Khóa luận Vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam

Sự phối hợp theo hướng khuyến khích các nghiệp vụ tín dụng thế chấp và/ hoặc cầm cố bằng chứng khoán nợ, kiểm soát và xếp hạng giới hạn khắt khe cho việc sử dụng chứng khoán vốn vào các nghiệp vụ nói trên, làm cho thị trường tín dụng ngày càng trở thành kênh giúp sức có hiệu quả nhất cho thị trường chứng khoán trong khi kích thích thị trường chứng khoán thực sự là kênh huy động vốn trung và dài hạn có hiệu quả nhất. Sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian gần đây, xét về mặt số lượng người mua bán, số quốc tịch khác nhau tham gia và tổng giá trị giao dịch gia tăng từ nửa tỷ đồng của 58 mã chứng khoán những năm trước năm 2007, lên tới bình quân 6 nghìn tỷ đồng/phiên của hơn 400 mã chứng khoán đã niêm yết, với tổng giá trị vốn hoá đã tới 40% GDP như thời điểm cuối năm 2009. Ngoài ra từ ngày 24-6-2009, sàn UpCoM của các công ty chứng khoán đại chúng chưa niêm yết được khai trương đến nay đã có 21 mã chứng khoán đăng ký giao dịch trên sàn này Có thể nói rằng, TTCK Việt Nam bắt đầu có ý nghĩa thực sự trong đời sống kinh tế xã hội ở Việt Nam. Điều đó cho thấy triển vọng phát triển của TTCK về lâu dài là rất sáng sủa.

pdf87 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2896 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn tại các CTCK ngày càng tăng. Trong khi đó, tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tính đến tháng 6/2007 của các CTCK là 100 hợp đồng, những CTCK đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết là CTCK Ngân hàng ACB (14 hợp đồng), CTCK Ngân hàng Đông Nam Á. Ngoài ra, còn có các hợp đồng tư vấn khác, như hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các CTCK thuộc các NHTM, như ACBS (35 hợp đồng). Cùng với đó, hoạt động môi giới chứng khoán của các CTCK cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Tính đến hết tháng 6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK lên tới 255.185 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2006, trong đó, những CTCK chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch phần lớn là những CTCK thuộc các NHTM, như:VCBS có 34.490 tài khoản, chiếm 16,52% tổng số tài khoản toàn thị trường, CTCK Ngân hàng Đầu tư (BSC) có 24.525 tài khoản, chiếm 9,61%. Xu hướng sôi động trở lại trong thời gian gần đây của TTCK hứa hẹn nghiệp vụ này sẽ còn tiếp tục phát triển nhiều hơn nữa. 3.1.4. Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán tạo cơ sở phát triển hàng hoá cho thị trường, và hỗ trợ nhà phát hành huy động vốn. Hiện nay, nhiều NHTM đã được phép tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ (trung ương và địa phương), cũng như trái phiếu công ty theo danh sách công bố hàng năm của Bộ Tài Chính. Tuy nhiên, đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cổ phiếu, các NHTM phải thành lập CTCK trực thuộc, và các công ty này đã tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp huy động thành công hàng nghìn tỷ đồng cổ 56 phiếu. Hiện tại, ở Việt Nam có 104 CTCK, có khoảng hơn 10 ngân hàng thành lập CTCK và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện phát hành và phân phối thành công chứng khoán của mình là nhờ uy tín của các CTCK trực thuộc các NHTM. Bên cạnh đó, các hoạt động khác được tiến hành một cách hiệu quả. Hiện nay, phần lớn các NHTM đều đã cung cấp nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và cho vay cầm cố cổ phiếu, cũng như cho vay ứng trước cho khách hàng bán cổ phiếu. Năm 2006, khi TTCK phát triển mạnh mẽ, chỉ số Vn-Index tăng một cách chóng mặt, hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu được các NHTM thực hiện rầm rộ. Tính đến cuối tháng 6/2009, dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM tăng 28,31% so với cuối năm 2008. Các hoạt động này làm tăng uy tín của các NHTM, tạo điều kiện tốt hơn cho các giao dịch của khách hàng. Với sự tham gia của các NHTM trong vai trò là thành viên lưu ký chứng khoán của TTGDCK, hoạt động lưu ký đã được tiến hành một cách trôi chảy. Có thể thấy, hoạt động của các NHTM trên TTCK đã góp phần quan trọng trong việc vận hành thị trường cũng như làm tăng thu nhập đáng kể đối với các NHTM. 3.2. Hạn chế và nguyên nhân 3.2.1. Hạn chế trong việc phát huy vai trò của NHTM đối với sự phát triển của TTCK Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các NHTM vẫn chưa phát huy hết vai trò của mình trên TTCK. Điều này được thể hiện cụ thể qua những mặt sau:  Quy mô hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam vẫn còn nhỏ bé và chưa xứng với tiềm năng phát triển. Mặc dù hiện nay phạm vi hoạt động của các NHTM trên TTCK đã được mở rộng, ngày càng nhiều nghiệp vụ chứng khoán được thực hiện bởi các NHTM, như: phát hành chứng khoán, kinh doanh chứng khoán, đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán,…, tuy nhiên, nhiều nghiệp vụ vẫn mang tính thử nghiệm, hoặc chưa được triển khai, trong số đó 57 có nghiệp vụ phát hành cổ phiếu. Việc huy động vốn trên TTCK chưa thực sự được các ngân hàng thực hiện chuyên nghiệp và hiệu quả. Tới thời điểm hiện tại, Việt Nam có 39 ngân hàng cổ phần, nhưng mới chỉ có 5 ngân hàng niêm yết trên 2 sở giao dịch Tp. HCM và Hà Nội: ACB, VCB, SHB, CTG, STB. Các ngân hàng còn lại chủ yếu chưa niêm yết hoặc đang hoàn thiện hồ sơ để niêm yết. Cùng với đó, nhằm mở rộng nghiệp vụ trên TTCK, các NHTM có thể thành lập CTCK trực thuộc, tuy nhiên con số này chỉ là 10 trên tổng số 140 CTCK hiện thời. Nghiệp vụ chứng khoán phái sinh tuy đã và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới và cho thấy nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển của thị trường, nhưng cho đến nay, chưa có văn bản pháp luật trong nước nào hướng dẫn chính thức về việc thực hiện các nghiệp vụ này, và đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các giao dịch chứng khoán phái sinh chưa xuất hiện tại Việt nam.  Chất lượng các nghiệp vụ của NHTM thực hiện trên TTCK chưa cao. Điều này được thể hiện ở một số điểm sau: . Việc cổ phần hoá các NHTMNN còn diễn ra chậm. