Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó

Nhận thức rõ vai trò chủ đạo của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong ngành thương mại. Nắm giữ một số khâu, một số ngành hàng quan trọng. Đối với những ngành hàng còn lại cần huy động sức mạnh tổng hợp của các loại doanh nghiệp trên cơ sở cạnh tranh. Từng bước xoá bỏ độc quyền của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong một số ngành hàng không cần thiết.

pdf27 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2715 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó 1 LỜI MỞ ĐẦU Năm 1986 trở về truớc nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp. Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới nền kinh tế. Tại đại hội VI (tháng 12/1986) của đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế bao cấp tràn lan và tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị truờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương hết sức quan trọng của giai đoạn này là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là một trong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đó. Qua mười năm đổi mới chúng ta đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Điều đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của đảng và nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm do trong nền kinh tế đó còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn khác nhau. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh Tế nước ta phát triển theo định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Để hiểu rõ nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và sự phát triển sắp tới thì em đã chọn đề tài: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó. Sự đổi mới tất yếu của các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay để nghiên cứu. 2 PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG I Cơ sở lý luận: 1. Nội dung của quy luật mâu thuẫn: 1.1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tuợng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy của con người. Mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng và tồn tại trong suốt quá trình phát triển của mỗi sự vật. Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình của thế giới khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác trong mẫu thuẫn xã hội và khác với mâu thuẫn trong tư duy. 1.2. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. + Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ phủ định khác nhau giữa các mặt đó. + Sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách giơì sự đấu tranh, chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chính thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh, chỉnh hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật + Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt. Chỉ có hai mặt khác nhau có liên hệ hữu cơ với nhau và phát triển trái ngược nhau thì mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự khác nhau đó biến thành sự đối lập và dẫn đến xung đột gay gắt. Đến một giai đoạn nào đó thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải 3 quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới dược hình thành cùng với mâu thuẫn mới . Ví dụ: Sự phát triển của xã hội sẽ gắn liền với sự phát triển của phương thức sản xuất. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn vận đông theo hướng hoàn thiện. Đến một giai đoạn nào đó thì quan hệ sản xuất hiện tại sẽ không phù hợp với lực lượng sản xuất. Lúc đó sẽ sinh ra mâu thuẫn giữa lực luợng sản xuất và quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất cũ sẽ được xoá bỏ và thay vào đó là quan hệ sản xuất mới phù hợp . Quá trình phát triển và bài chừ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ diễn ra liên tục không ngừng. +Sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của sự vật hiện tượng. Còn sự đấu tranh của các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về vật chất của các sự vât và hiện tượng. 1.3. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập. Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập nào dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến trình độ nhất định, hộ tụ các điều kiện cần thiết mới chuyển hoácuả các mặt đối lập thường xuyên diễn ra một cách tự phát. Còn trong xã hội sự chuyển hoácủa các mặt đối lập diễn ra nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới được hình thành. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra theo hai phương thức. + Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn. + Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập hoàn toàn. 2. Một số loại mâu thuẫn. 4 2.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài + Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân của sự vật và hiện tượng. Sự vật hiện tượng nào cũng có mâu thuẫn bên trong, bởi vì sự vật hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập. + Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật và hiện tượng với nhau. Sự vật hiện tượng nào cũng có mâu thuẫn bên ngoài, bởi vì không có sự vật hiện tượng nào lại tồn tại một cách biệt lập, không liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Mâu thuẫn bên trong là nhan tố quyết định sự vận độngvà phát triển của sự vật và hiện tượng. Nó là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận độngvà phát triển. Mâu thuẫn bên trong không tồn tại và phát sinh tác dụng tách dời mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật. 2.