Khủng hoảng nợ dưới chuẩn, bài học kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng cho hoạt động giám sát tài chính ở Việt Nam

Như vậy, chắc chắn vấn đề cho vay dưới chuẩn sẽ tồn tại (dưới góc độ cơ chế đánh giá rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng) với những mức độnghiêm trọng khác nhau. Mặc dù hiện nay các ngân hàng có thể vẫn an tâm với mức độ mất khả năng chi trảthấp trong số các con nợ của họ nhưng cần lưu ý rằng tổng dưnợtrong hệ thống ngân hàng vẫn đang tăng lên mạnh. Một khi nhu cầu về bất động sản bão hòa hay tụt giảm và các khoản cho vay bất động sản đến hạn thanh toán, số nợ mất khả năng thu hồi có thể sẽ trở nên quá lớn vượt ra khỏi tầm kiểm soát, đẩy ngành ngân hàng vào tình trạng bất ổn nghiêm trọng. Do đó, các cơ quan chức năng, cũng như bản thân các ngân hàng cần có những biện pháp, chính sách phù hợp để không xảy ra các tác động xấu do vỡ nợ cho vay dưới chuẩn.

pdf40 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4112 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khủng hoảng nợ dưới chuẩn, bài học kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng cho hoạt động giám sát tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an rộng khắp châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) phải bơm đợt 1 95 tỷ euro, đợt 2 61 tỷ euro, đợt 3 44,7 tỷ euro vào hệ thống ngân hàng trong khu vực để làm dịu việc thu hẹp tín dụng do các vấn đề cho vay dưới chuẩn gây ra. ™ Khu vực Châu Á - Trung Quốc: hai ngân hàng lớn của Trung Quốc, ngân hàng công thương Trung Quốc và ngân hàng Trung Quốc đã thông báo khoản lỗ trị giá 11 tỷ USD vì những rủi ro liên quan đến cho vay thế chấp. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 17  - Úc: cuộc khủng hoảng đã lan sang Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney. 2.3. Tác động của cuộc khủng hoảng ™ Tác động lên cơ quan, tổ chức tài chính Các quỹ đầu cơ (Hedge Funds) Các quỹ đầu cơ bị ảnh hưởng của sự thắt chặt tín dụng sớm nhất. Những quỹ này nắm giữ một lượng lớn các CMO, CDO, vốn là những công cụ tài chính có tính đòn bẩy cao. Với mỗi đôla Mỹ nhận được từ các nhà đầu tư, quỹ đầu cơ có thể vay thêm 29 USD để đầu tư, với kết quả là tỷ lệ “đòn bẩy” đạt mức 30 lần. Những khoản vay mượn này (hầu hết là từ các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư) được đảm bảo bằng các danh mục đầu tư chứng khoán của họ. Khi giá trị của các khoản bảo đảm này bắt đầu giảm, các quỹ đầu cơ phải thực hiện việc ký quỹ bổ sung (bổ sung thế chấp). Đó là lý do tại sao vào đầu tháng 8/2007, hai quỹ bảo hiểm của Bear Stearns đã gặp phải vấn đề thanh khoản. Những khó khăn tương tự cũng đã xảy ra với các quỹ của BN`P hay Lehman Brothers. Các ngân hàng Nhiều tổ chức tài chính (như Citigroup, Goldman Sachs, Bank of America) đã thiết lập các chi nhánh có tên gọi là Các phương tiện Cấu trúc đầu tư (Structured Investment Vehicles, SIV). Những tài sản rủi ro cao (hầu hết liên quan đến vay thế chấp) được chuyển giao đến các SIV, sau đó SIV thâm nhập vào thị trường thương phiếu tìm nguồn tài chính. Khi các chứng khoán thế chấp “rơi tự do”, thị trường thương phiếu đã mất 300 tỷ USD vào cuối năm 2007. Nhiều SIV đã không thể đảo hạn được các thương phiếu của họ (nợ ngắn hạn, được gia hạn hàng ngày hoặc hàng tuần). Vào tháng 11/2007,với sự ủng hộ của FED một tổ hợp các ngân hàng lớn đã đưa ra kế hoạch giải cứu thị trường.Theo đó, một quỹ với số vốn 80 tỷ USD sẽ được thiết lập. Quỹ này sẽ mua các chứng khoán nợ từ SIV với mức giá thấp nhằm tăng tính thanh khoản và giảm thiểu rủi ro trong bảng cân đối kế toán của họ. Bằng cách đó, thị trường thương phiếu có thể được hồi sinh. Tuy nhiên, đàm phán giữa các ngân hàng này đã kéo dài hàng tháng trong khi thị trường lại ngày càng trở nên xấu hơn. Cuối cùng, kế hoạch GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 18  cứu nguy này đã bị hủy bỏ vào cuối năm 2007 và mỗi ngân hàng tự giải quyết vấn đề theo cách riêng của mình. Đã không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc chuyển các tài sản ở SIV về lại bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Hậu quả là các ngân hàng đã nối đuôi nhau thông báo sự thua lỗ nặng nề sau khi định giá lại danh mục đầu tư của họ. Các ngân hàng đầu tư đã sử dụng các mô hình máy tính để tính toán giá trị của những chứng khoán vốn rất phức tạp hoặc không được giao dịch thường xuyên. Những mô hình như thế này đã không thể điều chỉnh được trong điều kiện thị trường đang ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Theo IMF, giá trị thua lỗ của tất cả các khoản cho vay thế chấp ở mức 495 tỷ USD. Nếu tính thêm cả những thua lỗ có liên quan đến các hình thức nợ khác (vay kinh doanh bất động sản, nợ công ty, những khoản vay LBO) thì con số này có thể sẽ đạt tới mức 945 tỷ USD. Với mức độ khác nhau, các ngân hàng trên khắp thế giới đều bị ảnh hưởng. Báo chí đã tập trung đưa tin về những ngân hàng lớn bị thua lỗ nặng nhất như Citigroup, BOFA, Lehman Brothers. Ở Châu Âu, UBS là ngân hàng bị thua lỗ nhiều nhất. Cơ quan điều tiết tiền tệ FED hoàn toàn ủng hộ kế hoạch giải cứu thị trường đề cập ở trên vì đó là giải pháp của khu vực tư nhân tự giải quyết vấn đề của mình. Tuy nhiên, khi kế hoạch đó thất bại, FED đành phải hành động. FED đã tiến hành cắt giảm lãi suất nhiều lần, từ mức 5,25% vào tháng 8/2007 xuống còn 2% vào tháng 4/2008. Sau đó,FED đã tuyên bố tạm dừng giảm lãi suất và thực hiện việc đánh giá những tác động của chính sách tới thị trường. FED cũng đã bơm một lượng tiền lớn vào lưu thông qua kênh nghiệp vụ thị trường mở bằng cách mua trái phiếu kho bạc và tổ chức các chương trình đấu giá cho vay kỳ hạn để các ngân hàng có thể có được nguồn tiền mặt cần thiết, tránh thiếu hụt thanh khoản. Điều này đã khuyến khích các ngân hàng thương mại vay mượn tự do thông qua cửa sổ chiết khấu bằng cách