Khóa luận Ứng dụng mô hình Arima để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn

Tuy vậy, những minh chứng kể trên vẫn không thể khiến giá vàng trong 2 tháng tới giảm như trên lý thuyết, mà thậm chí giá vàng trong tháng 5 và 6 còn được dự báo là sẽ tăng nhẹ. Điều này có thể được giải thích bằng một số lý do sau. Hai thị trường này chỉ vừa có những dấu hiệu ấm dần lên, cộng với tâm lý và truyền thống cất giữ vàng từ xưa nên không thể thay thế hoàn toàn được vàng. Hơn nữa, yếu tố giá chứng khoán không phải là yếu tố thường xuyên tác động đến giá vàng. Đặc biệt, phải kể đến nguyên nhân chính là do kinh tế thế giới năm 2015 chưa phục hồi một cách rõ nét và vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn. Kinh tế Mỹ, Anh, khu vực Đông Á và một số nền kinh tế mới nổi là những điểm sáng, song các đầu tàu kinh tế khác như khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone) và Nhật Bản tăng trưởng hết sức ì ạch, sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế Trung Quốc khiến cho đà phục hồi kinh tế toàn cầu thực tế không đồng đều và yếu hơn dự báo trước đó. Hơn thế nữa, thời điểm hiện tại, thế giới đang phải đối mặt với rất nhiều bất ổn địa – chính trị ở Trung Đông, xung đột ở Ukraine, bệnh dịch Ebola ở Tây Phi, sự nổi dậy của Nhà nước tự xưng IS hay căng thẳng trên khu vực Biển Đông gây sức ép lên tăng trưởng kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Các nhà kinh tế thuộc ngân hàng Bank of America Merrill Lynch cho rằng kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng trưởng ở 3,2% trong năm này. Với những dự báo không mấy khả quan đó cùng với những bất ổn đang diễn ra trên thế giới, một bộ phận không nhỏ giới đầu tư ở Việt Nam vẫn chọn vàng như một kênh đầu tư an toàn lâu dài. Vì vậy, giá vàng được dự đoán sẽ liên tiếp tăng trong hai tháng tới, dù mức độ tăng này là không quá cao. Đại học Kinh tế Huế

pdf80 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2797 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ứng dụng mô hình Arima để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng thế giới. Nguyên nhân chính là do vàng không còn là phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ chủ yếu của người dân như trước đây, nên sức mua trong nước thấp, các giao dịch mua – bán vàng trên tài khoản hạn chế. Bên cạnh đó, việc các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã nhập khẩu một khối lượng lớn vàng từ năm 2004 khi giá còn thấp cũng giúp cho thị trường vàng trong nước ổn định. Giá vàng trong nước cũng đã kết thúc một năm đầy biến động ở mức 14,26 triệu đồng/lượng, tăng hơn 16,6% so đầu năm.  Năm 2007: So với năm 2006, thị trường vàng đầu năm 2007 tỏ ra khá bình lặng. Giá vàng thế giới chủ yếu dao động quanh mức 650 USD – 700 USD/oz trong 9 tháng đầu năm, do sản lượng tăng và nhu cầu tại Trung Quốc giảm, tỷ giá EUR/USD đã thấp hơn 1,36, nhu cầu vàng tăng chậm, không ít dự báo giá vàng có xu hướng giảm xuống mức 635 USD/oz (mức giá trung bình của cả năm 2007), mức thấp nhất còn xuống tới 600 USD/oz. Tuy nhiên vào 3 tháng cuối năm, giá vàng đột ngột tăng mạnh, có lúc lên đến 829 USD/oz. Theo các chuyên gia, giá vàng đột ngột tăng như vậy là do các quỹ đầu tư và các nhà đầu cơ tăng cường mua vào sau khi có thông tin NHTW châu Âu tuyên bố không có kế hoạch bán tiếp vàng trong năm 2007. Tình Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 38 hình chính trị ở Trung Đông tiếp tục bất ổn, FED hạ lãi suất làm đồng USD mất giá đồng thời giá dầu vẫn duy trì đà tăng cũng là những nguyên nhân khiến giá vàng tăng. Hơn nữa, cuối năm là thời điểm nhu cầu vàng tăng mạnh để phục vụ cho các dịp lễ Giáng sinh và năm mới. Thị trường trong nước cũng có một năm ít biến động như thị trường vàng thế giới, chỉ chứng kiến sự giảm nhẹ của giá vàng trong tháng 6 và tháng 7. Còn nhìn chung, giá vàng Việt Nam năm 2007 tăng đều đặn với mức khoảng 1,2%/tháng. Tháng cuối cùng của năm, giá vàng đạt cao nhất trong cả năm, 18,04 triệu đồng/lượng, tăng 28,65% so với đầu năm. 2.2. Phân tích diễn biến giá vàng Việt nam giai đoạn 2008 – 2011: Đơn vị tính: triệu đồng/lượng Hình 2.2. Biểu đồ diễn biến giá vàng giai đoạn 2008 – 2011 (Nguồn: Tổng cục Thống Kê)  Năm 2008: Năm 2008 là một năm đầy biến động với những thăng trầm của kinh tế thế giới và giá vàng cũng nằm trong vòng xoáy của những biến động đó. Trong nửa đầu năm, vàng được coi là vịnh tránh bão an toàn số một trong mắt giới đầu tư trong bối cảnh lạm phát leo thang, sự trượt giá của đồng USD và sự đổ 10000000 20000000 30000000 40000000 50000000 60000000 Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 39 vỡ của các tổ chức tài chính. Do đó, khoảng thời gian này, giá vàng liên tục thiết lập những đỉnh cao lịch sử. Giá vàng thế giới đã khởi động đà tăng mạnh mẽ trong năm 2008 từ mức 833 USD/oz lên tới mức cao kỷ lục là 1032 USD/oz vào ngày 17/03/2008 – ngay sau vụ tan rã của tập đoàn ngân hàng đầu tư Phố Wall – Bear Stearns. Nỗi lo lạm phát, sự trượt giá mạnh mẽ của đồng USD, và những dấu hiệu leo thang của khủng hoảng tài chính là những nhân tố chính đẩy giá vàng tăng vọt trong quý I. Sang tới quý II, đây vẫn là những nhân tố chính tác động tới thị trường vàng, khiến giá vàng thế giới duy trì trong khoảng 860 – 930 USD/oz. Tại thị trường vàng trong nước, quý I và II, đặc biệt là trong quý I, cũng là thời kỳ giao dịch cực kỳ sôi động. Trên thị trường vàng tự do, giao dịch đặc biệt sôi động ở những ngày giá vàng tăng vọt, vì hễ có tin vàng tăng giá mạnh là các nhà đầu tư nhỏ lẻ lại đổ xô đi mua. Khi giá vàng thế giới lập kỷ lục, giá vàng trong nước cũng lên tới mức 21,5 triệu đồng/lượng. Trong hai quý này, vàng trong nước chủ yếu được giao dịch ở các mức giá 20,5 triệu đồng/lượng và nhiều lúc thấp hơn giá vàng thế giới. Nhu cầu trong nước tăng vọt, khiến lượng vàng nhập khẩu về Việt Nam cũng tăng mạnh theo. Số liệu từ Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) cho thấy, chỉ trong 4 tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã nhập tới 43 tấn vàng, bằng 1/2 khối lượng nhập khẩu của cả năm 2007 và với trị giá khoảng 1,2 tỷ USD. WGC cho hay, quý I/2008, Việt Nam đã “đánh bật” Ấn Độ để trở thành quốc gia tiêu thụ vàng nhiều nhất với tổng nhu cầu đầu tư vàng trong quý là 32 tấn, chiếm 43% nhu cầu vàng