Các DNNN luôn là khách hàng lớn nhất của hệ thống ngân hàng cho dù
tỷ trọng tín dụng ngân hàng dành cho khu vực này đang giảm dần. Vấn đề ở
đây là trong khi nhiều DNNN liên tục hoạt động thua lỗ và không có khả
năng trả nợ thì vẫn đƣợc vay tiền từ các NHTM quốc doanh không cần thế
chấp. Điều này dẫn đến nợ của các DNNN này ngày càng trầm trọng, đặt hệ
thống ngân hàng lâm vào tình trạng nguy hiểm nếu không có sự can thiệp tài
chính của nhà nƣớc.
Việc quản lý các NHTM quốc doanh đƣợc các chuyên gia đánh giá là
nhƣợc điểm lớn nhất của NHNN Việt Nam hiện nay. Chúng cần đƣợc điều
hành bởi một ban giám đốc chuyên nghiệp thay vì một bộ phận của Chính
phủ hoặc NHNN. Bởi lẽ nếu duy trì nhƣ hiện nay tức là tiếp tục duy trì xung
82
đột lợi ích bởi ngƣời lãnh đạo ngân hàng vừa là đại diện chủ sở hữu, vừa là cơ
quan điều tiết tài chính.
Kiểm soát và xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam luôn là vấn đề
đƣợc Nhà nƣớc và các ngân hàng quan tâm hàng đầu. Trên đây là một số giải
pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt
Nam. Tuy nhiên, để thực hiện những biện pháp đó một cách có hiệu quả, cần
phải có sự gắn kết chặt chẽ không chỉ của tất cả các ngân hàng mà là của tất
cả các thành phần kinh tế xã hội.
90 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 6766 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tình hình nợ xấu và các biện pháp xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những yếu kém về quản lý trong các cơ quan quản lý vĩ mô và các định chế
tài chính, các NHTM là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn gia
tăng.
- Mô hình tổ chức và cơ chế điều hành hoạt động thanh tra ngân hàng còn
chồng chéo và kém hiệu lực.
- Chính quyền địa phƣơng can thiệp sâu vào quyết định cho vay của NHTM.
Hệ thống các NHTMNN đƣợc phân bố theo địa bàn các tỉnh, thành phố. Do
đó, chính quyền địa phƣơng thƣờng can thiệp vào quyết định cho vay của các
ngân hàng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Các quyết định cho vay của các
ngân hàng vì vậy mà không mang tính thƣơng mại thực sự. Chính điều đó
cũng chứa đựng nguy cơ nợ xấu gia tăng.
- Hệ thống quản lý rủi ro của các NHTM Việt Nam hầu nhƣ vẫn đang bị bỏ
ngỏ và chƣa đƣợc đầu tƣ xây dựng một cách thỏa đáng và chuyên nghiệp.
(2) Trung tâm thông tin tín dụng chƣa cung cấp đầy đủ các thông tin cần
thiết cho ngân hàng
Hiện nay, ở Việt Nam chỉ có cơ quan duy nhất trực thuộc NHNN cung
cấp những thông tin về doanh nghiệp và ngân hàng là Trung tâm thông tin tín
dụng ngân hàng CIC. CIC đã hỗ trợ các TCTD rất nhiều trong việc cung cấp
các thông tin tài chính. Tuy nhiên trung tâm này mới chỉ đƣợc thành lập từ
năm 1999 và cũng chƣa phải cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một
57
cách độc lập. Một kinh nghiệm đƣợc rút ra từ các nền kinh tế lớn là thành lập
các trung tâm thông tin tín dụng tƣ nhân trong khi nƣớc ta chƣa hề có. Do hạn
chế này, phạm vi thu thập thông tin tín dụng ở Việt Nam là rất hẹp so vối các
nƣớc có trung tâm thông tin tín dụng tƣ nhân.
(3) Sự thiếu vắng các tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp
Các tổ chức định mức tín nhiệm đóng vai trò nhƣ một cầu nối giữa
ngân hàng và khách hàng. Khi thị trƣờng tài chính và việc toàn cầu hoá ngày
càng phát triển, việc xếp hạng tín nhiệm là đƣợc dùng nhƣ một công cụ để
giám sát thị trƣờng tài chính, nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng
và rủi ro hệ thống nói chung.
Một tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp sẽ cung cấp các thông
tin về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, hay bảng xếp hạng khả năng tài
chính của các ngân hàng. Chính vì vậy, có thể nói chính hệ thống xếp hạng
mà các tổ chức định mức tín nhiệm đƣa ra, đóng vai trò làm ngƣời bảo vệ các
ngân hàng giảm thiểu rủi ro khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng.
Tuy nhiên hiện nay hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm
chuyên nghiệp vẫn chƣa xuất hiện. Nhƣng vì vai trò của tổ chức này là rất
quan trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang trong quá trình hội nhập quốc tế,
tự do hoá tài chính nên việc thành lập và đƣa tổ chức định mức tín nhiệm vào
hoạt động tại Việt Nam là vấn đề hết sức cấp thiết.
(4) Sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật trong xử lý TSĐB
Đây là nguyên nhân khiến cho các ngân hàng lung túng trong việc xử lý
TSĐB. Ví dụ, Thông tƣ liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BTC-TCĐC
giữa NHNN, Bộ Tƣ pháp, Bộ Tài chính, tổng cục địa chính ngày 29/4/2001
quy định TCTD không đƣợc trực tiếp bán hay đƣợc trực tiếp nhận quyền sử
58
dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Theo khoản 3,
Mục III của thông tƣ này, nếu không đạt đƣợc sự thỏa thuận của các bên thì
TCTD phải đƣa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra tòa. Trong khi đó, nghị định
số 178 lại cho phép TCTD có quyền xử lý tài sản đảm bảo nếu không đạt
đƣợc sự thỏa thuận của các bên. Việc này làm phát sinh những khó khăn trong
thực tế sau:
+ Trong các điều khoản của Hợp đồng đảm bảo, ngân hàng luôn ràng
buộc điều kiện “Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín
dụng thì ngân hàng đƣợc toàn quyền xử lý TSĐB để thu hồi nợ”. Trên thực tế,
nếu không đạt đƣợc sự thỏa thuận với khách hàng hoặc khách hàng không
hợp tác, cố tình chây ì để kéo dài thời gian trả nợ thì ngân hàng chỉ còn cách
chuyển hồ sơ khởi kiện.
+ Luật pháp và các công cụ thực thi pháp luật chƣa thực sự nghiêm
minh, chƣa hỗ trợ đầy đủ cho ngân hàng chủ động xử lý TSĐB mà không có
sự can thiệp của Tòa án. Do đó, dù có phán quyết của Tòa, ngân hàng vẫn còn
gặp trở ngại vì khâu thi hành án còn chậm. Tiếp đến là sự phối hợp không
đồng bộ giữa cơ quan thẩm định, cơ quan bán đấu giá… Từ lúc khởi kiện đến
cƣỡng chế, thi hành một vụ mất ít nhất 2 năm, trung bình mất 8 – 9 năm.
+ Một khó khăn mà các ngân hàng thƣờng gặp phải là khi tài sản của
doanh nghiệp là các máy móc thiết bị chuyên dùng có giá trị cao thì rất khó
thanh lý. Khi bán đƣợc thì phải ƣu tiên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu
vì hầu hết các thiết bị này đều đƣợc miễn thuế nhập khẩu vì đƣợc coi là
TSCĐ khi thành lập công ty.
59
(5) Chƣa áp dụng một cách nghiêm túc phƣơng pháp quản lý rủi ro theo
thông lệ quốc tế
Hiện nay, hầu hết các NHTMCP đã áp dụng tƣơng đối tốt các tiêu
chuẩn của Basel I nhƣ có một tỷ lệ CAR phù hợp. Theo quy định của Ngân
hàng Nhà nƣớc, đến cuối 2010, các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam phải có
số vốn tối thiểu là 3.000 tỉ đồng và phải đảm bảo đáp ứng tỷ lệ CAR của
Basel I. Đây là một động thái tích cực hƣớng đến sự an toàn của hệ thống.