mở rộng danh mục tài sản đảm bảo. Việc mở rộng danh mục tài sản đảm bảo được chấp nhận giống như một hình thức hỗ trợ. Đặc biệt, các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản cho vay thế chấp cũng được chấp nhận vào danh mục tài sản đảm bảo. Vào tháng 3/2008, FED đã cứu Bear Stearns (một ngân hàng đầu tư lớn) khỏi phá sản và thu xếp để J.P. Morgan Chase (một ngân hàng với bảng cân đối kế toán lành mạnh) mua lại. Để giao dịch này diễn ra thuận lợi, FED cùng với Bộ trưởng Bộ Tài chính GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 19  Henry Paulson đã đứng ra đảm bảo cho khoản nợ tương đương 29 tỷ USD chứng khoán của Bear Stearns. Như vậy, lần đầu tiên, việc cứu một ngân hàng tư nhân đã khiến bảng cân đối kế toán của FED cũng như tiền thuế của người dân bị rủi ro. Trong khuôn khổ của khoản cứu trợ cả gói, FED cũng đã mở cửa sổ chiết khấu cho các ngân hàng đầu tư và các công ty môi giới chứng khoán. Đây là một quyết định chưa từng có trong lịch sử bởi vì điều lệ chỉ cho phép FED cho các ngân hàng thành viên (chủ yếu là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác) vay. Các ngân hàng đầu tư chưa bao giờ là thành viên của FED kể từ khi Cục này được thành lập vào năm 1913. Sự thay đổi trong điều lệ như vậy đòi hỏi một cuộc bỏ phiếu tán thành của Hội đồng quản trị FED. Một cuộc họp khẩn cấp đã được triệu tập vào một ngày cuối tuần và chỉ có 5/7 thành viên có mặt, trong đó có 3 phiếu thuận. Sự cứu nguy bất ngờ của FED đối với Bear Stearns và việc can thiệp sâu của FED và Bộ Tài chính đã ngay lập tức khiến cho thị trường “bình tĩnh” lại. Một mạng lưới an toàn đang được thiết lập lại. Rõ ràng rằng Chính phủ Mỹ sẽ thực hiện những bước đi cần thiết nhằm ngăn ngừa sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ - “một sự sụp đổ có thể làm đổ vỡ cả hệ thống tài chính toàn cầu. Ủy ban chứng khoán Nhiệm vụ của SEC là giám sát các ngân hàng đầu tư, công ty môi giới và các quỹ đầu cơ. Song những điều tồi tệ nhất lại đã xảy ra trong các tổ chức này mà SEC đã không nắm bắt được. Các ngân hàng đầu tư đã sử dụng những mô hình toán học để cấu trúc các sản phẩm tín dụng thành những sản phẩm ngày càng phức tạp và tinh vi hơn. Đội ngũ các tiến sĩ toán học của họ đã nhanh nhạy hơn các nhân viên của SEC trong việc bắt kịp với sự phát triển mới nhất trên thị trường tài chính. Trái ngược với FED, vốn có đội ngũ nhân viên kiểm soát ngay tại mỗi ngân hàng lớn (như tại J.P. Morgan, Citigroup) và giám sát các hoạt động thường nhật của những ngân hàng này, SEC chỉ tiến hành các đợt kiểm tra định kỳ. Vai trò chính của SEC là bảo vệ các nhà đầu tư, không phải là bảo vệ các ngân hàng đầu tư bởi vì các ngân hàng này được giả định là họ biết họ đang làm gì. Hành động đúng đắn nhất của SEC là hợp tác với FED và Bộ Tài chính để cứu nguy cho Bear Stearns vào ngày 19/3/2008. Nhân viên kế toán của SEC đãlàm việc ở Bear Stearns cả những ngày cuối tuần, nghiên cứu hàng trăm hồ sơ chứng khoán. Họ đã GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 20  tính được con số 30 tỷ USD tài sản rủi ro (sau đó giảm xuống còn 29 tỷ USD) mà J.P. Morgan Chase không muốn đưa vào bảng cân đối kế toán của họ. FED và Bộ Tài chính đã bảo đảm đền bù cho bất kỳ sự thua lỗ nào của Bear Stearns và đây là lần đầu tiên FED đã đưa rủi ro vào bảng cân đối kế toán của mình. Tuy nhiên, rủi ro này nhỏ hơn nhiều so với 900 tỷ USD trái phiếu kho bạc trong tài khoản của FED. Bộ Tài chính Mỹ Theo truyền thống, Bộ trưởng Bộ Tài chính thay mặt Tổng thống Mỹ giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến kinh tế và tài chính. Ông đồng thời là người chịu trách nhiệm về chính sách tài khóa. Đối mặt với khủng khoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn xảy ra vào tháng 8/2007, Bộ trưởng Paulson đã chấp thuận các chính sách của FED với vai trò là tổ chức giám sát cao nhất của hệ thống ngân hàng. Ông đã ủng hộ các biện pháp chính sách của FED nhằm tăng tính thanh khoản và cắt giảm lãi suất. Vào tháng 11/2007, ông đã ủng hộ phương án gói cứu nguy 80 tỷ USD của nhóm các ngân hàng lớn. Nhưng cuối cùng kế hoạch này đã thất bại. Vào tháng 3/2008, Paulson đã có một quyết định quan trọng khi đồng ý với Bernanke về việc cứu nguy Bear Stearns. Ông tin rằng can thiệp là hết sức cần thiết khi đối mặt với nguy cơ sự sụp đổ mang tính hệ thống, một sự sụp đổ có thể nhấn chìm hệ thống kinh tế toàn cầu. Để đối phó với những gì đang xảy ra, Ngài Paulson đã thông báo một kế hoạch cải tổ lớn để tái cơ cấu và củng cố việc giám sát tất cả các thể chế thị trường. Các ngân hàng đầu tư và các nhà môi giới được đưa vào khuôn khổ giám sát bởi vì giờ đây họ đã có quyền vay mượn thông qua cửa sổ chiết khấu, một đặc quyền mà trước kia chỉ giành cho các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào kế hoạch đã đưa ra, FED đảm nhận thêm trách nhiệm không chỉ bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài chính Mỹ mà còn của toàn thế giới. ™ Tác động lên nền kinh tế thực Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy thoái từ tháng 12 năm 2007.Cục nghiên cứu kinh tế Mỹ (NBER) dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thị trường chứng khoán đã chứng kiến sự suy giảm mạnh GVHD: Tiểu luậ Year Ja 2009 79 2008 11 2007 12 2006 10 M tạm ngư năm 200 liệu từ 1 Dow Jon Nế mức giả điểm vào 2009. TS. Diệp n: “Tài ch n Feb 49 7063 971 1218 398 1221 667 1075 ảng kinh d ng hoạt độ 7. Với tổn 2/9/08 đến es giảm 25 u xét riêng m bắt đầu cuối năm Gia Luật ính tiền tệ Biểu Mar A 6547 7 2 11740 1 6 12050 1 0 10959 1 oanh béo ng. Cổ phi thất nặng 12/1/09 th ,81%, chỉ s chỉ số bìn liên tục từ 2008 và ch ”  4: Thị trư pr May 762 8212 2302 1248 2382 1313 1074 1109 bở từ chứn ếu các ngâ nề này, các ì các chỉ số ố Nasdas g h quân côn quý III nă ạm đáy tại ờng chứng Jun J 8300 8 0 11347 6 13267 4 10706 g khoán hó n hàng đầ ông chủ p chứng kh iảm 32,03% g nghiệp D m 2007 từ mức chỉ kh CHKT N khoán Mỹ ul Aug 147 913 10963 112 13212 128 10739 110 a của các u tư rớt thả hố Wall lầ oán Mỹ đã ; chỉ số S ow-Jones gần 13,50 oảng 6,50 gày 3 – K Sep 5 9281 84 10365 46 13113 76 11331 ngân hàng m hại tron n lượt phả giảm đáng &P 500 giả từ năm 20 0 điểm xu 0 điểm vào 21 – Nhóm Pa Oct No 9488 977 8176 755 13522 127 11670 119 đầu tư cũn g 6 tháng i ra đi. The kể như: ch m 30,47%. 