MỞ ĐẦU
Trái Đất là nơi chúng ta sinh sống và phát triển. Nó hết sức cần thiết với mỗi chúng ta. Thế nhưng, Trái Đất hay cụ thể hơn là môi trường sống của chúng ta cùng với những nhân tố vô sinh, hữu sinh đang ngày càng trở nên ô nhiễm hơn. Trong đó, các chất thải phóng xạ là một trong những lý do góp phần vào ô nhiễm trên.
Xử lý chất thải phóng xạ trong điều kiện an toàn là một trong những vấn đề lớn nhất mà ngành hạt nhân đang đối mặt. Điều đó có ý nghĩa quan trọng nếu thế giới muốn tăng sản lượng điện hạt nhân để góp phần làm đảo ngược xu hướng ấm hóa toàn cầu.
Một số nhà bảo vệ môi trường hiện cho phát triển điện hạt nhân là không thể tránh khỏi. Theo họ, hậu quả của sự thay đổi khí hậu có thể đe dọa trái đất nhiều hơn so với những nguy cơ hạt nhân mà họ cảnh báo trước đây. Tuy nhiên, ngay cả khi những người chống điện hạt nhân thay đổi quan điểm thì ngành này cũng cần có những giải pháp dài hạn đối với vần đề chất thải – chất phóng xạ mới và toàn bộ thanh nhiên liệu đã qua sử dụng cũng như vật liệu liên quan được cất trữ dưới nhiều hình thức.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5006 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm soát chất thải nguy hại - Chất thải phóng xạ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG 
KHOA MÔI TRƯỜNG - BẢO HỘ LAO ĐỘNG 
MÔN HỌC 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI 
CHUYÊN ĐỀ 
CHẤT THẢI PHÓNG XẠ MỨC ĐỘ THẤP, 
CHẤT THẢI PHÓNG XẠ MỨC ĐỘ CAO 
CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ 
GVHD: T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
SVTH: LƯƠNG MINH TÂM 072298B 
 LÊ THỊ THANH THÙY 072317B 
 HOÀNG QUỐC VIỆT 072352B 
 LÊ THỊ MỘNG XUÂN 072356B 
 NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN 072359B 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 2 
MỞ ĐẦU 
Trái Đất là nơi chúng ta sinh sống và phát triển. Nó hết sức cần thiết với mỗi chúng ta. 
Thế nhưng, Trái Đất hay cụ thể hơn là môi trường sống của chúng ta cùng với những 
nhân tố vô sinh, hữu sinh đang ngày càng trở nên ô nhiễm hơn. Trong đó, các chất thải 
phóng xạ là một trong những lý do góp phần vào ô nhiễm trên. 
Xử lý chất thải phóng xạ trong điều kiện an toàn là một trong những vấn đề lớn nhất 
mà ngành hạt nhân đang đối mặt. Điều đó có ý nghĩa quan trọng nếu thế giới muốn 
tăng sản lượng điện hạt nhân để góp phần làm đảo ngược xu hướng ấm hóa toàn cầu. 
Một số nhà bảo vệ môi trường hiện cho phát triển điện hạt nhân là không thể tránh 
khỏi. Theo họ, hậu quả của sự thay đổi khí hậu có thể đe dọa trái đất nhiều hơn so với 
những nguy cơ hạt nhân mà họ cảnh báo trước đây. Tuy nhiên, ngay cả khi những 
người chống điện hạt nhân thay đổi quan điểm thì ngành này cũng cần có những giải 
pháp dài hạn đối với vần đề chất thải – chất phóng xạ mới và toàn bộ thanh nhiên liệu 
đã qua sử dụng cũng như vật liệu liên quan được cất trữ dưới nhiều hình thức. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 3 
1 GIỚI THIỆU VỀ CHẤT THẢI PHÓNG XẠ 
1.1 Khái niệm 
Chất phóng xạ được sử dụng để sản xuất 
điện (điện hạt nhân), dùng trong lĩnh vực 
quân sự (năng lượng nguyên tử) và Y 
học, trong công nghiệp , sinh hoạt hằng 
ngày. 
Chất thải phóng xạ là chất thải chứa chất 
phóng xạ hoặc vật thể bị nhiễm bẩn 
phóng xạ phải thải bỏ. 