Tuy nhiên, việc áp dụng Basel II, hiện nay chƣa đƣợc thực thi nghiêm túc.
Hiện chỉ có một vài ngân hàng đạt đƣợc hệ số CAR theo đúng Basel II. Nhìn
chung, việc áp dụng Basel II tại các NHTM Việt Nam còn manh mún, nhỏ lẻ.
(6) Hạn chế trong hoạt động của DATC
Ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu đặt ra cho DATC là phải hoạt động vừa
nhằm lành mạnh hoá tài chính thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc
vừa theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Do đó để bảo toàn vốn, DATC phải
cân nhắc lựa chọn những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn. Điều này đã làm
chậm lại quá trình xử lý nợ cũng nhƣ số lƣợng các khoản nợ đƣợc xử lý.
Mặt khác mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các TCTD, giữa
DATC với tổ chức kinh tế và cá nhân hiện chƣa đƣợc điều chỉnh, hầu hết
thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định áp
dụng cho DATC hầu nhƣ không tạo quyền ƣu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận
và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra không ít khó khăn
trong việc mua và xử lý nợ. Chính vì thế mà DATC xử lý nợ mang nặng tính
thủ tục, chƣa có tính thị trƣờng. Trong quá trình xử lý nợ, có trƣờng hợp ngân
hàng đã mời DATC cùng giải quyết một món nợ, sau khi xem xong, DATC
yêu cầu làm một công văn đề nghị bán nợ. Do chƣa có hệ thống thẩm định nợ
xấu nên sau đó, chi nhánh nhận đƣợc giá chào mua rất thấp chỉ khoảng 20%
60
giá món nợ đó và ngân hàng lại rất băn khoăn không biết sẽ bán nợ cho
DATC theo tỷ lệ nào.
2.3.2. Những biện pháp quản lý từ phía các NHTM
2.3.2.1. Kết quả đạt được
(1) Công tác tín dụng hoàn thiện hơn
- Cơ chế cho vay đƣợc sửa đổi hoàn thiện hơn. Công tác thẩm định trƣớc khi
cho vay đƣợc thực hiện nghiêm túc hơn. Đồng thời gắn đƣợc trách nhiệm của
mỗi cán bộ tín dụng đối với các khoản cho vay mà mình thực hiện, có sự
thông qua của trƣởng phòng tín dụng trƣớc khi quyết định cho vay.
(2) Quan tâm tăng cƣờng năng lực tín dụng của cán bộ
Các ngân hàng từng bƣớc đào tạo nâng cao trình độ của các cán bộ tín dụng
cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Chú trọng công tác đào tạo lại và không ngừng
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho ngƣời lao động, tạo cơ chế, động lực,
môi trƣờng công việc tốt nhằm phát huy tối đa sức mạnh của nguồn nhân lực.
(3) Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quản lý rủi ro
- Phần đông các NHTM hiện nay đã áp dụng tốt các quy định về an toàn vốn
và quản lý rủi ro tín dụng theo Basel I.
- Hiện nay nhiều NHTM đã bắt đầu phân loại nợ theo điều 7 của quyết đinh
493, và trích lập dự phòng và quản lý TSĐB theo quyết định 18, quyết định
đƣợc đánh giá là đã ứng dụng phƣơng pháp của Basel II khi gắn kết phân loại
nợ với xếp hạng tín dụng nội bộ. Việc làm này gây ra những khó khăn lớn
trong ngắn hạn, tuy nhiên, về dài hạn, các ngân hàng có thể theo đuổi các kế
hoạch dài hạn của mình. Đi đầu là BIDV đã thực hiện thành công việc phân
loại nợ và trích lập dự phòng theo điều 7. Ngoài ra, một số ngân hàng vẫn
đang tích cực thực hiện xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhƣ ngân
61
hàng quân đội (MB) đã trình NHNN phê duyệt và thử nghiệm áp dụng vào
tháng 3/2008; ACB đã kí thỏa thuận tƣ vấn với Công ty Kiểm toán quốc tế
Ernst & Young để hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình.
(4) Hoạt động tích cực của các AMC
Năm 2001, chính phủ và NHNN ra các quyết định về việc thành lập Công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc các NHTM (AMC). Cho đến thời
điểm hiện tại, đa số ngân hàng đã thành lập AMC để phục vụ nhu cầu quản lý
nợ và khai thác tài sản, làm lành mạnh và minh bạch hóa tình hình tài chính
của Ngân hàng. Đồng thời, đảm bảo hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
an toàn và bền vững, tránh tình trạng nợ tồn đọng gây ảnh hƣởng xấu đến
hiệu quả hoạt động kinh doanh. Hoạt động của các AMC cũng đem lại những
thành công đáng kể tại các NHTM Việt Nam.
2.3.2.2. Những hạn chế còn tồn tại
(1) Hệ thống thông tin khách hàng chƣa hoàn thiện
Các thông tin về khách hàng không đƣợc cập nhật thƣờng xuyên, vừa chậm
vừa thiếu không đáp ứng đƣợc nhu cầu. Các kênh thông tin khác nhau nhƣ
phƣơng tiện thông tin đại chúng chỉ dừng ở mức chung chung không thể phản
ánh đƣợc thực trạng nội bộ. Ngoài ra, chƣa có sự trao đổi thông tin tích cực
với các Ngân hàng khác, các cơ quan có thể cung cấp thông tin khác nhƣ cơ
quan Thuế.
(2) Việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ chƣa đƣợc thực hiện nghiêm túc
Công tác kiểm toán nội bộ giữ một vai trò khá quan trọng trong quản lý kinh
doanh Ngân hàng nhƣng lại chƣa đƣợc coi trọng. Việc kiểm soát nội bộ có tác
dụng kiểm tra lại các hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín
62
dụng của Ngân hàng nói riêng (kiểm tra quá trình ghi chép sổ, lập các biểu,
báo cáo...) giúp kịp thời phát hiện những sai phạm của bản thân Ngân hàng,
của cán bộ tín dụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời, Ngân hàng nên
chú trọng công tác này.
(3) Việc kiểm tra, giám sát trƣớc, trong và sau khi vay vốn chƣa hiệu quả
- Chất lƣợng thẩm định và kiểm tra vốn sau khi cho vay chƣa cao. Vẫn có
trƣờng hợp cán bộ tín dụng cố tình định giá các TSĐB cao hơn giá trị thực
của nó để khách hàng có đủ điều kiện vay vốn.
- Hiểu biết của cán bộ tín dụng về các lĩnh vực mà khách hàng đang sử dụng
vốn còn hạn chế. Do vậy việc tƣ vấn cho khách hàng, việc kiểm tra trƣớc và
sau khi cho vay ít nhiều gặp khó khăn.
- Tình trạng gia hạn nợ dễ dãi, tạo cơ hội để khách hàng chậm trễ thực hiện
nghĩa vụ trả nợ.
- Các biện pháp áp dụng trong việc xử lý nợ quá hạn phát sinh còn chƣa
phong phú, đa dạng. Cần phải có thêm một số biện pháp khác để việc xử lý nợ
xấu đạt kết quả cao hơn.
(4) Quản lý hoạt động tín dụng giữa chi nhánh cấp1 và cấp 2 còn lỏng lẻo
Công tác quản lý hoạt động tín dụng giữa chi nhánh cấp 1 và cấp 2 chƣa chặt
chẽ. Bởi lẽ, trung ƣơng quản lý chi nhánh cấp 1 và ủy quyền cho chi nhánh
cấp 1 quản lý tín dụng xuống chi nhánh cấp 2. Điều này đã gây ra hàng loạt
bất cập:
+ chính sách quản lý giữa 2 chi nhánh không thống nhất.
+ chất lƣợng cán bộ tín dụng, lãnh đạo không đồng đều.
+ quy trình luân chuyển chứng từ trong các trƣờng hợp cho vay vƣợt
thẩm quyền chƣa đƣợc quy định rõ.