06 đến na ống dưới 8 cuối quý I 5 ge 21  v Dec 2 10286 2 8149 43 13167 86 12194 g bị cuối o số ỉ số .. y thì ,000 năm GVHD: Tiểu luậ Year 2009 2008 2007 2006 Cụ tăng 0,6 thất ngh mức kỷ số thất n nghiệp ở nghiệp đ thời kỳ s năm qua TS. Diệp n: “Tài ch Mar -3.30 2.00 1.40 3.00 thể, sự thiế % trong qu iệp đã tăng lục trong 2 ghiệp tăng mức cao ều đồng lo uy thoái vớ . Gia Luật ính tiền tệ Biểu 5: T Ju -3. 1.6 1.9 3.0 u hụt tài ch ý IV năm từ mức 4,9 7 năm qua vọt từ 5. như vậy l ạt sa thải n i chỉ số G ”  ỉ lệ tăng tr n 80 0 0 0 ính gây áp 2007 và qu % vào thá (cuộc chiế 8% năm 19 à các công hân côngV DP suy giả ưởng GDP Sep -2.50 0.00 2.70 2.20 lực lên cá ý I năm 20 ng 12 năm n chống lạ 79 tới 9.5 việc bị cắ à cuộc khủ m liên tục CHKT N của Mỹ 2 Dec -1.90 2.50 2.40 c hoạt động 08, so với 2007 lên 1 m phát sau % năm 19 t giảm tại ng hoảng đ và tỷ lệ thấ gày 3 – K 006 - 2009 Aver -3.20 0.43 2.13 2.65 kinh tế. G mức 4% n 0.2% vào t thế chiến 83). Nguyê mọi ngành ã đẩy nền t nghiệp ca 21 – Nhóm Pa age DP của Mỹ ăm 2006. T háng 10/20 thứ hai đẩy n do tỷ lệ và các d kinh tế Mỹ o nhất tron 5 ge 22  chỉ ỷ lệ 09 - con thất oanh vào g 27 GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 23  Nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái khi GDP âm liên tục nhiều kỳ. (Suy thoái kinh tế là tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) âm liên tục trong 2 quý. Suy giảm kinh tế là tốc độ tăng của GDP bị giảm sút trong nhiều quý (3,4 quý) ) Đến thời điểm năm 2009 GDP của Mỹ đã suy giảm 4 quý liên tiếp, chuỗi suy giảm dài nhất từ năm 1947 Và tỷ lệ thất nghiệp lên mức báo động Biểu 6: Tỉ lệ thất nghiệp của Mỹ từ quý I/2008 đến quý IV/2009 Biểu 7: Tỉ lệ thất nghiệp của Mỹ từ năm 1990 đến năm 2010. Tình trạng đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 24  làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General Motors, Ford Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công.Ngày 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát. Biểu 8: Tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp của Mỹ Tại Mỹ, số người đăng kí thất nghiệp cao là một tệ hại có thể cản trở đà phục hồi kinh tế. Số lượng người đăng ký thất nghiệp lần đầu lên đỉnh cao vào cuối tháng 3/2009 là 674 nghìn người. Khi kinh tế Mỹ còn tăng trưởng trước tháng 12/2007, số lượng người đăng ký thất nghiệp lần đầu hàng tuần chỉ đứng ở mức trung bình 350 nghìn người. Kể từ lúc bắt đầu suy thoái tháng 12/2007 đến tháng 2/2009, Mỹ đã mất tổng cộng 7,2 triệu việc làm, đến tháng 9/2009 tỷ lệ thất nghiệp tăng lên mức 9,8% và con số này ở tháng 10/2009 leo lên mức 10,2% - mức kỷ lục trong 27 năm qua (cuộc chiến chống lạm phát sau thế chiến thứ hai ấy là đẩy con số thất nghiệp tăng vọt từ 5.8% năm 1979 tới 9.5% năm 1983). Nguyên do tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao như vậy là các công việc bị cắt giảm tại mọi ngành và các doanh nghiệp đều đồng loạt sa thải nhân công. Kèm theo đó là sự sút giảm trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp với mức tăng trưởng âm từ đầu quý II năm 2008 đến nay với mức sụt giảm lớn nhất là -13,1% vào tháng 06/2009. Đối với thế giới GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 25  Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Thống kê cho thấy Nhật Bản đã bị giảm kim ngạch xuất khẩu và giảm sản lượng sản xuất ở mức kỷ lục. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại. Suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới đã làm GDP của các nước này đang từ chỗ tăng tới 5,1% trong năm 2007 giảm xuống chỉ còn tăng 1,5% trong năm 2008. Các nước đang phát triển châu Á hầu hết đều bị giảm tốc độ tăng trưởng, thậm chi có nước còn tăng trưởng âm. Bangladesh, Indonesia, Pakistan, Việt Nam vốn có mức tăng trưởng trên dưới 6% trong các năm 2007 và 2008, sang năm 2009 chỉ còn tăng trưởng trên dưới 3%. Malaysia và Thái Lan tăng trưởng với tốc độ -3,0% và -3,5% trong năm 2009. Giá dầu (USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm khi kinh tế thế giới xấu đi. Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại. Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Mỹ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành lập. Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Mỹ, nên cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ. Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu. Nhiều thị GVHD: Tiểu luậ trường c nhà đầu Mỹ, yên tiền tệ k tệ ở một khủng h CHƯƠ 3.1. Ảnh Mở cửa cũng có chiếm 3 hoảng b thì cơn b khủng h ngân hàn trực tiếp ™ T N giới, tốc đó. Tốc chính ph TS. Diệp n: “Tài ch hứng khoá tư chuyển Nhật, fran hác, gây kh số nước b oảng tiền tệ NG 3. TH hưởng củ kinh tế và nhiều ngu 0% tổng sả ắt nguồn từ ão này tác oảng ở hầu g, thì ở Vi nước ngoà ác động đế ăm 2008, c độ tăng trư độ tăng trư ủ. Trong đ Gia Luật ính tiền tệ n trên thế danh mục c Thụy Sĩ ó khăn cho uộc họ phả khi won li ỰC TRẠN a khủng h hội nhập y cơ hơn k n lượng ch nền kinh t động đến V hết các nư ệt Nam lại i. n tốc độ tă Biểu 9 hịu ảnh hư ởng GDP ởng này t ó, nhóm ng ”  giới gặp ph đầu tư của đã khiến ch xuất khẩu i xin trợ gi ên tục mất G VÀ BÀ oảng nợ củ đã mang lạ hi xảy ra u chuyển v ế Mỹ ảnh h iệt Nam c ớc thể hiệ thể hiện rõ ng tổng giá : Tăng trư ởng từ bất trong năm 2 hấp hơn nh ành có tốc ải đợt mất mình sang o các đồng của Mỹ, N úp của Qu giá từ đầu I HỌC K a Mỹ đến