1.2 Phân loại 
Chất thải phóng xạ có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn theo 
nguồn gốc hoặc theo đặc tính của chúng. Một số thuộc tính chung của chất thải phóng 
xạ có ý nghĩa quan trọng đối với việc lựa chọn kỹ thuật xử lý là: tính ổn định vật lý, 
thành phần hoá học, khả năng gây cháy, mức phóng xạ, khả năng di chuyển trong môi 
trường của các đồng vị phóng xạ. Như vậy, sự phân loại chất phóng xạ dựa vào tính 
nguy hiểm và khả năng kéo dài tính nguy hiểm đó của chúng. Việc chỉ ra tính nguy 
hiểm của chất thải phóng xạ sẽ chỉ đường cho quá trình xử lý và cất giữ, còn việc xác 
định khả năng kéo dài tính nguy hiểm của chúng sẽ chỉ đường cho việc lựa chọn cách 
thải. 
Để phục vụ cho việc đưa ra những quy trình xử lý chất thải phù hợp, trước hết phải 
phân loại các chất thải. Có thể phân loại theo trạng thái vật lý và mức độ phóng xạ. 
Hình: Các chất thải phóng xạ 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 4 
Theo cách phân loại dựa vào hoạt độ phóng xạ, Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc 
tế đã đưa ra cách phân loại chất thải phóng xạ ra làm 5 loại: 
Loại 1: Chất thải phóng xạ có chu kỳ bán rã dài ngày, mức hoạt độ phóng xạ cao 
Loại 2: Chất thải phóng xạ có chu kỳ bán rã dài ngày, mức hoạt độ phóng xạ trung 
bình 
Loại 3: Chất thải phóng xạ có chu kỳ bán rã dài ngày, mức hoạt độ phóng xạ thấp. 
Loại 4: Chất thải phóng xạ có chu kỳ bán rã ngắn ngày, mức hoạt độ phóng xạ 
trungbình. 
Loại 5: Chất thải phóng xạ có chu kỳ bán rã ngắn ngày, mức hoạt độ phóng xạ thấp. 
Ba loại đầu phải chôn cất trong kho thải sâu trong lòng đất, hai loại sau có thể chứa 
trong các kho thải nông. 
Đối với các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng, có thể coi là chất thải hoặc là nguyên 
liệu đầu cho tái chế. 
Chất thải phóng xạ thường được chia thành chất thải mức độ thấp và mức độ cao. 
Chất thải mức độ cao có nguồn gốc từ các lò phản ứng hạt nhân. Chúng có thể tồn tại 
trong môi trường rất lâu và hầu như không thể xử lý được cho đến khi quá trình phân 
rã kết thúc. Do đó vấn đề của chất thải phóng xã là phải có biên lưu. Trên thế giới có 
nhiều nỗ lực để tìm ra phương pháp có thể cô lập chất thải phóng xã khỏi sinh quyển. 
Tuy nhiên, vấn đề này còn rất phức tạp và gây nhiều tranh cãi. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 5 
Hình: Chất thải phóng xạ từ các nhà máy điện hạt nhân ở Canada và Belleville 
Chất thải mức độ thấp là những vật liệu có khả năng phân rã kém hoặc những vật liệu 
bị nhiễm phóng xạ trong quá trình sử dụng. Chúng là chất thải từ ngành công nghiệp 
hạt nhân, y học 
1.3 Nguồn gốc phát sinh 
Các loại chất thải phóng xạ của nhà máy điện hạt nhân 
Bao gồm chất thải ở dạng khí, lỏng và rắn. Chất thải phóng xạ dạng khí sinh ra do bị 
hoạt hoá bởi các nơtron, như: Nitơ-12; Nitơ-16; Ôxy-19; Iốt-131; Cacbon-14; Argon-
41; Xenon-133... 
Các chất thải phóng xạ dạng lỏng bao gồm nước làm mát lò phản ứng; các dung dịch 
hấp thụ các nhân phóng xạ sinh ra từ các quá trình xử lý khí phóng xạ; nước dùng để 
làm vệ sinh, rửa các dụng cụ làm việc. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 6 
Các chất thải phóng xạ dạng rắn là các rác thải bị nhiễm phóng xạ, dụng cụ làm việc 
hỏng, găng tay, quần áo, đồ nhựa, giấy... 