63
+ chất lƣợng tín dụng chƣa đƣợc kiểm soát chặt.
CHƢƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG VIỆC NGĂN
NGỪA VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƢỜNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
NGỪA VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI
Kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ Mỹ lan rộng
ra toàn thế giới, các nền kinh tế phải đƣơng đầu với rất nhiều khó khăn bắt
nguồn từ hệ thống ngân hàng, trong đó đáng kể nhất phải nói tới nợ xấu.
Nợ xấu ảnh hƣởng rất lớn đến chất lƣợng của một ngân hàng và tất
nhiên ảnh hƣởng của nợ xấu không chỉ dừng lại trong phạm vi ngân hàng. Sở
dĩ ngƣời ta phải quan tâm nhiều đến vấn đề nợ xấu của ngân hàng bởi nó có
ảnh hƣởng sâu rộng tới các doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất vốn
và rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Và khu vực NHTM yếu kém,
nhiều nợ xấu, dễ đổ vỡ có thể làm giảm tính hiệu quả của cơ chế thị trƣờng và
ảnh hƣởng xấu đến hiệu quả thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Một hệ
thống ngân hàng yếu kém, thiếu lành mạnh với mức nợ xấu cao không những
làm tổn hại các kênh vi mô cần thiết cho tăng trƣởng kinh tế mà còn là gánh
nặng lên ngân sách, gây tác động tiêu cực đến sự vận hành của hệ thống tỷ giá
hối đoái.
Nợ xấu có ảnh hƣởng khá lớn đến toàn bộ các thành phần kinh tế, việc
64
xử lý nợ xấu là biện pháp cần thiết trong giai đoạn này, giai đoạn hồi phục
của nền kinh tế hậu khủng hoảng.
Thêm nữa, gia nhập WTO, gia nhập sân chơi bình đẳng với sự có mặt
của các NHTM 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, các ngân hàng trong
nƣớc, đƣợc đánh giá là có tiềm lực tài chính yếu (tổng tài sản của ngân hàng
lớn nhất chƣa đến 15 tỷ USD, vốn tự có chƣa đến 550 triệu USD), trình độ
quản lý và trình độ công nghệ lạc hậu sẽ phải cạnh tranh tay ngang với những
ngƣời khổng lồ nhƣ CitiBank, HSBC, ANZ … có tổng tài sản hàng nghìn tỷ
USD và có cách thức quản lý, công nghệ ngân hàng hết sức hiện đại. Các
ngân hàng ngoại này luôn đạt đƣợc thành tích kinh doanh đáng nể, tỷ lệ nợ
xấu thấp (dƣới 1%), đang ngày càng phát triển mạng lƣới trên toàn quốc.
Chính vì thế, không còn cách nào khác, các ngân hàng trong nƣớc cần phải
củng cố ngay việc hoạt động kinh doanh của mình, cùng với nó là việc ngăn
ngừa, hạn chế và xử lý nợ xấu.
Về việc xử lý nợ xấu thì cần có giải pháp đồng bộ và hữu hiệu nhằm xử
lý tốt nợ xấu của NHTM. Việc xoá bỏ nợ xấu không chỉ là nhiệm vụ của riêng
hệ thống ngân hàng mà còn của cả nền kinh tế, nó không chỉ tuỳ thuộc vào
các biện pháp của ngân hàng trung ƣơng, NHTM, hay khách hàng vay mà còn
tuỳ thuộc vào cả một hệ thống pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh, một môi trƣờng
kinh tế thuận lợi.
3.2. CÁC BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG VIỆC NGĂN NGỪA VÀ
XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
3.2.1 Những biện pháp quản lý từ phía nhà nước
3.2.1.1. Đổi mới và hiện đại hóa hệ thống thu thập và xử lý thông tin tín
dụng
65
Các ngân hàng cần không ngừng đổi mới và hiện đại hóa hệ thống thu
thập và xử lý thông tin khách hàng, thông tin quản trị, đảm bảo cho lãnh đạo
ngân hàng cũng nhƣ cán bộ tín dụng có thể tiếp cận một cách nhanh chóng và
thuận lợi các nguồn thông tin đáng tin cậy, có hệ thống và luôn đƣợc cập nhật.
Trên cơ sở đó ra quyết định tín dụng và quản lý tài sản một cách phù hợp.
Trong thời gian tới, cần củng cố và phát triển hệ thống thông tin tín dụng của
ngân hàng, đảm bảo cơ cấu có đủ tầm gánh vác nhiệm vụ đƣợc giao bao gồm:
trung tâm thông tin tín dụng, bộ phận thông tin tại các chi nhánh ngân hàng,
các bộ phận thông tin khách hàng tại các TCTD khác.
Ngoài ra, để đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin cho quá trình ra quyết
định của các NHTM cũng nên có những cơ chế quy định cụ thể về việc thành
lập các Trung tâm tín dụng tƣ nhân, hay các tổ chức định mức tín nhiệm
chuyên nghiệp.
Tại một số quốc gia khác, trung tâm TTTD nhà nƣớc thông thƣờng do
NHNN thành lập với mục đích giám sát các ngân hàng là chính, còn trung
tâm TTTD tƣ nhân thƣờng đƣợc thành lập bởi các TCTD hay những thành
viên tham gia thị trƣờng tín dụng để giúp các thành viên chia sẻ thông tin tín
dụng vì mục đích an toàn kinh doanh. Các trung tâm TTTD nhà nƣớc có xu
hƣớng chỉ thu thập thông tin về các khoản vay giá trị lớn có thể có ảnh hƣởng
tổng thể đến nền kinh tế. Những thông tin mà họ thu thập là từ những tổ chức
tài chính thuộc quyền giám sát của NHNN, do đó thƣờng không bao gồm các
định chế tài chính phi ngân hàng đang rất phát triển nhƣ các công ty thuê
mua, công ty tài chính. Hơn nữa, trung tâm TTTD nhà nƣớc cũng chỉ cung
cấp TTTD hiện tại mà không cung cấp thông tin lịch sử thanh toán của ngƣời
vay.
66
Trong khi đó, trung tâm TTTD tƣ nhân thu thập thông tin trên phạm vu
rộng hơn nhiều, bao gồm cả những khoản vay của DNNN và cá nhân. Đặc
biệt, thông tin đƣợc lƣu giữ không chỉ giới hạn ở khoản vay lớn, trung tâm
TTTD tƣ nhân còn cung cấp thông tin về lịch sử thanh toán của ngƣời đi vay
và nhiều dịch vụ khác nhƣ công cụ xử lý đơn xin cấp tín dụng, hệ thống chấm
điểm tín dụng… Nhƣ vậy, trung tâm TTTD nhà nƣớc và tƣ nhân có mối quan
hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, cùng có tác dụng đẩy mạnh cho việc mở rộng tín
dụng, tạo sự công bằng cho ngƣời vay quy mô nhỏ dễ dàng tiếp cận các khoản
vay. Một tác dụng tích cực nữa của việc chia sẻ TTTD đối với bản than các
TCTD là góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu, giảm chi phí cho vay, từ đó mang
lại lợi nhuận cao hơn cho các TCTD.
Còn các tổ chức định mức tín nhiệm thì có thể cung cấp cho ngân hàng
bảng xếp hạng đánh giá các doanh nghiệp, làm căn cứ để ngân hàng xem xét
và quyết định đối tƣợng để cấp tín dụng.
3.2.1.2. Thắt chặt kỷ luật tài chính đối với các NHTMNN và DNNN
Việc các NHTMNN vẫn ƣu tiên cho các DNNN và Chính phủ vẫn còn
cứu giúp các ngân hàng này, việc cho vay theo chỉ thị với sự bảo lãnh của
Chính phủ luôn tiềm ẩn rủi ro tín dụng trong đó. Chừng nào vẫn còn rủi ro
đạo đức trong mối quan hệ giữa Chính phủ, các NHTMNN và các DNNN thì
chừng đó vấn đề nợ xấu vẫn không đƣợc giải quyết triệt để và luôn có xu
hƣớng nảy sinh trở lại. Việc Chính phủ thắt chặt kỷ luật tài chính đối với cả
ngân hàng quốc doanh và DNNN là điều thiết yếu để ngăn chặn sự lặp lại
vòng luẩn quẩn phát sinh và tích tụ nợ xấu.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng
theo hƣớng nâng cao chất lƣợng hệ thống cảnh báo sớm, nâng cao đòi hỏi kỹ
67
thuật trong việc trích lập DPRR. Đồng thời đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng, CPH gắn liền với niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán.