của thế giới. Ngoài tác động của giá vàng thế giới, lạm phát leo thang, sự xuống dốc của thị trường chứng khoán và tình trạng ảm đạm trên thị trường bất động sản cũng là những lý do khác khiến các nhà đầu tư trong nước tìm tới vàng như một kênh đầu tư được hy vọng nhiều hơn. Sang tới quý III/2008, ưu thế của vàng với tư cách là một vịnh tránh bão trong khủng hoảng dường như giảm dần. Thời gian này, khủng hoảng tài chính đã bắt đầu Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 40 len lỏi khắp thế giới. Các nền kinh tế toàn cầu bắt đầu phát đi những dấu hiệu giảm tốc. Tới thời điểm này, lạm phát đã không còn là mối bận tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách trên thế giới, mà thay vào đó là sự sụt giảm tăng trưởng. Nỗi lo kinh tế giảm tốc cũng ảnh hưởng mạnh tới triển vọng nhu cầu vàng của thế giới. Những lý do này khiến giá vàng đi xuống trong quý III – quý giảm giá đầu tiên của kim loại quý này kể từ khi khủng hoảng tài chính bắt đầu. Trồi sụt mạnh là xu thế chính của thị trường thế giới quý này, khi tâm lý nhà đầu tư vàng thế giới bị giằng co theo hai hướng: một mặt, lo nhu cầu vàng giảm sút vì suy thoái, mặt khác, lại muốn giữ vàng để đề phòng khủng hoảng. Kết quả, biên độ dao động của giá vàng quý III khá rộng, trong khoảng từ 750 – 980 USD/oz. Quý này ghi nhận những diễn biến hoàn toàn ngược lại của giá vàng trong nước. Với lý do từ đầu tháng 06/2008, Nhà nước ngừng cấp phép nhập khẩu vàng, trong khi nhu cầu vàng trong nước tăng cao, các nhà kinh doanh vàng trong nước liên tục duy trì khoảng cách khá lớn giữa giá vàng thế giới cao hơn giá vàng trong nước. Kết quả là, có lúc, giá vàng thế giới quy đổi đứng ở mức trên dưới 17,4 triệu đồng/lượng, thấp hơn giá vàng trong nước tới 2 triệu đồng/lượng. Đáng chú ý, ở thời điểm giữa tháng 8, do giá vàng thế giới sụt mạnh, nhu cầu mua vàng vào tại thị trường trong nước tăng vọt, các tiệm vàng tại Hà Nội đã áp dụng phương pháp bán hàng bằng ticket, giao hàng sau. Tới quý IV, khủng hoảng tài chính đã hoàn toàn không còn nằm trong biên giới nước Mỹ. Việc cả ba nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đồng loạt suy thoái lần đầu tiên kể từ Đại chiến Thế giới thứ II cũng đưa thời kỳ “bong bóng” của các loại hàng hóa, trong đó có vàng, đi vào hồi kết. Hai tháng đầu của quý IV nhìn chung là một giai đoạn đi xuống của thị trường vàng thế giới và trong nước, với giá vàng thế giới có lúc xuống còn 709,5 USD/oz từ mức trên 900 USD ở thời điểm đầu quý và chủ yếu đứng trên dưới 750 USD/oz. Giá vàng trong nước dao động trong khoảng 17 – 18 triệu đồng/lượng, giữ khoảng cách cao hơn giá vàng thế giới khoảng 1 triệu đồng/lượng. Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 41 Tuy nhiên, tháng 12 ghi nhận sự “ưu ái” trở lại của giới đầu tư thế giới dành cho vàng. Bởi vậy, giá vàng thế giới có xu hướng phục hồi liên tục từ đầu tháng này. Giá vàng trong nước hiện cũng ngang bằng với giá vàng thế giới.  Năm 2009: Tăng khá đều đặn trong các quý I, II, III rồi bứt phá mạnh trong quý IV là xu hướng chính của giá vàng thế giới lẫn giá vàng Việt Nam trong năm 2009. Khởi động năm 2009 với mức giá khoảng 880 USD/oz, giá vàng giao ngay thị trường thế giới đến ngày 23/12 đóng cửa ở mức gần 1090 USD/oz, tăng xấp xỉ 24%. Mức đỉnh cao lịch sử của giá vàng tại thị trường New York ở mức 1215,8 USD/oz thiết lập vào ngày 02/12/2009. Mức giá này đã bỏ xa kỷ lục đóng cửa 1002,8 USD/oz của năm 2008. Điều đáng nói là giá vàng thế giới năm 2009 lập kỷ lục giữa lúc khủng hoảng tài chính không còn căng thẳng như năm 2008, đồng thời rủi ro lạm phát cũng không phải là một mối lo lớn của hầu hết các quốc gia. Tuy không phát huy được tối đa vai trò “hầm trú ẩn an toàn”, giá vàng 2009 lại được hỗ trợ nhiều bởi chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng của nước Mỹ. Xu hướng suy yếu của tỷ giá USD do FED duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục là nhân tố nâng đỡ tích cực nhất cho giá vàng trong năm này. Dưới tác động của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng liên tục khiến thị trường đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. 2009 là một năm tăng giá nhanh và mạnh chưa từng có của vàng trong nước. Ba quý đầu năm chứng kiến một sự tăng trưởng liên tục và đều đặn của giá vàng Việt Nam, từ 18,5 triệu đồng/lượng vào đầu năm leo nhanh đến 20,89 triệu đầu quý II và cán mốc 22,9 triệu đồng/lượng cuối quý III. Chưa dừng lại ở đó, giá vàng còn khiến không chỉ giới đầu tư mà cả các chuyên gia phải bất ngờ khi nhanh chóng tăng tốc chóng mặt hơn cả giai đoạn trước đó. Chỉ trong vọn vẹn 3 tháng cuối năm, giá vàng đã tăng gần 6 triệu đồng/lượng. Cuối năm 2009, chứng kiến một sự kiện gây shock khi giá vàng đạt đỉnh 29,3 triệu đồng/lượng, mức cao nhất trong năm 2009 đồng thời cũng phá vỡ mọi kỷ lục trước đó của giá vàng Việt Nam. Giải thích một phần nguyên nhân việc giá vàng có bước Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 42 tăng vọt đáng chú ý này là do đầu tháng 10/2009, thế giới xôn xao trước tin đồn một số nước vùng Vịnh đang âm thầm bàn thảo một kế hoạch nhằm loại đồng USD ra khỏi giao dịch dầu lửa. Thông tin này sau đó đã bị các nước liên quan phủ nhận, nhưng cũng đủ đẩy tỷ giá USD thế giới sụt sâu, giúp giá vàng có những bước tăng tốc mạnh. Còn một sự kiện khác đáng nhắc đến không kém trong năm 2009 này là ngày lịch sử của thị trường vàng trong nước năm nay là 11/11, khi giá vàng lần lượt chinh phục các mốc giá 27, 28, rồi 29 triệu đồng/lượng chỉ trong vòng có vài giờ đồng hồ buổi sáng. Trước những diễn biến bất thường của thị trường vàng trong nước, NHNN đã quyết định cho nối lại hoạt động nhập khẩu vàng nhằm hạ nhiệt thị trường. Quyết định được công bố vào chiều ngày 11/11 này được xem như một liều thuốc giải nhiệt hiệu quả và kịp thời đối với cơn sốt vàng đang ở đỉnh điểm. Trước đó, hoạt động nhập khẩu vàng đã bị tạm ngừng một năm rưỡi. Sau khi vấn đề nguồn cung được giải quyết, giá vàng tiếp tục có những biến động mạnh do xu hướng leo thang của tỷ giá USD thị trường tự do. Tuy nhiên, vấn đề này đã được khắc phục sau khi NHNN nâng mạnh tỷ giá USD/VND liên ngân hàng và thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/– 5% về +/– 3% vào ngày 25/11.  