Lượng các chất thải phóng xạ mỗi loại được sinh ra tuỳ thuộc vào kiểu lò phản ứng, 
loại chu trình nhiên liệu sử dụng. Trong các điều kiện làm việc bình thường các chất 
thải của nhà máy điện hạt nhân đều thuộc loại phóng xạ thấp và trung bình. 
Phóng xạ được ứng dụng trong y tế 
Ứng dụng tia phóng xạ trong chẩn đoán bệnh được bắt đầu bằng việc chụp X quang 
vùng ngực, dạ dày, xương. Sau đó đến các ứng dụng khác như chụp X quang bằng 
máy tính (X ray CT- Computer Tomography) và pozitron CT,... 
Hơn nữa, việc chẩn đoán bệnh bằng việc cho vào cơ thể người bệnh nguyên tố đồng vị 
phóng xạ như một dạng thuốc y tế, sau đó đo đạc tia phóng xạ phát ra rồi phân tích 
trên máy tính và đưa ra hình ảnh về cơ năng của cơ quan nội tạng cũng đã được áp 
dụng trong thực tiễn. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 7 
Việc chữa chạy bệnh ung thư bằng chiếu xạ tia X, tia gamma cũng đã được áp dụng, 
hơn nữa công tác nghiên cứu chữa ung thư bằng sử dụng tia nơtron, tia proton và tia 
hạt nặng hiện nay. Như vậy trong ngành y tế sẽ phát sinh ra chất thải phóng xạ cụ thể 
như: chai lọ bao bì chứa hóa chất, thuốc dùng hóa trị, quần áo, găng tay nhiễm xạ, 
nước dùng rửa dụng cụ nhiễm xạ, chất thải từ bệnh nhân hóa trị… 
Phóng xạ được ứng dụng trong nông nghiệp 
Cải thiện giống nông sản bằng chiếu xạ tia gamma từ nguồn Cobalt 60 và Cesium 137 
sẽ tạo ra được những giống mới như giống mạ có khả năng chịu gió, hoa quả có khả 
năng chống bệnh tật tốt hơn,... Đồng thời, khi xử lý chiếu xạ các giống hoa sẽ gây ra 
đột biến để có những loại hoa nhiều màu sắc đẹp và hình dáng độc đáo. 
Đối với việc diệt trừ sâu phá hoại mùa màng và cây trồng, người ta chiếu xạ vào sâu 
hại làm chúng mất khả năng sinh sản. 
Chiếu xạ thực phẩm giúp ngăn chăn mọc mầm, giữ hoa quả lâu chín, diệt khuẩn và sát 
trùng.Như vậy ứng dụng phóng xạ trong nông nghiệp cũng tạo ra chất thải phóng xạ là 
những mẫu phóng xạ đã qua sử dụng và những vật phẩm đồ dủng nhiễm xạ 
Phóng xạ được ứng dụng trong công nghiệp 
Người ta sử dụng các tia gamma, tia proton để đo đạc chính xác độ dày của vật liệu, 
mật độ, hàm lượng nước. Kiểm tra không phá huỷ cũng đã được sử dụng rộng rãi khi 
kiểm tra sự nứt vỡ của các bộ phận quan trọng mà không làm phá hỏng đối tượng 
kiểm tra. Hơn nữa, phương pháp chiếu xạ vật liệu nhằm nâng cao cường độ, tính chịu 
nhiệt, khả năng chịu mài mòn của vật liệu cũng đang được sử dụng rộng rãi.Công 
nghệ xử dụng chất phóng xạ sẽ tạo ra lượng chất thải phóng xạ nhất định nếu những 
công nhân xử dụng công nghệ đó thiếu hiểu biết về chất phóng xạ làm thất thoát sẽ 
gấy hậu quả không lường . 
Phóng xạ còn được sử dụng trong ngành hàng không dùng soi rọi hành lý khách, ứng 
dụng trong quốc phòng chế tạo vũ khí hạt nhân …tất cả những ứng dụng đó đều tạo ra 
lượng chất thải phóng xạ đủ để phá hủy môi trường sống chúng ta và ảnh hưởng tới 
sức khỏe con người và sinh vật sống khác 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 8 
1.4 Tính chất của chất thải phóng xạ 
Các chất phóng xạ đặc biệt nguy hiểm vì 
không sao nhận ra được bẳng giác quan. 