3.2.1.3. Tăng cường hoạt động của DATC để tập trung xử lý triệt để nợ xấu
tại các NHTM
Tuy ra đời từ năm 2001 nhƣng hoạt động của DATC chƣa đƣợc đánh
giá cao. Hệ thống pháp lý, chế tài cho hoạt động này vẫn còn thiếu, nên gặp
nhiều khó khăn. Nhà nƣớc nên đặt vấn đề xử lý nợ xấu thành một chƣơng
trình ở cấp quốc gia, vì nó sẽ giúp tăng tính thanh khoản cho ngân hàng, đẩy
nhanh đƣợc tiến trình cổ phần hóa. Thực tế hoạt động của DATC và các tổ
chức xử lý nợ tồn đọng thời gian qua cho thấy các cơ chế hiện hành vẫn chƣa
thực sự phù hợp. Các quy định áp dụng cho DATC hầu nhƣ không tạo quyền
ƣu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ
nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ.
Để hoạt động của DATC đạt hiệu quả cao và trở thành một tổ chức
mua bán nợ có đủ tầm xử lý triệt để các khoản nợ xấu trong hệ thống NHTM
nói riêng và trong nền kinh tế nói chung thì Chính phủ cần phải có một số
điều chỉnh nhƣ sau:
+ Điều chỉnh Quyết định 109/2003/QĐ-TTg để giải quyết vấn đề mâu
thuẫn về mục tiêu hoạt động giữa một bên là xử lý nợ xấu thúc đẩy CPH
NHTMNN với một bên là bảo toàn vốn và có lợi nhuận. Theo kinh nghiệm
của nhiều nƣớc trong khu vực, không quá đặt nặng vấn đề bảo toàn vốn và có
lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động chính cho tổ chức mua bán nợ này. Thay
vào đó, chỉ yêu cầu các tổ chức này phải tối đa hóa giá trị thu hồi để giảm
thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chƣơng
trình xử lý nợ tồn đọng. Cơ chế mới cần quy định trách nhiệm xử lý nhanh và
68
hiệu quả nợ xấu với mục tiêu ƣu tiên hàng đầu là lành mạnh hóa hệ thống tài
chính, thúc đẩy CPH song trên cơ sở các nguyên tắc của thị trƣờng để tối đa
hóa giá trị thu hồi nhằm giảm gánh nặng chi phí cho Chính phủ.
+ Tăng vốn điều lệ và có những chế tài đặc biệt để tạo quyền ƣu đãi đặc
biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra
không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ.
3.2.1.4. Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện các văn bản pháp lý về quyền sở
hữu tài sản, các văn bản liên quan đến xử lý TSĐB và quyền sử dụng đất
Hiện nay, việc cung cấp các văn bản pháp lý về quyền sở hữu tài sản đã
đƣợc quan tâm. Tuy nhiên, để có đƣợc một văn bản đó, chủ sở hữu cũng gặp
phải vô số phiền nhiễu vì các thủ tục và sự chậm trễ của cơ quan chức năng.
Do vậy cần tạo điều kiện, đẩy nhanh quá trình hoàn thiện các văn bản pháp lý
này.
Sự điều chỉnh này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong việc
phát mại TSĐB để xử lý nợ. Nợ có liên quan đến các vụ án, TSĐB đã đƣợc
tuyên giao cho ngân hàng nhƣng cơ quan Nhà nƣớc vẫn không công chứng
quyền sở hữu tài sản do TSĐB không đủ giấy tờ về quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng, giá trị định giá quá cao so với thị trƣờng. Ngoài ra, TSĐB đƣợc bàn
giao, siết nợ rất khó bán, hoặc không bán đƣợc, hoặc có bán cũng không thu
hồi đủ nợ do TSĐB không hội tụ đủ các yếu tố pháp lý.
Xử lý TSĐB cũng là một trở ngại đối với ngân hàng khi họ chƣa đƣợc
tự phát mại tài sản, nhất là khi khách hàng không hợp tác và các cơ quan chức
năng nhiều khi chƣa hỗ trợ một cách hiệu quả. Hay khi bán tài sản trên đất
của DNNN, chính quyền địa phƣơng thƣờng tịch thu quyền sử dụng đất đó và
chuyển vào NSNN, không dùng để trả ngân hàng. Nghị định 178/1999/NĐ-
69
CP nên sửa đổi theo hƣớng ngân hàng đƣợc tự bán TSCĐ, không phụ thuộc
cơ quan chức năng và cho ngân hàng cơ chế đặc biệt để hoàn thiện thủ tục
pháp lý khi bán TSĐB.
Việc xử lý TSĐB là quyền sử dụng đất phải linh hoạt, phù hợp với tình
hình thực tế nhằm đảm bảo lợi ích của các bên, trong đó, chú trọng giải phóng
nhanh TSĐB, tạo điều kiện cho các TCTD duy trì hoạt động. Trƣờng hợp các
bên liên quan không thỏa thuận đƣợc với nhau trong quá trình xử lý TSĐB là
quyền sử dụng đất thì phải thông qua tổ chức bán đấu giá chuyên trách. Tuy
nhiên, không nhất thiết bất cứ trƣờng hợp nào cũng phải thông qua tổ chức
này vì nhƣ vậy vừa hạn chế khả năng tự xử lý, vừa phát sinh thêm nhiều thủ
tục, kéo dài thời gian, tốn kém chi phí.
3.2.1.5. Thiết lập, ban hành quy định cụ thể hơn về phân loại và trích lập
DPRR làm cơ sở pháp lý cho các NHTM.
Sau một thời gian thực hiện, Quyết định 493 và Quyết định 18 đã bộc
lộ một số những nhƣợc điểm cơ bản cần đƣợc chỉnh sửa. Hai văn bản này
chƣa phân loại nợ, trích lập dự phòng đầy đủ với các khoản mục Tài sản “Có”
có phát sinh rủi ro tín dụng; hầu hết các tổ chức tín dụng thực hiện phân loại
nợ theo phƣơng pháp định lƣợng đều có tỷ lệ nợ xấu dƣới 3%. Tuy nhiên, các
tổ chức tín dụng chƣa có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ việc
phân loại nợ và quản lý chất lƣợng tín dụng. Điều này cho thấy kết quả phân
loại nợ chƣa phản ánh đúng chất lƣợng nợ của các tổ chức đó.
Mặt khác, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ quy định tại Quyết định
493 mới chung chung, không cụ thể, do đó các tổ chức tín dụng khi xây dựng
gặp nhiều khó khăn; mức độ hoàn thành và chất lƣợng của hệ thống xếp hạng
chƣa tốt; đồng thời việc quản lý của cơ quan quản lý Nhà nƣớc đối với việc
các TCTD phân loại nợ theo Điều 7 Quyết định 493 gặp nhiều khó khăn,
70
không thống nhất.Với những hạn chế trên, việc ban hành một văn bản mới
thay thế Quyết định 493 và Quyết định 18 là cần thiết.
Văn bản mới này sẽ thống nhất phƣơng pháp, nội dung quản lý chất
lƣợng tín dụng, phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong
toàn hệ thống TCTD trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Thông tƣ này cần đƣợc xây dựng trên cơ sở tiếp thu, áp dụng những kinh
nghiệm tốt nhất của các nƣớc, phù hợp điều kiện Việt Nam; cũng nhƣ phản
ánh chính xác hơn chất lƣợng tín dụng, nợ xấu của từng TCTD và của cả hệ
thống TCTD để có chính sách, cơ chế quản lý phù hợp. Cụ thể:
+ Cần thống nhất một phƣơng pháp đánh giá chất lƣợng tín dụng trên
cơ sở kết hợp đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng theo hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ và đánh giá thực tế tại các thời điểm đánh giá, phân loại.