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá các NHTMNN của Chính phủ, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank là một trong hai ngân hàng được chọn thí điểm đầu tiên, với mục tiêu ban đầu là đến tháng 5/2005 sẽ phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, tuy nhiên, mãi đến cuối năm 2007, đợt phát hành cổ phiếu lần đầu IPO mới được tiến hành, và tới ngày 2/6/2008, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam mới chính thức hoạt động trên vị thế của NHTMCP. Nhiều ngân hàng khác cũng có tình trạng tương tự khi tiến hành cổ phần hoá. Sự chậm chễ này của các Ngân hàng đã gây ra nhiều bất cập cho thị trường tài chính. . Việc tuân thủ pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu chưa nghiêm. Một số NHTM phát hành trái phiếu ra công chúng không tuân thủ theo quy định pháp luật, gây thiệt hại cho nhà đầu tư, thao túng thị trường. Ví dụ như việc phát hành trái phiếu chuyển đổi của Ngân hàng Vietcombank năm 2005. Tuy chưa là ngân hàng cổ phần nhưng VCB đã được phép phát hành trái phiếu chuyển đổi, thời gian chuyển đổi không nói rõ, tỷ lệ chuyển đổi không được công bố. Hay như 58 ACB phát hành trái phiếu chuyển đổi đầu năm 2008. Có rất nhiều tranh cãi xung quanh việc có nên điều chỉnh hay không giá tham chiếu ACB ngày chốt quyền mua trái phiếu chuyển đổi. Cộng vào đó, thời điểm chuyển đổi chính xác trái phiếu thành cổ phiếu trong khoảng 2008-2012 là một khoảng trống rất lớn, có thể gây thiệt hại cho nhà đầu tư. . Hoạt động cho vay cầm cố chứng khoán chưa nhận được sự thận trọng đúng mức từ phía các NHTM. Giai đoạn trước năm 2007, hoạt động này của các ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro tín dụng. Nhiều NHTM căn cứ vào thị giá cổ phiếu cầm cố để xác định giá trị tài sản cầm cố và mức cho vay, trong khi thị giá cổ phiếu có thể biến động thất thường theo quan hệ cung - cầu trên thị trường và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, dẫn đến rủi ro về giảm giá tài sản đảm bảo và ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng trả nợ của khách hàng. . Nhiều nghiệp vụ còn đơn giản và thiếu tính chuyên nghiệp. Trong thời gian vừa qua, một thực tế là nhiều tranh chấp xảy ra giữa nhà đầu tư và CTCK, trong đó có các CTCK trực thuộc các NHTM liên quan đến việc môi giới chứng khoán, thực hiện các giao dịch. Do quá sa đà vào những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ nhằm giữ chân khách hàng quan trọng, nhiều CTCK đã cố tình phớt lờ những quy định bắt buộc, đơn giản hoá các thủ tục gây ra không ít rủi ro cho khách hàng và tự đẩy mình vào những vụ tranh chấp không đáng có. 3.2.2. Nguyên nhân. Những hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:  Hệ thống pháp luật về Ngân hàng và TTCK chưa đầy đủ và thiếu tính đồng bộ. Hiện nay, hoạt động của các NHTM trên TTCK chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, và nhiều Nghị định cũng như văn bản hướng dẫn khác. Theo Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 (Điều 46, Điều 52, Điều 57, Điều 69, Điều 80) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng ngày 15 tháng 6 năm 2004 (Khoản 12, Khoản 13, Khoản 15 Điều 1), nếu được Nhà nước cho phép, các NHTM có thể 59 tham gia trực tiếp, hoặc gián tiếp (thông qua các CTCK trực thuộc) tất cả các hoạt động kinh doanh trên TTCK. Tuy nhiên, luật mới chỉ mang tính chung chung, chưa quy định, hướng dẫn cụ thể đối với từng hoạt động của ngân hàng trên TTCK. Trong khi đó, Luật Chứng khoán còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, hạn chế sự tham gia của các NHTM trên TTCK, chẳng hạn như: Luật thiếu những điều chỉnh các hoạt động chào bán chứng khoán phái sinh và thị trường giao dịch cho các loại chứng khoán này cũng như các sản phẩm quỹ đầu tư mới khiến các NHTM cũng như các CTCK trực thuộc khó có thể tiến hành các giao dịch này trên TTCK Việt Nam; nhiều lỗ hổng trong điều luật liên quan đến việc phát hành cổ phiếu cũng như phương án sử dụng vốn sau khi phát hành của các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng cũng cần được điều chỉnh. Tuy một hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của NHTM trên TTCK đã được hình thành, nhưng để điều chỉnh các hoạt động cụ thể thì chưa đầy đủ. Các NHTM hoạt động trên TTCK đồng thời phải chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật mà đôi khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo. Điều này gây cản trở sự tham gia của các NHTM trên TTCK.  Nguyên nhân từ phía TTCK . Quy mô nhỏ bé của TTCK Việt Nam đã hạn chế sự tham gia tích cực của các NHTM trên TTCK. Mặc dù đã trải qua những bước phát triển mạnh mẽ sau mười năm hình thành và phát triển, nhưng nếu so với TTCK của các nước trong khu vực và trên thế giới, quy mô của TTCK Việt Nam còn quá nhỏ bé và non trẻ, mang tính rủi ro cao và tính thanh khoản thấp. Điều này đã hạn chế việc kinh doanh chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, số lượng các nhà đầu tư còn ít, chính vì thế, các NHTM không có nhiều cơ hội để phát triển hoạt động tư vấn, môi giới, cho vay cầm cố chứng khoán,…và cả chính hoạt động kinh doanh chứng khoán của các NHTM. . Thiếu minh bạch của thông tin trên TTCK. Khi niêm yết chứng khoán, các doanh nghiệp phải công bố ra bên ngoài các thông tin như số lượng chứng khoán do các nhân vật chủ chốt nắm giữ, thông tin về tình hình tài chính, doanh thu, chi phí, định hướng, chiến lược phát triển…Tuy 60 nhiên, việc công bố thông tin chưa thực sự nhanh nhạy, kịp thời, có khi làm lỡ cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư. Điều này một mặt hạn chế số lượng các nhà đầu tư trên thị trường, thu hẹp phạm vi kinh doanh của các NTHM trên TTCK, mặt khác khiến các NHTM phải dè dặt khi tiến hành niêm yết trên TTCK.  Nguyên nhân từ phía các NHTM và CTCK. . Năng lực tài chính còn hạn chế Vốn tự có của các NHTM Việt Nam hiện nay rất thấp, chất lượng tài sản có chưa cao, nợ xấu còn chiếm tỷ trọng lớn. Các NHTMCP hầu hết có quy mô tài chính và hoạt động nhỏ, các NHTM nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc tăng vốn. Năm 2009, mức vốn tự có trung bình của một NHTM Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực15. Hệ số an toàn vốn bình quân của các NHTM Nhà nước của Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%)16. Tình trạng nợ xấu, nợ tồn đọng cũng là nguyên nhân làm giảm tiềm lực tài chính của các NHTM trong nước. Nợ quá hạn quý 4/2008 tăng 3,7% so với quý 3/2008. Tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn/tổng dư nợ còn khá cao và cao nhất là ở hệ thống NHTMCP. Biểu đồ 1: Tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn/tổng dƣ nợ phân theo nhóm ngân hàng Nguồn: Năng lực tài chính hạn chế chưa cho phép các NHTM Việt nam đầu tư nhiều vào phát triển công nghệ, các NHTM Việt Nam vẫn chủ yếu cung cấp và hưởng lãi từ các dịch vụ tín dụng cơ bản và truyền thống 15 16 61 . Năng lực quản trị điều hành chưa cao, và trình độ cán bộ nghiệp vụ còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện đại. Mặc dù đã có nhiều đổi mới, nhưng cách thức quản lý điều hành của các NHTM còn chưa kịp theo yêu cầu của các NHTM hiện đại, đặc biệt là các NHTMNN. Bộ máy tổ chức và quản lý nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, cả về trình độ quản lý và điều hành, kiến thức thị trường và kinh doanh, mô hình cồng kềnh, do đó, chi phí cao. Vì vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến các NHTM còn dè dặt khi tham gia vào TTCK và chưa thực sự trở thành cầu nối giữa những tổ chức phát hành chứng khoán và nhà đầu tư. . Công nghệ ngân hàng còn chưa hiện đại. Các NHTM Việt Nam đã tập trung hiện đại hoá công nghệ ngân hàng bằng việc trang bị máy móc nhập khẩu, cũng như các phần mềm sử dụng trong các nghiệp vụ chứng khoán. