên rất hấp dẫn với các
nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi việc đối tác nước ngoài mua lại và đầu tư
vào ngân hàng trong nước vẫn còn bị hạn chế về số cổ phần ngân hàng nước
ngoài được phép nắm giữ, đầu tư mua cổ phần, đặc biệt cố gắng đạt được số
cổ phần tối đa trong các ngân hàng trong nước vẫn tạo nhiều cơ hội cho các
ngân hàng nước ngoài trong việc thâm nhập sâu hơn vào thị trường đầy tiểm
năng này.
b. Thị trường bảo hiểm Việt Nam
Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một thị trường phát triển khá nhanh.
Theo báo cáo của Business Monitor, quý II năm 2009, tổng giá trị phí bảo
hiểm phi nhân thọ trên thị trường Việt Nam là 621 triệu đôla, tăng 19% so với
năm 2007, tổng giá trị phí bảo hiểm nhân thọ là 618 triệu đôla, tăng 13% so
với năm 2007. Tổng giá trị phí bảo hiểm năm 2008 là 1,2 tỷ đôla Mỹ, tăng
16% so với năm 2007. Tính đến quý II năm 2009, thị trường bảo hiểm Việt
Nam có 26 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 11 công ty bảo hiểm nhân thọ, 1
công ty tái bảo hiểm và 10 công ty môi giới bảo hiểm.
91
Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), từ 1/1/2008, các doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài được
phép hoạt động tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, kinh doanh các dịch vụ bảo
hiểm bắt buộc. Sau 5 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép thành lập chi nhánh bảo hiểm phi
nhân thọ ở Việt Nam.
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, các doanh nghiệp bảo
hiểm nhà nước (Bảo Việt, PJICO, …) vẫn là những doanh nghiệp dẫn đầu
với tổng số doanh thu cao nhất trong cả lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và phi
nhân thọ.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam được xem là một thị trường đầy tiềm
năng và hấp dẫn với 54% dân số trẻ và tổng giá trị phí bảo hiểm mới chỉ đạt
0,7% GDP năm 2008, tốc độ phát triển thị trường nhanh. Tuy vậy, do một bộ
phận thị trường khá phân mảnh, hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, hạ
phí bảo hiểm xuống thấp hơn mức an toàn diễn ra khá phổ biến. Do vậy, các
doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt những doanh nghiệp nhỏ muốn hướng đến
đối tác lớn hơn để tăng tiềm lực cho mình.
c. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 100 công ty hoạt động trong lĩnh
vực chứng khoán. Tuy nhiên không có công ty nào thật sự lớn có sức mạnh
thị trường hơn hẳn các công ty còn lại. Có thể nói rằng, thị trường các công
ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán là thị trường khá phân mảnh. Một số
công ty đã gặp khó khăn khi thị trường bắt đầu suy giảm vào cuối năm 2007,
đầu năm 2008. Ước tính, với quy mô dân số và kinh tế Việt Nam, thị trường
Việt Nam chỉ cần sự hoạt động của khoảng 20 công ty chứng khoán. Như vậy,
92
muốn tồn tại và đạt yêu cầu về vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp tài
chính phi ngân hàng (300 triệu đồng tính đến cuối năm 2008, 500 triệu đồng
tính đến cuối năm 2010) nhiều công ty chứng khoán chọn cách sáp nhập với
công ty khác hoặc bán cổ phần cho công ty nước ngoài. Đối với các công ty
nước ngoài, đây là cơ hội rất lớn để gia nhập thị trường Việt Nam khi mà hoạt
động của họ tại thị trường Việt Nam còn bị hạn chế bởi các quy định đối với
nhà đầu tư nước ngoài.
2. Bài học cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng ở Việt Nam
Chúng ta có thể thấy trên thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam,
ngoài một số doanh nghiệp nhà nước có hoạt động mạnh, giữ thị phần lớn,
những phần còn lại của thị trường là khá nhỏ, với đa số các doanh nghiệp và
ngân hàng đều có vốn ít, chưa thực sự có được sức mạnh thị trường như các
doanh nghiệp và ngân hàng mà Nhà nước nắm vốn chủ yếu. Trong điều kiện
thị trường như hiện nay và với yêu cầu của Nhà nước về tỷ lệ vốn tối thiểu,
tiềm năng cho các thương vụ thôn tính và sáp nhập trên thị trường tài chính
Việt Nam là rất lớn.