+ Phải có hƣớng dẫn cụ thể các bƣớc trong quy trình đánh giá, xếp
hạng khách hàng để thống nhất thực hiện, trong đó quy định một số chỉ tiêu
với các trọng số đánh giá cụ thể để phục vụ cho công tác quản lý. Các chỉ tiêu
và trọng số đánh giá đƣợc xác định dựa trên kết quả thống kê, khảo sát số liệu
của một số TCTD đƣa vào chạy mô hình toán để xác định.
+ Trên cơ sở hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, yêu cầu TCTD xây
dựng quy định nội bộ về quản lý chất lƣợng tín dụng, chính sách tín dụng để
quản lý trong suốt quá trình từ khi thẩm định, xét duyệt, cấp tín dụng đến
khâu kiểm tra, kiểm soát trong quá trình giải ngân, sau khi cấp tín dụng cũng
nhƣ việc quản lý TSĐB; chính sách dự phòng rủi ro để quản lý quá trình phân
loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro và việc phát mại TSĐB;
việc phân cấp, ủy quyền và xác định quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ
phận, cá nhân có liên quan trong suốt các quá trình này.
+ Đảm bảo ở mức tối đa khách hàng giống nhau phải đƣợc quản lý
giống nhau, từ thẩm định, xét duyệt, cấp tín dụng, hồ sơ tín dụng đến quy
trình đánh giá, xếp hạng, phân loại nợ, trích lập dự phòng, sử dụng dự phòng
71
để xử lý rủi ro; giữa các tổ chức tín dụng đều thống nhất việc đánh giá, xếp
hạng, phân loại nợ, trích dự phòng, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.
3.2.1.6. Hoàn thiện hoạt động giám sát của NHNN đối với các NHTM
Hiện nay, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, đƣợc thành lập theo
Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ đã
đi vào hoạt động. Tuy nhiên các nội dung về hoạt động giám sát vẫn còn
nhiều vấn đề cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu để từng bƣớc hoàn thiện.
- Cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân
hàng của NHNN nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ một chu trình gồm 4 khâu:
Cấp phép; Ban hành quy chế; Thực hiện giám sát (giám sát từ xa và thanh tra
tại chỗ); Xử phạt và thu hồi giấy phép. Mục đích đảm bảo sự nhất quán và
nâng cao hiệu lực của hoạt động giám sát.
- Đổi mới phƣơng pháp giám sát theo CAMELS. Theo cách này, thanh
tra viên sữ xếp hạng từng ngân hàng thành 5 nhóm theo các tiêu chí nhƣ: tính
đủ vốn, chất lƣợng tài sản có, chất lƣợng quản lý và hoạt động, thu nhập, tính
thanh khoản, độ nhạy với rủi ro. Đây đƣợc coi là cầu nối để giúp NHNN Việt
Nam chuyển đổi phƣơng pháp giám sát theo hƣớng tiến tới phƣơng pháp
giám sát dựa trên rủi ro.
- Hoàn thiện quy trình giám sát với sự kết hợp của hai bộ phận chính là
giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của Cơ quan Thanh tra, giám sát của
NHNN.
- Đào tạo cán bộ giám sát có chuyên môn và đội ngũ kế cận.
3.2.1.7. Cần kiểm soát chặt chẽ, tăng cường trách nhiệm trong việc cấp
giấy phép thành lập và đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp sao cho phù
hợp với năng lực thực tế của doanh nghiệp đó.
72
Một trong những khó khăn cản trở lớn đối với hoạt động cho vay của
Ngân hàng là sự không phù hợp giữa năng lực, trình độ, chức năng, phạm vi
kinh doanh thực tế của doanh nghiệp với những thông tin trên đăng ký kinh
doanh. Nhiều doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh đƣợc Nhà nƣớc
cấp giấy phép thành lập và cho đăng ký kinh doanh với chức năng, nhiệm vụ
vƣợt quá năng lực tài chính, trình độ kỹ thuật và trình độ sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp Nhà nƣớc vốn tự có rất nhỏ bé, TSCĐ thƣờng là nhà
xƣởng, máy móc thiết bị lạc hậu, không đủ tiêu chuẩn để thế chấp. Trong khi
đó, chức năng nhiệm vụ trong giấy phép kinh doanh rất lớn, yêu cầu vay vốn
của nhiều khách hàng thƣờng gấp 20 - 50 lần vốn tự có thực tế. Nhƣ vậy nếu
cho vay theo đúng chế độ thì hầu hết các doanh nghiệp Nhà nƣớc đều không
đủ điều kiện vay vốn hoặc đƣợc cho vay không đáng kể. Nếu Ngân hàng cứ
tiếp tục cho vay, khả năng xảy ra rủi ro đối với khoản cho vay là rất lớn, và
nếu rủi ro xảy ra, Ngân hàng sẽ vi phạm tội cố ý làm trái quy định hoặc thiếu
tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Vì vậy, vấn đề cần đặt ra đối với Nhà nƣớc, các cơ quan bộ ngành có
chức năng là phải điều chỉnh cơ chế, chính sách trên cơ sở nghiên cứu kỹ
những tồn tại thực tế, tạo cơ sở giúp đỡ Ngân hàng có một giải pháp khả thi
trong quản lý tín dụng, đáp ứng yêu cầu tăng cƣờng phát triển kinh tế và đảm
bảo chất lƣợng, an toàn tín dụng. Cụ thể:
+ Cần quy định rõ chỉ có một cơ quan Nhà nƣớc duy nhất có thẩm
quyền cấp giấy phép thành lập, giấy phép đăng ký kinh doanh cho doanh
nghiệp. Cơ quan cấp giấy phép phải chịu trách nhiệm về tƣ cách pháp nhân,
vốn tự có thực tế, năng lực trình độ của doanh nghiệp đó.
+ Giấy phép kinh doanh và quy mô hoạt động phải phù hợp với vốn sở
hữu và năng lực, trình độ quản lý thực tế của doanh nghiệp.
3.2.1.8. Nhà nước cần có biện pháp đảm bảo môi trường kinh tế ổn định,
73
góp phấn đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng cấp cho nền kinh tế
Về lãi suất nợ quá hạn:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN, mức lãi suất áp dụng đối với khoản
nợ gốc quá hạn do TCTD ấn định và thỏa thuận với khách hàng trong hợp
đồng tín dụng nhƣng không vƣợt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong
thời hạn cho vay đã đƣợc ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
Nhƣ vậy,một khách hàng gặp khó khăn không trả đƣợc nợ đúng hạn có
thể cùng NHTM tuỳ theo mức độ rủi ro và các yếu tố khác của từng khoản
vay mà quyết định lãi suất NQH phù hợp với từng khoản vay nhằm thu hồi
nhanh nhất và đầy đủ nhất các khoản cho vay phát sinh NQH, hạn chế tối đa
rủi ro. Nhƣng mức lãi suất NQH đƣợc xác định căn cứ dựa trên mức quy định
của thống đốc NHNN tại thời điểm kí kết hợp đồng tín dụng. Mặc dù hiện nay
các ngân hàng đang áp dụng quy chế mới là thực hiện hợp đồng tín dụng với
khách hàng dựa trên lãi suất thoả thuận với nhau. Vậy mà lãi suất làm căn cứ
để xác định mức lãi suất NQH lại không đƣợc điều chỉnh với mức lãi suất
thoả thuận đã đƣợc thực hiện mà phải căn cứ vào mức lãi suất từ khi kí kết
hợp đông tín dụng. Do đó, cần thay đổi quy định này nhằm tránh những bất
hợp lí khi có những biến động lớn về lãi suất cho ngân hàng và khách hàng.