Không mùi vị không nhìn thấy không sờ 
được và cũng không phát nhiệt chỉ dùng 
máy mới phát hiện và đo đạc được . 
Không có trường hợp quen với tia phóng 
xạ và cũng kông có phương pháp điều trị 
đặc hiệu 
Chất thải phóng xạ có thể thâm nhập vào cơ thể qua đường thức ăn, nước hoặc không 
khí. Hiện tượng phóng xạ ảnh hưởng đến quá trình chuyển hoá năng lượng trong cơ 
thể người theo nhiều cách khác nhau. Nó tấn công cơ quan chức năng của cơ thể, gây 
ra hàng loạt các bệnh ung thư, gây đột biến gen và ảnh hưởng đến nhiều thế hệ tiếp 
theo. 
1.5 Các đơn vị đo lường chất phóng xạ 
Mức tác động của tia bức xạ lên con người được tính bằng đơn vị mSilvert ( ký hiệu 
mSv), hay pico Curie (ký hiệu: pCi). Theo Ủy ban An toàn bức xạ Quốc tế, liều lượng 
giới hạn cho phép được tiếp nhiễm các loại bức xạ trong 1 năm là 1mSv; điều đó có 
nghĩa là trong vòng 1 năm, mỗi người dân bình thường không nên nhận một liều 
lượng bức xạ nhân tạo quá 1mSv. Nếu có 1 triệu người bị chiếu xạ bởi một liều phóng 
xạ có cường độ 1mSv thì có 40 người có nguy cơ bị ung thư. 
1 Gray (Gy) = liều tia hấp thụ năng lượng 1 J/kg trọng lượng cơ thể = 100 rads. 
1 sievert (Sv) = liều tương đương (measure dose equivalent): liều bức xạ gây tác động 
sinh học có hại đối với con người. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 9 
Liều tương đương hiệu dụng (effective dose equivalent): liều tia xạ gây tổn thương 
đặc hiệu đối với một cơ quan hoặc một bộ phận của cơ thể người (đơn vị: Sv). 
1.6 Tác hại của chất thải phóng xạ 
Một trong những tác động nguy hiểm nhất của bức xạ ion hóa là sự thiệt hại mà nó 
gây ra cho ADN trong nhân tế bào. Thay đổi trong ADN nếu xảy ra trong các tế bào 
sinh sản thì sự đột biến đó có thể truyền qua thế hệ kế tiếp, gây ra khuyết tật hay các 
bệnh di truyền . Nếu đột biến xảy ra trong tế bào bình thường, chúng có thể làm thay 
đổi chức năng của những tế bào này , gây hại cho sức khỏe và tăng cao nguy cơ bệnh 
ung thư. 
Tiếp xúc với độ phóng xạ cao có thể gây những nguy hiểm nghiêm trọng cho cơ thể, 
liên qua đến nhiều bệnh lý như đau khớp xương, suy nhược thần kinh, giảm tuổi thọ, 
thậm chí tử vong. 
Tác động của ô nhiễm phóng xạ với cơ quan trong cơ thể cụ thể như sau: 
- Hô hấp: nhiễm phóng xạ có thể gây ra ung thư vòm họng, phổi. 
- Máu và cơ quan tạo máu: mô limpho và tủy xương ngừng hoạt động, làm cho 
số lượng tế bào trong máu ngoại vi giảm xuống nhanh chóng. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 10 
- Hệ tiêu hóa: niêm mạc ruột bị tổn thương, dẫn đến tiêu chảy, sút cân, nhiễm 
độc máu, giảm sức đề kháng của cơ thể, ung thư. 
- Da: xuất hiện ban đỏ, viêm da, sạm da. Các tổn thương này có thể dẫn đến 
viêm loét, thoái hóa, hoại tử hoặc phát triển thành khối u ác tính trên da. 
- Cơ quan sinh dục: vô sinh. 
- Sự phát triển phôi thai: phụ nữ bị chiếu xạ trong thời gian mang thai (đặc biệt 
là trong giai đoạn đầu) có thể bị sảy thai, thai chết lưu hoặc sinh ra trẻ bị dị tật bẩm 
sinh. 
