Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
A. MỞ ĐẦU N gày 24.1.2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức hội nghị tổng kết 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong 20 năm vốn đăng ký đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đạt 98 tỉ USD với khoảng 9.500 dự án, vốn đầu tư được thực hiện đạt hơn 43 tỉ USD. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có đóng góp to lớn vào sự phát triển ngoạn mục của Việt Nam trong 20 năm qua bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào GDP của đất nước và đã thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Tuy đạt được những kết quả quan trọng trên, nhưng hoạt động của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là sự mất cân đối về ngành, nghề, lãnh thổ, vốn thực hiện còn quá thấp, tranh chấp lao động chưa được giải quyết kịp thời Nghiên cứu về khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam cho đến nay vẫn luôn là đề tài nóng bỏng của không ít tạp chí và các phương tiện truyền thông. Là một sinh viên kinh tế và sau này là một cử nhân kinh tế, việc nghiên cứu đề tài này không chỉ giúp tôi có thể hiểu sâu hơn bài giảng trên lớp mà còn giúp tôi làm giàu vốn kiến thức cho bản thân cũng như có thêm kinh nghiệm viết tiểu luận và luận án sau này. B. NỘI DUNG I. Những vấn đề chung về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. 1. Khái niệm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gồm các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở có một phầm hoặc toàn bộ vốn nước ngoài. Cụ thể thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gồm: a) Các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài. b) Các liên doanh giữa một bên là một hay nhiều đơn vị thuộc thành phần kinh tế Nhà nước Việt Nam với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài. c) Các liên doanh giữa một bên là một hay nhiều đơn vị thuộc thành phần kinh tế tập thể của Việt Nam với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài. d) Các liên doanh giữa một bên là một hay nhiều đơn vị thuộc thành phần kinh tế tư nhân của Việt Nam với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài. e) Các liên doanh giữa một bên là một hay nhiều đơn vị thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp của Việt Nam với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài. 2. Vai trò của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đối với các nước đang phát triển. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất. Đó là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội và góp phần cải tiến cán cân thanh toán, góp phần tăng cường năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm Công cuộc đổi mới đất nước ta được bắt đầu từ năm 1986 và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp quan trọng khác. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận. Sự có mặt tại Việt Nam của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn, các nguồn lực được phân bổ hợp lý hơn. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài còn là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam chủ động hội nhập vào đời sống kinh tế thế giới. Các nhà đầu tư nước ngoài đã tích cực ủng hộ Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là ủng hộ tích cực Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Mặt khác, việc ký kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định đầu tư song phương, hiệp định thương mại song phương, đàm phán gia nhập WTO liên quan đến đầu tư và thực hiện các cam kết của Việt Nam đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới khu vực có vốn đầu tư nước ngoài . a. Môi trường quốc tế. b. Nhân tố trong nước. II. Thực trạng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 1. Thành tựu. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng số vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD ( kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết hạn hiệu lực và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.500 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Trong 3 năm đầu (1988 – 1990) mới thực thi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký 1,6 tỷ USD) và đầu tư nước ngoài chưa tác động đến tình hình kinh tế – xã hội đất nước. Thời kỳ 1991 – 1996 được xem là thời kỳ “ bùng nổ “ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký ( gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam bắt đầu nhộn nhịp, hấp dẫn nhà đầu tư. Trong những năm 1997 – 1999, có 961 dự án được cấp phép, với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD, nhưng