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ của các NHTM Việt Nam còn yếu kém so với mặt bằng chung của thế giới. Các ngân hàng ngày càng có điều kiện tiếp thu một số công nghệ từ bên ngoài nhưng chưa có điều kiện sử dụng hiệu quả do nhiều nguyên nhân, trong đó, một phần là do thiếu các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng; phần khác là do chi phí cho sử dụng công nghệ mới quá cao, nhiều ngân hàng chưa đủ điều kiện để đầu tư. Hệ thống thông tin, xử lý thông tin, hệ thống thanh toán chưa chính xác và kịp thời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các nghiệp vụ hiện đại. Các phân tích về thực trạng cho thấy sự tham gia của các NHTM trên TTCK Việt Nam, bên cạnh một số kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế: hạn hẹp về quy mô, đơn điệu về hình thức, hiệu quả hoạt động chưa cao. Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, sự kém phát triển của TTCK Việt Nam; các nguyên nhân từ phía NHTM như: tiềm lực tài chính thấp, chất lượng hoạt động chưa cao, trình độ công nghệ ngân hàng, năng lực đội ngũ nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của NHTM hiện đại. Vì vậy, để thúc đẩy hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam, cần có các giải pháp thích hợp được trình bày trong chương III dưới đây. 62 CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI PHÁT HUY VAI TRÒ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. Định hƣớng phát triển thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn 2010-2020 Sau hơn 10 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã đạt được một số thành tựu lớn, như: Thứ nhất: TTCK Việt Nam đã trụ vững sau nhiều đợt điều chỉnh mạnh và bước đầu đã trở thành kênh huy động vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế; Thứ hai: TTCK Việt Nam cũng đồng thời góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, trước những tác động của tình hình kinh tế vĩ mô, nhất là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008-2009, có thể nhận thấy TTCK Việt Nam chịu tác động lớn từ các thị trường khác trên thế giới. Một điều rõ ràng rằng TTCK là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, tất cả các nước muốn phát triển kinh tế thị trường đều phải phát triển TTCK, tất nhiên là ở những mức độ khác nhau. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và kinh tế trong nước thời gian gần đây, TTCK Việt Nam cũng đã có những dấu hiệu tích cực. Để có thể phát triển TTCK bền vững trong thời gian tới, những chiến lược lâu dài cần được đặt ra, đồng thời, chiến lược này phải có mối liên hệ mật thiết với chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung và chiến lược phát triển tài chính nói riêng. Năm 2009, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã soạn thảo Định hướng chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2011-2020 với các mục tiêu: Phát triển về quy mô, chất lượng hoạt động cho TTCK; Duy trì trật tự, an toàn thị trường; mở rộng pham vi; tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; Nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính quốc tế…Theo đó, quy mô vốn hoá thị trường năm 2015 dự kiến đạt 65-70% GDP và đến năm 2020 dự kiến đạt 90-100% GDP. Cấu trúc thị trường trong giai đoạn này sẽ được hoàn thiện theo hướng: 63  Thị trường cổ phiếu sẽ bao gồm SGDCK Tp. HCM niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp lớn còn SGDCK Hà Nội niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhỏ, thị trường UpCom và UpCom mở rộng (OTC)  Thị trường trái phiếu chuyên biệt  Thị trường công cụ phái sinh. Cũng từ 2011 đến 2020, lộ trình chuyển đổi sở hữu của SGDCK, Trung tâm lưu ký chứng khoán (TTLKCK) vẫn sẽ tiếp tục được thực hiện theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 chuyển đổi thành công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Nhà Nước một thành viên và công ty cổ phần; Giai đoạn 2 đến 2020 là công ty cổ phần đại chúng. Bên cạnh đó, hệ thống công nghệ thông tin của thị trường sẽ tiếp tục được nâng cấp và chuẩn hoá, trên cơ sở đó, triển khai phát triển các sản phẩm mới (ETF, phái sinh), và công nghệ mới (giao dịch trực tuyến hoàn hảo), đồng thời hướng đến hệ thống lưu ký một cấp. Cũng theo chiến lược này, từ nay đến năm 2020 sẽ tiếp tục phát triển định chế trung gian, đồng thời phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ chức và chuyên nghiệp hoá các nhà đầu tư cá nhân trên cơ sở mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư để thu hút các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Như vậy, các NHTM trong chiến lược phát triển TTCK Việt Nam được khẳng định là những định chế trung gian quan trọng có vai trò tích cực trong việc kết nối các chủ thể tham gia trên TTCK, tạo điều kiện cho thị trường vận hành thông suốt và thuận lợi. Ngoài ra, các NHTM còn đóng vai trò là những nhà đầu tư có tổ chức và thực hiện chức năng nhà tạo lập thị trường trên TTCK qua đó, góp phần phát triển và hoàn thiện TTCK. II. Định hƣớng phát triển NHTM Việt Nam Đóng vai trò là trung gian tài chính lớn nhất thực hiện việc di chuyển vốn giữa các chủ thể tạm thời có vốn nhàn rỗi tới những chủ thể thiếu vốn và cần vốn cho đầu tư sinh lời, hiệu quả hoạt động của các NHTM không chỉ ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của thị trường tài chính mà còn có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngân hàng tiếp tục xây dựng kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu tăng vốn điều