Quy đinh mới phải thể hiện đƣợc lãi suất làm căn cứ xác định lãi suất NQH là
mức lãi suất hai bên đang áp dụng đối với khoản vay tại thời điểm chuyển
sang NQH. Có nhƣ vậy, việc áp dụng lãi suất NQH mới có ý nghĩa.
Về thời gian gia hạn nợ
Việc gia hạn nợ vay thực hiện theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
về thời gian gia hạn nợ. Theo đó, TCTD đƣợc cho khách hàng gia hạn thêm
thời gian. Đối với vay ngắn hạn thời gian tối đa là 12 tháng, đối với cho vay
74
trung hạn và dài hạn thời gian gia hạn nợ tối đa bằng 1/2 thời gian cho vay đã
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Việc quy định này là khá cứng nhắc
không tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý một số trƣờng hợp phát sinh từ thực
tiễn đòi hỏi phải có sự quy định linh hoạt trong chính sách nhƣ trƣờng hợp
khách hàng bị thua lỗ trong 2, 3 năm do các nguyên nhân bất khả kháng.
Về thời hiệu khởi kiện:
Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 6 tháng với hoạt động
ngân hàng là quá ngắn vì các khoản nợ vay của khách hàng khi đáo hạn chƣa
trả cho ngân hàng, ngân hàng thƣờng phải thƣơng lƣợng với khách hàng để
tìm ra giải pháp tốt nhất để thu nợ, tránh phải đƣa ra kiện tụng tranh chấp
trƣớc toà án, do đó đã mất một khoảng thời gian dài. Nếu khách hàng biết
đƣợc quy định này, cố tình không xác nhận trong thời gian 6 tháng thì ngân
hàng không thể khởi kiện do hết thời hiệu khởi kiện, nên quyền lợi chính
đáng của ngân hàng không đƣợc bảo vệ. Do vậy thời hiệu khởi kiện đối với
tranh chấp liên quan đến hoạt động ngân hàng nên đƣợc kéo dài.
3.2.2. Các biện pháp quản lý từ phía các NHTM
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng
Trong công tác tín dụng, thông tin là yếu tố đóng vai trò quyết định
giúp cho Ngân hàng ra quyết định có đầu tƣ hay không. Các thông tin từ phía
khách hàng cung cấp nhiều khi lại thiếu đầy đủ, chính xác, do vậy cán bộ tín
dụng không thể chỉ dựa vào các luồng thông tin do khách hàng cung cấp trong
dự án mà cần phải nắm bắt, xử lý các thông tin về mọi vấn đề liên quan đến
phƣơng án, dự án từ nhiều nguồn khác nhau.
Bên cạnh việc sử dụng hệ thống Thông tin tín dụng CIC thì các ngân
hàng thƣơng mại cần phải năng động trong việc tìm hiểu nắm bắt đƣợc các
75
thông tin chính xác của khách hàng thông qua các biện pháp nhƣ:
- Phỏng vấn người xin vay
Qua phỏng vấn ngƣời xin vay, cán bộ Ngân hàng biết đƣợc lý do xin vay và
biết đƣợc yêu cầu xin vay có đáp ứng đƣợc các đòi hỏi khác nhau của Ngân
hàng hay không. Nhờ đó cán bộ Ngân hàng cũng có đƣợc những ý tƣởng nào
đó về tính thật thà của ngƣời vay, thông tin về sự phát triển ngành kinh doanh,
cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, nguồn nguyên liệu, lợi thế cạnh tranh, kế
hoạch cho tƣơng lai. Ngoài ra cán bộ tín dụng có thể yêu cầu bổ sung những
thông tin tài chính cần thiết phục vụ cho việc phân tích tín dụng.
- Điều tra tại nơi hoạt động kinh doanh của người vay
Các doanh nghiệp xin vay phải cho phép cán bộ tín dụng đến thăm nơi hoạt
động sản xuất kinh doanh của họ. Một nhân viên tín dụng có trình độ sẽ biết
đƣợc nhiều thông tin đáng kể về mức độ phát triển và trình độ quản lý của
doanh nghiệp thông qua tài sản của họ và phỏng vấn các viên chức quản lý.
Qua chuyến thăm, cán bộ tín dụng sẽ xem xét tổ chức bộ máy quản lý, cơ cấu
hoạt động, hệ thống dây chuyền sản xuất, phƣơng pháp sản xuất kinh doanh,
kho dự trữ của khách hàng. Với doanh nghiệp sản xuất thì trang thiết bị và sơ
đồ sản xuất đƣợc chú trọng nhất, với doanh nghiệp bán lẻ thì hoạt động nhộn
nhịp nói lên sức mạnh của doanh nghiệp. Qua việc tham quan, cán bộ tín
dụng có điều kiện kiểm tra lại những thông tin thu thập đƣợc qua phỏng vấn
và thu thập đƣợc từ những nguồn khác.
- Lấy nguồn thông tin từ Ngân hàng bạn
Thƣờng một doanh nghiệp quan hệ với nhiều bạn hàng, với mỗi Ngân hàng
doanh nghiệp phải cung cấp một số lƣợng thông tin nhất định tuỳ theo yêu
cầu của Ngân hàng. Vì vậy, để tìm hiểu sâu thêm và có cái nhìn tổng thể về
doanh nghiệp các NHTM có thể thu thập thông tin từ Ngân hàng bạn.
- Nguồn thông tin từ các cáo báo tài chính
Hầu hết các khách hàng đều phải cung cấp cho Ngân hàng các báo cáo tài
76
chính, đặc biệt nếu khối lƣợng xin vay tƣơng đối lớn. Các báo cáo tài chính
doanh nghiệp phải cung cấp cho Ngân hàng bao gồm: bảng tổng kết tài sản,
bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ. Ngoài
ra tuỳ theo yêu cầu của Ngân hàng mà doanh nghiệp phải cung cấp thêm các
báo cáo về tình hình công nợ, ngân quỹ.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là độ trung thực của các báo cáo này, Ngân
hàng thƣờng xuyên yêu cầu các báo cáo tài chính phải có xác nhận của cơ
quan kiểm toán, tuy nhiên trong nhiều trƣờng hợp doanh nghiệp có thể cung
cấp những số liệu chƣa đƣợc kiểm toán. Lẽ dĩ nhiên là những thông tin này có
độ trung thực không cao.
- Nguồn thông tin khác
Để có đƣợc các thông tin về cung, cầu của sản phẩm trên thị trƣờng, chính
sách phát triển sản phẩm, phát triển ngành của chính phủ, Ngân hàng phải thu
thập thông tin từ các nguồn khác nhƣ:
+ Các bộ chủ quản, bộ chức năng: cung cấp cho Ngân hàng lƣợng cung
cầu, xu hƣớng phát triển ngành, thông tin về sản phẩm đó.
+ Tạp chí, sách báo…
Sau khi thu thập đầy đủ thông tin, cán bộ tiến hành xem xét chọn lọc thông tin
để chuẩn bị cho việc phân tích và xử lý thông tin.
Mặt khác, tổ chức lƣu trữ, thu thập các thông tin về thị trƣờng, thông
tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin chấm điểm và xếp hạng
tín dụng khách hàng,… dựa trên việc sử dụng các phần mềm tin học. Đây sẽ
là căn cứ để đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn và nâng cao khả
năng, tốc độ xử lý, ra quyết định cho vay và đầu tƣ.
3.2.2.2. Cải cách bộ máy tín dụng và quyền hạn của cán bộ
Hiện nay hầu hết các NHTM ở Việt Nam đều gặp phải các vƣớng mắc
về cơ cấu. Bộ máy tổ chức quá cồng kềnh, tuy nhiên hoạt động không có hiệu
77
quả. Do vậy, cần tiến hành cải cách bộ máy tín dụng hoạt động theo thông lệ
quốc tế về quản trị rủi ro tín dụng. Tách các chức năng tiếp thị, quan hệ khách
hàng, thẩm định rủi ro độc lập, quyết định tín dụng và quản lý nợ cùng với
việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đảm bảo tính độc lập, khách quan.