Năm 2010: Trên thị trường quốc tế, năm 2010 đã là năm tăng giá thứ 10 liên tục của vàng. Giới đầu tư đổ xô vào thị trường kim loại quý này để tìm kiếm sự bảo đảm giá trị tài sản trước cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu, nỗi lo mất giá của tiền giấy, tốc độ phục hồi kinh tế chậm chạp tại Mỹ và lạm phát có chiều hướng gia tăng mạnh tại các nền kinh tế phát triển. Nhiều NHTW trên thế giới, đặc biệt là các NHTW tại châu Á, đã đẩy mạnh mua vàng dự trữ trong năm 2010. Trong đó phải kể tới đợt mua 200 tấn vàng từ IMF của NHTW Ấn Độ. Trong khi đó, sau 1 thập kỷ ròng liên tục bán vàng ra, các NHTW ở khu vực châu Âu trong năm 2010 đã cắt giảm mạnh hoạt động này. Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 43 Đáng chú ý, trong các quý II và IV của năm, giá vàng thế giới thường xuyên lập và phá kỷ lục. Thậm chí, vàng còn tăng giá khi USD tăng giá so với Euro do tác động từ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu. Kỷ lục của giá vàng giao ngay tại thị trường New York đã được thiết lập vào ngày 07/12, khi giá kim loại này chạm 1432,5 USD/oz. So với đầu năm, giá vàng lúc này đã tăng xấp xỉ 26%. Tại thị trường Việt Nam, từ đầu năm cho đến hết tháng 04/2010, giá vàng trong nước gần như đi ngang quanh trục 27,5 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, với sự tiếp sức của giá vàng quốc tế, giá vàng trong nước bắt đầu bứt phá và bật cao từ đầu tháng 5. Mặt bằng giá mới trên 28 triệu đồng/lượng được duy trì cho tới giữa tháng 8. Tiếp đó, giá vàng lần lượt chinh phục các mốc 29 triệu đồng/lượng, 30 triệu đồng/lượng rồi 31 triệu đồng/lượng trong tháng 9. Trong tháng 10 và 11, được sự hỗ trợ từ cả giá vàng quốc tế, giá USD thị trường tự do, giá vàng trong nước nhanh chóng nhảy qua các ngưỡng từ 32 tới 38 triệu đồng/lượng. Sau đó, với các biện pháp can thiệp mạnh tay của cơ quan chức năng, giá vàng nhanh chóng sụt giảm và tương đối bình ổn ở ngưỡng 36 triệu đồng/lượng trong tháng 12. Ngày đáng nhớ nhất của thị trường vàng trong nước năm 2010 là ngày 09/11. Tương tự như trận sốt vàng xảy ra vào ngày 11/11/2009, giá vàng vào ngày này đội thêm vài triệu đồng/lượng chỉ trong một buổi sáng, lập kỷ lục mọi thời đại ở mức 38,5 triệu đồng/lượng. Do tác động của yếu tố tâm lý, sau một thời gian “cố thủ”, thậm chí là tranh thủ giá vàng tăng để bán ra, người dân đã đổ xô đi mua vàng trong sáng 09/11, bất chấp những kinh nghiệm thua lỗ “thương đau” của năm trước. Như lý giải của giới kinh doanh vàng, các chuyên gia và cơ quan chức năng, có nhiều yếu tố đẩy giá vàng trong nước tăng 35% trong năm này. Bên cạnh yếu tố vàng thế giới tăng giá, giá vàng trong nước năm 2010 còn được đẩy lên bởi những yếu tố khác. Thứ nhất là tỷ giá USD thị trường tự do tăng mạnh. Ở thời điểm cuối năm trước đó, USD giao dịch trên thị trường tự do giao dịch ở mức trên 19200 đồng rồi tăng đến 21000 đồng; trong tháng 11, giá USD tự do đã có thời điểm lập đỉnh ở Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 44 mức gần 21600 đồng. Thứ hai là chênh lệch cung – cầu vàng trong nước. Theo số liệu do Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu cung cấp, trong 9 tháng đầu năm 2010, Việt Nam chỉ nhập về 6,86 tấn vàng, nhưng xuất khẩu tới 72,87 tấn kim loại quý này. Như vậy, lượng vàng xuất siêu khỏi Việt Nam trong 3 quý đầu năm là 66,01 tấn. Thứ ba là yếu tố tâm lý và không loại trừ yếu tố đầu cơ đã đẩy giá vàng tăng chóng mặt. Lo ngại tình trạng tăng liên tục của giá vàng quốc tế và giá USD tự do trong nước, người dân đã đẩy mạnh mua vàng trong các tháng 10 và 11. Chênh lệch lớn thường xuyên xuất hiện giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế cũng là một đặc điểm đáng chú ý của thị trường vàng năm 2010. Khi lý giải về hiện tượng này, đỉnh điểm là chênh 2 triệu đồng/lượng vào ngày 09/11, giới kinh doanh vàng luôn đưa ra lý do là lực mua mạnh, lực bán yếu, doanh nghiệp không tìm được đủ nguồn hàng cân đối vì không được cấp phép nhập khẩu, không còn được kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài. Đặc biệt, sau khi Thông tư 22 siết hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của các NHTM được ban hành, các doanh nghiệp kim hoàn cũng “than thở” là không còn được vay hay mua vàng từ ngân hàng như trước. Trong năm này, các cơ quan chức năng tiếp tục có những biện pháp mạnh để đưa thị trường vàng vào vòng kiểm soát. Ngoài Thông tư 22 của NHNN siết hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của các NHTM được ban hành, Bộ Tài chính còn ra quyết định giảm thuế nhập khẩu vàng từ 1% về 0%, tăng thuế xuất khẩu vàng từ 0% lên 10% kể từ tháng 01/2011. Trước đó, trong năm 2009, cơ quan chức năng đã đóng cửa các sàn giao dịch vàng và chấm dứt hoạt động giao dịch vàng tài khoản ở nước ngoài.  Năm 2011: Biến động mạnh, vọt lên đỉnh cao và lùi xuống rất nhanh – đó là tóm tắt ngắn gọn về diễn biến của thị trường vàng thế giới trong năm 2011. Trong nửa đầu năm những bất ổn chính trị trên thế giới, trong đó phải kể đến “mùa Xuân Arập” kéo dài và lan rộng tại Bắc Phi và Trung Đông, cùng với nỗi lo Đạ i h ọc K inh tế Hu ế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 45 khủng hoảng nợ công tại châu Âu dần đẩy vàng từng bước lên hơn 1500 USD/oz. Tháng 7, 8 và 9 là lúc vàng “sục sôi” nhất. Cơn sốt kéo dài khiến giá kim loại quý này liên tiếp xác lập các kỷ lục mới, trên 1600, 1700, 1800 và 1900 USD/oz, với tốc độ tăng chóng mặt. Theo các chuyên gia phân tích, nguyên nhân chính đẩy giá vàng lên cao đó là việc các nhà đầu tư “quay lưng” lại với các tài sản rủi ro, chuyển hướng sang vàng và coi đây là “nơi trú ẩn an toàn” cho tài sản của họ, đặc biệt là sau khi hãng đánh giá tín nhiệm quốc tế Standard & Poor (S&P) lần đầu tiên trong lịch sử đã hạ xếp hạng tín nhiệm của Mỹ từ mức vàng AAA xuống AA+. Bên cạnh đó, giá vàng còn chịu sức ép bởi mối lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ công tiếp tục lây lan sang nhiều nước tại châu Âu và báo cáo của IMF, cho biết nhiều NHTW các nước trên thế giới tiếp tục nâng mức dự trữ vàng, khẳng định xu hướng chuộng vàng hơn các loại tiền tệ mạnh khác trong kho dự trữ ngoại hối của họ. Sau khi “thăng hoa” trên đỉnh cao 1923 USD/oz phiên ngày 06/09, vàng lập tức để mất gần 100 USD và rơi xuống dưới ngưỡng 1900 USD/oz ngay phiên kế tiếp, do đồng USD mạnh lên làm vàng trở nên kém hấp dẫn