lệ, nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là với những ngân hàng quy mô vốn nằm dưới 3.000 tỷ đồng, phải 64 nâng lên con số này trước khi năm tài chính 2010 kết thúc để đáp ứng được quy định của Ngân hàng Nhà nước. Việc tăng vốn điều lệ sẽ nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng, là đệm đỡ tránh rủi ro cho cổ đông. Hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM được dự báo vẫn sẽ tăng trưởng trong năm 2010, nhưng lợi nhuận sẽ không có nhiều đột biến, một số ngân hàng phụ thuộc quá mức vào hoạt động tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Mục tiêu phát triển thận trọng, ổn định và bền vững sẽ được đặt lên hàng đầu. Nhằm thích ứng với tình hình mới, các NHTM vẫn sẽ tiết kiệm các chi phí hoạt động và đổi mới toàn diện chiến lược kinh doanh. Các NHTM đều chú trọng nâng cao năng lực quản trị kinh doanh nói chung và năng lực quản trị rủi ro nói riêng, đầu tư thích đáng cho nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đa dạng hoá các sản phẩm tiện ích… Một chiến lược khác là tiếp tục mở rộng mạng lưới giao dịch và các công ty con trực thuộc. Bởi vậy, kết thúc năm 2009, hầu hết các NHTMCP đều đạt và vượt chỉ tiêu kinh doanh do đại hội cổ đông đề ra, có tốc độ tăng tài sản và quy mô lợi nhuận ấn tượng, đem lại quyền lợi cho cổ đông, và đóng góp tích cực vào tăng trưởng nền kinh tế 5,32%, kiềm chế lạm phát 6,88%. Bên cạnh đó, các NHTM đang ngày càng có xu hướng tăng cường hợp tác với nhau thông qua cơ chế Hiệp hội Ngân hàng, như thoả thuận về giới hạn cạnh tranh lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam, thống nhất về lãi suất USD, tham gia vào chương trình đào tạo nâng cao năng lực quản trị rủi ro và một số sự hợp tác khác. Với xu hướng phát triển nói trên, dự báo trong năm 2010, môi trường hoạt động ngân hàng sẽ còn nhiều khó khăn và diễn biến phức tạp mới, nhưng bức tranh hoạt động của các NHTMCP ở nước ta vẫn tiếp tục sáng sủa, đóng góp tích cực vào thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và đem lại quyền lợi thiết thực cho các cổ đông. III. Một số giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các NHTM trong tiến trình xây dựng và phát triển của TTCK ở Việt Nam Trải qua hơn 10 năm hình thành và phát triển, đến nay, TTCK Việt Nam vẫn chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Sự tham gia của các NHTM trên TTCK bước đầu đã có những kết quả tích cực, tuy nhiên, quy 65 mô hoạt động còn nhỏ bé, dịch vụ cung cấp còn đơn giản và chất lượng dịch vụ chưa hoàn thiện. Việc thúc đẩy sự tham gia của các NHTM trên TTCK không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển TTCK, mà qua đó, còn nâng cao và hoàn thiện hệ thống các NHTM. Dưới đây, khoá luận xin đề xuất một số giải pháp, bao gồm nhóm giải pháp vĩ mô và giải pháp vi mô nhằm thúc đẩy các NHTM tham gia tích cực hơn nữa vào việc xây dựng và phát triển TTCK tại Việt Nam. 3.1. Giải pháp vĩ mô Nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động lành mạnh, an toàn, có hiệu quả và hình thành các ngân hàng thương mại lớn, có uy tín và khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và ngoài nước để thực hiện tốt việc hội nhập với khu vực và quốc tế, các cải cách đối với các ngân hàng thương mại cần được thực hiện một cách toàn diện. 3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về ngân hàng, tạo khuôn khổ pháp lý khuyến khích NHTM tham gia hoạt động chứng khoán. Luật các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán và các quy định khác, cũng như các văn bản hướng dẫn kèm theo cần được xem xét sửa đổi một cách cơ bản, tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: . Nâng cao vị thế và tính độc lập, tự chủ của các NHTM trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường, nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các NHTM trong hoạt động kinh doanh của mình. . Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng mới (dịch vụ uỷ thác, các sản phẩm phái sinh…), tạo khuôn khổ pháp lý khuyến khích các NHTM tham gia hoạt động chứng khoán, đặc biệt là hoạt động cổ phiếu nhằm phát huy thế mạnh của các NHTM, như: ưu thế về mạng lưới, khả năng phát triển thị trường OTC,… . Hoàn thiện hệ thống chính sách và quy định đối với NHTM và TTCK, phù hợp với xu thế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng - đầu tư, khi các NHTM Việt Nam được phép và đã thực hiện hoạt động 66 quản lý tài sản, thực chất là hoạt động đầu tư chứng khoán tại nước ngoài mà lại bị hạn chế đối với hoạt động này ở trong nước. . Thiết lập quy định chặt chẽ trong việc thành lập và hoạt động của các CTCK của các NHTM nhằm đảm bảo tính an toàn và ổn định của CTCK và cả hệ thống ngân hàng. 3.1.2. Thực hiện các biện pháp phát triển TTCK. . Tăng cung chứng khoán cho TTCK cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.  Cải tiến phương thức phát hành Trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành Trái phiếu Chính phủ. Ngoài ra, cần khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên niêm yết, giao dịch trên TTCK tập trung, tăng tính thanh khoản cho Trái phiếu Chính phủ tại thị trường thứ cấp. Thực hiện các giao dịch thoả thuận Trái phiếu Chính phủ, trong đó, các NHTM, các CTCK chính là các nhà tạo lập thị trường.  Tiếp tục thực hiện việc cổ phần hoá các doanh ngiệp nhà nước. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước góp phần tăng số lượng và chất lượng hàng hoá cho TTCK, đồng thời tạo cơ hội thuận lợi cho các NHTM phát triển các hoạt động của mình trên TTCK như đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn, đầu tư chứng khoán. . Phát triển các chứng khoán khác, như: Quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh để đưa vào niêm yết và giao dịch trên TTCK. Việc phát triển các loại chứng khoán này sẽ cung cấp thêm hàng hoá cho thị trường và đưa ra nhiều sự lựa chọn hơn đối với các nhà đầu tư cá nhân, chuyên nghiệp. Điều này cũng tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện các dịch vụ chứng khoán hay đầu tư đa dạng hoá. 3.1.3. Tiếp tục tiến hành cổ phần hoá các NHTMNN nhằm đổi mới phương thức tạo vốn, thay đổi phương thức quản lý điều hành, góp phần lành mạnh hoá và minh bạch hoá tình hình tài chính của các NHTM. 67 Việc huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu ra công chúng sẽ tạo thuận lợi cho các NHTM trong việc chủ động tìm kiếm nguồn vốn trung và dài hạn với chi phí thấp, đầu tư cho các hoạt động kinh doanh và nâng cao