Liều lượng cụ thể khi con người tiếp nhận một lượng phóng xạ trong thời gian ngắn: 
- Mức 0,2Sv : không có biểu hiện bệnh lý gì. 
- Mức 0,5Sv : giảm cầu lymph trong máu. 
- Mức 3Sv : làm rụng tóc. 
- Mức 5Sv : tỷ lệ tử vong là 50%. 
- Mức 10 Sv : tỷ lệ tử vong gần 100%. 
2 BIỆN PHÁP XỬ LÝ 
Tất cả các loại 
chất thải phóng 
xạ của nhà máy 
điện hạt nhân đều 
phải được thu 
gom và xử lý. Ba 
nguyên tắc của 
xử lý và quản lý 
chất thải phóng 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 11 
xạ là: lưu giữ cô lập chờ phân huỷ (delay- and decay); pha loãng và làm phân tán nhỏ 
ra (dilute- and disperse); và làm giàu lên để cất giữ (concentrate - and - contain). Hai 
nguyên tắc sau cũng thường được dùng cho các loại chất thải khác. 
2.1 Công nghệ xử lý chất thải phóng xạ dạng khí: cần áp dụng cả ba nguyên tắc 
trên. Quy trình xử lý gồm các bước chính như sau: 
Các phin lọc, chất hấp phụ/hấp thụ được xử lý như những loại chất thải phóng xạ 
rắn/lỏng. 
2.2 Công nghệ xử lý chất thải phóng xạ dạng lỏng: nhằm tách các nhân phóng xạ ra 
khỏi dung dịch để làm sạch dung dịch. 
Các phương pháp thường dùng là: đồng kết tủa, trao đổi ion, bay hơi dung dịch, trích 
ly lỏng, màng. Các nhân phóng xạ được thu hồi và xử lý như những chất thải phóng 
xạ rắn. Sau khi đã tập trung được các chất phóng xạ với nồng độ cao thì tiến hành xử 
lý định dạng để cất giữ nhằm giam giữ một cách chặt chẽ các phần tử phóng xạ có 
nồng độ cao trong các thể tích nhỏ, thuận tiện cho cất giữ lâu dài. 
Các phương pháp chủ yếu thường dùng là: đóng rắn bằng xi măng; đóng rắn bằng 
bitum và thuỷ tinh hoá. Ngoài ra, có thể sử dụng các phương pháp khác như: 
SYNROC, Polymer hoá. 
Việc lựa chọn phương pháp định 
dạng để cất giữ lâu dài phụ thuộc vào 
các phương pháp phân tích hoá học 
ban đầu; các thông số về thành phần 
hoá học và độ phóng xạ của khối vật 
liệu sẽ được định dạng và phương 
pháp cất giữ cuối cùng được dự kiến 
phù hợp với các điều kiện. Nói 
chung, lựa chọn phương pháp tuỳ 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 12 
thuộc nhiều vào các yêu cầu về an toàn, tính kinh tế và khả năng kỹ thuật. 
2.3 Công nghệ xử lý các chất thải phóng xạ dạng rắn: chủ yếu áp dụng nguyên lý 
thứ ba: làm giàu và cất giữ theo mục tiêu thu nhỏ thể tích để định dạng và thuận tiện 
cho cất giữ. Các phương pháp chủ yếu là tro hoá và định dạng giảm thể tích 10 đến 
100 lần; nén ép và định dạng - giảm thể tích 3 đến 10 lần. Tiến hành việc cất giữ các 
chất thải đã được định dạng và bao gói ở những cơ sở cất giữ thích hợp. 
Việc cất giữ các chất thải phóng xạ dạng rắn bao gồm: cất giữ gần mặt đất và chôn sâu 
các chất thải trong kết cấu địa chất. 
Việc cất giữ gần mặt đất thường được tiến hành trong các hào hay trong các hầm có 
các lớp ngăn, nhằm làm giảm hoạt độ dần với thời gian trong vòng 200 - 300 năm. 
Với các chất thải có hoạt độ thấp thường không cần lớp chắn, chất thải thường được 
cho vào trong các thùng chứa. Các chất thải có hoạt độ cao hơn được chôn ở các lớp 
sâu hơn với các kết cấu che chắn tốt hơn. 
Việc chôn sâu các chất thải trong kết cấu địa chất được dùng cho các loại chất thải có 
hoạt độ cao (nhiên liệu hạt nhân thải); thời gian cất giữ được tính cho tới nhiều nghìn 
năm không bị ảnh hưởng của các tác động tự nhiên; không có sự xâm nhập của các 
nhân phóng xạ ra ngoài môi trường do đã có che chắn và định dạng thích hợp cho chất 
phóng xạ. Tuỳ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên có được. 
Nhiên liệu hạt nhân đã cháy có hoạt độ phóng xạ cao, do vậy việc quản lý thanh nhiên 
liệu đã qua sử dụng là một nội dung quan trọng của việc xử lý, quản lý chất thải phóng 
xạ của nhà máy điện hạt nhân. 
Dưới đây là 8 giải pháp đối mặt với vấn đề chất thải hạt nhân và những rủi ro từ 
chúng: 
Đưa vào không gian 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 13 
Nỗi lo về chất thải hạt nhân sẽ tan biến và không thể gây hại cho con người nếu chúng 
ta có thể đưa chúng vào hệ mặt trời. 
Nhưng nếu các vụ phóng tàu để đưa 
ra các chất thải hạt nhân vào không 
gian thất bại, hậu quả sẽ khôn lường 
Khi tàu phóng rơi xuống các đại 
dương, phát nổ trên vùng thượng 
quyển… hậu quả với con người, sinh 
vật trên trái đất là không thể tránh 
khỏi. Do đó, việc đưa chất thải ra 
ngoài vũ trụ cần được cân nhắc. 
Thậm chí, giả sử việc phóng ra ngoài không gian thành công theo đúng lộ trình và an 
toàn, rất có thể một ngày nào đó, những chất thải đó có thể quay trở lại. 
Chôn sâu trong lòng đất 
Việc chôn chất thải hạt 
nhân xuống sâu dưới lòng 
đất là một lựa chọn ưa 
thích của nhiều quốc gia. 
Tuy nhiên, nó sẽ được 
chôn như thế nào là câu 
hỏi gây ra sự tranh cãi. 
Giải pháp chôn sâu vẫn 
chỉ là lý thuyết, mô tả việc 
đưa chất thải vào trong 
những chiếc hộp thép rồi chôn sâu hàng km dưới bề mặt trái đất. Một lợi thế của việc 
chôn chất thải là có thể khoan chúng gần các lò phản ứng hạt nhân, giúp giảm khoảng 
cách để vận chuyển những chất thải phóng xạ xuống nơi chôn lấp. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 14 
Tuy nhiên, các nước đều vấp phải vấn đề liên quan đến lựa chọn địa điểm chôn lấp 
chất thải, những nguyên tắc tiêu chuẩn để đảm bảo an toàn cho môi sinh khu vực đó… 
Chôn lấp dưới đáy biển 
Phần lớn đáy của các đại 
dương đều cấu tạo từ lớp 
đất sét dày và nặng, một 
nguyên liệu hoàn hảo để 
hấp thụ phóng xạ của các 
chất thải hạt nhân phát ra. 
Biện pháp này được nhà 
hải dương học Charles 
Hollister, thuộc Viện Hải 
dương Woods Hole khởi 
xướng vào năm 1973. Việc 
lưu giữ chất thải hạt nhân dưới đáy biển được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1986. 
Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm với việc lưu trữ, đó là phải thực hiện khoan các giếng 
ngầm sâu dưới đáy biển. Thảm họa tràn dầu Deepwwater Horizon là lời cảnh báo đối 
với các hoạt động khoan, khai thác dưới đáy biển. 
Bên cạnh đó, còn nhiều tranh cãi trong các diễn đàn đa phương của các quốc gia phát 
triển hạt nhân nói riêng và toàn cầu về vấn đề xử lý chất thải hạt nhân ra biển. Vì vậy, 
giải pháp chôn lấp dưới đáy biển cần sự xem xét bằng các thỏa ước quốc tế nhằm đem 
lại lợi ích chung. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 15 
Chôn lấp ở vùng hút chìm 
Khái niệm vùng hút chìm 
còn lạ lẫm với nhiều người. 
