Khóa luận Tình trạng đô la hóa tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Ngoài ra đề án cũng đưa ra một lộ trình cụ thể đến năm 2010 nhằm nâng cao tính chuyển đổi của VND với các mục tiêu như sau: đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá nhiều hơn. Trong giao dịch vãng lai, xoá bỏ hạn mức tuyệt đối trên một số khoản chuyển tiền vãng lai của cá nhân ra nước ngoài; xoá bỏ hạn mức tuyệt đối đối với việc thoái hối của người không cư trú,. Còn trong giao dịch vốn, xoá bỏ quy định doanh nghiệp Nhà nước muốn vay vốn nước ngoài phải có ý kiến của NHNN, nghiên cứu khả năng doanh nghiệp Việt Nam là người cư trú vay nước ngoài bằng VND. Bên cạnh đó là việc xoá bỏ hàng loạt các biện pháp quản lý việc sử dụng ngoại tệ trong nước như: xoá bỏ giấy phép hoạt động kiều hối và giấy phép lập bàn thu đổi ngoại tệ, chuyển sang kinh doanh có điều kiện; xoá bỏ chế độ thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam; thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ, chỉ cho vay phục vụ xuất khẩu; tiếp tục thu hút ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng. Áp dụng các giải pháp kinh tế để chuyển dần quan hệ huy động - cho vay trong nước bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng sang quan hệ mua - bán ngoại tệ

pdf81 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2165 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tình trạng đô la hóa tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đáng kể. Điều này dẫn đến chênh lệch giữa lượng vốn ngoại tệ huy động được và lượng cho vay ngày càng nới rộng ra. Để sử dụng nguồn ngoại tệ nhàn rỗi, các ngân hàng đã lựa chọn danh mục đầu tư là các trái phiếu chính phủ nước ngoài phát hành bằng ngoại tệ hay đem gửi ở các ngân hàng nước ngoài để hưởng lãi suất. Đây là nguyên nhân giải thích cho việc tiền gửi tại nước ngoài của các ngân hàng tăng lên. Trong chuyện này, rõ ràng là cả người dân và ngân hàng cùng có lợi. Người dân thì được hưởng lãi suất, vẫn tốt hơn là cất giữ ngoại tệ trong nhà, còn ngân hàng được hưởng lợi từ lãi suất tiền gửi. Hơn nữa quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Nhưng đây chỉ là cái lợi trước mắt. Một nghịch lý đang diễn ra là khi nền kinh tế nước ta còn phải vay nợ nước ngoài thì các ngân hàng lại bơm ngoại tệ ra nước ngoài. Tuy nhiên, đây cũng không phải là lỗi của các ngân hàng. Bởi vì không phải là các ngân hàng không muốn cho vay ngoại tệ trong nước, mà vấn đề chính là các doanh nghiệp không muốn vay bằng ngoại tệ. Năm 2000, khối lượng cho vay bằng ngoại tệ chỉ đạt 26,2 nghìn tỷ đồng (rất ít so với lượng tín dụng bằng VND là 137,4 nghìn tỷ đồng), khối lượng này tuy có tăng nhẹ vào 2 năm tiếp theo nhưng vẫn còn là quá ít. Mãi cho đến năm 2004, nhu cầu vay ngoại tệ của các doanh nghiệp mới tăng mạnh, đạt 112,6 nghìn tỷ đồng. Nguyên nhân là do lãi suất cho vay bằng USD tương đối thấp và tỷ giá VND/USD ổn định. Năm 2005 khối lượng ngoại tệ cho vay đã tăng lên 161,3 nghìn tỷ đồng do lãi suất cho vay vẫn ở mức thấp. 47 Năm 2005, FED đã nhiều lần tăng lãi suất USD, nhưng lãi suất cho vay USD tại thị trường Việt Nam chỉ tăng nhẹ. Cụ thể là đến thời điểm cuối năm 2005, lãi suất cho vay ngắn hạn ở mức 5,25 – 6,2%/năm, lãi suất cho vay dài hạn trong khoảng 5,5 – 5,7%/năm. Biểu đồ 3: Cơ cấu cho vay nền kinh tế giai đoạn 2000 – 2004 Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2004, NHNN Việt Nam Năm 2007, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng gấp 5 lần so với năm 2006 đã tạo nên những diễn biến tiền tệ khác hẳn so với năm trước. Tín dụng trong nước tăng mạnh, đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế. Dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006, gấp hơn 2 lần so với mức tăng 25,44% của năm 2006. Khối lượng cho vay ngoại tệ năm 2007 tăng 46,7% so với năm 2006, đạt tỷ trọng 23,57% trên tổng tín dụng với nền kinh tế, tăng 2,34% so với tỷ trọng 21,23% vào năm 2006. Trong năm 2008, tín dụng tiếp tục tăng trưởng, dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân hàng tăng 25,43%. Trong đó, tăng trưởng tín dụng bằng VND đạt 27,56% và tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đạt 17,6%. Biểu đồ 4: Cơ cấu cho vay giai đoạn 2005 - 2008 48 Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008, NHNN Việt Nam Trong năm 2009 khi Chính phủ đưa ra chủ trương hỗ trợ lãi suất, kích cầu bằng VND thì các doanh nghiệp trở nên thờ ơ hơn với nguồn vốn ngoại tệ. Bởi vay vốn bằng tiền đồng phải trả lãi suất thấp hơn và tránh được rủi ro về tỷ giá. Vì thế tăng trưởng tín dụng ngoại tệ trong những tháng đầu năm có lúc rơi xuống mức âm. Nhưng nhu cầu tín dụng ngoại tệ có xu hướng tăng nhẹ vào cuối năm. Theo như các cán bộ ngân hàng giải thích, lý do là vì các nhà nhập khẩu thời điểm này khó có thể mua được ngoại tệ để thanh toán nên đã chọn cách vay USD để trả nợ. Mặt khác, vào thời điểm cuối năm vay tiền đồng khó hơn so với 9 tháng đầu năm nên doanh nghiệp phải vay ngoại tệ để sử dụng trong ngắn hạn. Đầu năm 2010, cho vay ngoại tệ lại tăng đột biến và cao hơn 5 lần cho vay nội tệ. Riêng tháng 3/2010, tổng dự nợ tín dụng của toàn nền kinh tế ước tăng 1,49% và so với cuối năm ngoái tăng 2,95%. Trong đó, dư nợ tín dụng bằng nội tệ ước tăng 0,91% so với tháng 2/2010 và tăng 0,57% so với cuối 49 2009. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ ước tăng 3,98% so với tháng trước và tăng 14,07% so với cuối năm 2009. Tốc độ tăng trưởng tín dụng nói chung và VND nói riêng đang thấp hơn nhiều so với năm 2009. Theo số liệu mới cập nhật của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng dự nợ tín dụng cả năm 2009 tăng 38% (trung bình mỗi quý tăng 10,75%). Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ 3 tháng đầu năm 2010 được cho là tăng đột biến so với nhiều năm trước. Sự mất cân đối giữa tăng trưởng tín dụng ngoại tệ và nội tệ trong những tháng đầu năm 2010 được cho là một hệ quả trong giai đoạn hậu kích cầu. Từ tháng 1/2010 các doanh nghiệp vay vốn tiền đồng để sản xuất đã không còn được hỗ trợ 4% lãi suất. Hơn nữa lãi suất cơ bản lại tăng từ mức 7% năm ngoái lên 8%, đẩy lãi suất cho vay lên 12%, cao gần gấp đôi so với mặt bằng lãi suất vay vốn năm 2009. Trong tháng 3/2010 NHNN cho áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận với tín dụng trung và dài hạn, lãi suất thực vay của các doanh nghiệp lên tới 16 – 17% thậm chí có nơi tới 20%, gấp 3 lần năm ngoái. Giá vốn cao hơn, nhu cầu vay tiền đồng sẽ giảm xuống. Vay vốn nội tệ khó khăn, các doanh nghiệp có tâm lý chuyển hướng sang vay ngoại tệ, nhất là khi lãi vay USD chỉ bằng nửa lãi vay tiền đồng. Tuy nhiên, mức tăng dư nợ tín dụng ngoại tệ lên đến 14,07% trong 3 tháng đầu năm 2010 cũng đặt ra câu hỏi lớn cho cơ quan quản lý nhà nước, khi mà lượng ngoại tệ huy động thời gian này chỉ tăng vỏn vẹn 0,21%.① 2.2.2 Tác động của đô-la hoá đến điều hành chính sách tiền tệ Như chúng ta đã biết chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách vĩ mô quan trọng nhất trong nền kinh tế. Trong đó ba mục tiêu cuối cùng của CSTT là: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm. Để đạt được ba mục tiêu này, NHNN phải dùng rất nhiều các công cụ của CSTT tác động để đạt ① Thời báo Kinh tế Việt Nam: dung.htm 50 được mục tiêu. Khi nền kinh tế bị đô-la hoá sẽ hạn chế tính chủ động của NHNN trong việc thực thi CSTT. NHNN đôi khi phải áp dụng các biện pháp, các công cụ đi ngược lại cơ chế thị trường như sử dụng các công cụ mang tính hành chính, thay đổi chính sách tỷ giá, lãi suất. Cụ thể, để hạn chế tình trạng đô-la hoá tiền gửi trong những năm 2000, NHNN Việt Nam đã sử dụng một công cụ mang nặng tính hành chính đó là nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD. Tháng 10/2000 NHNN đã quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ từ 5% lên 8% nhằm tăng chi phí huy động tiền gửi USD, buộc các NHTM phải hạ lãi suất huy động. Tuy nhiên, trên thực tế lãi suất huy động USD của các NHTM vẫn không giảm. Điều này khiến NHNN buộc phải mạnh tay hơn bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ lên 12%. Chỉ đến lúc đó các NHTM mới chịu hạ lãi suất huy động USD xuống từ 0,5 – 1%/năm. Tuy nhiên cũng không vì thế mà việc gửi tiết kiệm bằng USD trở nên kém hấp dẫn hơn so với VND. Có lẽ vì thế mà NHNN quyết định một lần nữa tăng tỷ lệ dự trữ lên 15% vào năm 2001 mặc dù trong thời điểm này FED vẫn tiếp tục cắt giảm lãi suất tới lần thứ 4, và mức lãi suất cắt giảm lên tới hơn 2%/năm. Lần này thì sự tác động thật sự có hiệu quả, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất huy động tiền gửi USD. Có thể nói rằng biện pháp tăng mạnh dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ trong thời gian gần đây của NHNN đã góp phần tích cực trong việc làm tăng sức hấp dẫn của VND, góp phần ngăn chặn sự chuyển dịch từ tiết kiệm VND sang tiết kiệm USD. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng nếu FED không cắt giảm lãi suất liên tục trong thời gian này thì chưa chắc đã đạt được mục tiêu này. Mặt khác thế mạnh của công cụ dự trữ bắt buộc không phải là khả năng tác động đến lãi suất. Việc sử dụng công cụ này cũng có những hạn chế và có thể có một số tác động tiêu cực. Vì thế về lâu dài, cuộc chiến chống đô-la hoá cần có những biện pháp kiên quyết và đồng bộ khác. 51 Ngoài ra, một nhiệm vụ rất quan trọng của NHNN là điều tiết lượng tiền lưu hành. Thông qua các nghiệp vụ của mình, NHNN sẽ điều tiết lượng tiền lưu hành. Trong các chính sách về tín dụng, thị trường hối đoái và thị trường mở thì chính sách hối đoái là kênh điều tiết hữu hiệu nhất. Thông qua nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, NHNN sẽ chủ động điều tiết lượng tiền phát hành. Nhưng khi nền kinh tế bị đô-la hoá sẽ bóp méo cung cầu ngoại tệ, tăng hiện tượng đầu cơ, gây khó khăn cho việc ổn định thị trường hối đoái. 2.2.3 Tác động của đô-la hoá đến người dân NHNN đã ban hành Pháp lệnh ngoại hối 2005, ở điều 22 quy định hạn chế sử dụng ngoại hối: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối.” Nhưng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh vẫn công khai vi phạm, niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ bằng USD. Điều này sẽ bất lợi cho người tiêu dùng vì mọi rủi ro về tỷ giá doanh nghiệp sẽ đổ hết lên đầu người tiêu dùng. Hiện nay, từ các sản phẩm giá trị như nhà đất, ô tô, xe máy, laptop đến giá phòng khách sạn, dịch vụ du lịch,... đều được niêm yết bằng USD. Với cách thức niêm yết giá này, đại đa số người tiêu dùng sẽ bị thiệt. Chưa kể việc do quản lý không chặt, nên khi tỷ giá VND/USD xuống thấp thì các hãng kinh doanh lại chuyển sang niêm yết bằng VND, khi tỷ giá cao thì niêm yết bằng USD. Như thế là các doanh nghiệp, hãng kinh doanh đã đẩy hết rủi ro về phía người tiêu dùng. Tỷ giá luôn thay đổi từng ngày, từng giờ thế nên khi quy đổi ra tiền Việt Nam sẽ khiến người tiêu dùng bị thiệt hại nặng. Với những sản phẩm như nhà đất, ô tô,... khách hàng phải đặt tiền trước khi nhận hàng. Việc đặt cọc được tính theo tỷ giá ngoại tệ của ngân hàng tại thời điểm đó. Nhưng đến lúc nhận hàng thì người tiêu dùng nhiều phen ngỡ ngàng khi chủ hàng đòi trả thêm tiền do tỷ giá tăng lên. Có những cửa hàng chỉ nhận USD, người mua 52 đành phải mua USD ở ngoài thị trường tự do với giá cao. Hơn nữa việc niêm yết giá bằng USD làm cho khách hàng khó khăn trong việc mặc cả và tính toán. Có nhiều lý do để các đơn vị giải thích cho việc phải niêm yết giá hàng hoá bằng ngoại tệ. Như các cửa hàng máy tính nhỏ thì cho rằng họ bị các đại lý bắt thanh toán bằng USD nên khi nhận hàng phải niêm yết giá bằng USD để tránh bị thiệt. Các hãng xe cho rằng việc niêm yết giá bằng USD là tập quán lâu nay tại Việt Nam. Cũng có hãng giải thích tỷ giá luôn biến động nên phải niêm yết bằng USD để khỏi phải thường xuyên điều chỉnh giá bán. Theo NHNN, những lý do mà các đơn vị trên đưa ra là không hợp lý. Vì pháp luật đã có quy định rõ ràng, mọi người đều phải tuân thủ pháp luật. Hơn nữa, Nhà nước đang giảm nhập siêu nên các ngân hàng chỉ ưu tiên các doanh nghiệp nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu, còn các doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng phải tự cân đối ngoại tệ nhưng không được niêm yết, quảng cáo giá sản phẩm bằng ngoại tệ. Về biến động tỷ giá dẫn đến khó tính toán được giá hàng hoá – dịch vụ, NHNN cho rằng các doanh nghiệp khi bán hàng hoá ở mức giá nào thì đều đã tính toán mọi yếu tố tác động đến giá thành sản phẩm, trong đó có cả biến động của tỷ giá chứ không thể viện lý do này để đẩy mọi rủi ro về phía người tiêu dùng. Việc chấn chỉnh niêm yết giá hàng hoá bằng USD là một cuộc chiến dai dẳng, kéo dài nhiều năm vẫn chưa kết thúc. Một khi đã có quy định thì các cơ quan chức năng ngoài việc tuyên truyền cần phải xử lý thật nghiêm khắc các trường hợp vi phạm để làm gương. Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng không nên “tiếp tay” cho các cửa hàng bằng tâm lý sính ngoại, thích tiêu tiền đô của mình. 2.3. Đánh giá chung về tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam 2.3.1 Đánh giá những tác động của đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam 53 Hiện tượng đô-la hoá đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1988, khi Việt Nam mới mở cửa nền kinh tế. Tình trạng đô-la hoá đã có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam. Trong đó có cả những tác động tích cực và những tác động tiêu cực. Mặc dù ít nhưng cũng không thể không kể đến những tác động tích cực của hiện tượng đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam. Tác động tích cực đầu tiên phải kể đến đó là đô-la hoá thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Bởi vì khi sử dụng USD trong giao dịch, thanh toán sẽ giảm được những chi phí nhất định như: chi phí chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán, chi phí dự phòng rủi ro tỷ giá,... Ngoài ra đô-la hoá tiền gửi còn giúp ngân hàng có được một khoản ngoại tệ nhất định để mở rộng hoạt động đối ngoại, đồng thời đáp ứng được nhu cầu vay ngoại tệ của nền kinh tế. Điều này cũng góp phần giảm bớt gánh nặng nợ nước ngoài của chính phủ Việt Nam. Bên cạnh đó hiện tượng đô-la hoá cũng gây ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Thứ nhất, đô-la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ và làm cho thị trường ngoại hối trở nên căng thẳng, không ổn định. Vào những thời điểm căng thẳng về cung – cầu ngoại tệ, tỷ giá ngoại tệ tăng thì mọi người đều đổ xô đi mua ngoại tệ để dự trữ phòng trường hợp VND mất giá, cầu ngoại tệ lớn đột biến tạo điều kiện cho hiện tượng đầu cơ ngoại tệ. Năm 2008, tỷ giá VND/USD là 15400 thì chỉ vài tháng sau đã tăng lên đến 19500, trong những tháng đầu năm 2010 có lúc tỷ giá VND/USD đã lên đến 19900. NHNN đã phải bơm USD từ dự trữ ngoại hối ra để bình ổn thị trường. Đối với thị trường ngoại hối còn non trẻ và các công cụ phòng chống rủi ro còn chưa hoàn thiện như hiện nay thì hiện tượng đô-la hoá là rất nguy hiểm. Thứ hai, đô-la hoá tiền gửi cao cũng gây nhiều khó khăn cho hệ thống ngân hàng cũng như sức khoẻ của nền kinh tế. Trong thực tế, khi có những 54 biến động trên thị trường ngoại hối, đôi khi chỉ do những tin đồn, người dân đổ xô đi rút tiền gửi USD từ các ngân hàng. Điều này đã đẩy các ngân hàng vào tình thế bất lợi vì ngân hàng đã dùng nguồn USD huy động được đem cho vay hoặc đi gửi ở ngân hàng nước ngoài chưa đến hạn thu về. Khi người dân rút USD ồ ạt thì các ngân hàng rơi vào tình trạng không có khả năng thanh toán. Lúc này NHNN cũng không thể giúp được nhiều vì NHNN Việt Nam không có khả năng phát hành USD. Nếu hiện tượng này xảy ra trên diện rộng thì rất có khả năng sẽ tạo ra chấn động và rất có thể dẫn đến khủng hoảng ngành ngân hàng. Thứ ba, đô-la hoá cũng làm cho VND nhạy cảm hơn với các tác động từ bên ngoài, đồng thời cũng ít nhiều ảnh hưởng đến sự độc lập trong việc hoạch định các CSTT của NHNN. Do đó đô-la hoá làm giảm hiệu quả điều hành CSTT của NHNN. Thứ tư, đô-la hoá cũng khiến cho người dân bị thiệt khi mua hàng hoá, dịch vụ niêm yết bằng USD. Hiện nay việc niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ đã bị cấm. Tuy nhiên, từ trước đến nay dù được phép hay không được phép thì hiện tượng này vẫn rất phổ biến ở nước ta. Các cửa hàng niêm yết giá cả không thống nhất với nhau, đến khi tỷ giá giảm xuống thì lại quay về niêm yết bằng VND. Bằng cách này các cửa hàng đã đẩy hết rủi ro tỷ giá về phía người tiêu dùng. 2.3.2 Đánh giá những biện pháp mà NHNN đã sử dụng nhằm hạn chế tình trạng đô-la hoá trong thời gian qua Để hạn chế tình trạng đô-la hoá nền kinh tế, NHNN đã sử dụng kết hợp nhiều biện pháp. Có những biện pháp mang lại hiệu quả cao, cũng có những biện pháp đi ngược lại so với mục đích ban đầu của NHNN. Sau đây tác giả xin đề cập đến một số biện pháp mà NHNN đã sử dụng: (i) Nới rộng biên độ dao động tỷ giá VND/USD trên thị trường ngoại hối. 55 Đây là một trong những biện pháp mà NHNN đã sử dụng để ổn định thị trường ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt. Từ năm 2002 đến nay, NHNN đã 7 lần nới rộng biên độ tỷ giá VND/USD. Lần đầu tiên vào 01/07/2002 NHNN tăng biên độ tỷ giá từ +/0,1% lên +/0,25%. Lần thứ hai từ +/0,25% lên +/0,5% vào ngày 31/12/2006. Ngày 24/12/2007 biên độ dao động đã tăng lên +/0,75%. Động thái này của NHNN nằm trong chủ trương tạo điều kiện để kinh tế Việt Nam thích nghi với mức độ mở cửa và hội nhập kinh tế. Cơ chế tỷ giá ngày càng linh hoạt đòi hỏi các NHTM và các thành viên tham gia thị trường ngoại hối phải thận trọng hơn trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá để đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Các NHTM nhận định việc nới rộng biên độ tỷ giá giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong việc đưa ra tỷ giá linh hoạt hàng ngày. Ngày 10/03/2008 biên độ tỷ giá tăng lên +/1%. Chỉ sau đó 3 tháng, vào ngày 26/06/2008 biên độ lại được nới rộng thêm và ở mức +/2%. Đến cuối năm vào tháng 11/2008 NHNN lại quyết định tăng biên độ lên tới +/3%. Như vậy là chỉ trong vòng gần 1 năm, biên độ tỷ giá VND/USD đã tăng 3 lần. Động thái này của NHNN đã góp phần tạo điều kiện giúp tỷ giá điều chỉnh linh hoạt hơn, phản ánh chính xác hơn tình hình cung – cầu trên thị trường. Ngoài ra, việc nới rộng biên độ tỷ giá cũng thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu, kích thích tiêu dùng hàng hoá trong nước, từ đó thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc tăng biên độ tỷ giá cùng với hiện tượng đầu cơ có thể tạo ra niềm tin rằng VND sẽ mất giá. Mà thực tế là trong những tuần đầu khi có thông tin NHNN sẽ điều chỉnh biên độ tỷ giá thì lượng cầu USD trên thị trường tự do đã tăng mạnh kéo theo giá USD trên thị trường USD tăng theo. Như vậy, do việc điều hành, quản lý thị trường chưa chặt chẽ đã phần nào đi ngược lại mục đích hạn chế đô-la hoá đề ra ban đầu. 56 Đến tháng 4/2009 NHNN một lần nữa tăng biên độ tỷ giá VND/USD lên +/5%. Ngày 10/02/2010 NHNN đã quyết định nâng tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng từ 17.941 lên 18.544 tương đương mức tăng 3,3%. Do đó, các NHTM có thể tăng giá mua bán USD lên gần sát với tỷ giá trên thị trường tự do. Quyết định nâng tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng của NHNN Việt Nam nhằm mục đích bình ổn giá USD, đồng thời ngăn chặn tình trạng ngoại tệ chảy khỏi hệ thống ngân hàng, góp phần giúp NHNN dễ dàng hơn trong công tác quản lý (ii) Phát triển kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát nhằm củng cố niềm tin của người dân vào VND. Để đạt được những mục tiêu trên NHNN đã kết hợp thực hiện những giải pháp sau:  Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. NHNN đã chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để giảm lãi suất huy động theo hướng thực hiện lãi suất thực dương.  Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu.  Thực hiện cắt giảm chi tiêu của chính phủ cũng như những khoản đầu tư không hiệu quả.  Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại.  Sử dụng các gói kích cầu nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Các biện pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam được quốc tế đánh giá là đã đi đúng hướng và đang đạt được những hiệu quả đáng kể. Với những nỗ lực trên, nền kinh tế Việt Nam đang dần dần hồi phục sau khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát đang được khống chế ở mức an toàn. 57 (iii) Ban hành Pháp lệnh ngoại hối 2005 Điều 22 – Pháp lệnh ngoại hối 2005 nêu rõ: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.” Mặc dù bị cấm nhưng những hoạt động như niêm yết, quảng cáo hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ vẫn đang phổ biến ở nước ta. Nguyên nhân là do các cơ quan chức năng chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ, chưa đưa ra những hình thức xử phạt nghiêm minh. Mới đây Bộ Công thương đã ra thông tư 11/2009/TT-BCT về việc các tổ chức, cá nhân phải niêm yết giá hàng hoá bằng VND. Nếu vi phạm thì sẽ bị xử phạt cao, mức phạt tối đa lên tới 30 triệu đồng. Tuy nhiên, các Bộ, Ngành và các cơ quan chức năng cần có biện pháp thanh tra giám sát thường xuyên hơn để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm. Dần dần nâng cao ý thức của người dân trong việc chấp hành luật. Làm được như thế thì tình trạng đô-la hoá ở Việt Nam mới được cải thiện. (iv) Thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ. Ngày 10/04/2008, Thống đốc NHNN ra quyết định 09/2008/QĐ- NHNN về việc cho vay ngoại tệ của các TCTD đối với khách hàng là người cư trú. Theo đó, đối tượng được phép vay vốn bằng ngoại tệ đã được thu hẹp lại chỉ còn 3 đối tượng: phục vụ nhu cầu nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; thanh toán nợ nước ngoài; phục vụ nhu cầu đầu tư trực tiếp nước ngoài. Quyết định này đã làm giảm áp lực huy động vốn bằng ngoại tệ của các NHTM, đồng thời cũng làm giảm dư nợ cho vay ngoại tệ. Đây là chính sách đúng đắn, góp phần hạn chế tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. (v) Giảm lãi suất tiền gửi USD, tăng lãi suất tiền gửi VND. 58 Ngày 10/02/2010 Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các tổ chức kinh tế tại các TCTD là 1%/năm. Mục đích của NHNN nhằm cân đối hài hoà cung – cầu ngoại tệ, tăng cường sự lưu thông trên thị trường ngoại tệ và góp phần kiểm soát nhập siêu, ổn định kinh tế vĩ mô. Việc quy định lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD đối với các tổ chức kinh tế cũng nhằm hạn chế việc các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ nhưng không bán lại cho ngân hàng mà giữ lại với kỳ vọng giá USD tăng. Việc găm giữ USD đã gián tiếp đẩy giá USD trên thị trường tự do tăng cao, khiến cho tình trạng đô-la hoá càng trầm trọng. Bên cạnh đó, việc giảm lãi suất tiền gửi bằng USD xuống 1%/năm còn làm tăng chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi bằng USD và lãi suất tiền gửi bằng VND. Đây là động lực thúc đẩy các cá nhân, tổ chức chuyển sang vay vốn bằng VND, góp phần cải thiện tình trạng đô-la hoá ở Việt Nam. Tóm lại, những biện pháp trên đã có những hiệu quả nhất định trong việc cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam, tuy nhiên tình trạng này vẫn chưa được giải quyết đúng mức. Việc đánh giá những biện pháp NHNN đã thực hiện trong thời gian qua chính là cơ sở để tác giả đưa ra những định hướng và giải pháp cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam ở chương III. 2.4 Nhận xét chung Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, bản thân đồng nội tệ có nhiều sự biến động giá trị và khó có thể tránh khỏi hiện tượng đô-la hoá. Kết quả khảo sát trong giai đoạn từ 1998 đến nay cho thấy, tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam vẫn thấp và hiện tượng đô-la hoá chưa được khắc phục một cách cơ bản. Những năm đầu mới mở cửa, mức độ đô-la hoá rất cao, tỷ lệ có lúc lên đến 41,2%. Giai đoạn từ sau khủng hoảng khu vực đến nay, sau một thời gian tỷ lệ này ổn định ở mức tương đối thấp khoảng 20%. Những năm gần đây, tỷ lệ này có xu hướng tăng lên do đồng USD trên thế 59 giới có tính hấp dẫn cao, trong khi chênh lệch lãi suất tiền gửi có lợi cho giữ ngoại tệ. Theo NHNN thì mức độ đô-la hoá ở Việt Nam hiện nay đang ở mức trên 21%, cao hơn nhiều so với 9% ở Trung Quốc và 1% ở Thái Lan. NHNN đang tích