Trong hai năm 2008 và 2009, thị trường tài chính thế giới gặp khó
khăn, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không còn giá ở
mức cao như thời điểm trước đó. Hay nói cách khác, giá trị cổ phiếu sẽ dần
dần đi vào giá trị thực của nó. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc đàm phán và
định giá của các bên.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng hiện đối với lĩnh vực tài chính, ngân
hàng Việt Nam vẫn chưa mở cửa hoàn toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Nói đến việc nhà đầu tư nước ngoài sáp nhập, mua lại ngân hàng và công ty
93
chứng khoán ở Việt Nam hiện tại mới chỉ có nghĩa là mua cổ phiếu của ngân
hàng hay mua lại phần vốn góp trong vốn điều lệ của công ty chứng khoán
trong khuôn khổ tỷ lệ cho phép. Việt Nam không cho phép chi nhánh ngân
hàng nước ngoài mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh; hạn chế các tổ
chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại quốc
doanh cổ phần hoá; không cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài mua quá
30% tổng số vốn cổ phần của các ngân hàng thương mại, trừ khi pháp luật
Việt Nam có quy định khác hoặc được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm
quyền. Việt Nam giữ hạn chế về mức mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
như vậy chủ yếu để phòng tránh sự đổ vỡ hoặc thôn tính trong lĩnh vực ngân
hàng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các ngân hàng Việt Nam sẽ mãi
giữ được thế độc quyền trong kinh doanh. Đến năm 2010, theo cam kết trong
lộ trình gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam sẽ
được đối xử bình đẳng như các ngân hàng trong nước.
Đối với các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trước khi có thể
thành lập được ngân hàng và công ty con tại Việt nam có thể tích cực sử
dụng thôn tính và sáp nhập như một giải pháp để xâm nhập thị trường, giảm
chi phí và rủi ro trong quá trình xây dựng cơ sở khách hàng.
Về phía các ngân hàng và tổ chức Việt Nam, có thể tận dụng số vốn
góp của đối tác nước ngoài vào ngân hàng và công ty hoạt động trong lĩnh
vực tài chính vẫn bị giới hạn để kêu gọi phần vốn góp từ nước ngoài, trong
khi vẫn nắm được quyền kiểm soát và sở hữu một phần công ty. Đồng thời
đây cũng là cơ hội để các tổ chức trong nước nâng cao được chất lượng nguồn
nhân lực và dịch vụ cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng nhờ hợp tác với đối tác
nước ngoài.
94
Đối với những ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm, chứng khoán trong
nước đã lớn mạnh trên thị trường cũng có thể tận dụng thời điểm này khi giá
các công ty mục tiêu có thể đã thấp hơn và các tổ chức nước ngoài còn bị hạn
chế trong việc mua lại công ty Việt Nam để mua lại các ngân hàng, doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước, nhằm giảm đối thủ cạnh tranh và tăng sức mạnh
thị trường.
Tuy nhiên, các tổ chức trong nước nên mua lại hoặc sáp nhập với
những tổ chức, công ty khác trong cùng ngành kinh doanh chủ yếu của mình,
tập trung vào chiến lược kinh doanh ngành của mình, tránh đầu tư tràn lan
sang các lĩnh vực không chủ yếu. Đầu tư sang lĩnh vực không chủ yếu có thể
gây lãng phí, tăng chi phí trong quản lý và điều hành, nhất là trong khi khả
năng quản lý cũng như chất lượng về nhân lực hoạt động trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng ở Việt Nam còn yếu.
95
KẾT LUẬN
Bài khóa luận của em đã tập trung vào phân tích xu hướng chủ yếu
trong hoạt động thôn tính và sáp nhập trên thị trường tài chính châu Âu trong
cuộc khủng hoảng tài chính, từ đó, rút ra những bài học cho hoạt động thôn
tính và sáp nhập của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng trên thị trường Việt Nam.