Đây là thuật ngữ trong địa 
chất học, là nơi diễn ra quá 
trình hội tụ biên giới giữa 
các mảng kiến tạo: một 
mảng kiến tạo di chuyển 
xuống dưới mảng kiến tạo 
khác, sau đó bị chìm xuống 
dưới lớp vỏ trái đất. Tỉ lệ sự hút chìm khoảng vài cm mỗi năm (trung bình từ 2-8 cm). 
Về mặt lý thuyết, việc chôn lấp chất thải hạt nhân ở vùng hút chìm sẽ đưa những 
thùng chứa nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng dọc theo đai băng chuyền giữa các 
mảng kiến tạo và đi vào trong lớp vỏ trái đất. 
Tuy nhiên, giải pháp này gặp phải nhiều vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ quốc 
gia cũng như sự tham gia của nhiều bên liên quan, giống như dự án chôn lấp dưới đáy 
biển. 
Chôn dưới sông băng 
Việc đặt các quả cầu chất 
thải hạt nhân xuống các 
phiến băng ổn định, để nó 
chảy xuống bên dưới, sau 
đó sẽ được các lớp băng 
khác cô đặc lại. Chất thải có 
thể được bảo quản vĩnh 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 16 
viễn bên dưới các lớp băng dày hàng chục m. Tuy nhiên, ý kiến này sớm bị loại bỏ. 
Lý giải cho việc bác bỏ, là lo ngại việc dịch chuyển các mảng băng cũng như hiện 
tượng biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu. 
Hiện nay, đỉnh Quelccaya ở Nam Peru, đỉnh núi băng nhiệt đới lớn nhất thế giới, có 
tốc độ tan chảy khoảng 60 mét mỗi năm, tăng gấp 10 lần so với tốc độ tan băng của 
những năm 1960. 
Cất giữ trong đá nhân tạo 
Lựa chọn tốt nhất và 
hiện thực nhất hiện 
nay là việc cô lập các 
chất thải phóng xạ 
trong các loại đá tổng 
hợp nhân tạo sau đó 
chôn xuống dưới lòng 
đất. Cách này sẽ ngăn 
chất thải phóng xạ và 
làm nhiễm độc đất, đá 
và nước xung quanh. 
Các nhà khoa học đã phát triển loại đá nhân tạo (synroc) từ những năm 1970 nhằm lưu 
giữ những chất thải hạt nhân có mức phóng xạ lớn. Các loại đá được thiết kế khác 
nhau phụ thuộc vào loại chất thải riêng biệt, dựa trên công thức cho phản ứng nước-
ánh sáng cũng như hàm lượng chất plutonium. 
Một giải pháp tương tự là sử dụng vật liệu gốm nano trong bảo quản và lưu giữ chất 
thải phóng xạ. các nhà khoa học Australia dùng sơn với sợi gốm nano được làm từ 
oxit của titan để sơn lên bề mặt các bể hay thùng lớn bằng thép, được dùng để chứa 
chất thải phát sinh trong quá trình khai thác các chất phóng xạ và nước thải trong quá 
trình làm mát lò phản ứng. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 17 
Vật liệu gốm nano có ưu điểm là rất bền và có thời gian tồn tại lâu hơn các ion chất 
phóng xạ, có khả năng bẫy các ion dương của chất phóng xạ và giữ chặt chúng mãi 
trong đó. Chỉ cần quét một lớp sơn mỏng cỡ nano mét (một phần tỷ mét) sẽ tăng độ an 
toàn lên rất nhiều. 
Rút ngắn chu kỳ bán rã 
Hiện, một số nhà khoa học đang tính tới việc giảm chu kỳ bán rã của các chất thải 
phóng xạ, qua đó, xử lý nhanh chóng các chất này, thay vì tìm cách chôn chúng ở đâu 
đó và chờ chúng phân rã hết. Máy Laser Vulcan là một thiết bị ra đời từ ý tưởng đó. 
Máy có thể tạo ra các xung điện mạnh và ngắn, một triệu tỷ Watts, bắn vào một cục 
vàng nhỏ, tạo ra đủ bức xạ gama để đánh bật các neutron đơn lẻ khỏi chất thải phóng 
xạ như Iodine 129. 
Iodine129 là một trong nhiều đồng vị phóng xạ được tạo ra khi Uranium bị đốt trong 
lò phản ứng hạt nhân. Tuy nhiên, các nhà khoa học đánh giá, máy Laser sẽ không giải 
quyết triệt để vấn đề chất thải xong nó giảm độ mức độ phóng xạ. 