i nhiều lợi biến động. ốn của thị ưởng ngay ó phần chậm n đầu tiên nhất ở lĩnh trị sản phẩ ởng GDP g ổn kinh tế 008 chỉ đạ iều so với độ tăng trư CHKT N giá chứng các đơn v tiền này l hật Bản, T ỹ Tiền tệ Q năm 2008 INH NG Việt Nam ích cho V Kinh tế M trường thế tới các nề hơn. Nếu và rõ nét n vực xuất m quốc nộ iai đoạn 2 vĩ mô và t 6,23%, th năm 2007 ởng giảm gày 3 – K khoán ngh ị tiền tệ m ên giá so v hụy Sĩ và g uốc tế. Hà HIỆM Ở iệt Nam n ỹ là một n giới. Nếu n n kinh tế hù như sức tà hất là hệ t khẩu, nhập i (GDP) 000-2010 khủng hoản ấp nhât tro và mục tiê nhiều nhất 21 – Nhóm Pa iêm trọng. ạnh như d ới nhiều đơ ây rối loạn n Quốc rơi VIỆT NA hưng đồng ền kinh tế hư cuộc kh ng mạnh k n phá của hống tài ch khẩu và đầ g tài chính ng 9 năm t u đã đề ra là công ng 5 ge 26  Các ollar n vị tiền vào M thời lớn ủng hác, cuộc ính, u tư thế rước của hiệp GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 27  và xây dựng. Sang đến quý 1/2009 tăng trưởng GDP đạt 3,1%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2008 và những năm trước. Những quý tiếp theo tình hình tăng trưởng GDP có cải thiện hơn nhưng tổng kết năm cho thấy tăng trưởng GDP cả năm 2009 vẫn bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng này khi chỉ đạt 5,3%, thấp hơn cả mức tăng trưởng năm 2008. ™ Tác động đến thị trường xuất nhập khẩu Biểu 10: Tình hình xuất khẩu giai đoạn 2000-2010 Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu năm 2009. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2008 đến đầu 2010 đã có những biến động mạnh. Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu sang Mỹ. Trong 9 tháng đầu năm 2008, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm 2007. Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm, từ 24% của năm 2007 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm 2008. Ngoài ra, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc. Sức tiêu dùng của người dân Mỹ giảm sẽ tác động tiêu cực đối với hàng Trung Quốc xuất sang Mỹ. Tiêu dùng tại Mỹ giảm sẽ khiến hàng Trung Quốc rẻ hơn và cạnh tranh hơn với hàng Việt Nam tại thị trường Mỹ. Đồng thời, khi hàng Trung Quốc tiêu thụ ở Mỹ giảm đi, nó sẽ chuyển hướng sang các thị trường khác tìm đầu ra mới, như Việt Nam, gây áp lực lớn cho ‐20 0 20 40 60 80 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Giá trị xuất khẩu (tỷ USD) Tỷ lệ tăng trưởng (%) GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 28  nền kinh tế Việt Nam. Nhật Bản và châu Âu cũng là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 giảm chỉ còn 16,5%, trong khi năm 2007 là 18%. Cuộc khủng hoảng cũng đã gây ra những biến động về giá cả xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Trong nửa đầu năm 2008, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang, gây áp lực tăng chi phí nhập khẩu và đẩy nhập siêu lên cao. Những biến động giá cả đã đánh đổ hầu hết các dự báo và hoạch định của doanh nghiệp, của các nhà điều hành chính sách. ™ Tác động đến đầu tư nước ngoài Về tình hình FDI vào Việt Nam, có ý kiến ban đầu cho rằng, về ngắn hạn, khủng hoảng chưa tác động lớn đến Việt Nam, do dòng vốn đầu tư vào đây đa số đều bắt nguồn từ các nước trong khu vực và các nước châu Á chiếm tới tỷ lệ lớn dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam thường mang tính dài hạn nên sẽ không bị ảnh hưởng nhiều trong ngắn hạn. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định trong khi Việt Nam có những lợi thế trong hai nhân tố này. Tuy nhiên, về dài hạn, cuộc khủng hoảng này khiến dòng đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam suy giảm vì những bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Thứ nhất, nguồn tín dụng của thế giới dần trở nên cạn kiệt, nên các hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Hơn nữa, tình hình kinh tế thế giới khó khăn nên việc giải ngân FDI cũng chậm lại đáng kể. Số dự án FDI đăng ký mới có xu hướng chững lại. Kết thúc năm 2008, nếu nhìn trên các con số, tình hình vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cam kết vào Việt Nam năm 2008 đã tăng cao kỷ lục trong giai đoạn 2000-2010. Tuy nhiên, vốn giải ngân trong năm 2008 chỉ đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007 nhưng tỷ lệ thực hiện chỉ đạt 16% vốn cam kết trong khi tỷ lệ thực hiện trong năm 2007 là 37,6%. Tác động của cuộc khủng hoảng biểu hiện rõ hơn khi bước sang 2009. Năm 2009, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam cả năm giảm mạnh 30% so với năm 2008, chỉ đạt GVHD: Tiểu luậ 23,1 tỷ U thế giới. L do khó k xuất khẩ Năm Kiều hối (tỷ USD) Thị trườ - M khá lớn. doanh n Đồng U hàng ho Tuy nhiê với hệ t động trự 0 20 40 60 80 TS. Diệp n: “Tài ch SD, vốn th B ượng kiều hăn trong u của Việt 2000 2 1,7 1 ng tài chín Tác động t ặc dù Việ Tác động ghiệp Việt SD có thể ặc bán USD n, vì mức hống tài ch c tiếp. 2007 21.3 Gia Luật ính tiền tệ ực hiện đạ iểu 11: Tì hối về Việ thời kỳ khủ Nam. Bảng 1: T 001 2002 ,8 2,1 h hị trường n t Nam khôn này được Nam gặp k giảm giá m để gửi VN độ và khả ính quốc t 8 ”  t 10 tỷ USD nh hình FD t Nam tron ng hoảng ình hình k 2003 20 2,7 3, gân hàng g chịu tác thể hiện th hó khăn kh ạnh dẫn tớ D vào, là năng liên k ế còn hạn 2008 71.7 11.5 , do sụt gi I của Việt g năm 200 kinh tế là ả iều hối gia 04 2005 2 3,8 động trực ông qua v i lãi suất c i nhiều ngư m cho cấu ết của các chế nên cá 2009 23.1 10 CHKT N ảm đầu tư c Nam (200 9 cũng giả nh hưởng i đoạn 200 2006 20 4,7 5,5 tiếp, nhưn iệc các kh ho vay liê ời dân có trúc tài sản ngân hàng c ngân hàn 201 18.6 gày 3 – K ủa các nhà 7-2010) m 12,5% t đến số lượn 0-2010 07 2008 7,2 g tác động oản nợ ng n ngân hàn thể rút US ngân hàng thương mạ g Việt Nam 0 11 21 – Nhóm Pa đầu tư lớn rong năm 2 g lớn lao đ 2009 201 6,3 8,1 gián tiếp ắn hạn của g quốc tế t D ra khỏi gặp khó k i Việt Nam sẽ ít chịu cam