Tuy số lượng và giá trị các thương vụ thôn tính và sáp nhập trên thị
trường tài chính châu Âu giảm rõ rệt, chúng ta vẫn có thể thấy một số xu
hướng khá rõ nét trong hoạt động này trong hai năm 2008 và 2009. Việc
chính phủ can thiệp vào giả cứu các tập đoàn và trở thành bên mua trong các
thương vụ trở nên phổ biến. Đa phần các thương vụ đều liên quan đến bên
bán đang gặp khó khăn về tài chính. Mục đích của hầu hết các bên bán là tăng
vốn, tái cơ cấu lại tài sản, hoạt động kinh doanh, tập trung vào chiến lược và
ngành chủ yếu của mình. Chính vì vậy, tâm lý cơ hội có thể thấy rõ ràng trong
các bên mua. Rất nhiều công ty đã tận dụng cơ hội này để mua lại cổ phần, tài
sản các công ty để thâm nhập, mở rộng, gia tăng sức mạnh thị trường và khả
năng hoạt động của mình.
Dựa vào nghiên cứu hoạt động thôn tính và sáp nhập trên thị trường tài
chính ở châu Âu, khóa luận đã đề xuất một số bài học các doanh nghiệp hoạt
động trên lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt Nam có thể áp dụng. Ở thị
trường Việt Nam, tuy các doanh nghiệp không gặp khó khăn như các doanh
nghiệp tài chính ngân hàng châu Âu, nhưng với những biện pháp thắt chặt
tiền tệ và yêu cầu về vốn của chính phủ rõ ràng đã tạo ra một số điểm tương
tự trong mục đích và xu hướng hoạt động thôn tính và sáp nhập ở châu Âu.
Rất nhiều công ty đã bán cổ phần công ty mình để tăng vốn. Các doanh
nghiệp vốn nước ngoài có thể tận dụng cơ hội này để bước đầu tiếp cận thị
96
trường Việt Nam, trong khi các doanh nghiệp trong nước lại có thể tận dụng
cơ hội này để tăng sức mạnh thị trường và giảm đối thủ cạnh tranh.
Em hi vọng những vấn đề và đề xuất trong khóa luận sẽ trở thành gợi ý
cho những công trình tiếp theo về hoạt động thôn tính và sáp nhập trên thị
trường tài chính ở Việt Nam cũng như ở châu Âu.
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Mạng mua bán và sáp nhập Việt Nam, Cẩm nang mua bán –sáp nhập
tại Việt Nam.
2. Avalue Vietnam, Báo cáo M&A Vietnam 2009 & triển vọng 2010
3. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Thâu tóm và hợp nhất từ khía
cạnh quản trị công ty: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt
Nam
4. Luật Cạnh Tranh Việt Nam, 2004
5. Luật Doanh Nghiệp, 2005
6. Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 do Chính phủ ban
hành về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng
7. Nghị định 13/2007/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
luật Doanh Nghiệp 2005
8. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương (OceanBank), Thông cáo
báo chí, 15/1/2009
9. Manetwork.vn, Cơ sở dữ liệu về thương vụ giữa ngân hàng Thương
mại Cổ phần An Bình và Maybank,
truy cập ngày 17/4/2010
10. Manetwork.vn, Cơ sở dữ liệu về thương vụ giữa ngân hàng HSBC và
TechcomBank, truy cập ngày
17/4/2010
11. Manetwork.vn, Cơ sở dữ liệu Morgan Stanley đầu tư vào công ty
chứng khoán, truy cập ngày 17/4/2010
12. Nhật Minh, Kinh tế toàn cầu trong một năm tồi tệ,
, truy cập ngày 1/3/2010
13. Nguyễn Quân, Công ty Chứng khoán tìm đối tác,
, truy cập ngày 17/4/2010
98
14. Mạc San, Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ: từ A đến Z,
www.vneconomy.vn, truy cập ngày 1/3/2010
15. Kim Thành, Thấy gì từ cuộc khủng hoảng tín dụng dưới tiêu chuẩn ở
Mỹ, www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 1/3/2010
16. Vũ Quang Việt, Khủng hoảng kinh tế Mỹ và ảnh hưởng ở Việt Nam,
www.diendan.org/the-gioi/ , truy cập ngày 1/3/2010
17. Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam, Tập đoàn Swiss Re mua 25% cổ
phần của VinaRe, , truy cập ngày
17/4/2010
II. Tài liệu nƣớc ngoài
1. Michael E. S. Frankel, Mergers and Acquisitions Basics, The Key Steps
of Acquisitions, Divestutures, and Investments, John Wiley & Sons,
Inc., 2005.