Thực hiện sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ, thƣờng xuyên của cán bộ các
cấp liên quan tới cấp tín dụng và bộ phận kiểm tra và giám sát tín dụng độc
lập. Có nhƣ vậy thì công tác tín dụng mới hoạt động trôi chảy, hiệu quả, từ đó
làm giảm phát sinh nợ xấu.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Yếu tố con ngƣời luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự
thành bại của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động
tín dụng thì yếu tố con ngƣời lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết
định đến chất lƣợng tín dụng, chất lƣợng dịch vụ và hình ảnh của NHTM và
từ đó quyết định đến hiệu quả tín dụng của Ngân hàng. Bởi vậy, cần dành một
quỹ thời gian để hƣớng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dƣỡng kiến thức về chuyên
môn nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thƣơng
thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn
hoá cán bộ tín dụng và kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác
những cán bộ yếu về tƣ cách đạo đức, thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng
thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
3.2.2.4. Khuyến khích khách hàng vay vốn mở tài khoản tại ngân hàng
Thông qua những thay đổi trong tài khoản của khách hàng, ngân hàng
có thể dễ dàng theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng, do vậy, ngân hàng nên khuyến khích khách hàng mở tài khoản giao
dịch tại ngân hàng mình. Từ đó, ngân hàng có thể sớm phát hiện ra những dấu
78
hiệu không tốt trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, để từ đó có những
biện pháp cụ thể để đề phòng, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Đồng
thời, thông qua việc khách hàng sử dụng các phƣơng tiện thanh toán mà ngân
hàng cung cấp, ngân hàng có thể hiểu đƣợc nhu cầu của khách hàng để không
ngừng cải tiến nâng cao chất lƣợng và sự phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh
của khách hàng về các dịch vụ này.
3.2.2.5. Kiểm tra chặt chẽ quá trình trước, trong và sau khi cho vay để kịp
thời có biện pháp xử lý nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích
Ngân hàng nghiêm chỉnh thực hiện quy trình tín dụng, tăng cƣờng hoạt
động thanh tra, kiểm tra trƣớc, trong và sau khi cho vay, đảm bảo nắm bắt
theo dõi đúng tình hình sử dụng vốn của khách hàng để có biện pháp cụ thể
nhằm hạn chế phát sinh nợ xấu.
Kiểm tra trƣớc khi cho vay bao gồm kiểm tra các điều kiện vay vốn của
khách hàng nhƣ hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, nhu cầu vay, mục đích vay
vốn.
Kiểm tra trong khi cho vay giúp cán bộ tín dụng cho vay đúng đối
tƣợng, nhu cầu vay của khách hàng.
Kiểm tra sau khi cho vay: sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng cần kiểm
tra xem khách hàng có sử dụng tiền vay đúng mục đích đề nghị vay hay
không, theo dõi để phát hiện sớm những khoản vay có vấn đề.
3.2.2.6. Hoàn thành xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo
chuẩn quốc tế.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là nền tảng cốt yếu đầu tiên để triển
khai các công cụ quản trị theo chuẩn mực quốc tế. Theo đó định kỳ (hàng
79
quý) các khách hàng sẽ đƣợc đánh giá và xếp vào 1 hạng nào đó, ví dụ là AA,
BB+ hay CCC. Căn cứ kết quả xếp hạng tín dụng này, ngân hàng sẽ phân loại
toàn bộ dƣ nợ của khách hàng vào 1 nhóm nợ, ví dụ nếu là AA thì phân vào
nhóm 1, nếu là CC thì phân vào nhóm 3.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là phƣơng pháp đánh giá định
lƣợng, toàn diện và nhất quán về tình trạng tài chính, khả năng trả nợ của
khách hàng, trên cơ sở chấm điểm rất nhiều chỉ tiêu tài chính và phi tài chính,
đánh giá về các thông số tài chính, triển vọng kinh doanh, triển vọng ngành,
chất lƣợng quản lý nội bộ... của khách hàng. Nội dung chỉ tiêu và thang điểm
đƣợc xây dựng trên cơ sở số liệu thống kê thực tế của rất nhiều khách hàng, ý
kiến của các chuyên gia... nên đảm bảo tính khoa học, đánh giá sát thực và
quan trọng là có tính dự báo cao.
Áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng theo chuẩn quốc tế sẽ giúp các
NHTM chủ động quản lý chất lƣợng danh mục tín dụng của mình. Đây chính
là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của ngân hàng.
3.2.2.7. Khi khách hàng có dấu hiệu phát sinh nợ xấu, phải tìm hiểu
nguyên nhân để có giải pháp thích hợp.
- Phân tích thực trạng các món NQH, nợ tiềm ẩn rủi ro và nợ đã đƣợc
xử lí rủi ro để từ đó đánh giá đƣợc khả năng thu hồi nợ thông qua phân tích
nợ có đảm bảo, không đảm bảo, thực trạng tài sản thế chấp có thể xử lí thu
hồi nợ, phƣơng án xử lí vận dụng các giải pháp, chính sách của các ban ngành
liên quan trong việc xử lí nợ tồn đọng.
- Quan hệ chặt chẽ với các cấp uỷ, chính quyền địa phƣơng, các ban
ngành chức năng có liên quan trong việc cho vay, thu nợ, xử lí nợ, xử lí
TSĐB.
- Tiếp tục chuyển NQH của các món vay cũ không có khả năng trả nợ
80
để xử lí rủi ro.
Thực tế có những trƣờng hợp khách hàng bắt đầu gặp khó khăn nhƣng
đã đƣợc phát hiện kịp thời, có biện pháp xử lý ngay từ đầu nhƣ quản lý kho
hàng, kho nguyên vật liệu, phong toả tài sản, tiến hành khởi kiện sớm nên khả
năng thu hồi nợ rất cao do máy móc thiết bị lúc này còn đang hoạt động có
giá hơn lúc đã bị bỏ hoang.
3.2.2.8. Đa dạng hoá biện pháp xử lý nợ xấu
Ngoài các biện pháp xử lý nợ xấu thông thƣờng, vẫn đang đƣợc áp
dụng thƣờng xuyên tại các NHTM nhƣ trích quỹ DPRR để bù đắp, thanh lý
TSĐB, tài sản thế chấp,… các NHTM có thể tăng cƣờng việc sử dụng các
biện pháp khác. Có thể kể đến nhƣ:
- Bán các khoản nợ xấu cho AMC và các nhà đầu tư nước ngoài
Việc các NHTM bán đứt khoản nợ xấu cho các công ty mua bán nợ là một
giải pháp hữu hiệu trong việc xử lý nợ xấu, làm trong sạch bảng cân đối của
các ngân hàng. Khi đó, các ngân hàng có thể tập trung vào hoạt động kinh
doanh của chính mình với mục tiêu duy nhất là lợi nhuận và gia tăng giá trị
doanh nghiệp.
- Chuyển nợ thành vốn góp
Đối với những khoản nợ tồn đọng vẫn còn đối tƣợng thu hồi ngân hàng
cũng có thể chuyển nợ thành vốn góp vào doanh nghiệp và đƣợc chuyển
nhƣợng phần vốn góp này. Ngoài ra, căn cứ vào thực trạng và khả năng trả nợ
của doanh nghiệp, ngân hàng đƣợc cơ cấu lại nợ bằng các hình thức: dãn nợ,
miễn lãi suất hoặc cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tƣ thêm.
- Biện pháp nuôi nợ:
Đó là việc ngân hàng tiếp thêm vốn để giúp khách hàng vƣợt qua giai
81
đoạn khó khăn tài chính tạm thời. Trong những trƣờng hợp này, việc ngân
hàng tiếp tục tài trợ thêm cho khách hàng đã giúp khách hàng của mình ổn
định lại tình hình tài chính, sẽ góp phần làm lành mạnh hoá khoản nợ.