Phương pháp này mới chỉ thực hiện trong phòng thí nghiệm và chỉ có khả năng áp 
dụng ở giai đoạn xử lý ban đầu của chất thải hạt nhân. 
Tái chế chất thải hạt nhân 
Uranium được sử dụng trong lò phản ứng hạt nhân chỉ lấy được 5% năng lượng trong 
khi các nhà máy điện nguyên tử vẫn chưa thể tái sử dụng nhiên liệu này. Nguyên nhân 
là do dạng phổ biến nhất của Uranium, ion uranyl rất khó phân tách từ các thanh nhiên 
liệu đã qua sử dụng. 
Các nhà khoa học ở ĐH Edinburth (Scotland) đã nghiên cứu sáng chế ra phân tử mạch 
vòng, có khả năng “ăn” phần lớn các ion khi tiếp xúc với chất uranyl. Nhờ vậy, cấu 
trúc của uranyl sẽ bị suy yếu giúp thanh nhiên liệu đã cháy dễ dàng phản ứng với các 
chất có khả năng để tách lọc hơn ra khỏi chất thải, không gây ô nhiễm môi trường. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 18 
KẾT LUẬN 
Lợi ích do điện hạt nhân mang lại cho loài người là vô cùng to lớn nhưng trên thực tế 
không phải quốc gia nào cũng dễ dàng chấp nhận điện hạt nhân. Hai yếu tố cơ bản gây 
trở ngại cho việc chấp nhận điện hạt nhân là vấn đề an toàn trong vận hành lò phản 
ứng hạt nhân và chất thải phóng xạ do nhà máy chế tạo nhiên liệu và nhà máy điện hạt 
nhân sinh ra được xử lý, quản lý thế nào để chúng không gây tác hại cho con người và 
môi trường. 
Chính vì vậy vấn đề quản lý chất thải phóng xạ để đảm bảo an toàn cho con người và 
môi trường luôn được mọi quốc gia có ngành điện hạt nhân hoặc các ứng dụng hạt 
nhân đặc biệt quan tâm. Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đã kết hợp với 
nhiều tổ chức quốc tế khác như FAO, ILO, OECD/NEA và tổ chức y tế thế giới có các 
nghiên cứu đề ra các tiêu chuẩn về quản lý an toàn bức xạ nói chung và đặc biệt là đối 
với chất thải hạt nhân. Giải quyết tốt việc vận hành an toàn nhà máy điện hạt nhân và 
quản lý chất thải phóng xạ sẽ tạo được niềm tin của các chính phủ và dân chúng đối 
với việc phát triển điện hạt nhân, khẳng định được tính ưu việt về kinh tế và môi 
trường của năng lượng hạt nhân so với các nguồn năng lượng khác. 
KIỂM SOÁT CHẤT THẢI NGUY HẠI GVHD:T.S TRƯƠNG THỊ TỐ OANH 
 19 
KIẾN NGHỊ 
Từ những suy nghĩ trên, thiết nghĩ một vài biện pháp căn bản sau đây có thể góp phần 
vào việc giải quyết vấn nạn phế thải phóng xạ trong khi chờ đợi một giải pháp tối ưu 
cho vấn đề. Đó là : 
- Cần phải hạn chế thể tích phế thải phóng xạ bằng cách cô lập bộ phận thực sự phát 
thải phóng xạ mà thôi; 
- Phân tích và tách rời các loại phế thải có mức độ tự huỷ (decay) khác nhau để giảm 
thiểu diện tích của bãi rác; 
- Hạn chế và nếu có thể, chấm dứt việc sử dụng năng lượng hạch tâm; 
- Phát triển nghiên cứu các loại năng lượng sạch và năng lượng tái tạo nhằm mục đích 
giải quyết vần đề cũng như hạn chế được hiện tượng hâm nóng toàn cầu. 
Làm được các điều trên, theo ước tính của nhiều nhà khoa học, sẽ giải quyết được một 
phần nào bế tắc ở các quốc gia sử dụng nguồn năng lượng này. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Kiểm soát chất thải nguy hại - Chất thải phóng xạ.pdf Kiểm soát chất thải nguy hại - Chất thải phóng xạ.pdf