giới đầu tư. Từ đó đến tháng 11, vàng liên tục “đu đưa,” cố gắng tìm lại ngưỡng cao 1800 USD/oz song lại để tuột mất; sau đó liên tục “dập dềnh” quanh mức 1700 USD/oz. Cuối năm 2011, giá vàng dao động dưới ngưỡng 1600 USD/oz và như vậy đã giảm hơn 18% so với đỉnh điểm của năm và chỉ còn cách mức khởi điểm của năm 2011 chưa đầy 200 USD trên mỗi oz. Giai đoạn nửa đầu năm 2011, giá vàng khá bình ổn, dao động từ 38 triệu đồng/lượng, từ nửa cuối năm 2011, giá vàng lên cơn sốt khi liên tục phá vỡ các mốc quan trọng và lập kỷ lục 49 triệu đồng/lượng vào ngày 23/08/2011, tăng 36% so với mốc 36 triệu đồng/lượng vào cuối năm năm 2010. Giá vàng trong nước khởi động ở mức 35,8 triệu đồng/lượng. Ngay sau khi Việt Nam điều chỉnh tỷ giá tăng kỷ lục tới 9,3% vào ngày 11/02 thì giá vàng bắt đầu bứt phá lên mức 36 triệu đồng lượng mặc dù giá vàng thế giới không ghi nhận biến Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 46 động nào đáng kể. Sau khi Chính phủ đánh động về khả năng cấm kinh doanh vàng miếng đồng thời siết chặt quản lý thị trường ngoại tệ tự do nhằm thực thi Nghị quyết 11/2011/NQ – CP thì thị trường vàng lập tức hạ sốt với giá vàng lùi về dưới 38 triệu đồng/lượng, thậm chí, giá vàng trong nước còn diễn biến ngược chiều thế giới khi lui về mức 37 – 37,5 triệu đồng/lượng còn giá thế giới lại vọt lên 1430 – 1440 USD/oz. Đến đầu tháng 8, một cơn sốt vàng trầm trọng diễn ra do giá vàng thế giới tăng mạnh khiến giá vàng trong nước cũng tăng tới 5 triệu đồng/lượng chỉ trong 2 ngày 08 và 09/08. Đến cuối tháng 9, khi giá vàng thế giới giảm đột ngột, thị trường vàng Việt nam lại chứng kiến cảnh hỗn loạn đội mưa để bán vàng khi giá vàng lao dốc xuống 41 triệu đồng/lượng, hậu quả của việc đầu tư vàng theo tâm lý đám đông. Tính chung cả năm, giá vàng cuối năm 2011 tăng 24,09% so với cuối năm trước nhưng tính bình quân lại tăng tới 39%. 2.3. Phân tích diễn biến giá vàng Việt nam giai đoạn 2012 – 03/2015: Đơn vị tính: triệu đồng/lượng Hình 2.3. Biểu đồ diễn biến giá vàng giai đoạn 2012 – 03/2015 (Nguồn: Tổng cục Thống Kê) 30000000 35000000 40000000 45000000 50000000 Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 47  Năm 2012: Trong năm 2012, thị trường vàng lại khá trầm lắng. Sau đợt tăng vào đầu năm, giá vàng giảm nhanh và duy trì mức đáy trong suốt 4 tháng trước khi tăng trở lại vào tháng 9. Trong quý đầu tiên của năm, giá vàng có xu hướng tăng mạnh, từ 1598 USD/oz lên đến mức đỉnh 1781 USD/oz vào cuối tháng 2 sau khi Chủ tịch FED – Ben Bernanke hứa sẽ giữ lãi suất thấp cho đến cuối năm 2014. Bernanke cũng đã lờ mờ ám chỉ về các chính sách nới lỏng tiền tệ của mình. Với những lý do đó, họ sẽ khiến giá trị của đồng USD sụt giảm và thúc đẩy hấp dẫn của vàng như là một tài sản cất trữ có giá trị. Hơn nữa, nhu cầu của Ấn Độ và Trung Quốc (chiếm khoảng 40 – 50% nhu cầu vàng vật chất) vẫn tiếp tục hỗ trợ cho thị trường. Theo truyền thống, vàng được coi như một món quà trong năm mới của người dân Trung Quốc, do đó vào giai đoạn này, nhu cầu vàng tăng cao giúp giá vàng giữ được đà tăng trưởng. Tuy nhiên, đến tháng 3 giá vàng bất ngờ giảm mạnh sau đó giữ xu hướng giảm đến tận tháng 8, giá vàng dao động quanh mức 1550 – 1600 USD/oz. Nguyên nhân làm vàng thế giới rớt giá được cho là do Chủ tịch FED – Ben Bernanke và Ủy ban Kinh tế chung của Quốc hội Mỹ vừa có phiên điều trần, cho rằng kinh tế Mỹ đang tăng trưởng với tốc độ vừa phải và đối mặt với nhiều khó khăn nhưng không nhắc tới một biện pháp kích thích kinh tế nào. Điều này gây thất vọng cho giới đầu tư khiến họ nhanh chóng bán vàng. Sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ sau khủng hoảng cùng với sự tăng giá của đồng USD trong bối cảnh đồng EUR mất giá nghiêm trọng do khủng hoảng nợ công châu Âu cũng là một nguyên nhân khiến giá vàng giảm trong thời gian này. Tháng 09/2012 chứng kiến sự tăng trưởng trở lại của giá vàng, lên gần mức 1800 USD/oz vào tháng 10. Đợt tăng giá của vàng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, lo sợ lạm phát gia tăng khi Chủ tịch NHTW châu Âu (ECB) cho biết sẽ làm bất cứ điều gì để ngăn chặn việc giải tán khu vực đồng tiền chung. Cùng Đạ i h ọc K i h tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 48 lúc, Chủ tịch FED cũng cho biết kế hoạch kích thích nền kinh tế Mỹ ở tất cả các ngành, từ bất động sản đến thị trường tài chính. Các nhà đầu tư lo ngại những nỗ lực này sẽ dẫn tới việc một khối lượng tiền lớn sẽ được in và đẩy vào thị trường, dẫn tới lạm phát gia tăng. Ngay lập tức họ mua vàng, và đẩy giá lên cao. Thứ hai, vấn đề chính trị căng thẳng trong tam giác Iran – Mỹ – Israel, nguy cơ bất ổn ở Trung Đông, dấu hiệu xảy ra chiến tranh ở khu vực Thái Bình Dương, tranh chấp khó giải quyết giữa Trung Quốc và Nhật Bản về vấn đề chủ quyền đảo... khiến kinh tế thế giới rơi vào giai đoạn nhạy cảm. Thứ ba, tất cả các NHTW, đặc biệt là Trung Quốc, đều dốc túi mua vào ngân quỹ lượng lớn kim loại này làm cầu tăng mạnh. Thứ tư, nguy cơ suy thoái kinh tế trên toàn thế giới khi trên thực tế, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng, Trung Quốc dường như sẽ "hạ cánh cứng" vào cuối năm 2012, nợ công ở hầu hết các quốc gia đều trên mức cho phép, khu vực đồng tiền chung châu Âu đứng trước nguy cơ tan vỡ. Thị trường vàng trong nước trong năm 2012 cũng theo sát kịch bản thế giới. Giá vàng trong nước chịu tác động của giá vàng thế giới nhưng phần lớn lại được điều chỉnh dưới tác động của các chính sách điều hành. Từ mức giá 42,7 triệu đồng/lượng đầu năm 2012, đến cuối năm giá vàng trong nước đạt mức 46,3 triệu đồng/lượng, tăng 3,6 triệu đồng/lượng, tương đương 8,43%. Trong hầu hết thời gian giá vàng trong nước đều chênh lệch cao hơn thế giới, có giai đoạn lên trên 3 triệu đồng/lượng. Có sự chênh lệch này là do sự bất cân xứng giữa cung và cầu vàng trong nước. Trong khi nhu cầu vàng cao thì nguồn cung lại bị hạn chế do chính sách của Nhà nước về việc nhập khẩu và gia công vàng.  