- Xử lí nợ bằng đồng tài trợ:
Có một số khoản nợ xấu vƣợt khả năng của một ngân hàng để giải
quyết, do vậy mà cần có sự phối hợp giữa các ngân hàng theo dạng đồng tài
trợ để xử lý nợ .Việc các ngân hàng tham gia đồng tài trợ hay hợp vốn để xử
lí nợ xấu tạo ra thế mạnh nhƣ: mỗi ngân hàng có hệ thống khách hàng quen
thuộc, có lĩnh vực am hiểu tƣờng tận hay nói cách khác là có thế mạnh riêng.
Do vậy, việc đồng tài trợ sẽ tập trung và bổ sung cho nhau thế mạnh, hạn chế
mặt yếu, tạo sự kiểm soát đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, bổ sung
nghiệp vụ và học hỏi lẫn nhau về nghiệp vụ.
3.2.2.9. Tách bạch giữa cho vay theo chỉ thị và cho vay thương mại trong
hoạt động tín dụng của các NHTMNN
Các DNNN luôn là khách hàng lớn nhất của hệ thống ngân hàng cho dù
tỷ trọng tín dụng ngân hàng dành cho khu vực này đang giảm dần. Vấn đề ở
đây là trong khi nhiều DNNN liên tục hoạt động thua lỗ và không có khả
năng trả nợ thì vẫn đƣợc vay tiền từ các NHTM quốc doanh không cần thế
chấp. Điều này dẫn đến nợ của các DNNN này ngày càng trầm trọng, đặt hệ
thống ngân hàng lâm vào tình trạng nguy hiểm nếu không có sự can thiệp tài
chính của nhà nƣớc.
Việc quản lý các NHTM quốc doanh đƣợc các chuyên gia đánh giá là
nhƣợc điểm lớn nhất của NHNN Việt Nam hiện nay. Chúng cần đƣợc điều
hành bởi một ban giám đốc chuyên nghiệp thay vì một bộ phận của Chính
phủ hoặc NHNN. Bởi lẽ nếu duy trì nhƣ hiện nay tức là tiếp tục duy trì xung
82
đột lợi ích bởi ngƣời lãnh đạo ngân hàng vừa là đại diện chủ sở hữu, vừa là cơ
quan điều tiết tài chính.
Kiểm soát và xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam luôn là vấn đề
đƣợc Nhà nƣớc và các ngân hàng quan tâm hàng đầu. Trên đây là một số giải
pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt
Nam. Tuy nhiên, để thực hiện những biện pháp đó một cách có hiệu quả, cần
phải có sự gắn kết chặt chẽ không chỉ của tất cả các ngân hàng mà là của tất
cả các thành phần kinh tế xã hội.
83
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trƣờng đầy rẫy sự rủi ro hiện nay thì hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là một họat động chứa đựng nhiều rủi ro
nhất. Do đó việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một công
việc tuy rất phức tạp nhƣng lại mang nhiều ý nghĩa quan trọng cho hoạt động
ngân hàng.
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những kết luận sau:
Thứ nhất, NHTM là tổ chức kinh doanh vốn – tiền thông qua việc vay
và cho vay. Cũng chính trong hoạt động cho vay của ngân hàng đã làm phát
sinh nợ xấu, nhƣ một rủi ro tất yếu của nghiệp vụ tín dụng. Nợ xấu gây ảnh
hƣởng không tốt cho cả khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế. Do đó, việc
ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nợ xấu là việc làm hết sức cần thiết.
Thứ hai, trƣớc 2000, vấn đề nợ xấu tại các NHTM nƣớc ta thực sự là
một vấn đề nhức nhối. Nhận thức đƣợc việc đó, thông qua rất nhiều các chính
sách vi mô, vĩ mô, các NHTM cùng với Nhà nƣớc đã từng bƣớc giải quyết
vấn đề này. Các biện pháp đƣợc áp dụng tuy vẫn còn những hạn chế, nhƣng
cho đến nay, việc xử lý nợ xấu cũng đã có những thành công nhất định.
Thứ ba, nợ xấu vẫn sẽ luôn tồn tại song song với hoạt động của ngân
hàng, mục tiêu không phải xóa sổ nợ xấu, làm cho nó biến mất hoàn toàn, mà
cần ngăn ngừa hạn chế và xử lý nợ xấu. Do vậy, cần có những biện pháp củng
cố, tăng cƣờng khả năng hạn chế, xử lý nợ xấu. Khóa luận đề cập một số giải
pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế nợ xấu trong hoạt động tín dụng.
Do thời gian nghiên cứu và trình độ chuyên môn còn hạn chế nên đề tài
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong sự đóng góp ý
kiến từ phía thầy cô và bạn bè để đề tài có thể hoàn thiện hơn./.
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. ThS. Nguyễn Thị Minh Huệ (2009), “Hoàn thiện hoạt động giám sát của
NHNN đối với NHTM”, Tạp chí ngân hàng (22).
2. Lê Văn Hùng (2007), “Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng – nhìn
từ góc độ đạo đức”, Tạp chí ngân hàng (16).
3. TS. Nguyễn Minh Kiều (2008), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB
Thống kê.
4. ThS. Bùi Thị Loan (2006), “Tăng cƣờng thông tin tín dụng hỗ trợ việc áp
dụng các chuẩn mực quốc tế về đánh giá, phân loại nợ của các TCTD”, Tạp
chí ngân hàng (5).
5. TS. Nguyễn Nhƣ Minh (2008), “Phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập”, Hội thảo Đổi mới và phát triển ngân hàng
Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tháng 9/2008.
6. Frederic S. Mishkin (2006), Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
7. PGS. TS. Lê Hoàng Nga (2006), “Nợ xấu của NHTMNN Việt Nam: Cách
nhìn trực diện”, Tạp chí thị trường Tài chính tiền tệ, tháng 10/2006.
8. Thảo Nguyên (2005), “Bàn về xử lý nợ tồn đọng tại Việt Nam”, Tạp chí tài
chính, tháng 8/2005.
9. Quốc Khánh, “Ngân hàng và nỗi lo nợ xấu”, Báo điện tử - Thời báo Kinh tế
Việt Nam.
10. Đoàn Ngọc Phúc (2006), “Những hạn chế và thách thức của hệ thống
NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí nghiên cứu kinh
tế, (337).
11. TS. Hoàng Xuân Quế (2007), “Nợ xấu của NHTM Việt Nam chƣa đƣợc
85
phản ánh đúng thực chất”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo ngân hàng, (64).
12. Peter S. Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính,
Hà Nội.
13. Văn Tạo (2009), “Tổng quan ngành ngân hàng Việt Nam sau hai năm gia
nhập WTO”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo ngân hàng, (80 + 81).
14. TS. Đỗ Thị Thủy, “Nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong
điều kiện mới”, Hội thảo khoa học của học viện Tài chính, tháng 8/2007.
15. PGS. TS. Phạm Quang Trung (2005), “Kiểm soát nợ khó đòi nhìn từ góc
độ ngân hàng”, Tạp chí ngân hàng, (4).
16. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2005), Kỷ yếu hội thảo Tái cơ cấu các
ngân hàng thương mại nhà nước: Thực trạng và triển vọng, NXB Phƣơng
Đông, Hà Nội.
17. Luật các Tổ chức tín dụng, số 07/1997/QH10.
18. Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng, số
20/2004/QH11.
19. Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, số 06/1997/QH10.
20. Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt
Nam, số 10/2003/QH11.
21. Nghị định 163/2006/NĐ – CP về giao dịch bảo đảm.
22. Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các Tổ chức
tín dụng.
23. Quyết định 18/2007/QĐ – NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
86
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
1. Jonathan Golin (2006), The bank Credit Analysis Handbook, Published by
John Wiley & Sons (Asia) Pte. Ltd
2. Basel Committee on Banking Supervision (1998), Internationnal
Convergence of Capital Measurement and Capital Standards. Basel: BIS.
3. Basel Committee on Banking Supervision (2006), Internationnal
Convergence of Capital Measurement and Capital Standards: A Revised
Framework Comprehensive Version. Basel: BIS.
WEBSITE
1.
2.
3.
4.
5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5268_6062.pdf