tiềm lực tài chính của mình, đồng thời tạo nguồn cung chứng khoán quan trọng cho thị trường. Cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, các NHTM trong nước sẽ có cơ hội được tiếp cận với phương thức điều hành quản trị doanh nghiệp tiên tiến, theo chuẩn mực quốc tế và áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại của thế giới, nâng cao chất lượng của các dịch vụ cung cấp ra thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để các NHTM tham gia mạnh mẽ trên TTCK. 3.1.4. Xây dựng và phát triển một số NHTM theo mô hình tập đoàn kinh tế đa năng. Trên cơ sở lựa chọn một số NHTM có quy mô lớn, đầu tư công nghệ hiện đại, có mạng lưới hoạt động rộng khắp, mối quan hệ khách hàng truyền thống mật thiết, đặc biệt là có uy tín cao trên thương trường, việc đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh sẽ giúp các NHTM này nâng cao vai trò của mình trên TTCK, tăng nguồn thu, đồng thời giúp khách hàng của họ tiết kiệm thời gian và chi phí nhưng vẫn được thoả mãn các nhu cầu khác nhau tại cùng một địa điểm. Hiện nay, một số NHTM như Vietcombank, BIDV, ACB,…đã tiến hành phát triển sản phẩm dịch vụ, đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh, và trở thành các ngân hàng đa năng. Trong tương lai, đây cũng là xu hướng chung của hầu hết các NHTM tại Việt Nam. 3.1.5. Đẩy mạnh thị trường OTC với nòng cốt là hoạt động của các NHTM và CTCK. Cho đến nay, nhiều ngân hàng thương mại đã mở ra nghiệp vụ cho vay cầm cố chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy thị trường OTC phát triển. Cùng với đó, trong những năm vừa qua, một số CTCK bao gồm cả CTCK của các NHTM đã làm đầu mối trung gian cho một số giao dịch chứng khoán trên thị trường tự do, bởi hơn ai hết, các CTCK thường nắm rõ giá cả và chất lượng của cổ phiếu và được các nhà đầu tư tin tưởng uỷ thác trong giao dịch. Sự hoạt động hiệu quả của thị trường OTC chính là đòn bảy thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Các NHTM cùng với CTCK của 68 mình đóng vai trò quan trọng là đầu mối trung gian kết nối thông suốt và thực hiện thành công các giao dịch chứng khoán trên thị trường OTC. 3.1.6. Tiếp tục khuyến khích phát triển các công ty quản lý quỹ do các NHTM tự thành lập hoặc liên doanh với nước ngoài. Hoạt động trong các công ty này, các NHTM sẽ có thể thực hiện cung cấp dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng, mở rộng nghiệp vụ kinh doanh và tăng lợi nhuận. 3.2. Giải pháp vi mô Bên cạnh nhóm các giải pháp vĩ mô, nhóm các giải pháp vi mô tập trung đến những biện pháp nhằm nâng cao tiềm lực tài chính cũng như khả năng cạnh tranh của các NHTM, tăng cường hiệu quả hoạt động của các NHTM trên TTCK. 3.2.1. Tăng cường tiềm lực tài chính của các NHTM. Năng lực tài chính lành mạnh là điều kiện cơ bản để NHTM mở rộng khả năng huy động vốn, tăng cường năng lực cạnh tranh, tăng khả năng tự bảo vệ trước các rủi ro, đồng thời thúc đẩy sự tham gia vào TTCK. Tuy nhiên, một trong những điểm yếu nhất của NHTM Việt Nam hiện nay là vốn nhỏ, tỷ lệ an toàn vốn thấp. Mặc dù tính đến thời điểm hiện nay, không còn ngân hàng nào có mức vốn điều lệ dưới 1.000 tỷ đồng nhưng trong tổng số 39 NHTM cổ phần đang hoạt động tại Việt Nam (tính đến ngày 17/12/2009), có tới 29 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng với 20 ngân hàng có số vốn dưới 2.000 tỷ đồng, trong đó 11 ngân hàng có số vốn đúng 1.000 tỷ đồng17. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải tăng vốn điều lệ cho các NHTM Việt Nam. Song song với giải pháp cổ phần hoá các NHTMNN thì các ngân hàng thương mại phải chủ động lên kế hoạch huy động vốn, xây dựng được kế hoạch kinh doanh hợp lý nhằm huy động thành công lượng vốn cần thiết và thực hiện quy định của NHNN về mức vốn điều lệ áp dụng đối với các NHTMCP. Đối với các NHTM hoạt động không có hiệu quả hoặc không có kế hoạch khả thi trong việc tăng vốn điều lệ, cần kiên quyết cho giải thể, phá sản, sát nhập vào các ngân hàng đạt yêu cầu về vốn tối thiểu, cũng như các yêu cầu về tỷ lệ vốn 17 ngày 17/12/2009 69 chủ sở hữu trên tổng tài sản. Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác tham gia góp vốn vào các NHTMCP. Tăng vốn là cần thiết nhưng phải tính toán hết sức thận trọng bởi quy mô vốn lớn lại có thể dẫn tới hiệu suất sử dụng trên từng đồng vốn thấp, do vậy, kế hoạch tăng vốn phải gắn liền với chiến lược phát triển hợp lý. Điều này đặt ra yêu cầu với hoạt động quản trị tại các ngân hàng phải được cải cách liên tục nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao. 3.2.2. Nâng cao trình độ nhân sự Quá trình nâng cao năng lực quản trị điều hành của các NHTM phụ thuộc rất nhiều vào trình độ nguồn nhân lực của ngân hàng. Do vậy, công tác đào tạo cán bộ cần được đặc biệt chú trọng. TTCK Việt Nam hiện nay vẫn còn rất mới mẻ đối với nhiều người, thậm chí đối với cả các cán bộ ngân hàng. Vì thế, để có thể thực hiện hiệu quả các nghiệp vụ trên TTCK, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ cũng như cơ chế phối kết hợp giữa các đơn vị chức năng của NHTM, từ đó, nâng cao hiệu quả của các hoạt động. Trong những năm qua, nguồn nhân lực cho các NHTM ngày càng nhiều đến từ các trường đại học trong nước có chuyên ngành đạo tạo về tài chính - ngân hàng, cũng như hàng loạt trường đại học mới thành lập chuyên đào tạo về ngân hàng và rất nhiều cán bộ được đào tạo từ các nước phát triển về nước công tác. Vì vậy các NHTM cần phải tận dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có, cũng như phát hiện được các tài năng trong ngành nhằm bồi dưỡng thành cán bộ nguồn cũng như có chính sách đào tạo chuyên môn thích hợp nhằm tạo ra lực lượng kế cận liên tục trong nội bộ ngân hàng. 3.2.3. Hiện đại hoá và quốc tế hoá công nghệ ngân hàng Ở hầu hết các nước có TTCK phát triển mạnh, các giao dịch chứng khoán hoàn toàn được thực hiện bằng hệ thống máy tính được kết nối thông suốt giữa SGDCK với các CTCK với trung tâm lưu ký, với trung tâm thanh toán và các tổ chức khác có liên quan. Nhà đầu tư có thể đặt lệnh mua bán chứng khoán hoàn toàn bằng máy tính. Do đó, các NHTM ứng dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến, phát triển 70 hệ thống giao dịch trực tuyến, chuẩn hoá quy trình tác nghiệp và quản lý nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt là các nghiệp vụ ngân hàng trên TTCK theo hướng tự động hoá. Phát triển hệ thống thanh toán điện tử và hiện đại hoá hệ thống thanh toán điện tử, đảm bảo cho việc