Năm 2013: Năm 2013 có thể được xem như một năm thất bại lớn đối với vàng trên nhiều phương diện. Không những giá vàng giảm mạnh nhất trong hơn 3 thập kỷ, kim loại quý này còn không được các nhà đầu tư xem trọng như những năm trước. Chốt năm 2012, giá vàng giao ngay tại thị trường New York dừng ở mức 1676,2 USD/oz. Tuy nhiên, đóng cửa phiên giao dịch ngày 24/12/2013, giá vàng Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 49 giao ngay tại New York chỉ còn 1205,3 USD/oz. Như vậy, giá vàng đã giảm 470,9 USD/oz trong năm 2013, tương đương mức giảm 28%. Đà giảm chóng mặt của giá vàng quốc tế trong năm này là kết quả của nỗi lo về khả năng FED sẽ sớm thu hẹp quy mô của gói nới lỏng định lượng QE3 trong bối cảnh kinh tế Mỹ phát đi những tín hiệu phục hồi khả quan. Trong tháng 6, giá vàng giao ngay đã rớt xuống mức thấp nhất trong hơn 3 năm về khoảng 1180 USD/oz do những lo ngại này. Như nhiều lời đồn đoán trước đó, ngày 18/12/2013 FED đã cắt giảm gói QE3. Sau khi quyết định của FED được công bố, giá vàng tiếp tục giảm, tuột khỏi mốc 1200 USD/oz trước khi chật vật thiết lập lại ngưỡng hỗ trợ kỹ thuật quan trọng này vài ngày sau đó. Một số nhà phân tích bình luận, dù đã được tiên liệu từ trước, quyết định của FED giống như một cú “knock out” đối với giá vàng. Các yếu tố bất lợi khác đối với giá vàng như lạm phát toàn cầu thấp, sự tăng điểm liên tục lên các ngưỡng kỷ lục của thị trường chứng khoán Mỹ hay đồng USD mạnh lên cũng “chung tay” đẩy giá vàng lao dốc không điểm dừng. Những năm trước đó, khủng hoảng tài chính rồi khủng hoảng nợ công thúc đẩy giới đầu tư mua vàng để tìm kiếm sự an toàn. Năm 2013, khủng hoảng đã lắng xuống và người ta nói nhiều tới câu chuyện phục hồi tăng trưởng, thì địa vị “vịnh tránh bão” của vàng không còn được phát huy mạnh nữa. Đối với thị trường vàng trong nước, mở đầu năm 2013, giá vàng được giao dịch ở mức 46,6 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, từ thời điểm đó, vàng đã liên tục biến động và có xu hướng giảm rõ ràng. Kết thúc năm 2013, giá vàng cũng tụt xuống vùng thấp nhất của năm là 34,78 triệu đồng/lượng. Tính chung cả năm 2013, giá vàng bán ra đã giảm 11,82 triệu đồng/lượng, tương đương 25,34%. Trong khi đó, vàng mua vào giảm 11,4 triệu đồng/lượng, tương đương 24,7%. Như vậy, có thể thấy, vàng trong nước và quốc tế có mối quan hệ rất chặt chẽ. Sau mỗi lần vàng thế giới biến động, vàng trong nước cũng đều phản ứng theo. Tuy mức giảm giá của vàng trong nước phản ánh gần hết mức giảm của giá vàng thế giới, so với diễn biến của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước có diễn biến “êm” hơn nhiều. Điều này thể hiện qua việc giá vàng SJC từ đầu năm tăng và giảm đều chậm hơn giá vàng thế Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 50 giới nên không gây ra những đợt “sóng” lớn trên thị trường. Nguyên nhân là do trong năm 2013, NHNN đã can thiệp mạnh nhằm thắt chặt quản lý thị trường vàng trong năm 2013. Với mục đích bình ổn thị trường vàng và đưa vàng khỏi rổ tiền tệ, NHNN đã trở thành nhà độc quyền sản xuất và cung cấp vàng miếng. Từ ngày 28/03, NHNN bắt đầu tổ chức đấu thầu vàng miếng. Cùng với triển khai đấu thầu vàng, NHNN còn áp dụng Thông tư 12/2012/TT – NHNN. Theo đó, NHNN đã bắt các tổ chức tín dụng chấm dứt hoạt động huy động và cho vay vàng trước ngày 30/06. Những chính sách này đang phát huy tác dụng giúp cho thị trường hoạt động trật tự hơn và cũng khiến cho vàng giảm bớt ảnh hưởng tới cung tiền (người dân không thể sử dụng vàng như một loại tiền tệ).  Năm 2014: Phiên giao dịch đầu tiên của năm 2014 diễn ra trong bối cảnh thị trường vàng trầm lắng cùng với những dự báo bi quan về sự tụt dốc của vàng trong năm mới do viễn cảnh thị trường chứng khoán phục hồi và triển vọng tươi sáng của kinh tế toàn cầu khiến vàng không còn sức hấp dẫn đối với giới đầu tư như trước. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là thị trường vàng năm 2014 sẽ chỉ có một hướng di chuyển là đi xuống, bởi theo ghi nhận 2 tháng đầu năm 2014 cho thấy giá vàng đã tăng 4,5% nhờ nhu cầu vàng trang sức đầu năm của các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc tăng mạnh bù đắp sự thoái lui của đầu tư vào vàng thỏi. Bên cạnh đó là những e ngại về tình hình Ukraine khiến giá vàng cũng có sự tăng nhẹ. Đến đầu tháng 3, bế tắc chính trị giữa Nga và các nước phương Tây leo thang, nhu cầu mua vàng để phòng tránh rủi ro lại gia tăng khiến giá vàng tăng mạnh lên mức 1385 USD/oz. Tuy nhiên đây chỉ là cú hích tạm thời, khi tình hình bất ổn có phần lắng dịu, vào tháng 4 giá vàng đã giảm trở lại. Thời điểm đầu năm, ngày 22/01/2014, giá vàng chạm đáy 34,88 triệu đồng/lượng. Trong năm 2014, có thời điểm giá vàng SJC đã lên tới 37 triệu đồng/lượng. Đỉnh điểm nhất đó là trong phiên giao dịch ngày 20/05, giá vàng đã lập đỉnh với mức giá mua vào, bán ra ở mức: 37 – 37,15 triệu đồng/lượng. Cuối tháng Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 51 05/2014 giá vàng trong nước có thời điểm tăng mạnh, ngược chiều với thế giới. Từ tháng 6 trở đi, xu hướng giảm giá của thị trường vàng thể hiện rõ nét, vàng trong nước diễn biến khá sát với thế giới. Tuy nhiên, do mức độ điều chỉnh khác nhau cộng với sự biến động của tỷ giá USD trong nước, nên chênh lệch bị nới rộng, đến ngày cuối cùng của năm 2014 duy trì ở mức 4,2 triệu đồng/lượng (tăng 200000 đồng/lượng so với đầu năm). Đầu tháng 11/2014, giá vàng trải qua lần chạm đáy thứ 2 trong năm, ở mức 37,4 triệu đồng/lượng. Nhân tố chính gây áp lực lên giá vàng 2014 là đồng USD. Tờ bạc xanh vừa có năm tăng giá nhiều nhất kể từ 2005. Nhiều dự đoán cho rằng lãi suất cơ bản sẽ được điều chỉnh tăng trong năm tới, điều này sẽ càng khiến USD mạnh thêm. Ngược lại, giá vàng sẽ càng chịu áp lực. Trong năm 2014, NHNN cũng đã dừng hoàn toàn việc đấu thầu vàng miếng sau khi đã bơm ra thị trường gần 68 tấn vàng trong năm 2013 nhằm bình ổn thị trường.  