kế giải ngâ 5 ge 29  trên 009 ộng 0 cũng các ăng. ngân hăn. đối tác t n GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 30  Trong quí 1/2009, phản ứng chung của hệ thống ngân hàng là rất dè dặt. Nếu như tổng phương tiện thanh toán vẫn tăng ở mức xấp xỉ năm 2008 thì vốn huy động vay cho vay nền kinh tế qua hệ thống ngân hàng đều tăng trưởng khá thấp, đặc biệt là cho vay nền kinh tế chỉ tăng 2,7% trong quí 1, chỉ đạt xấp xỉ 1/10 tốc độ tăng trưởng của cả năm 2008. Dù Ngân hàng Nhà nước có “bơm” trở lại lưu thông 33.000 tỉ đồng ngay trong tháng 3/2008, nhưng trong quá trình tái cơ cấu các khoản tín dụng và đáp ứng yêu cầu tham gia mua tín phiếu bắt buộc, các ngân hàng thương mại khước từ phần lớn các yêu cầu tín dụng của doanh nghiệp. Thêm vào đó, lạm phát gia tăng cũng đẩy mặt bằng lãi suất lên cao. Có thời điểm, lãi suất huy động vượt trên 20%/năm với biên độ dao động cho phép là 150%. Tăng trưởng tín dụng sau khi tăng cao tới 54% trong năm 2007 đã giảm xuống còn 24% trong năm 2008. Tuy lãi suất đi xuống từ tháng 7/2008, nhưng tăng trưởng tín dụng giảm mạnh trong nửa cuối năm. Nếu trong nửa đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng hằng tháng luôn dao động từ 2% - 5% thì tốc độ tăng của tháng 7 chỉ còn 0,7% và tiếp tục giảm xuống 0,56% trong tháng 8/2008. Theo Vụ Tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu (cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay) của hệ thống ngân hàng tính đến 31/07/2008 là 3,64% (số tuyệt đối là 10.886 tỉ đồng), tăng 1% so với 2007. Nếu đánh giá trên năng lực trả nợ đúng hạn, phần đông doanh nghiệp hoạt động ở mức trung bình, tỷ lệ gặp khó khăn gần 4%, trong đó khoảng 1,5% có nguy cơ mất vốn. - Tác động thị trường chứng khoán Khủng hoảng tài chính ngày càng ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới, theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn, các nhà đầu tư sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư. Việc bán tháo chứng khoán ra khỏi thị trường Việt Nam mặc dù không cao do quy mô và thanh khoản của thị trường. Việc này ảnh hưởng tới việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong một vai năm tới, việc huy động vốn thông qua thị trường vốn sẽ khó khăn, trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính các doanh nghiệp tăng cao. Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ không tránh khỏi tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu có thể sụt giảm. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 31  Khủng hoảng tài chính Mỹ đã ảnh hưởng mạnh đến tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. Vào phiên giao dịch ngày 16/9/2008, khi thông tin về khủng hoảng tài chính tại Mỹ được đăng tải thì chỉ số giá chứng khoán Việt Nam (VNIndex) giảm mạnh 20,81 điểm, tương đương 4,36%. Trong những phiên giao dịch giảm giá này thì nhà đầu tư nước ngoài liên tục đặt lệnh bán ra. Ngay sau khi Chính phủ Mỹ, Ngân hàng Trung ương của một số nền kinh tế lớn bơm tổng cộng 247 tỷ USD vào thị trường tài chính toàn cầu và bắt đầu có biện pháp can thiệp chủ động và tích cực thì chỉ số chứng khoán Mỹ và thế giới đã tăng điểm mạnh mẽ trong phiên giao dịch ngày 19/9, VN-Index cũng đã tăng hết biên độ. Tuy nhiên, sau khi thị trường Mỹ và châu Âu sụt giảm trở lại ngày 22/9 thì ngày 23/9, TTCK Việt Nam cũng mất đà tăng. Hiện nay khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc tuy không làm ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán và các yếu tố tâm lý của người dân. 3.2. Bài học rút ra từ khủng hoảng cho vay dưới chuẩn tại Mỹ ™ Các tổ chức tài chính Sự thất bại của quản trị rủi ro Với những gì đã xảy ra, có thể thấy rằng sự thất bại của hệ thống quản trị rủi ro ở các ngân hàng lớn thật đáng ngạc nhiên. Rủi ro của nợ thế chấp dưới chuẩn tưởng như đã được phòng ngừa bằng cách những khoản nợ này được cấu trúc lại thành vô số chứng khoán và được phân phối ra khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng khi tín dụng bị thắt chặt, rủi ro đã xuất hiện trở lại ngay trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng hoặc tại các chi nhánh của chúng như của SIV và các tổ chức trung gian. Rủi ro mất danh tiếng đã khiến cho những ngân hàng này không thể để các công ty con của họ sụp đổ mà không có bất kỳ trách nhiệm nào. Một khi khoản vay đã được đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán thì khoản dự trữ bắt buộc sẽ ít hơn. Điều này đã khuyến khích các ngân hàng xây dựng các phương tiện đưa các khoản vay ra ngoài bảng cân đối kế toán. Bằng cách làm như vậy ngân hàng có thể thu được lời từ sự chênh lệch giữa giá trị tài sản có (các khoản cho vay thế chấp dài hạn) và các khoản nợ (thương phiếu ngắn hạn). Trên thực tế, lợi nhuận biên dương chỉ được duy trì trong một môi trường kinh tế ổn định và thị trường ít biến động. Bất cứ sự GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 32  không chắc chắn nào đối với các tài sản bảo đảm sẽ dẫn đến việc thị trường các thương phiếu bị đóng băng và các thương phiếu sẽ mất tính thanh khoản. Tình trạng này đã xảy ra đúng như vậy vào tháng 8/2007. Các chỉ số rủi ro của hầu hết các ngân hàng đã bị thu hẹp lại bởi vì họ đã loại trừ các khoản nợ tiềm năng của SIV. Hậu quả là các nhà đầu tư đã không được cung cấp đầy đủ thông tin về toàn bộ rủi ro của mỗi ngân hàng. Đòn bẩy quá mức Môi trường kinh tế Mỹ đầu những năm 2000 khá ổn định, đặc biệt sau cuộc suy thoái ngắn năm 2002, với mức lãi suất thấp, tính thanh khoản cao và các thị trường tài chính ít biến động. Các ngân hàng đã bị ru ngủ và thỏa mãn với những gì đang xảy ra. Để kiếm được những khoản lợi nhuận cao hơn, họ đã sử dụng lực đòn bẩy để phóng đại những kết quả đầu tư. Trong thời kỳ này, các ngân hàng thương mại đã duy trì mức “đòn bẩy” trung bình là 12 lần, con số này tại các ngân hàng đầu tư là 20 lần và tại các quỹ đầu cơ là 30 lần. “Đòn bẩy” ở đây được định nghĩa như là số nhân các tài sản có được qua vốn cổ phần. Minh họa một cách đơn giản là: Với 1 USD vốn cổ phần, các ngân hàng thương mại có thể nắm giữ một khoản đầu tư là 12 USD, các ngân hàng đầu tư nắm giữ 20 USD và con số này là 30 USD đối với các quỹ đầu cơ. Với “đòn bẩy” cao như vậy, dù chỉ một mức dao động nhỏ cũng có thể làm suy giảm tính thanh khoản. Cấu trúc đầu tư của ngân hàng giống như hình chóp ngược. Đáy lớn là các tài sản đem lại lợi nhuận dựa trên nền tảng của đáy bé là một nguồn vốn nhỏ. Nếu thị trường mất lòng tin, giá trị của các tài sản đem lại thu nhập sẽ sụt giảm nhanh và mạnh. Trong khi đó, những tài sản này là tài sản bảo đảm cho các khoản vay tín dụng để mua bán chúng. Khi giá trị tài sản bảo đảm giảm, người cho vay sẽ yêu cầu người đi vay ký quỹ bổ sung. Nếu giá trị của tài sản ký quỹ bổ sung không đủ, người cho vay sẽ tịch thu tài sản ký quỹ và bán chúng để bù đắp cho sự thiếu hụt của tài sản thế chấp. Như đã phân tích ở trên, việc bán tài sản trong một thị trường thưa thớt sẽ tạo nên vòng xoáy giảm giá. Yêu cầu ký quỹ bổ sung sẽ được đưa ra với hậu quả là tài sản sẽ tiếp tục được bán tháo và vòng quay cứ thế tiếp tục. Những sản phẩm phức tạp Những sản phẩm tín dụng được cấu trúc lại là một phát minh lớn, làm tăng tính thanh khoản của thị trường cho vay thế chấp. Không thể phủ nhận lợi ích của chúng. Nhiều nhóm người đã tiếp cận được với các nguồn tài chính này để có được nhà ở mà bằng cách khác họ GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 33  không thể có được. Khi thị trường trở nên quá nóng, các cấu trúc sư tài chính lại càng làm cho nó nóng hơn. Bắt đầu từ kết cấu đơn giản của MBS, tổng quỹ của các tài sản gốc trở nên không đồng nhất. Kết cấu của nó được mở rộng và bao gồm cả các khoản vay công ty, các trái phiếu rủi ro, các khoản vay LBO (Leveraged buyout – mua lại và sáp nhập doanh nghiệp bằng nguồn tài chính đi vay), thẻ tín dụng. Mỗi tài sản này đều có mức đánh giá tín dụng riêng và đặc trưng dòng tiền mặt riêng. Ngay cả những nhà quản lý lâu năm tại nhiều ngân hàng cũng không thể nắm chắc về tham số rủi ro thực trong các hoạt động của họ. Họ phụ thuộc vào các chuyên gia, các cấu trúc sư tài chính - những người hiểu rất rõ về cơ chế hoạt động của mỗi loại sản phẩm. Các máy tính chủ được dùng để chạy các chương trình cấu trúc nhằm tạo ra các sản phẩm phức tạp như CMO, CDO. Chính sự phức tạp của các sản phẩm đã khiến chúng ta khó xác định chính xác giá trị thực của nó. Với các sản phẩm được giao dịch thường xuyên, không khó để xác định giá trị thị trường của chúng. Tuy nhiên, có rất nhiều sản phẩm được tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những nhóm đầu tư đặc biệt. Chúng ít khi được giao dịch nên quá trình xác định giá bị đứt đoạn. Trong thời kỳ khủng hoảng, giá trị giao dịch của chúng trở nên không thể xác định được. Rất nhiều ngân hàng đã dùng mô hình định giá trên máy tính của riêng mình để ước lượng giá. Nhưng các mô hình này lại không được công khai với các nhà giao dịch tại các ngân hàng khác. Do đó, cùng một loại chứng khoán nhưng giá trị của chúng lại rất khác nhau, phụ thuộc vào mô hình lượng giá. Chính sự không chắc chắn này đã dẫn đến sự mất niềm tin giữa những người mua cũng như những người bán. Thị trường bị tê liệt và các giao dịch giảm dần cho đến khi dừng hẳn. Mô hình kinh doanh không hoàn thiện Theo truyền thống, các ngân hàng tạo ra các khoản vay hoặc thực hiện đầu tư và giữ chúng cho đến kỳ hạn thanh toán. Đây là mô hình kinh doanh tạo ra và nắm giữ. Vào những năm 1990, các ngân hàng đã cấu trúc lại các khoản cho vay hoặc các tài sản có khác của họ thành những chứng khoán có thể mua đi bán lại và bán chúng cho các nhà đầu tư. Đây là mô hình kinh doanh tạo ra và phân phối. Do vậy, một khoản vay thế chấp ở một thị trấn nhỏ của Mỹ có thể được kết hợp vào một CDO được nắm giữ bởi GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 34  một ngân hàng ở Trung Quốc. Do rủi ro được phân tán đi khắp bốn phương khi các tài sản được cấu trúc lại và bán đi, những người cho vay có rất ít động cơ để thực hiện việc quản trị rủi ro thận trọng. Các tiêu chuẩn bảo hiểm được nới lỏng, các điều khoản cho vay được đơn giản hóa. Thiếu kỷ luật, thiếu minh bạch và dễ thoả mãn đã trở thành đặc trưng của hoạt động ngân hàng trong đầu những năm 2000. ™ Cơ quan điều tiết tiền tệ FED đã duy trì lãi suất 1% trong suốt thời kỳ 2002-2003. Đây là phản ứng nhằm đối phó với sự nổ vỡ của bong bóng công nghệ cao năm 2000 và suy thoái kinh tế sau đó dưới tác động của sự kiện ngày 11/9/2001. Chủ tịch FED - ông Alan Greespan đã sốt sắng vực dậy nền kinh tế và cố gắng duy trì mức tăng trưởng cao. Đây là lời bào chữa của ông cho chính sách tiền tệ nới lỏng. Bị ám ảnh bởi giảm phát kéo dài hàng thập kỷ ở Nhật Bản trong những năm 1990, Greenspan và các đồng nghiệp trong Hội đồng FED đã thề sẽ làm bất cứ điều gì có thể, bao gồm cả việc duy trì lãi suất ở mức 1% trong vài năm, để ngăn chặn tình huống tương tự xảy ra với Mỹ. Với những gì đã từng xảy ra, đây là một chính sách sai lầm. Nó đã góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh dễ dãi được thúc đẩy bởi sự dồi dào của thanh khoản, lãi suất thấp và thiếu vắng các tiêu chuẩn cho vay. ™ Các tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm Khi các sản phẩm tín dụng được cấu trúc lại trở nên quá phức tạp, rất ít nhà đầu tư có đủ năng lực hoặc sự nhẫn nại để thực hiện việc quản trị rủi ro thận trọng. Do vậy, đánh giá của các tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm được xem là biện pháp nhanh chóng nhất để đánh giá rủi ro tín dụng. Moody, Standard and Poor, và Fitch là ba tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm chi phối thị trường. Họ cùng chia sẻ một lợi ích khá mâu thuẫn: thu về các khoản phí từ các ngân hàng thuê họ đánh giá mức độ tín nhiệm cho các chứng khoán của chính những ngân hàng này. Hơn thế nữa, tất cả các tổ chức này đều có những mô hình được thiết kế riêng để đánh giá các sản phẩm đơn giản như các trái phiếu công ty. Khi họ áp dụng mô hình này cho các sản phẩm tín dụng được cấu trúc lại, thì các kết quả không còn đáng tin cậy. Hai loại chứng khoán này không giống nhau và mỗi loại cần một phương pháp đánh giá riêng biệt. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 35  3.3. Kiến nghị cho Việt Nam 3.3.1. Nguy cơ xảy ra khủng hoảng ở Việt Nam ™ Bất động sản Việt Nam chưa tiếp cận với chứng khoán hóa Kể từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường bất động sản cũng được điều chỉnh theo cơ chế chung. Tuy vậy, thị trường bất động sản Việt Nam do mới hình thành nên có những đặc điểm khác so với các thị trường bất động sản Mỹ. Cụ thể như sau: Ở Việt Nam chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản nên chưa có việc các ngân hàng phát hành trái phiếu cho bất động sản thế chấp. Vì vậy, tuy có hạn chế về huy động vốn cho thị trường bất động sản nhưng chưa có những rủi ro do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên. Dư nợ tín dụng cho lĩnh vực bất động sản vẫn nằm trong phạm vi an toàn. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 31/12/2011, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản đạt 201.000 tỷ đồng. Con số này chiếm 8,45% trong tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế của toàn hệ thống, giảm 14,25% so với năm 2010.Nợ xấu bất động sản tại 31/12/2011 chiếm khoảng 3,52% tổng dư nợ lĩnh vực này, nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng. Sản phẩm của thị trường bất động sản Việt Nam mà chiếm phần lớn là nhà ở được bán trực tiếp cho người có nhu cầu để ở. Quan hệ cung - cầu trên thị trường bất động sản Việt Nam vẫn mất cân đối theo hướng cầu luôn lớn hơn cung và xu hướng này vẫn còn kéo dài trong tương lai vì tốc độ đô thị hoá vẫn tăng cao trong thời gian tới dẫn đến nhu cầu về nhà ở, hạ tầng khu công nghiệp, khách sạn, văn phòng cho thuê tăng nhanh. Riêng nhu cầu về nhà ở thì để đạt được mục tiêu về diện tích nhà ở bình quân đầu người theo Định hướng phát triển nhà ở được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ 12 m2/người hiện nay, tăng lên 20 m2/người vào năm 2020, mỗi năm cần có khoảng 35 triệu m2 nhà xây mới tại các đô thị. ™ Những rủi ro tiềm ẩn Tuy tiềm năng của thị trường bất động sản Việt Nam còn rất lớn, nhưng thị trường cũng có dấu hiệu thiếu ổn định và tiềm ẩn nhiều rủi ro, thể hiện qua những điểm sau: Thứ nhất: Trong năm 2006, 2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã xảy ra tình trạng giá văn phòng cho thuê, căn hộ cao cấp, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất để xây dựng nhà ở riêng lẻ tăng đột biến, cục bộ ở một số dự án, một số khu vực nhất GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 36  định. Theo thống kê, giá các căn hộ chung cư cao tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà nội tháng 10/2007 tăng khoảng 30% so với năm 2006, cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm 2008 tăng khoảng 50% so với năm 2006. Tỷ lệ lấp đầy các văn phòng cho thuê loại A và B tại Thành phố Hồ Chí Minh là trên 95%, với giá thuê trung bình trên 50 USD/m2/tháng. Tại những khu vực giá bất động sản tăng đột biến đã có hiện tượng đầu cơ, mua đi bán lại, các nhà đầu tư găm, giữ hàng không đưa ra thị trường, nhằm đẩy giá lên cao. Thứ hai: Hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở có cơ cấu không hợp lý, chủ yếu các doanh nghiệp đầu tư loại nhà cao cấp, diện tích rộng và giá thành lớn chỉ phù hợp với đối tượng có thu nhập cao, trong khi đó nhu cầu và khả năng của phân khúc thị trường này chỉ chiếm khoảng 5% thị trường nhà ở. Thị trường thiếu hàng hoá có quy mô và giá cả phù hợp với đa số nhu cầu của thị trường, thiếu loại nhà ở cho thuê phù hợp với nhu cầu của đối tượng thu nhập trung bình và thấp. Đây cũng là biểu hiện của quan hệ cung cầu không phù hợp và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Thứ ba: Lợi nhuận cao trên thị trường bất động sản trong thời gian vừa qua đã thu hút nhiều công ty, tập đoàn lớn thành lập công ty kinh doanh bất động sản. Nhiều ngân hàng có quỹ hoặc công ty kinh doanh bất động sản, xuất hiện đầu tư nội bộ khó kiểm soát. Nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng tài chính, thiếu kinh nghiệm cũng tham gia đầu tư kinh doanh bất động sản, nhiều cá nhân cũng đổ xô vào kinh doanh bất động sản, nên đã nảy sinh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư theo phong trào và không hiệu quả. Thứ tư: Việc cho vay mua bán bất động sản cũng có biểu hiện cho vay dễ dãi nhất là vào thời điểm cuối năm 2007. Do bùng nổ sự ra đời các ngân hàng thương mại cổ phần vào cuối 2006 đầu 2007, tạo áp lực cạnh tranh trong kinh doanh quay vòng vốn nên có biểu hiện cho vay dễ dãi. Có những ngân hàng cho vay mua bất động sản đến 70% giá trị bất động sản thế chấp tại thời điểm giá bất động sản cao. Có những ngân hàng cho doanh nghiệp vay tín chấp hoặc thế chấp bằng chính dự án với số vốn lớn để đầu tư bất động sản. Như vậy, cũng xuất hiện nguy cơ khi thị trường bất động sản trầm lắng, giá bất động sản giảm, người vay không có khả năng thanh toán sẽ xuất hiện hiện tượng mất tính thanh khoản và “tự lỗ”, nếu xử lý không khéo thì cũng có thể có hiện tượng mất niềm tin với ngân hàng. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 37  Thứ năm: Mặc dù chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản thế chấp, nhưng cũng có hiện tượng có công ty kinh doanh bất động sản ban hành trái phiếu doanh nghiệp (theo quy định tại Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ) và cho người mua trái phiếu quyền ưu tiên mua bất động sản. Theo quy định, trái phiếu doanh nghiệp cũng có quyền chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố... ; hoặc các chủ đầu tư có dự án bất động sản, tiến hành thành lập doanh nghiệp mới sau đó cổ phần hóa doanh nghiệp đó. Cách làm đó cũng gần như phát hành trái phiếu bất động sản, và cũng có sự lan tỏa thông qua chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố. Thứ sáu: Chính sách tín dụng không ổn định, việc hạn chế cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và tăng lãi suất cho vay vào những tháng giữa năm 2008, tuy có tác động hạn chế đầu cơ bất động sản, góp phần “giảm nhiệt” thị trường nhưng làm các chủ đầu tư khó khăn trong việc huy động vốn, nhiều dự án đã bị kéo dài tiến độ hoặc bị đình hoãn có thể dẫn đến nguy cơ thiếu hàng hóa xét trong ngắn hạn vài ba năm tới, làm trầm trọng thêm sự mất cân đối cung cầu, làm thị trường phát triển thiếu ổn định. Tóm lại: dưới góc độ tài chính, thị trường bất động sản Việt Nam chưa có những rủi ro do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên nhưng cũng có những biểu hiện tác động ngược từ thị trường bất động sản tới thị trường tài chính, ngân hàng thông qua việc vay vốn thế chấp để đầu cơ bất động sản nhưng nhỏ hơn về quy mô và mức độ. Để thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội cần phải triển khai có hiệu quả các nhóm giải pháp đã được nêu trong Chỉ thị số 01/2008/CT-TTg ngày 08/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển và quản lý thị trường bất động sản, đồng thời tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các định chế tài chính bất động sản của Mỹ và các nước khác như các quỹ đầu tư, tái thế chấp, tín thác bất động sản để áp dụng nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho thị trường bất động sản, nhưng kèm theo là cơ chế kiểm soát hiệu quả. 3.3.2. Một số kiến nghị ™ Đối với các ngân hàng thương mại GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 38  Rà soát, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng một cách thường xuyên, xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không để có những điều chỉnh kịp thời, tránh việc sử dụng vốn sai mục đích, không có khả năng trả nợ đúng hạn. Tỷ lệ cho vay trên giá trị căn nhà thấp và chỉ xem xét cho vay những đối tượng có lịch sử tín dụng tốt. Thẩm định kỹ các dự án và phải tính đến trường hợp thị trường bất động sản rơi vào tình trạng đóng băng. ™ Đối với ngân hàng nhà nước Tiếp tục hoàn chỉnh để tiến tới ban hành “cơ chế tiếp nhận xử lý tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Nếu được thực hiện tốt thì Việt nam sẽ có cơ chế tiếp nhận và xử lý đồng bộ các ngân hàng khi khủng hoảng và đổ vỡ. Như vậy, kể từ nay tổ chức tín dụng khi gặp sự cố, có nguy cơ dẫn đến đỗ vỡ sẽ được tiếp nhận và xử lý theo một quy trình chuẩn, hạn chế hậu quả ở mức thấp nhất và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Bên cạnh đó, sẽ tạo ra được môi trường pháp lý cho việc giải quyết phá sản, giải thể phù hợp với đặc thù hoạt động tiền tệ, ngân hàng, thiết lập được một tổ chức đầu mối chịu trách nhiệm trong khủng hoảng. Như vậy, sẽ củng cố lòng tin của người dân, tránh tạo ra tình trạng căng thẳng không đáng có gây ảnh hưởng thanh khoản ngân hàng do tâm lý lo lắng của khách hàng. ™ Về chứng khoán hoá Như vậy nghiệm vụ chứng khoán đã xuất hiện tại Việt Nam, các chuyên gia nhấn mạnh một trong những nền tảng quan trọng để thực hiện CKH tại Việt Nam là phải hoàn hiện khuôn khổ pháp lý về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, Việt nam cần có thị trường vốn hoạt động tốt; sản phẩm chứng khoán hoá phải có tính thanh khoản cao; các biện pháp hỗ trợ tín dụng; bảo lãnh của Chính phủ và thoả thuận về mức độ sử dụng tối thiếu đối với các tài sản cơ sở hạ tầng; thế chấp vượt trội và tăng cường tín dụng từ bên thứ ba. Tóm lại, thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Việc học tập bài học cũng như rút ra những kinh nghiệm từ những sai lầm của các nước khác sẽ giúp chúng ta tránh được những tổn thất không đáng có và rút ngắn thời gian trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 39  KẾT LUẬN Như vậy, chắc chắn vấn đề cho vay dưới chuẩn sẽ tồn tại (dưới góc độ cơ chế đánh giá rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng) với những mức độ nghiêm trọng khác nhau. Mặc dù hiện nay các ngân hàng có thể vẫn an tâm với mức độ mất khả năng chi trả thấp trong số các con nợ của họ nhưng cần lưu ý rằng tổng dư nợ trong hệ thống ngân hàng vẫn đang tăng lên mạnh. Một khi nhu cầu về bất động sản bão hòa hay tụt giảm và các khoản cho vay bất động sản đến hạn thanh toán, số nợ mất khả năng thu hồi có thể sẽ trở nên quá lớn vượt ra khỏi tầm kiểm soát, đẩy ngành ngân hàng vào tình trạng bất ổn nghiêm trọng. Do đó, các cơ quan chức năng, cũng như bản thân các ngân hàng cần có những biện pháp, chính sách phù hợp để không xảy ra các tác động xấu do vỡ nợ cho vay dưới chuẩn. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 40  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 2. Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu (2007, 2008) đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam – Khoa Kinh tế, ĐH Tây Bắc. 3. Khủng hoảng Tài chính và tác động đến FDI, xuất khẩu của Việt Nam – TS. Nguyễn Văn Lịch, Học viện Ngoại giao. 4. Khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp (cho vay dưới chuẩn) và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – Cao học kinh tế TP.HCM Khóa 20. 5. Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ: Bài học và một số kiến nghị - Phạm Toàn Thiện. 6. Khủng hoảng nợ dưới chuẩn – Mạc San (18/02/2008) 7. Cuộc khủng hoảng tín dụng tín dụng nhà đất ở Mỹ và những kiến nghị đối với Việt Nam. (The US credit crisis and some suggested solutions for Vietnam – Đặng Hữu Mẫn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchktk21_5296.pdf
Luận văn liên quan