2. Andrew J. Sherman, Milledge A. Hart, Mergers & Acquisitions From A
to Z, American Management Association, Second Edition, 2006.
3. Ingo Walter, Mergers and Acquisitins in Banking and Finance, What
Works, What Fails, and Why, Oxford University Press, 2004.
4. Business Insights, Mergers and Acquisitions in European Financial
Services, 1997-2003.
5. HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 25).
6. HSBC, Global Research, Vietnam Monitor (Issue 27).
7. IMF, Global Financial Report, 3/2008
8. IMF, Global Financial Report, 10/2008
9. IMF, Global Financial Report, 3/2009
10. IMF, Global Financial Report, 10/2009
11. Mergermarket, Monthly M&A Insider, A mergermarket report on
global M&A activity, 5/2009
99
12. Moody’s Global Banking, Banking System Outlook, 8/2009
13. PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin Mid-year 2008
14. PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin End-year 2008
15. PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin Mid-year 2009
16. PricewaterhouseCooper, Asia Pacific M&A Bulletin End-year 2009
17. PricewaterhouseCooper, Back to the “domestic” future, 3/2009
18. PricewaterhouseCooper, European Financial Services M&A Insights,
10/2009
19. PricewaterhouseCooper, European Financial Services M&A Insight,
2/2010
20. Ngân hàng Erste Bank Group, Thông cáo báo chí ngày 16/9/2008
21. Intercontinental Exchange, Thông cáo báo chí, 3/6/2008
22. CNP Assurance, Thông cáo báo chí 12/11/2009
23. Lloyds Banking Group, Thông cáo báo chí 12/8/2009
24. The Bank of New York Mellon, Thông cáo báo chí, 12/8/2009
25. Iceland Prime Minister’s Office, The government of Iceland provides
Glitnir with new equity,
articles/, truy cập ngày 11/3/1020
26. Deutsche Bank, Deutsche Bank completes acquisition of parts of ABN
AMRO, , truy cập ngày
15/3/2010
27. Sree Vidya Bhaktavatsalam, BlackRock to buy Barclays Fund Unit for
$13.5 billion, , truy cập ngày 3/4/2010
28. CNNMoney, Fortune500 2006 list, thông tin về tập đoàn Citigroup,
ml, truy cập ngày 20/3/2010
100
29. David Gow, Dutch government injects €3bn into insurer Aegon,
truy cập ngày 25/3/2010
30. HSBC, HSBC sells its 49 per cent stake in HSBC Merchant Services to
Global Payments for US$307.7 million,
, truy cập ngày 15/3/2010
31. David Jolly, Commerzbank paying Allianz €9.8 billion for Dresdner
Bank,
truy cập ngày 15/3/2010
32. Simon Kennedy, Citi to sell German unit to Credit Mutuel for $7.7
billion, truy cập ngày 12/3/2010
33. Simon Kennedy, KBC shares slump 20% after third rescue package,
truy cập ngày 20/3/2010
34. Aaron Kirchfeld and Jacqueline Simmons, Citi sells Unit to Credit
Mutuel for EU 4.9 billion, truy cập ngày
12/3/2010
35. Richard Miller, Vienna Insurance Group completed Erste takeover,
truy cập ngày 25/3/2010
36. Nicolas Parasie, Groupama in Exclusive talks to buy Romania’s
Asiban, truy cập ngày 25/3/2010
37. Oliver Smiddy, AnaCap continues sole pursuit of Euroupean
financials, truy cập ngày 12/4/2010
38. Julia Werdigier, BlackRock’s big deal with Barclays,
truy cập ngày 15/3/2010
39. Corporate Action TryVesta acquires Moderna ForsakringarS,
, truy cập ngày 28/3/2010
101
40. Credit Update on Melorbanca SpA,
truy cập ngày 20/3/2010
41. Euroclear completes Nordic Central Securities Depository acquisition,
truy cập ngày 12/4/2010
42. Groupama to buy OTP Garanica – 2nd update with CEO statements,
, truy cập
ngày 25/3/2010
43. Lloyds HBOS merger gets go-ahead,
truy cập ngày 10/3/2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5179_6174.pdf