Quý I năm 2015: Quý I/2015, sau khi tăng trong 20 ngày đầu tháng 1/2015, giá vàng đã quay đầu giảm liên tục 2 tháng tiếp theo, nửa cuối tháng 3/2015 tăng nhẹ trở lại. Những yếu tố chính tác động tăng giá vàng: NHTW châu Âu công bố gói nới lỏng định lượng làm tăng vai trò trú ẩn an toàn của vàng trong bối cảnh nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ngoài ra, nhu cầu vàng vật chất tại Trung Quốc, Châu Á tăng trong dịp Tết Âm lịch Ất Mùi, đẩy giá vàng tăng. Những yếu tố làm giá vàng giảm: USD tăng giá liên tục trong 3 tháng đầu năm 2015 làm lu mờ vai trò tài sản đầu tư của vàng; giá dầu thô thị trường thế giới đứng dưới ngưỡng 52 USD/thùng cũng góp phần giảm nhẹ áp lực tăng giá vàng. Đầu năm 2015 giá vàng có chiều hướng tăng so với cuối năm 2014, dao động trong khoảng 35,34 triệu đồng/lượng. Đến giữa tháng 2, giá vàng trong nước có chiều hướng đi xuống theo giá vàng thế giới và nhu cầu của người dân cũng giảm Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 52 dần. Tuy nhiên, sau kỳ nghỉ Tết nguyên đán giá vàng có tăng nhẹ nhưng giao dịch khá ảm đạm trong suốt tháng 2. Tháng 03/2015, ghi nhận giá vàng thế giới giảm trong 10 ngày đầu tháng, đứng ở mức thấp trong 7 ngày tiếp theo, tăng ở 12 ngày cuối tháng. Mức giá trung bình tháng: 1179,23 USD/oz, cao nhất: 1223,00 (3/3), thấp nhất: 1142,40 (17/3). Trong khi đó, tháng 03/2015, thị trường vàng miếng trong nước dao động quanh mức 35 triệu đồng/lượng, giao dịch trầm lắng. Sự không liên thông giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới khiến giá vàng không được co hẹp đáng kể. Chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới vẫn ở mức cao, có lúc lên khoảng 5 triệu đồng/lượng. Trong tháng 3/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 36/2015/TT – BTC ngày 23/03/2015 sửa đổi mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng vàng trang sức, kỹ nghệ và các sản phẩm khác bằng vàng thuộc các nhóm 71.13, 71.14, 71.15. Tính chung, những tháng đầu năm 2015, thị trường vàng trong nước vẫn khá trầm lắng trong bối cảnh thị trường thế giới biến động mạnh. Giá vàng chủ yếu xoay quanh mốc 35,2 – 35,5 triệu đồng/lượng. Trên thế giới, giá vàng có những thời điểm biên độ lên giá khá mạnh. Giá vàng trong nước tăng dè dặt hơn. Điều này cho thấy sức hút của vàng đối với người dân đã giảm sau hàng loạt chính sách quản lý thị trường vàng được NHNN ban hành. Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 53 Chương 3 DỰ BÁO GIÁ VÀNG TỪ THÁNG 04/2015 ĐẾN THÁNG 06/2015 Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, tôi sử dụng mô hình ARIMA và phương pháp Box – Jenkins, phân tích dựa vào dữ liệu quá khứ để tiến hành dự báo giá vàng Việt Nam trong tháng 4, 5 và 6/2015. 3.1. Định dạng mô hình:  Chuỗi dữ liệu giá vàng: Dữ liệu được sử dụng để dự báo là chuỗi giá vàng SJC được tổng hợp theo tháng, gồm 123 quan sát từ tháng 01/2005 đến tháng 03/2015. Hình 3.1. Đồ thị chuỗi dữ liệu giá vàng (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 54 Hình 3.2 Thống kê mô tả chuỗi dữ liệu giá vàng (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Dựa vào thống kê mô tả và đồ thị, trong khoảng thời gian 10 năm qua giá vàng biến động rất mạnh. Mức giá trung bình là 27,87 triệu đồng/lượng tuy nhiên mức giá thấp nhất chỉ là 10,1 triệu đồng/lượng, mức cao nhất lên đến 48,15 triệu đồng/lượng.  Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu giá vàng: Từ kết quả kiểm định ta có | | = 1,373980 < , với mọi mức ý nghĩa α =1% (| | = 3,485115), α = 5% (| | = 2,885450), α = 10% (| | = 2,579598) ta kết luận chuỗi dữ liệu giá vàng là chuỗi không dừng.  Chuỗi sai phân giá vàng: Để khắc phục chuỗi không dừng, ta lấy sai phân bậc 1 của chuỗi giá vàng ban đầu với công thức như sau: DYt = Yt – Yt – 1, với Yt là chuỗi giá vàng Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 55 Hình 3.3. Biểu đồ sai phân bậc 1 giá vàng (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Hình 3.4. Thống kê mô tả chuỗi sai phân bậc 1 giá vàng (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Chuỗi sai phân bậc 1 giá vàng trong khoảng thời gian này thấp nhất ở mức – 25,8 và cao nhất là 55,7, giá trị trung bình đạt 19,7. Đạ i h ọc K inh tế Hu ế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 56 Đồng thời, dựa vào đồ thị ta có thể kỳ vọng chuỗi sai phân bậc 1 giá vàng là một chuỗi dừng. Để chắc chắn hơn, ta tiến hành kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 giá vàng:  Kiểm định tính dừng của chuỗi sai phân bậc 1 giá vàng: Từ kết quả kiểm định ta có | | = 7,384514 > α, với mọi mức ý nghĩa α = 1% (| | = 3,485115), α = 5% (| | = 2,885450), α = 10% (| | = 2,579598) ta kết luận chuỗi sai phân giá vàng là chuỗi dừng. Dữ liệu chuỗi sai phân của vàng đã đáp ứng yêu cầu là chuỗi thời gian có tính dừng nên có thể sử dụng mô hình trung bình trượt kết hợp tự hồi quy ARMA để dự báo sai phân giá vàng trong lương lai.  Xác định p, q của mô hình ARIMA: Dựa vào biểu đồ PAC, p có thể nhận giá trị {1,21}. Tương tự như vậy, dựa vào biểu đồ AC, q có thể nhận các giá trị {1,21,28}. Như vậy, ta có các mô hình ARIMA sau để ước lượng: ARIMA(1,1,1); ARIMA(1,1,21); ARIMA(1,1,28); ARIMA(21,1,1); ARIMA(21,1,21); ARIMA(21,1,28). 3.2. Kiểm định tính thích hợp của mô hình:  Kiểm tra tính nhiễu trắng của 5 mô hình: Dựa vào lược đồ tương quan SACF và SPACF cho phần dư. Nếu SACF và SPACF không có thành phần có ý nghĩa thống kê thì nhiễu trắng. Hay, giá trị sig của phần dư lớn hơn 5% thì nhiễu trắng. Theo kiểm tra thì chỉ có 2 mô hình ARIMA(1,1,21) và ARIMA(21,1,1) có nhiễu trắng.  Ý nghĩa thống ý kê: Cả hai mô hình có nhiễu trắng đều có ý nghĩa thống kê. Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 57  Sử dụng tiêu chuẩn kiểm định AIC và SIC để lựa chọn độ trễ cũng như mô hình phù hợp: Mô hình có giá trị AIC và SIC càng thấp thì mô hình càng phù hợp. Ngoài ra cũng cần quan tâm tới gia trị R2, R2 càng lớn mô hình xây dựng càng phù hợp. Bảng 3.1. Lựa chọn mô hình ARIMA phù hợp Mô hình Hệ số hồi quy AR P – value Hệ số hồi quy MA P – value AIC SIC R 2 ARIMA(1,1,21) 0,424 0,00 0,402 0,00 30,459 30,529 0,229 ARIMA(21,1,1) 0,333 0,0010 0,522 0,00 28,926 29,025 0,895 (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Dựa vào bảng trên, mô hình ARIMA(21,1,1) với hệ số AIC, SIC nhỏ nhất (các chỉ số này càng nhỏ thì dự báo càng chính xác) và R2 cao nhất là mô hình phù hợp nhất để dự báo. 3.3. Dự báo: Hình 3.5. Kết quả dự báo theo mô hình ARIMA(21,1,1) (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 58 Hình 3.6. Đồ thị so sánh giữa giá vàng thực tế và giá vàng dự báo theo mô hình ARIMA(21,1,1) trong giai đoạn 01/2005 – 03/2015 (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Nhìn vào đồ thị ta thấy hai đường giá trị sai phân giá vàng thực tế và dự báo dao động tương tự nhau, thậm chí có những giai đoạn trùng khớp nhau, chứng tỏ mô hình này dự báo tốt. Sau khi dự báo được sai phân của vàng, tiến hành quy đổi sang giá vàng theo công thức, ta được bảng dự báo giá vàng như sau: Bảng 