vốn của năm sau ít hơn năm trước ( năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8 % năm 1998) chủ yếu là các dự án vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án được cấp phép trong những năm trước đã tạm dừng triển khai hoạt động do nhiều nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính. Từ năm 200 đến năm 2003, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu hồi phục chậm. Vốn đăng ký mới năm 2000 đạt 2,7 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999, năm 2001 tăng 182% so với năm 2000, năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003( đạt 3,1 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước, năm 2005 tăng 50,8% , năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong vòng 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006 và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất thời kỳ trước khủng hoảng. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án cũng tăng dần qua các giai đoạm tuy có “ trầm lắng “ qua một vài năm sau khủng hoảng tài chính năm 1997. Thời kỳ 1988 – 1990 quy mô vốn đầu tư bình quân 7,5 triệu USD/ dự án, lên đến 11,6 triệu USD/ dự án giai đoạn 1991 – 1995 và đã tăng lên 12,3 triệu USD/ dự án những năm 1996 – 2000 quy mô vốn đăng ký giảm xuống 3,4 triệu USD/ dự án trong thời kỳ 2001 – 2005. Trong 2 năm 2006 – 2007 quy mô trung bình của một dự án ở mức 14,4 triệu USD Vế cơ cấu vốn đầu tư, tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 22,2% về số dự án, 33,4% số vốn đăng ký và 24,5% vốn thực hiện. Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 10,8% về số dự án, 5,37% tổng số vốn đăng ký và 6.7% vốn thực hiện. Qua 20 năm, đầu tư nước ngoài đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương nào “ trắng “ vốn đầu tư, nhưng tập trung chủ yếu vào cá địa bàn trọng điểm, có lợi thế. Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.200 dự án còn hiệu lực với số vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% vốn đăng ký và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước: trong đó, Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thục hiện của cả vùng. Tiếp theo là Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hà Tây, Bắc Ninh và Quảng Ninh. Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD tổng vốn đăng ký: trong đó TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng đăng ký 16,5 tỷ USD ) chiếm 36,9% tổng số vốn đăng ký cả vùng. Tiếp theo là Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu , Long An. Tính hết năm 2007, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thực hiện theo hình thức 100% vốn nươc ngoài có 6.685 dự án với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% về vốn đăng ký. Theo hình thức lien doanh co 1.619 dự án với tổng số vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có 211 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD, chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% về số vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Hai mươi năm qua, đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký trên 83 tỷ USD. Trong đó các nước châu Á chiếm 69%( trong đó khối ASEAN chiếm 19%) tổng vốn đăng ký, các nước châu Âu chiếm 24% ( trong đó EU chiếm 10%), các nước châu Mỹ chiếm 5% riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi tại nước thứ 3 của nhà đầu tư Hoa Kỳ, thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam đạt con số trên 3 tỷ USD. Hiện tại có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn dăng ký trên 1 tỷ USD. Đứng đầu là Hàn Quốc 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài Loan 10,5 tỷ USD, thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đạt 3,8 tỷ USD. Trong số khoảng 8.590 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ USD, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn đăng ký. Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giả trị xuất khẩu cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào GDP của đất nước và đã thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% GDP trong giai đoạn 1991 – 1995, khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tăng lên 10,3% của 5 năm 1996 - 2000. Đến thời kỳ 2001 – 2005, con số này là 14,6%. Trong 2 năm 2006 – 2007, tỷ lệ này tăng lên 16% GDP. Nếu trong giai đoạn 1991 – 1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ USD ( trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 30% tổng doanh thu) thì trong thời kỳ 1996 – 2000 tổng giá trị doanh thu đạt 27,09 tỷ USD ( trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô là 10,59 tỷ USD, chiếm 39% tổng doanh thu). Trong giai đoạn 2000 – 2005 tổng doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu). Trong 2 năm 2006 – 2007, tổng doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu ( trừ dầu thô) đạt 28,6 tỷ USD. Hai mươi năm qua, khu vực kt có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm cho hơn 1,26 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp, mà theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho 2 –3 lao động gián tiếp. Việt Nam đã và đang thành công trong thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà làn sóng đầu tư nước ngoài mới lần thứ 2 có dấu hiệu từ năm 2005 đã hình thành đưa tới với kết quả cao vào năm 2007 vốn đầu tư cấp mới đạt hơn 20 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm trước, vượt 53,2% kế hoạch dự kiến cả năm (13 tỷ USD). Trong đó vốn đăng ký là 17,85 tỷ USD của 1.445 dự án mới, tăng 73,5% về số dự án và 96,3% về vốn đăng ký so với năm trước, đồng thời có 379 dự án bổ sung với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 2,4 triệu USD, bằng 78% về số dự án và 84,9% về vốn bổ sung so với năm 2006, vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung trong lĩnh vực công nghiệp, chiếm 62,9% về số dự án và 50,6% tổng vốn đầu tư đăng ký, tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 31,5% về số dự án và 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, số còn lại đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Trong năm 2007, ngoài một số địa phương tiếp tục phát huy tiềm năng về điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai), một số địa phương khác (Phú Yên, Vĩnh Phúc, Hậu Giang, Thừa Thiên-Huế, Long An, Đà Nẵng, Ninh Bình .v.v.) đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, dường như có một không khí thi đua thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các địa phương trong toàn quốc. Trừ lĩnh vực dầu khí, cả nước có 56 địa phương thu hút được dự án ĐTNN, trong đó, TP Hồ Chí Minh đứng đầu với số vốn đăng ký 2,28 tỷ USD, chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư đăng ký; Hà Nội đứng thứ 2 với 1,9 tỷ USD (chiếm 11,1%); Đồng Nai đứng thứ 3 với 1,786 tỷ USD (chiếm 10%), Bình Dương đứng thứ 4 với 1,751 tỷ USD, (chiếm 9,8%), Phú Yên đứng thứ 5, với 1,703 tỷ USD (chiếm 9,5%). Nếu tính cả số vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm thì có 6 địa phương lọt vào tốp thu hút vốn ĐTNN trên 1 tỷ USD riêng trong năm 2007, đó là : (1) Thành phố Hồ Chí Minh với 2,8 tỷ USD, (2) Đồng Nai với tổng vốn 2,7 tỷ USD, (3) Hà Nội với 2,16 tỷ USD, (4) Bình Dương với 2,15 tỷ USD, (5) Phú Yên với 1,7 tỷ USD, (6) Bà Rịa-Vũng Tàu với 1,1 tỷ USD. Trong năm 2007 có 57 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó Hàn Quốc tiếp tục giữ vị trí đứng đầu với số vốn đăng ký trên 4,4 tỷ USD, chiếm 24,9% về tổng vốn đăng ký, British Virgin Islands đứng thứ 2 với 4,2 tỷ USD (chiếm 23,8%). Singapore đứng thứ 3 với 2,6 tỷ USD (chiếm 14,6%), Đài Loan đứng thứ 4 với 1,7 tỷ USD (chiếm 9,7%), Malaysia đứng thứ 5 với 1,09 tỷ USD (chiếm 6,1%), Nhật Bản đứng thứ 6 với 965 triệu USD (chiếm 5,4%), Hoa Kỳ (không tính các dự án đầu tư thông qua nước thứ 3) đứng thứ 8 với 354 triệu USD (chiếm 2%). Song song với việc đầu tư vào thành lập các dự án mới nói trên, đã có 32 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanhh, tăng vốn, mở rộng sản xuất, trong đó, 4 nền kinh tế đứng đầu đã chiếm khoảng 72,1% tổng số vốn đầu tư bổ sung : đứng đầu là Đài Loan có số vốn tăng thêm 688,7 triệu USD, chiếm 27,8% tổng số vốn bổ sung ; Hàn Quốc đứng thứ 2 với 533,6 triệu USD (chiếm 21,6%); Nhật Bản đứng thứ 3 với 338,9 triệu USD (chiếm 13,7%); Hồng Kông đứng thứ 4 với 219,7 triệu USD (chiếm 8,9%); Samoa đứng thứ 5 với 173,4 triệu USD (chiếm 7%). Tính gộp cả vốn cấp mới lẫn vốn tăng nói trên có 6 nền kinh tế lọt vào tốp đầu tư hơn 1 tỷ USD tại Việt Nam riêng trong năm 2007, như sau: (1) Hàn Quốc đầu tư 4,99 tỷ USD, (2) B.V.Island đầu tư 4,32 tỷ USD, (3) Singapore đầu tư 2,67 tỷ USD, (4) Đài Loan đầu tư 2,42 tỷ USD, (5) Nhật Bản đầu tư 1,3 tỷ USD và (6) Malaysia đầu tư 1,17 tỷ USD. Như vậy riêng các nước châu á trong năm 2007 đã đăng ký đầu tư 12,5 tỷ USD tại Việt Nam, chiếm 62,5% tổng vốn đầu tư.Bên cạnh sự xuất hiện các dự án mới, các dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh đã góp một lượng vốn đáng kể để triển khai thực hiện dự án, trong năm 2007 vốn thực hiện đạt 4,6 tỷ USD, tăng 12,2% so với năm trước, vượt 2,2% kế hoạch năm đề ra (4,5 tỷ USD). Có thể nói năm 2007 cũng là năm mà doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua (39,6 tỷ USD), tăng 34,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 19,3 tỷ USD, tăng 31,2% so với năm trước. Nếu tính cả dầu thô thì giá trị này đạt 27,8 tỷ USD tăng 21% so với năm 2006. Nhập khẩu trong năm 2007 đạt 21,6 tỷ USD, tăng 31,5% so với năm trước. Các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu hút thêm 10 nghìn lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến thời điểm này hơn 1,26 triệu lao động, tăng 12% so với năm trước. Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất – kinh doanh của khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn giữ mức tăng trưởng cao, nhiều số doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã triển khai tích cực ngay trong tháng được cấp giấy chứng nhận đầu tư, như dự án sản xuất xe máy Vespa của Tập đoàn Piaggio tại Vĩnh Phúc đã khởi công chỉ vài ngày sau khi có giấy chứng nhận đầu tư. 2. Hạn chế. Bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại, những mặt chưa được trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua. · Kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài vần còn chưa tương xứng với nhu cầu huy động vốn đáp ứng cho tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời chưa tương xứng với tiềm năng của nước ta. · Các dự án mới gắn với chuyển giao công nghệ nguồn của các công ty xuyên quốc gia còn rất thấp, dòng vốn đầu tư chủ yếu vẫn từ các nước châu Á; đầu tư từ khối EU, Hoa Kỳ còn có nhịp độ tăng trưởng chậm. Sự gắn kết giữa khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với kinh tế trong nước vẫn còn những bất cập, công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp vẫn chưa phát triển, chưa đáp ứng được nguyên, phụ liệu cho đầu tư chiến lược. Điều này làm hạn chế hiệu ứng của vốn đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế, dẫn đến khả năng hấp dẫn của môi trường đầu tư bị “điểm kém”. Theo một chuyên gia của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch Đầu tư: “Nếu chúng ta chỉ chú trọng đến việc thu hút các nguồn vốn lớn về đầu tư nước ngoài mà không “để mắt” tới các dự án nhỏ, quy mô thấp những có tính bổ trợ cho các ngành công nghiệp chủ đạo thì sớm muộn chúng ta cũng bị “tụt dốc” trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài”. · Sự liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với khu vực kinh tế nước nhà còn thể hiện sự thiếu đồng bộ ở cơ chế trong việc hợp tác, phối hợp khi các đối tác có nhu cầu. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài bộc bạch: Chúng tôi rất cần những mối làm ăn lớn tại thị trường Việt Nam, song còn khá nhiều những trở ngại trong việc phối hợp, thủ tục hành chính về quản lý đầu tư còn quá rườm rà. · Một yếu tố nữa cũng làm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian còn hạn chế, đó là vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn tập trung chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm. Tại các vùng này với những lợi thế về kết cấu hạ tầng và thị trường tiêu thụ nên khá hấp dẫn các nhà đầu tư còn các vùng thứ yếu chưa được chú trọng đúng mức. Điều này cho thấy các chính sách khuyến khích đầu tư vào các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa chưa mang lại kết quả như mong muốn. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa nhằm vào hạn chế tình trạng mất cân đối về vốn đầu tư nước ngoài giữa các vùng kinh tế. · Bên cạnh đó, một số trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp Việt Nam cũng như sự yếu kém trong kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam nhiều máy móc thiết bị lạc hậu, thạm chí cả phế thải của các nước khác. 3. Nguyên nhân · Chưa có sự nhất trí cao trong quan điểm và nhận thức đối với đầu tư nước ngoài. · Luật pháp, chính sách của ta tuy được cải thiện, bổ sung nhưng còn thiếu đồng bộ, chưa tương thích hoàn toàn với thông lệ, luật pháp quốc tế. · Môi trường kinh doanh chưa đủ hấp dẫn. Theo đánh giá của Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC), môi trường kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, được tổ chức này và Ngân hàng Thế giới xếp thứ 104/174 nền kinh tế đã điều tra, kết luận. · Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài chưa thật phù hợp. Các công đoạn thực hiện quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập.Thiếu sự thống nhất trong quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đối với đầu tư nước ngoài. · Đặc biệt, hệ thống kết cấu hạ tầng còn yếu, không đồng bộ, gây ảnh hưởng, tăng chi phí, đội