thanh toán các giao dịch trên TTCK được nhanh chóng, thuận lợi. Ngày 24-4-2007, Bộ Tài chính đã ra Quyết định 27/2007/QĐ-BTC buộc các công ty chứng khoán từ ngày 1-3-2008 phải ủy quyền cho một ngân hàng thương mại nhận và quản lý tiền của nhà đầu tư (điều 32). Đây là một thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng, và các công ty chứng khoán, khi thực trạng về hạ tầng CNTT của các bên còn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Vấn đề nhà đầu tư quan tâm là việc liên thông các hệ thống giao dịch của công ty chứng khoán với hệ thống lõi của ngân hàng sẽ được thực hiện thế nào để bảo đảm tính an toàn bảo mật, trực tuyến cho các giao dịch của họ; đặc biệt là tính đa kết nối để tạo sự liên thông giữa hai bên, thuận lợi cho nhà đầu tư. Trong hai năm vừa qua áp dụng việc tách bạch tài khoản nhà đầu tư khỏi công ty chứng khoán và chuyển tài khoản sang một ngân hàng quản lý đã thu được nhiều kết quả đáng kể. Số vụ tranh chấp sử dụng tiền của nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán đã giảm mạnh. Việc tách bạch tài khoản còn tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư khi tiền đầu tư còn vừa có thể được sử dụng như tiền gửi không kỳ hạn có thể rút bằng thẻ ATM, liên thông với các dịch vụ khác của ngân hàng. Đây là những tiện ích đáng kể mà các NHTM đã cung cấp cho các nhà đầu tư. 3.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTM Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, việc nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực hoạt động của các NHTM có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng trong các nghiệp vụ của NHTM ngay cả trên TTCK. Để thực hiện nhiệm vụ này, một trong những yêu cầu quan trọng là đảm bảo an toàn, hiệu quả trong việc kết hợp hoạt động của NHTM với hoạt động của công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng. Tổ chức tín dụng không chỉ là người cho vay, mà còn là người đi vay của dân chúng, đồng thời là một bộ phận huyết mạch của nền kinh tế. Vì vậy, việc đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng là một yêu cầu quan trọng. Việc cho vay vào những lĩnh vực dễ gặp rủi ro, thường xuyên biến động 71 mạnh như chứng khoán, bất động sản, một số công cụ phái sinh cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng đưa ra tám hạn chế không được cấp tín dụng, trong đó, có quy định, các tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát, không được cấp tín dụng trên cơ sở cầm cố cổ phiếu của chính các tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng…Các quy định trên nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho các NHTM, nhưng bên cạnh đó cũng tạo ra những khó khăn cho các công ty chứng khoán hoạt động do nguồn vốn bị hạn chế một phần. Tuy nhiên nhờ vào lợi thế nguồn vốn chủ sở hữu lớn, cũng như tổng tài sản lớn các công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thương mại vẫn có nhiều lợi thế trong việc huy động các nguồn vốn từ ngân hàng nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của bản thân công ty chứng khoán. 3.2.5. Xây dựng mô hình hoạt động của NHTM trên thị trường chứng khoán Theo Nghị định 144/NĐ-CP/2003, các NHTM muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập các CTCK độc lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Tuy nhiên, cho đến nay các CTCK thuộc NHTM đều được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà sở hữu chính là Ngân hàng mẹ. Qua nhiều năm hoạt động, hình thức này tỏ ra nhiều hạn chế đối với các hoạt động của NHTM trên TTCK. Khi TTCK phát triển, các CTCK này cần có số vốn đủ lớn để thực hiện các hoạt động, trong khi đó, các CTCK thuộc ngân hàng chủ yếu là dựa vào sự cấp vốn của ngân hàng mẹ, không được quyền phát hành cổ phiếu. Rõ ràng là điều này sẽ hạn chế khả năng tham gia của các CTCK thuộc NHTM trên thị trường. Vì vậy, trong thời gian tới, cần chuyển đổi các CTCK này theo hình thức công ty cổ phần để tăng tính tự chủ, quy mô vốn và tiến tới sẽ thực hiện việc niêm yết trên TTCK. Như vậy, mô hình hoạt động của các NHTM trên TTCK trong thời gian tới là sự kết hợp giữa mô hình chuyên doanh và mô hình đa năng một phần. Điều này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của TTCK va tránh những biến động lớn tới TTCK cũng như hệ thống NHTM Việt Nam. 72 3.2.6. Kết hợp hoạt động của NHTM với hoạt động của công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thương mại Hiện nay số lượng công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại tương đối lớn với 23 công ty và rất nhiều trong số này nằm trong số những công ty chứng khoán chiếm thị phần lớn nhất thị trường như: VCBS, BSC, ACBS, SBS, TLS,… Việc kết hợp hoạt động của NHTM với công ty chứng khoán được thực hiện thông qua các nghiệp vụ giữa đôi bên cũng như sự hỗ trợ của đôi bên cho nhau trong hoạt động kinh doanh.  Thứ nhất: NHTM sẽ hỗ trợ công ty chứng khoán về nguồn vốn hoạt động kinh doanh. Cụ thể là nguồn vốn cho hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu, cho vay đầu tư chứng khoán, hợp tác đầu tư chứng khoán, đầu tư mua cổ phần, trái phiếu, các công cụ tài chính khác,…  Thứ hai: NHTM thực hiện nghiệp vụ tách bạch tài khoản nhà đầu tư cho công ty chứng khoán. Việc tách bạch này nhằm đảm bảo yêu cầu theo pháp luật, cũng như đảm bảo sự thuận tiện cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư mở tài khoản ở công ty chứng khoán đồng thời cũng có thể giao dịch trên tài khoản đó tại ngân hàng với hàng loạt nghiệp vụ khác như gửi - rút tiền tại mọi chi nhánh ngân hàng, rút tiền tử ATM, thanh toán bù trừ, chuyển khoản,…, tạo ra tiện ích liên hoàn cho khách hàng. Đây cũng là một điểm thu hút nhiều nhà đầu tư từ sự tiện lợi của nghiệp vụ.  Thứ ba: NHTM hỗ trợ công ty chứng khoán trong việc tìm kiếm các cơ hội thực hiện nghiệp vụ tư vấn tài chính, nghiệp vụ đầu tư tài chính. Điều này có được nhờ dựa vào cơ sở dữ liệu doanh nghiệp tại ngân hàng, các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng, quan hệ thanh toán, và các quan hệ khác. Đây là nguồn cơ sở dữ liệu doanh nghiệp lớn cho các công ty chứng khoán trực thuộc khai thác nhằm tìm kiếm các cơ hội kinh doanh tốt do các doanh nghiệp đã quen với việc sử dụng dịch vụ của ngân hàng từ trước.  