3.2. Kết quả dự báo giá vàng Đơn vị tính: triệu đồng/lượng Tháng Sai phân Giá vàng 4/2015 – 1083224.489 34626102.16 5/2015 153692.8535 34779795.01 6/2015 368909.5079 35148704.52 (Nguồn: Kết quả xử lý bằng phần mềm Eviews) Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 59 Nhận xét: Giá trị R2 của mô hình đạt đến 0,895 có nghĩa là mức tin cậy của mô hình sử dụng đạt đến 89,5%. Dựa vào mô hình đã xác định được, giá vàng dự báo cho tháng 04/2015 là 34,6 triệu đồng/lượng, so sánh với giá vàng thực tế trong tháng này 35,3 triệu động/lượng, chênh lệch 0,71 triệu đồng/lượng. Sai số dự báo khoảng 1,98%, mức sai số này là rất thấp, càng củng cố thêm cho sự đáng tin cậy của mô hình đã lựa chọn. Trong 2 tháng tiếp theo, dự báo giá vàng sẽ quay trở lại đà tăng sau 2 tháng chứng kiến sự giảm giá. Tuy nhiên đây có lẽ chỉ sẽ là một đợt tăng nhẹ, với mức tăng thấp hơn cả hồi đầu năm. Trong tháng 5 giá vàng dự báo sẽ xoay quanh mức 34,78 triệu đồng/lượng và có thể dao động trong khoảng 35,1 triệu đồng/lượng vào tháng 6. Theo nhận định chủ quan của cá nhân tôi, điều này là phù hợp với diễn biến hiện nay. Quý I năm 2015 chứng kiến sự phục hồi của thị trường bất động sản. Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ Xây dựng, lượng giao dịch bất động sản trong 3 tháng này đã tăng rất cao. Trong thời gian tới, thị trường này được kỳ vọng sẽ còn tiếp tục ấm dần lên, khi mà có nhiều chủ đầu tư có uy tín và tiềm lực tài chính hơn đã tham gia vào thị trường và họ cũng quan tâm nhiều hơn về chất lượng, sự tiện ích của công trình và giá cả phù hợp với từng phân khúc thị trường. Ngoài ra, sự hợp tác giữa các nhà thầu, chủ công trình với các ngân hàng giúp các dự án được quản lý nguồn vốn hiệu quả, minh bạch hơn, tạo được lòng tin ở công chúng. Thị trường chứng khoán cũng đang có dấu hiếu khởi sắc sau một thời gian dài đóng băng. Với những thông tin vĩ mô đang tích cực hơn, dưới góc nhìn của nhiều chuyên gia thì trong quý II này, VN–Index sẽ bước vào giai đoạn tăng. Vì vậy, thời điểm này các nhà đầu tư đã có nhiều sự lựa chọn hơn cũng như an tâm hơn vào những kênh đầu Đạ i h ọc Ki nh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 60 tư khác ngoài vàng, nên việc đổ xô vào vàng khiến giá vàng tăng vọt sẽ không diễn ra trong 2 tháng tới. Tuy vậy, những minh chứng kể trên vẫn không thể khiến giá vàng trong 2 tháng tới giảm như trên lý thuyết, mà thậm chí giá vàng trong tháng 5 và 6 còn được dự báo là sẽ tăng nhẹ. Điều này có thể được giải thích bằng một số lý do sau. Hai thị trường này chỉ vừa có những dấu hiệu ấm dần lên, cộng với tâm lý và truyền thống cất giữ vàng từ xưa nên không thể thay thế hoàn toàn được vàng. Hơn nữa, yếu tố giá chứng khoán không phải là yếu tố thường xuyên tác động đến giá vàng. Đặc biệt, phải kể đến nguyên nhân chính là do kinh tế thế giới năm 2015 chưa phục hồi một cách rõ nét và vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn. Kinh tế Mỹ, Anh, khu vực Đông Á và một số nền kinh tế mới nổi là những điểm sáng, song các đầu tàu kinh tế khác như khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone) và Nhật Bản tăng trưởng hết sức ì ạch, sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế Trung Quốc khiến cho đà phục hồi kinh tế toàn cầu thực tế không đồng đều và yếu hơn dự báo trước đó. Hơn thế nữa, thời điểm hiện tại, thế giới đang phải đối mặt với rất nhiều bất ổn địa – chính trị ở Trung Đông, xung đột ở Ukraine, bệnh dịch Ebola ở Tây Phi, sự nổi dậy của Nhà nước tự xưng IS hay căng thẳng trên khu vực Biển Đông gây sức ép lên tăng trưởng kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Các nhà kinh tế thuộc ngân hàng Bank of America Merrill Lynch cho rằng kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng trưởng ở 3,2% trong năm này. Với những dự báo không mấy khả quan đó cùng với những bất ổn đang diễn ra trên thế giới, một bộ phận không nhỏ giới đầu tư ở Việt Nam vẫn chọn vàng như một kênh đầu tư an toàn lâu dài. Vì vậy, giá vàng được dự đoán sẽ liên tiếp tăng trong hai tháng tới, dù mức độ tăng này là không quá cao. Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 61 PHẦN III: KẾT LUẬN 1. Kết luận: Qua đề tài “Ứng dựng mô hình ARIMA dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn”, bài nghiên này đã trình bày một số lý thuyết về vàng cũng như giới thiệu tổng quan về thị trường vàng; từ cơ sở đó để phân tích biến động giá vàng Việt Nam trong khoảng thời gian 01/2005 – 03/2015 và đưa ra dự báo giá vàng trong nước 3 tháng tới. Biến động giá vàng Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu được phân tích thông qua các nhân tố ảnh hưởng, đó là: mối quan hệ cung – cầu, sức mạnh của đồng USD, giá dầu, lạm phát, thị trường chứng khoán, tình hình kinh tế của các cường quốc và một số nhân tố khác như tình hình chính trị – xã hội và kịch bản giá vàng thế giới. Đây là giai đoạn mà thị trường vàng chứng kiến những biến động lớn, những đợt tăng giá mạnh cũng như những thay đổi bất ngờ, khó dự đoán. Nguyên nhân là do giai đoạn này chứa đựng nhiều bất ổn về tình hình kinh tế và chính trị của thế giới, từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ, khủng hoảng nợ công châu Âu, biến động chính trị ở Trung Đông, tranh chấp ở Ukraine hay sự nổi dậy của Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS, căng thẳng trên khu vực Biển Đông. Trong nước, giá vàng cũng chịu ảnh hưởng thêm của các chính sách mới về vàng của Chính phủ. Sau cùng, đề tài sử dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong 3 tháng của quý II/2015. Ngoài ra, với số liệu giá vàng tháng 5 thực tế đã có, tác giả đã so sánh giá dự báo với giá thực tế để củng cố thêm sự tin cậy của mô hình đã lựa chọn. Đồng thời đưa ra những nhận định, đánh giá chủ quan về sự chính xác của con số dự báo cho hai tháng tiếp theo. 2. Kiến nghị: Trong bối cảnh kinh tế thế giới nói chung và thị trường vàng nói riêng vẫn đang tiềm ẩn những biến động khó lường, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng. Theo đó, vàng với hàm lượng Đạ i h ọc K inh tế Hu ế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 62 vàng cao nên được quản lý với với tính chất của một công cụ tiền tệ. Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công cụ hữu hiệu đề điều chỉnh cung – cầu vàng, chủ động quản lý có hiệu quả, hiệu lực tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Bên cạnh việc quản lý vàng với tính chất của một công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể cho việc phát triển theo lộ tình quốc tế, đa dạng hóa các kênh đầu tư, liên thông thị trường trong nước và quốc tế. Về phía những nhà đầu tư, ngoài việc chờ đợi giải pháp giúp thị trường vàng trong nước ổn định và khởi sắc trở lại từ phía cơ quan chức năng, thì chính những nhà đầu tư cũng cần phải biết cách bảo vệ khoản đầu tư của mình sao cho nó sinh lời hoặc ít ra là không bị tổn thất. Nghĩa là nhà đầu tư phải thận trọng trong từng quyết định, biết cách đánh giá thị trường, dự báo xu hướng biến động của giá vàng để khoản đầu tư sinh lời trong bối cảnh hiện tại. Theo như dự báo của bài nghiên cứu này, thì giá vàng sẽ tăng nhẹ trong hai tháng 5 và 6 tới đây nên quyết định mua vàng vào thời điểm này có thể được xem là khá đúng đắn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây chỉ là một đợt tăng nhẹ trong ngắn hạn. Ngoài ra, giá vàng không chỉ phụ thuộc vào số liệu quá khứ mà còn bị tác động mạnh mẽ bởi những nhân tố khó lường trong tương lai. Vì vậy, ngoài những dự báo dựa vào số liệu quá khứ, nhà đầu tư cần phải quan tâm đến bối cảnh thị trường, các yếu tố tác động tới giá vàng sẽ như thế nào trong tương lai. 3. Hạn chế của đề tài: Mặc dù đã cung cấp một số kiến thức về vàng và thị trường vàng cũng như cái nhìn toàn cảnh về thị trường vàng thế giới và Việt Nam trong vòng 10 năm trở lại đây và xây dựng được mô hình để dự báo giá vàng trong tương lai, đề tài vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế xuất phát từ những thiết sót về chuyên môn, kiến thức cũng như kĩ năng phân tích, nguồn thông tin, tham khảo Thứ nhất là hạn chế về mặt số liệu. Nghiên cứu này dựa trên bộ số liệu giá vàng SJC được tổng hợp trung bình theo tháng trong vòng 10 năm do Tổng cục Thống Kê công bố. Tuy nhiên, trên thực tế giá vàng thường xuyên biến động nhiều Đạ i h ọc K inh tế Hu ế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn 63 lần trong một ngày và có sự chênh lệch về giá giữa các địa bàn trên cả nước. Do đó số liệu sử dụng trong nghiên cứu này chưa phản ánh hoàn toàn chính xác tình hình biến động thực tế của giá vàng. Thứ hai là hạn chế của mô hình dự báo. Mặc dù, mô hình ARMA được sử dụng khá phổ biến và đã được thực tế chứng minh là có thể dùng để dự báo với độ chính xác tương đối cao. Tuy nhiên, mô hình này chỉ được xây dựng hoàn toàn dựa trên dữ liệu quá khứ nên khả năng giải thích cho biến giá vàng là chưa hoàn toàn chính xác, nhất là trong bối cảnh tình hình kinh tế – chính trị bất ổn dẫn đến những biến động bất thường của giá vàng. Thêm vào đó, giá vàng còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như đồng USD, giá dầu, lạm phát, Thứ ba là hạn chế trong lượng thông tin cung cấp. Đề tài yêu cầu phân tích biến động giá vàng trong thời gian dài với một lượng lớn thông tin cần đưa ra, hơn nữa với hạn chế trong nguồn tài liệu tham khảo, cho nên việc chọn lọc và trình bày thông tin trong bài nghiên cứu chưa thật sự tiêu biểu, đầy đủ và logic. 4. Hướng phát triển của đề tài: Thứ nhất, như đã trình bày ở trên, mô hình ARIMA chỉ đơn thuần dự báo dựa trên số liệu quá khứ. Do đó, để đề tài tăng thêm phần thuyết phục, cần phải lượng hóa mối quan hệ giữa giá vàng với các nhân tố ảnh hưởng bằng cách bổ sung thêm mô hình kinh tế lượng xác định mối quan hệ giữa giá vàng và các nhân tố tác động để có căn cứ hợp lý hơn cho những nhận định và dự báo của đề tài. Thứ hai, để phần dự báo được sát với thực tế và mang tính tin cậy cao hơn, nên đưa vào sử dụng kết hợp một số mô hình khác bên cạnh mô hình ARIMA đã sử dụng, chẳng hạn như mô hình ARCH/GARCH. Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt [1] Nguyễn Quang Dong (2002), Kinh tế lượng – Chương trình nâng cao, NXB Khoa học và kỹ thuật. [2] Damodar N. Gujarati (Biên dịch: Xuân Thành; Hiệu đính: Cao Hào Thi) (niên khóa 2011-2013), Kinh tế lượng cơ sở, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, Chương 21: Chuỗi thời gian trong kinh tế lượng; Chương 22: Kinh tế lượng về chuỗi thời gian II: Dự báo với mô hình ARIMA và VAR. [3] Thái Thị Hạnh Nhi, Dự báo giá vàng Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2010) [4] Nguyễn Trọng Hoài (2007), Giá vàng: Nhân tố ảnh hưởng và dự báo, Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright. [5] Đặng Thị Tường Vân, Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2008) Tiếng Anh [6] Cengiz Toraman, Cagatay Basarir Mehmet, Fatih Bayramogl, “Determination of Factors Affeecting the Price of Gold: A study of GARCH model”, Business and Economics Research Journal (Number 4, 2011) [7] Z. Ismail, A. Yahya, A. Shabri, “Forecasting Gold Prices Using Multiple Linear Regression Method” (2009) [8] G. P. E. Box & G. M. Jenkins, Time Series Analysis: Forecasting and Control, Holden Day, San Francisco, 1978. [9] Box, G.E.P., and G.M. Jenkins, Time Series Analysis: Forecasting and Control, Revised Edition, Holden Day, San Francisco, 1976. [10] Gujarati, D., Basic Econometrics, 4th ed., McGraw Hill, New York, 2003. [11] Newbold, P. and Bos, T., Introductory business and economic forecasting (2nd edition), International Thomson Publishing, 1994. Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn PHỤ LỤC Kiểm định tính dừng của chuỗi giá vàng Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn Kiểm định tính dừng chuỗi sai phân bậc 1 giá vàng Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn Biểu đồ ACF và PACF Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn Ước lượng tham số mô hình ARMA(1,1) Ước lượng tham số mô hình ARMA(1,21) Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn Ước lượng tham số mô hình ARMA(1,28) Ước lượng tham số mô hình ARMA(21,1) Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn Ước lượng tham số mô hình ARMA(21,21) Ước lượng tham số mô hình ARMA(21,28) Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn Mô hình ARMA(1,21) có nhiễu trắng Đạ i h ọc K inh tế H uế Ứng dụng mô hình ARIMA để dự báo giá vàng Việt Nam trong ngắn hạn Mô hình ARMA(21,1) có nhiễu trắng Đạ i h ọc K inh tế H uế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftruong_dieu_thao2_9325.pdf
Luận văn liên quan