cực giảm tình trạng này xuống và mục tiêu đến năm 2010 tỷ lệ đô-la hoá giảm xuống còn 15%. Tuy nhiên, giới chuyên gia lại cho rằng khó có thể khẳng định rõ ràng đô-la hoá là tốt hay xấu. Xét về lý thuyết kinh điển thì đô-la hoá tạo ra tâm lý hai đồng tiền trong một nền kinh tế. Nhưng mặt khác nó giúp tăng cung ngoại tệ, giảm áp lực lạm phát hoặc làm chỗ dựa cho nền kinh tế khi đồng bản tệ quá suy yếu. Việc đánh giá tình trạng đô-la hoá theo tỷ lệ FCD/M2 được đánh giá là khá chính xác ở những nước mà phần lớn giao dịch, thanh toán đều thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Còn ở Việt Nam, nơi mà tỷ lệ sử dụng tiền mặt vẫn còn rất lớn thì tỷ lệ FCD/M2 không phản ánh chính xác thực trạng đô-la hoá trong toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn khi hạn chế đô-la hoá bằng cách kiềm chế lượng tiền gửi ngoại tệ vào ngân hàng. Tâm lý thích dùng tiền mặt vẫn ăn sâu trong dân chúng, nếu hạn chế gửi ngoại tệ vào ngân hàng thì người dân sẽ cất trữ trong nhà. Vì thế, thà để người dân gửi ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để Nhà nước dễ dàng hơn trong việc quản lý. Các con số liên quan đến tỷ lệ đô-la hoá cũng không nói lên tất cả, 21% cũng dễ dàng tăng lên 30 – 40%, nhất là khi nền kinh tế đang trong thời kỳ lạm phát cao, và người dân ngày càng ưa chuộng USD. Nhưng nếu ép đưa tỷ lệ này xuống 15%, đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì các NHTM sẽ phải giảm lãi suất USD dẫn đến khó huy động được nguồn vốn ngoại tệ. Phó thống đốc NHNN Nguyễn Đồng Tiến cũng cho rằng cần cân nhắc kỹ lưỡng khi áp dụng các chính sách hạn chế đô-la hoá bởi nó có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hút nguồn ngoại tệ. Theo ông lượng tiền gửi ngoại tệ 60 tăng phản ánh sự tin tưởng của người dân vào hệ thống ngân hàng, đồng thời giảm bớt lượng ngoại tệ lưu thông bên ngoài. Hơn nữa, tỷ lệ FCD/M2 đạt trên 20% tuy có cao so với các nước khác nhưng vẫn đảm bảo tính ổn định cho hệ thống tiền tệ cũng như đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Nhưng dù nói thế nào đi nữa cũng không thể phủ nhận được những tác động tiêu cực của đô-la hoá đến nền kinh tế nước ta. Vì thế NHNN phải có biện pháp phối hợp với các cơ quan chức năng cùng doanh nghiệp và cả người dân để giảm tình trạng đô-la hoá xuống mức vừa phải, hạn chế mặt tiêu cực đồng thời phát huy mặt tích cực của đô-la hoá. 61 CHƢƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT NAM 3.1 Định hƣớng nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. 3.1.1 Định hướng hình thành một đồng tiền chung khu vực ASEAN Trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, hàng loạt đồng tiền các nước khu vực Đông Á bị mất giá trầm trọng so với đồng đô-la Mỹ. Các quốc gia trong khu vực ASEAN bị tình trạng đô-la hoá ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển nền kinh tế. Đã có nhiều ý tưởng tính đến việc hình thành một đồng tiền chung của khu vực ASEAN nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Có thể trong thời điểm sắp tới, khi các nền kinh tế khu vực ASEAN phát triển lớn mạnh hơn thì ý tưởng này có thể sớm được thực hiện. Ngày 01/01/1999 cả thế giới chứng kiến sự ra đời của đồng tiền chung EURO của liên minh Châu Âu. Đồng EURO là đứa con chung được sinh ra từ những nền kinh tế hùng mạnh của các nước thuộc liên minh Châu Âu. Việc hình thành đồng tiền chung của khối ASEAN sẽ gặp phải nhiều khó khăn vì các nước thuộc khu vực này đều là những quốc gia đang phát triển, chưa thực sự có tiếng nói trên thị trường thế giới, nguồn lực kinh tế chưa đủ mạnh và rất nhạy cảm đối với những biến động của thị trường thế giới và chưa đủ sức chống lại những tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Vì vậy để có được một đồng tiền chung của khu vực ASEAN để cùng nhau liên kết chống lại sự mất giá của đồng tiền này và khắc phục được tình trạng đô-la hoá thì còn là một vấn đề cần được bàn tới nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, một cách khách quan chúng ta có thể nhận thấy những mặt tích cực và tồn tại của một đồng tiền chung trong khu vực: 62  Đầu tiên là lợi ích của việc sử dụng một đồng tiền chung trong giao dịch thương mại giữa các nước trong khu vực. Đó là sự giảm bớt chi phí giao dịch và tránh được rủi ro về tỷ giá.  Theo nhận định của các nhà kinh tế thì trong thời gian tới khu vực Đông Nam Á sẽ là khu vực kinh tế năng động và phát triển mạnh. Vì thế sự xuất hiện của đồng tiền chung sẽ tạo nên sự tương đồng cho sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Đồng thời nó còn tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các nước không chỉ ở lĩnh vực kinh tế - xã hội mà cả về lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng.  Tuy nhiên, việc gì cũng có hai mặt của nó. Bên cạnh những lợi ích khi sử dụng đồng tiền chung thì nó cũng có những mặt hạn chế. Đó là khi xảy ra biến động ở một nước thì lập tức sẽ gây ra phản ứng dây chuyền, lan toả sang các nước còn lại. Khi một quốc gia phải đối mặt với các cú sốc kinh tế thì chi phí của việc chấp nhận một đồng tiền chung tăng cao và chính điều này làm tăng sự hấp dẫn của một chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái độc lập được xây dựng trên cơ sở của một đồng bản tệ duy nhất. Vì thế hậu quả của chính sách này sẽ ảnh hưởng đến các quốc gia trong khu vực. Đây có thể nói là rào cản lớn nhất khi muốn hình thành một đồng tiền chung. 3.1.2 Định hướng về hoạt động của hệ thống ngân hàng Hệ thống ngân hàng đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện chức năng tập trung vốn cho nền kinh tế, làm trung gian thanh toán và quản lý phương tiện thanh toán đồng thời đảm nhiệm chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Chính vì thế muốn nền kinh tế phát triển và giảm thiểu được tình trạng đô-la hoá thì điều đặc biệt quan trọng là quan tâm đến việc phát triển hoạt động của hệ thống ngân hàng. Sau đây là một số định hướng cho ngành ngân hàng trong thời gian tới: 63 Thứ nhất, cùng với cả nước thì hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tích cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhất là trên thị trường tài chính quốc tế. Điều này tạo cơ hội để phát triển nhanh và bền vững của hệ thống ngân hàng nói riêng cũng như nền kinh tế Việt Nam nói chung. Đối với NHNN, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính trong nước và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước, khung pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn. Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh 64 hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Thứ hai, từng bước chuyển từ việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, mang tính thị trường nhiều hơn. Để thị trường tự điều tiết quan hệ cung – cầu. Bên cạnh đó cần hiện đại hoá cơ sở vật chất và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, đuổi kịp sự phát triển của thế giới. Thứ ba, cần xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có đủ trình độ, nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp để có thể đáp ứng tốt nhu cầu nhiệm vụ của ngành trong thời đại mới. 3.2 Một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và NHNN trong vấn đề đô-la hoá rất rõ ràng: “xoá bỏ đô-la hoá trong nền kinh tế nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước. Phải thực hiện bằng nhiều giải pháp, vừa kinh tế vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ.” Thực hiện triệt để nguyên tắc “trên lãnh thổ Việt Nam mọi giao dịch, thanh toán phải được thực hiện bằng tiền Việt Nam.” Việc xoá bỏ đô-la hoá không thể theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút nguồn ngoại tệ trong dân vào hệ thống ngân hàng, từ đó đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô-la hoá. Phải có những biện pháp hành chính, kinh tế, giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô-la hoá, nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Chúng ta không thể sử dụng các biện pháp hành chính cứng nhắc như đã từng áp dụng trước đây như: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều 65 hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ,... Những biện pháp hành chính này qua thực tiễn chứng tỏ là đã gây khó khăn cho người dân và các doanh nghiệp. Hơn nữa lại hạn chế nguồn kiều hối chuyển về nước, không phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế. Do đó, chúng ta cần phải có những biện pháp mang tính tổng thể để cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. 3.2.1 Giải pháp về chính sách quản lý ngoại hối Chính sách quản lý ngoại hối là lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ và đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách ngoại hối là một bộ phận của chính sách tiền tệ và góp phần thực hiện các mục tiêu như: ổn định tiền tệ, ổn định cán cân thanh toán quốc tế, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Tình trạng đô-la hoá trên thị trường tài chính Việt Nam đang phổ biến trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán, trao đổi và chức năng tín dụng qua NHTM. Điều này đã tạo môi trường cho hoạt động đầu cơ mỗi khi xuất hiện những biến động về ngoại tệ. Vì thế để cải thiện tình trạng đô-la hoá ở nước ta, trước hết cần có chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ và phù hợp. Về quan điểm chính sách, cần đối xử với đô-la như đối xử với một loại hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không nên cố neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua của đồng USD so với các đồng tiền quốc gia khác trên thị trường quốc tế. Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều này chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải. 66 Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nước bằng ngoại tệ thì ở Việt Nam hiện tượng này vẫn phổ biến. Đã có thời gian, nhiều NHTM có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng “thiếu tiền, thừa vốn’. Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng tiền gửi ngoại tệ tăng, trong khi đó lượng tiền mặt ngoại tệ để “mua đứt bán đoạn” lại khan hiếm. Tại Việt Nam tình trạng đô-la hoá đang ở mức cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ lên ngôi ngay cả khi nó đang bị mất giá ở ngay chính quê hương của nó và khắp các nền kinh tế phát triển. Trong khi đó thì tại Việt Nam các cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết, thu tiền bán hàng bằng USD và từ chối thanh toán bằng nội tệ. Do đó cần sử dụng cơ chế “mua đứt bán đoạn” thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ. Đồng thời cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị trường ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đô-la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ trước những biến động rủi ro về tỷ giá. Cần thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về việc thanh tra, kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Phải xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Về chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo quy luật của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý, lưu giữ tại NHNN. Bên cạnh đó, cần hình thành Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia 67 để NHNN có thể bơm tăng hoặc giảm ngoại tệ ra thị trường khi thị trường biến động, giúp điều tiết thị trường ổn định hơn. Nếu thực hiện đúng các nội dung trên thì thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung – cầu trên thị trường. 3.2.2 Giải pháp nhằm nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam Ngày 04/07/2007 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có quyết định số 98/2007/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô-la hoá trong nền kinh tế. Đề án thực hiện các mục tiêu: tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, bước đầu xây dựng cơ chế để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu; tiếp tục tự do hoá có lựa chọn các giao dịch vốn, bước đầu cho VND tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Một trong những nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá ở nước ta chính là đồng nội tệ có tính chuyển đổi thấp. Vì thế quá trình nâng cao tính chuyển đổi của VND cũng chính là quá trình khắc phục tình trạng đô-la hoá. Để thực hiện được mục tiêu này cần phải đảm bảo ổn định tương đối giá trị của VND, kiểm soát được lạm phát. Xây dựng hệ thống lãi suất chủ đạo của NHNN để định hướng lãi suất thị trường. Bên cạnh đó cần chú trọng đến việc phối hợp giữa chính sách tỷ giá để đảm bảo cân bằng lợi tức giữa việc nắm giữ VND và ngoại tệ. Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, tương đối ổn định theo một “rổ tiền tệ” bao gồm các ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY, CNY,... Các đồng tiền này tham gia vào “rổ tiền tệ” theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên sẽ giảm bớt sự lệ thuộc của VND vào USD và phản ánh chính xác hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các đối tác thương mại lớn. Đồng thời thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước 68 ngoài. Thực hiện 5 bước để tăng thêm tính linh hoạt của tỷ giá đó là: tự do hoá việc chuyển đổi giữa các ngoại tệ mạnh; tự do hoá các điểm kỳ hạn; cho phép áp dụng nghiệp vụ quyền chọn giữa VND với ngoại tệ; nới rộng dần biên độ tỷ giá giao ngay; tự do hoá mức phí trong nghiệp vụ quyền chọn giữa VND và ngoại tệ. Ngoài ra đề án cũng đưa ra một lộ trình cụ thể đến năm 2010 nhằm nâng cao tính chuyển đổi của VND với các mục tiêu như sau: đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá nhiều hơn. Trong giao dịch vãng lai, xoá bỏ hạn mức tuyệt đối trên một số khoản chuyển tiền vãng lai của cá nhân ra nước ngoài; xoá bỏ hạn mức tuyệt đối đối với việc thoái hối của người không cư trú,... Còn trong giao dịch vốn, xoá bỏ quy định doanh nghiệp Nhà nước muốn vay vốn nước ngoài phải có ý kiến của NHNN, nghiên cứu khả năng doanh nghiệp Việt Nam là người cư trú vay nước ngoài bằng VND. Bên cạnh đó là việc xoá bỏ hàng loạt các biện pháp quản lý việc sử dụng ngoại tệ trong nước như: xoá bỏ giấy phép hoạt động kiều hối và giấy phép lập bàn thu đổi ngoại tệ, chuyển sang kinh doanh có điều kiện; xoá bỏ chế độ thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam; thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ, chỉ cho vay phục vụ xuất khẩu; tiếp tục thu hút ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng. Áp dụng các giải pháp kinh tế để chuyển dần quan hệ huy động - cho vay trong nước bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng sang quan hệ mua - bán ngoại tệ. Để thực hiện mục tiêu nâng cao tính chuyển đổi của VND, Bộ Tài chính có nhiệm vụ áp dụng các biện pháp để phát triển thị trường vốn bằng VND. Bộ Thương mại phối hợp với NHNN tạo điều kiện cho VND tham gia quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu, giảm và tiến tới xoá bỏ danh mục ưu tiên bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu trên cơ sở đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến tới thực hiện kế hoạch cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND tham gia góp vốn 69 đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, giảm và tiến tới xoá bỏ các quy định về cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.2.3 Giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ Một lý do khiến cho người dân không thích sử dụng VND trong các giao dịch lớn là do tính cồng kềnh, bất tiện của nó. Chính vì thế, để giảm tình trạng đô-la hoá một cách hiệu quả thì chúng ta cần tích cực hơn trong việc cơ cấu lại mệnh giá của VND để thuận tiện hơn trong các giao dịch thường ngày cũng như các giao dịch lớn. Bên cạnh đó cũng cần phát triển mạnh dịch vụ ngân hàng, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, đẩy mạnh tuyên truyền việc sử dụng thẻ, kể cả thẻ quốc tế. Một khi hệ thống thanh toán thuận tiện và nhanh chóng, người dân sẽ lựa chọn sử dụng VND trong thanh toán nhiều hơn. Về phía các ngân hàng, cần thực hiện nghiêm quy định chỉ cho vay USD đối với những đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn tất cả các doanh nghiệp trong nước khác khi vay vốn tại các NHTM trong nước đều thực hiện bằng VND. Trong trường hợp cần ngoại tệ để thanh toán với quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái để thanh toán. Cần có quy định rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là hợp pháp khi ngoại tệ được chuyển từ nước ngoài vào thông qua kiều hối, quà tặng, quà biếu hay nhận lãi cổ tức từ nước ngoài chuyển về thông qua hệ thống ngân hàng. Nghiêm cấm việc sở hữu ngoại tệ có nguồn gốc không hợp pháp, không cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ngoài thị trường tự do, rồi biến thành sở hữu riêng. Điều này làm cho Nhà nước khó khăn trong việc kiểm soát, quản lý lượng ngoại tệ trong dân cư. Đồng thời, NHNN cần sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như: chính sách lãi suất, dự trữ bắt buộc,... để tác động đến thị trường nhằm làm cho VND trở nên hấp dẫn hơn so với USD qua đó hạn chế xu hướng chuyển 70 đổi từ VND sang USD. Trong điều kiện hiện nay, khi lãi suất cơ bản không đổi, NHNN có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các NHTM tăng lãi suất huy động VND. Từ đó người dân thấy việc giữ VND có lợi hơn sẽ tự động chuyển sang tiết kiệm bằng VND. 3.2.4 Thực hiện tốt chủ trương “trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam” Các cơ quan chức năng cần giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy định “mọi giao dịch, thanh toán, quảng cáo, niêm yết hàng hoá không được thực hiện bằng ngoại tệ”. Cần xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Hiện nay mức phạt cao nhất đối với các tổ chức, doanh nghiệp vi phạm là 30 triệu đồng. Cần có các quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân như sau:  Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép, trừ trường hợp duy nhất là trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được NHNN cho phép tiếp tục thu ngoại tệ. Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động,... bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm dứt. Thay vào đó là chi trả thông qua tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc bằng VND.  Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại NHTM chỉ rút ra bằng tiền mặt ngoại tệ để cất giữ riêng hoặc để đưa ra nước ngoài phục vụ nhu cầu du lịch, chữa bệnh, du học,...  Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình hình buôn lậu. Hạn chế tối đa việc lưu thông và sử dụng USD. 3.3 Một số đề xuất Thứ nhất, NHNN cần chấn chỉnh lại hoạt động mua bán ngoại tệ, không thể để việc mua bán diễn ra tràn lan như hiện nay. Hạn chế tối đa hoạt 71 động của thị trường tự do. Mặc dù rất khó thực hiện, nhưng cũng phải từng bước hoàn thành. Vừa qua NHNN đã tăng tỷ giá liên ngân hàng lên 18.544. Động thái này của NHNN đã rút ngắn khoảng cách giữa tỷ giá mua bán ngoại tệ trong hệ thống NHTM và thị trường tự do. Đây cũng là một bước tiến quan trọng trong tiến trình chống đô-la hoá. Tuy nhiên, về lâu dài NHNN phải tiến tới thiết lập một tỷ giá duy nhất, tức là không còn sự chênh lệch giữa tỷ giá ở ngân hàng và thị trường tự do. Từ đó giúp cho Nhà nước dễ dàng trong quản lý và kiểm soát thị trường, đưa ra các chính sách tiền tệ hiệu quả. Thứ hai, Nhà nước cần tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ có trong dân. Thông qua các biện pháp như thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong các lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, kể cả tài chính – ngân hàng. Ngoài ra, cần mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế. Từng bước phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục đầu tư nước ngoài. Thay vì phát hành trái phiếu ngoại tệ ở nước ngoài thì Nhà nước nên phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước nhằm huy động vốn ngoại tệ ở trong dân. Thứ ba, NHNN tiếp tục lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái VND/USD phù hợp với hiện nay và thời gian tới theo cơ chế “thả nổi có quản lý” một cách linh hoạt để vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam vừa cải thiện quan hệ cung – cầu trên thị trường ngoại tệ, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đứng từ góc độ người quản lý, NHNN phải củng cố tiến tới hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng, xác định tỷ giá liên ngân hàng dựa trên quan hệ cung – cầu trên thị trường. Trong mọi trường hợp tránh phá giá VND. Bởi vì những lợi ích từ hoạt động xuất khẩu do phá giá đem lại chỉ là lợi ích tạm thời. Nguy hiểm hơn cả là nó làm hạn chế sự cạnh tranh đồng thời làm giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Người tiêu dùng và khu 72 vực sản xuất sẽ chịu sức ép tăng giá. Đó là chưa kể đến việc làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của quốc gia và các doanh nghiệp. Vì thế, việc giữ cho đồng nội tệ luôn ổn định là một biện pháp then chốt trong việc tăng niềm tin của người dân vào VND cũng chính là giải pháp hữu hiệu cải thiện tình trạng đô-la hoá. 73 KẾT LUẬN Tóm lại, cần nhận định rõ đô-la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với một quốc gia có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Như đã nói ở trên, biện pháp cơ bản để cải thiện tình trạng đô-la hoá là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, củng cố sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng, qua đó củng cố lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Để thực hiện được các mục tiêu này, NHNN cần phải có những chính sách tiền tệ linh hoạt, thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng, thúc đẩy quá trình hiện đại hoá công nghiệp hoá dịch vụ thanh toán. Đồng thời hỗ trợ các NHTM trong việc đa dạng hoá các công cụ bảo hiểm chống rủi ro trên thị trường ngoại hối. Mặt khác, NHNN cần tiếp tục tăng cường củng cố nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia để tăng tiềm lực tiền tệ và tài chính của quốc gia. Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã giải quyết được ba vấn đề lớn đặt ra ở phần mở đầu đó là:  Làm rõ lý thuyết tổng quan về đô-la hoá.  Đánh giá được thực trạng tình hình đô-la hoá tại Việt Nam trong thời gian qua và những tác động của đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam.  Đưa ra hệ thống những định hướng và giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. Cuối cùng, xoá bỏ đô-la hoá không phải là phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, nó cũng có những mặt tích cực và những mặt tiêu cực. Vì thế phải duy trì ở mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Frederic S. Mishkin – Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học và kỹ thuật, 2001. 2. Nguyễn Văn Tiến – Lý thuyết tiền tệ, NXB Thống kê, 2007 3. Song Hong Bing – Chiến tranh tiền tệ, NXB Trẻ, 2009 4. Chiến tranh lạm phát, NXB Lao động, 2009 5. Tạp chí Ngân hàng 6. Tạp chí Kinh tế 7. Tạp chí Phát triển Kinh tế 8. Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam 9. Báo cáo của IMF: Vietnam Statistical Appendix 2007 10. Các bài báo về đô-la hoá trên các báo điện tử - Diễn đàn cao học kinh tế: - Báo điện tử của Trung ương hội khuyến học Việt Nam: - Thời báo Kinh tế Việt Nam: - Website của NHNN Việt Nam: Tài liệu tiếng Anh 11. Neil R. Ericsson & Steven B. Kamin - Dollarization in Argentina. 12. Michael Goujon - University of Auvergne - Fighting inflation in a dollarized economy: the case of Vietnam. 13. Reem Heakal - Dollarization Explained 75 14. Andreas Hauskrecht - Kelley School of Business, India University - Dollarization in Vietnam. 15. David Altig & Owen Hampage - Federal Reserve Bank of Cleveland - Dollarization - The case of Argentina. 16. Anne-Marie Gulde, David Hoelscher, Alain Ize, David Marston, Gianni De Nicoló - Financial Stability in Dollarized Economies, IMF, 2004. 17. Kiwon Kang - Is Dollarization Good for Cambodia? 18. Jayant Menon - Asian Development Bank - Cambodia’s Persistent Dollarization – Causes & Policy options. 19. Kurt Schuler - Basics of Dollarization. 20. Wantanabe Shinichi - International University of Japan - De facto dollarization and its effect on finacial development and economic growth of Cambodia, Laos PDR and Vietnam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5310_0459.pdf
Luận văn liên quan