giá thành vận chuyển sản phẩm cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới quyết tâm của nhà đầu tư. · Công tác xúc tiến đầu tư tuy đã gặt hái những kết quả quan trọng, nhưng vẫn gặp khó khăn do thiếu nguồn kinh phí dài hơi; đồng thời chất lượng hoạt động này cũng chưa cao, chưa mang tính chuyên nghiệp, nhất là đối với cấp ngành và địa phương tổ chức. · Chất lượng, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động còn yếu và không đồng đều nên nhiều nhà đầu tư e ngại sẽ khó tìm đủ số lượng nhân công hoặc phải mất thêm chi phí, thời gian để đào tạo III. Giải pháp. Có thể khái quát 6 giải pháp cơ bản như sau: · Giải quyết một cách cơ bản vấn đề nhận thức còn khác nhau về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. · Khẩn trương cải thiện môi trường đầu tư nhằm tạo sức mạnh cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới (bao gồm hoàn thiện hệ thống pháp lý, thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư). Ø Về môi trường pháp lý, cần khẩn trương soạn thảo các văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và ban hành sớm các văn bản này để các nhà đầu tư cũng như các cơ quản quản lý Nhà nước ở TW và địa phương có thời gian tìm hiểu và chuẩn bị áp dụng. Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp vừa được Quốc hội thông qua có hiệu lực vào 1/7/2006 sẽ tạo một bằng pháp lý chung cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Trong quá trình này cần chú trọng vào việc bảo đảm cho 5.800 dự án ĐTNN đã được cấp giấy phép và chuyển sang hoạt động theo các luật mới một cách thuận lợi. đồng thời, tiến hành rà soát các chính sách liên quan để kịp thời chỉnh sửa, thực hiện theo đúng lộ trình đề ra. Thủ tục hành chính, tập trung sức hoàn thiện cơ chế “một cửa” ở các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư, tăng cường phân cấp mạnh hơn nữa quản lý đầu tư đi đôi với tăng cường cơ chế phối hợp giám sát và kiểm tra, giải quyết kịp thời các thủ tục đất đai, xuất nhập khẩu, hải quan . Ø Về kết cấu hạ tầng, tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước, trong đó cần chú trọng đến quy chế khuyến khích tư nhân đầu tư, nâng cấp công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước .Cần triển khai xây dựng các đầu mối xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm; đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, nhất là chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm. · Cụ thể hoá các định hướng toàn diện về thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời, sớm bổ sung các quy hoạch còn thiếu và nâng cao chất lượng của các quy hoạch. · Đa dạng hóa hình thức và mở rộng lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động vận động và xúc tiến đầu tư. · Phát triển thị trường lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. · Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối vớikhu vực có vốn đầu tư nước ngoài. C. Kết luận Trong suốt 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã không ngừng được mở rộng và phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ ngày càng quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Năm 2008, năm thứ 21 thi hành chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, việc nhìn lại và đánh giá chính sách đầu tư nước ngoài 20 năm qua là vô cùng quan trọng để rút ra những bài học và định hướng cho giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh Việt Nam đang chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Thực hiện đề án này, tôi không chỉ có cơ hội đi sâu tìm hiểu về một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nước ta mà còn học hỏi thêm kinh nghiệm về phương pháp nghiên cứu khoa học phục vụ cho những lần làm đề án, tiểu luận và luận văn sau này. Dù đã rất cố gắng, song trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót cần sửa chữa, tôi rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của thầy để đề án của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin. NXB Chính trị quốc gia. 2. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 3. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 357 – tháng 2/2008. 4. Tạp chí Thương mại số 6/2008. 5. Tạp chí cộng sản số 1(122) năm 2007. 6. Quyết định của cục trưởng cục thống kê số 147-TCTK/PPCĐ ngày 27 tháng 12 năm 1993 về việc ban hành hệ thống phân loại khu vực và thành phần kinh tế áp dụng trong công tác thống kê. 7. Theo Tạp chí khu CN Việt Nam. 8. Nguồn: vneconomy.vn 9. Nguồn: tienphong 10. Nguồn tin: Vinanet
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong thời kỳ quá độ ở VN.DOC