Thứ tư: NHTM thực hiện nghiệp vụ thanh toán với trung tâm lưu ký thay cho các công ty chứng khoán, giúp các công ty chứng khoán giảm thiểu thời gian, nhân lực cho các công việc không có chuyên môn trong khi các nghiệp vụ này các NHTM lại rất am hiểu và có chuyên môn từ lâu. 73  Thứ năm: Công ty chứng khoán cũng có nhiều trợ giúp cho ngân hàng thương mại trong việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán, tìm kiếm các cơ hội đầu tư hợp lý, giải ngân các hợp đồng cho vay vốn với lãi suất cao hơn lãi suất trung bình trên thị trường cho vay,…  Thứ sáu: Cả NHTM và công ty chứng khoán thông qua việc mở rộng dịch vụ lẫn nhau đã hỗ trợ nhau trong việc nâng cao hình ảnh, thương hiệu của cả 2 đến các nhà đầu tư, đến các doanh nghiệp và cả ra quốc tế . IV. Một số kiến nghị Nhằm thúc đẩy hơn nữa sự tham gia của NHTM trên TTCK, luận văn xin đưa ra một số kiến nghị sau: 4.1. Đối với UBCKNN 4.1.1. Phối hợp với NHNN xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Sự phối hợp theo hướng khuyến khích các nghiệp vụ tín dụng thế chấp và/ hoặc cầm cố bằng chứng khoán nợ, kiểm soát và xếp hạng giới hạn khắt khe cho việc sử dụng chứng khoán vốn vào các nghiệp vụ nói trên, làm cho thị trường tín dụng ngày càng trở thành kênh giúp sức có hiệu quả nhất cho thị trường chứng khoán trong khi kích thích thị trường chứng khoán thực sự là kênh huy động vốn trung và dài hạn có hiệu quả nhất. Sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian gần đây, xét về mặt số lượng người mua bán, số quốc tịch khác nhau tham gia và tổng giá trị giao dịch gia tăng từ nửa tỷ đồng của 58 mã chứng khoán những năm trước năm 2007, lên tới bình quân 6 nghìn tỷ đồng/phiên của hơn 400 mã chứng khoán đã niêm yết, với tổng giá trị vốn hoá đã tới 40% GDP như thời điểm cuối năm 2009. Ngoài ra từ ngày 24-6-2009, sàn UpCoM của các công ty chứng khoán đại chúng chưa niêm yết được khai trương đến nay đã có 21 mã chứng khoán đăng ký giao dịch trên sàn này…Có thể nói rằng, TTCK Việt Nam bắt đầu có ý nghĩa thực sự trong đời sống kinh tế xã hội ở Việt Nam. Điều đó cho thấy triển vọng phát triển của TTCK về lâu dài là rất sáng sủa. Tuy vậy, xét về môi trường pháp lý, công 74 nghệ giao dịch, tính minh bạch…đều bộc lộ rõ tính chưa bền vững, đang cần những quan điểm và giải pháp vĩ mô từ phía Chính phủ mà cụ thể là UBCKNN và NHNN. 4.1.2. Thực hiện điều hành TTCK theo nguyên tắc liên thông. Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ TTCK phải luôn liên thông với nền kinh tế (qua cơ chế xếp hạng và công bố thông tin thường xuyên, bắt buộc đối với các nhà phát hành sơ cấp), liên thông với các kênh dẫn vốn khác, theo nguyên tắc thị trường và nguyên tắc an toàn hệ thống. TTCK Việt Nam cần sớm tạo dựng được hình ảnh và thương hiệu riêng, bằng việc phát triển công nghệ giao dịch, diện giao dịch,…, cùng với việc minh bạch hoá và tạo uy tín cho TTCK Việt Nam sớm đạt chuẩn quốc tế trong thời kỳ hội nhập WTO. 4.2. Đối với các NHTM 4.2.1. Có chiến lược thích hợp phát triển các dịch vụ phi ngân hàng. Các NHTM cần có lộ trình phù hợp để phát triển các dịch vụ ngân hàng mới cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu lớn để từng bước cơ cấu lại các dòng sản phẩm, theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ ngân hàng phi vốn. Muốn vậy, từng NHTM phải tổ chức từng đợt các chiến dịch giới thiệu, quảng bá sản phẩm tiện ích của các dịch vụ bán lẻ đến các thị trường tiềm năng. Phần lớn người dân nước ta vốn chỉ quen với các dịch vụ truyền thống của ngân hàng, vì vậy, nếu không có hoạt động marketing, quảng bá thì một bộ phận không nhỏ dân chúng Việt Nam sẽ ít có cơ hội biết đến các sản phẩm của NHTM, trong đó có các dịch vụ mà NHTM cung cấp trên TTCK. 4.2.2. Chủ động, tích cực phối hợp giữa các NHTM với TTCK. Sự phối hợp này sẽ góp phần phát triển các dịch vụ phục vụ TTCK, thông qua nghiệp vụ thế chấp, cầm cố chứng khoán nợ, và chứng khoán vốn có chọn lọc, để tạo thanh khoản chung cho thị trường tài chính, và liên thông các thị trường bộ phận trong thị trường tài chính, theo các quy luật của thị trường. 4.2.3. Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro TTCK luôn tiềm ẩn những rủi ro cao, trong khi an toàn của hệ thống ngân hàng là vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho các NHTM là phải nâng cao quản trị rủi ro trong các hoạt động chứng khoán, như: 75 kinh doanh chứng khoán, cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán,…phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam, đồng thời đạt được chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng. Việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong khi thực hiện các nghiệp vụ chứng khoán của các NHTM, cần phải thực hiện những công việc cụ thể sau:  Các bộ phận của các NHTM nên thực hiện phân tách rạch ròi các chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý nhằm quản lý tốt và thực hiện hiệu quả các nghiệp vụ liên quan đến chứng khoán. Ví dụ như, nhằm đảm bảo an toàn trong cho vay kinh doanh, đầu tư chứng khoán, bộ phận tín dụng của các NHTM nên được chia thành các bộ phận quan hệ khách hàng - thẩm định tín dụng - quản lý rủi ro tín dụng - quản lý nợ trong hoạt động cho vay của NHTM.  Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng, xây dựng hệ thống thông tin hiệu quả, xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để phân loại khách hàng vay vốn, từ đó NHTM xây dựng chính sách khách hàng hợp lý nhằm giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng trong trường hợp cho khách hàng vay vốn để đầu tư chứng khoán. 4.2.4. Nâng cao năng lực tài chính Lành mạnh hoá và nâng cao một cách nhanh chóng và căn bản năng lực tài chính để đảm bảo có đủ năng lực tài chính cả về quy mô và chất lượng. Tiếp tục tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối kế toán. Tăng vốn tự có của NHTM bằng cách:  Lợi nhuận để lại  Phát hành cổ phiếu, trái phiếu, đẩy nhanh tiến độ tham gia niêm yết trên TTCK  Sát nhập, hợp nhất, mua lại nhằm tập trung vốn để phát triển, giảm rủi ro.  Liên kết, hợp tác giữa các ngân hàng trong và ngoài nước dựa trên nguyên tắc gộp cổ phần. 76  Bảo đảm duy trì mức vốn tự có phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn. Việc tăng vốn tự có của NHTM ngoài việc mở rông quy mô hoạt động, tăng khả năng sinh lời của tài sản có và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thì các NHTM phải chuẩn bị các phương án trước khi tăng vốn tự có của NHTM, cụ thể là: mở rộng mạng lưới, nâng cấp cơ sở vật chất, phân cấp thị trường để cung cấp sản phẩm dịch vụ phù hợp, chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ,… 4.2.5. Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ liên quan đến TTCK Các NHTM hiện nay cần tập trung phát triển sản phẩm cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán hiện hữu, như: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá đối với công ty chứng khoán, cho vay dưới hình thức cầm cố chứng khoán hoặc đảm bảo bằng tài sản khác đối với khách hàng sử dụng vốn vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay đối với khách hàng để bổ sung số tiền thiếu khi lệnh mua bán chứng khoán được khớp, cho vay đối với người lao động để mua cổ phần phát hành lần đầu khi chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Liên kết, hợp tác với các tổ chức tài chính trung gian, công ty chứng khoán trực thuộc trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nhằm, một mặt, đem lại nhiều công cụ đầu tư cho nhà đầu tư trên TTCK, góp phần kích cầu chứng khoán, tăng tính thanh khoản cho chứng khoán, giúp TTCK phát triển ổn định, bền vững; mặt khác, thông qua việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới trên thị trường, các NHTM thu được nhiều lợi nhuận, có được nguồn vốn nhanh chóng để tái đầu tư, mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ của NHTM liên quan đến TTCK như các sản phẩm cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, nghiệp vụ chứng khoán hoá các khoản vay bất động sản, nghiệp vụ giao dịch ký quỹ có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thêm chủng loại hàng hoá cho TTCK, tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận nhiều công cụ tài chính để đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm hỗ trợ và góp phần làm TTCK phát triển ổn định, bền vững. 77 Để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh và đảm bảo an toàn cho từng loại sản phẩm, các NHTM lớn nên cơ cấu lại tổ chức theo mô hình kinh doanh độc lập giữa các dòng, hay nhóm sản phẩm, thông qua việc thành lập các đơn vị hạch toán độc lập trong một định chế tài chính đa năng để minh bạch hoá, chia sẻ rủi ro, và hỗ trợ lẫn nhau: ví dụ như thành lập các công ty hạch toán độc lập trong cùng một định chế tài chính như: công ty cho vay thế chấp, cầm cố chứng khoán, công ty bảo hiểm khoản vay, công ty thanh lý tài sản tài chính, công ty dịch vụ phi tín dụng… Tóm lại, sự tham gia của NHTM trên TTCK là cần thiết và quan trọng góp phần giúp TTCK phát triển ổn định, bền vững, đồng thời tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Việc cần làm là phải thực thi đồng bộ ngay từ bây giờ các giải pháp từ hệ thống các NHTM bằng các biện pháp nâng cao năng lực quản trị, nâng cao năng lực tài chính, hoàn thiện và phát triển các sản phẩm dịch vụ mới liên quan đến TTCK, tuân thủ các quy định của Nhà Nước trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, sự tham gia của các NHTM trên TTCK chỉ có thể phát huy tác dụng khi có sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan, ban, ngành, Chính phủ trong việc xây dựng các hành lang pháp lý đầy đủ về lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng và TTCK để TTCK và thị trường tiền tệ thực sự gắn bó mật thiết và tác động qua lại với nhau trong quá trình luân chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế. 78 KẾT LUẬN TTCK Việt Nam, sau một thời gian trầm lắng, đang trên đà phục hồi nhanh chóng, và được dự đoán sẽ còn tăng trưởng mạnh mẽ trong tương lai. Sự phát triển này của TTCK Việt Nam có sự đóng góp không nhỏ của các NHTM trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của thị trường. Vì vậy, phát huy vai trò của NHTM trên TTCK Việt Nam là một tất yếu khách quan. Sau khi nghiên cứu đề tài, có thể rút ra một số kết luận sau đây: 1. Các NHTM ngày càng tham gia tích cực hơn và khẳng định tầm quan trọng của mình đối với sự phát triển của TTCK. Sự tham gia của các NHTM được thể hiện với 3 tư cách: tổ chức phát hành, nhà đầu tư chuyên nghiệp, và trung gian tài chính hỗ trợ hoạt động cho thị trường. 2. Mặc dù đã được mở rộng cả về quy mô và chất lượng, các hoạt động của NHTM trên TTCK vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: phạm vi còn nhỏ, nghiệp vụ còn đơn giản. Nguyên nhân của những hạn chế này là do: sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp lý về hoạt động của NHTM trên TTCK, sự kém phát triển của TTCK, và sự yếu kém của chính các NHTM về tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ, cũng như chất lượng nguồn nhân lực. 3. Trước thực trạng đó, các giải pháp vĩ mô và vi mô cần được quan tâm xem xét. Các giải pháp vĩ mô nhằm cải tạo môi trường hoạt động cho các NHTM, trong khi các giải pháp vi mô nhằm hoàn thiện và phát triển các NHTM. Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực còn mới mẻ và phức tạp, khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả xin hoan nghênh mọi ý kiến góp ý, phê bình để đề tài này có thể hoàn thiện hơn và những giải pháp đề ra trong khoá luận có điều kiện áp dụng vào thực tiễn hoạt động của TTCK Việt Nam. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách và Báo tham khảo 1. Đào Lê Minh (2002), Những vấn đề cơ bản về Chứng khoán và Thị trường Chứng khoán, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, tr. 72 – 97, Hà Nội. 2. Vân Linh (2010), “Giá nào cho cổ phiếu ngân hàng phát hành thêm”, Báo Đầu tư chứng khoán (31), tr.27. 3. Giang Thanh (2009), “Dự báo Index từ nhóm cổ phiếu ngân hàng”, Báo Đầu tư chứng khoán (156), tr 16. 4. Ngô Xuân Thanh (2009), “Nhìn lại Thị trường Chứng khoán Việt Nam sau 10 năm hoạt động”, Báo Đầu tư chứng khoán (12), tr.3. 5. Bản cáo bạch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, tháng 7/2006, tr. 27. Tài liệu tham khảo điện tử 1. Nguyễn Đình Tự (2007), “Thị trường chứng khoán Việt Nam trước những thách thức của việc gia nhập WTO”, [truy cập ngày 13/2/2010]. 2. (2005), “Cổ phần hoá Ngân hàng thương mại Nhà nước: Một bước đi tất yếu”, [truy cập ngày 2/3/2010]. 3. (2005), “Năm nay sẽ nở rộ phát hành chứng khoán?”, [truy cập ngày 3/4/2010]. Cùng các số liệu tổng hợp từ nhiều website khác. Nguồn pháp lý tham khảo 1. Luật Chứng khoán, số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006. 2. Luật các tổ chức tín dụng ngày 12/12/1997. 3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/6/2004. 4. Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007. 5. Thông tư 04/1999/TT-NHNN ngày 2/11/1999. 6. Quyết định 27/2007/NĐ-BTC.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5128_9319.pdf
Luận văn liên quan