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản + Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật và hiện tượng, nó quyết định quá trình phát triển của sự vật và hiện tượng từ khi được hình thành cho đến khi kết thúc. + Mâu thuẫn không cơ bản chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản. Tuy không giữ vai trò quyết định bản chất của sự vật và hiện tượng nhưng nó có vai trò quyết định đối với sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. 2.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu + Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở giai đoạn nhất định của quá trình phát triển của sự vật. + mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định. 2.4 Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng + Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng , những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau , không thể điều hoà được 5 + Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản nhất trí với nhau 3. Một số cặp phạm trù : 3.2. Nguyên nhân và kết quả + Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra sự bioến đổi nhất định + Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau + Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả , nguyên nhân có trước kết quả + Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả và ngược lại một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra . + Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng kết quả không tồn tại một cách thụ động 3.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên : + Tất nhiên là cái do bản chất , do những nguyên nhân bên trong của sự vật , hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế. + Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất bên trong quyết định mà là do ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định + Cái tất nhiên bao giờ cũng biểu lộ ra bên ngoài thông qua cái ngẫu nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình qua vô số cái ngẫu nhiên . II. Cơ sở thực tế 1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước năm 1986 Đây là thời điểm mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả là xuất hiện cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh . Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội , một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ , nền 6 kinh tế chưa tạo được tích luỹ lương thực vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng vật tư , tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng , nhiêud xí nghiệp sử dụng công xuất ở mức thấp . Chênh lệch lớn giữa thu và chi tài chính , giữa xuất khẩu và nhập khẩu . Thị trường và vật giá không ổn định , số người lao động chưa được sử dụng còn đông , đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn . 2. Thành tựu kinh tế đã đạt được trong công cuộc đổi mới : Sau 10 năm thực hiện cải cách kinh tế kinh tế việt nam đã có những bước chuyển biến đáng khích lệ như : a. Nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định + GDP tăng hàng năm 3,9% (Trong thời kỳ 1986-1990) và 8,2% (Thời kỳ 1991- 1995) + Nông nghiệp tăng 4,5%; công nghiệp tăng 13,5%; kim nghạch xuất khẩu tăng 20% trong thời kỳ 1991-1995 + Sản lượng lương thực tăng nhanh 21,5 triệu tấn (1990) lên 27,5 triệu tấn (1995) b. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ + Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ bản trong GDP đã tăng từ 22,6% (1990) lên 30,3% (1995) + Tỷ trong dịch vụ từ 38,6% lên 42,5% + Tỷ trong nông nghiệp giảm từ 40,6% xuống 36,2% + Tỷ trọng kinh tế quốc doạnh trong GDP từ 29,4% lên 40,4% 3. Kiềm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát. Trong những năm 1986-1988 nạn lạm phát đã giảm từ 3 con số xuống còn 2 con số (Riêng năm 1993 xuống 1 con số), trong khi tăng trưởng kinh tế khá cao. 4. Đời sống nhân dân Một bộ phận dân có mức sống khá, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 55% (1989) xuống còn 19,9% (1993). 7 Những thành tựu kinh tế- xã hội đã đạt được là kết quả của đường lối đổi mới do đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời, đó cũng là sự phù hợp giữa ý đảng và lòng dân. 8 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU A. NỀN KINH TẾ THI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY I. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nền kinh tế thị trường Đất nước ta hiện nay đang ở trong thời kỳquá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà tồn tại cả những thành phần xã hội cũ và xã hội mới. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau, cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong thời kỳ này thì lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đố sẽ hình thành nên nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, tạo ra nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất. Các thành phần kinh tế này tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh. Nguyên nhân của việc xuất hiện các thành phần kinh tểtong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là do tính đa dạng về sở hữu tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng vận động biến đổi. Trong lịch sử phát triển của sản xuất xã hội, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất từ chỗ phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất dần dần trở nên lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế sở hữu tư nhân bằng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, mở đường cho sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất là tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến từ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thành sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu tất yếu vì: 9 Nước ta có lực lượng lao động dồi dào (gần 40 triệu lao động), cần cù, thông minh song số người chưa có việc làm còn nhiều, gây lãng phí sức lao động. Trình độ lao động của ta hiện nay chưa cao. Lao động chủ yếu vẫn là lao động chân tay. Do đố, việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Nó cũng phù hợp với yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay. II. Vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế 1. Thành phần kinh tế nhà nước Ở nước ta, nó ra đời do nhà nước đầu tư xây dựng và dokết quả của công cuộc cải tạo hoà bình, công thương nghiệp tư bản… Thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà nước làm nền tảng. Nó bao gồm: Các nguồn lực vật chất (nguồn tài nguyên thiên nhiên, ngân hàng, bảo hiểm, dự trữ quốc gia, tài chính, tín dụng, kho bạc… và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh do nhà nước làm chủ. Do thành phần kinh tế nhà nước nắm các cơ sở quan trọng nhất của nền kinh tế, là chỗ dựa kinh tế của nhà nước, định hướng nền kinh tế đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, kinh tế nhà nướcgiữ một vai trò rất quan trọng trong các thành phần kinh tế của các nhà nước ta hiện nay. 2. Thành phần kinh tế tập thể Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Những người lao động góp vốn vào làm ăn tập thể dưới các hình thức là các hợp tác xã. Sự hình thành của kinh tế tập thể phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội hiện nay là hợp tác kinh doanh cùng có lợi. Đây là sự phát triển tất yếu của xã hội. Nhưng nó lại là sự xuất hiện ngẫu nhiên của một cá nhân nào đó đứng ra thành lập hợp tác xã. Cá nhân này sẽ đi kêu gọi, vận động mọi người tham gia vào hợp tác xã của mình dưới hình thức đóng góp về vốn và sức lực. Lợi ích của các xã viên sẽ được hưởng theo cổ phần đóng góp và sức lao động bỏ ra. Sự 10 hình thành hợp tác sẽ mang tính tất yếu vì: Trong xã hội hiện nay có một bộ phận nông dân có tích luỹ được một số vốn. Nhưng số vốn đó còn quá nhỏ để mở một loại hình kinh doanh (thành lập hợp tác xã), trong khi đó họ lại muốn số tiền tích luỹ của mình có thể được lưu động và sinh lãi. Do đó sự xuất hiện của hợp tác xã sẽ tạo điều kiện cho họ tham gia. 3. Thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ Thành phần kinh tế nay dựa trênchế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của chính bản thân họ. Nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nênkinh tế cá thể và tiểu chủ của nước ta còn chiếm một tỷ trọng lớn ở trong nền kinh tế: tiểu thủ công nghiệp, buôn bán và dịch vụ nhỏ cá thể. Tác dụng của thành phần kinh tế nàylà vận dụng được mọi năng lực sản xuất, giải quyết được công ăn việc làm, tăng sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Thành phần kinh tế này từng bước được đi vào con đường làm ăn tập thể, dưới các hình thức hợp tác xã hoặc trở thành vệ tinh cho các thành phần kinh tế khác… 4. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân Dựa trên sở hữu tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Kinh tế tư bản tư nhân được tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… Đối với nước ta, thành phần kinh tế này được phát triển trong những nghành nghề mà pháp luật cho phép. Vai trò và tác dụng của nó là: tận dụng được vốn, kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý của nhà tư bản, giải quyết được công ăn việc làm, tăng sản phẩm xã hội. 5. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước Thành phần kinh tế này ra đời do sự liên doanh liên kết nhà nước với tư bản tư nhân ở trong nước cũng như tư bản ở nước ngoài vào làm ăn ở nước ta. Nó tồn tại dưới nhiều hình thức như: các doanh nghiệp liên doanh, các công ty cổ phần… 6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài 11 Thành phần kinh tế này dựa trên vốn đầu tư 100% vốn của nước ngoài vào nước ta thông qua đầu tư trực tiếp. Đối với nước ta thành phần kinh tế này có vai trò quan trọng trong thành phần kinh tế quá độ vì nó chiếm trên 10% GDP, hơn 20% thu nhập ngân sách và khoảng 30% kim nghạch xuất nhập khẩu. III. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế 1. Tính thống nhất Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống nhất. Sự phát triển của mỗi thành phần đều góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có độc lập tương đối và có bản chất riêng nhưng hoạt động kinh doanh trong môi trường chung, cùng chịu tác động của các nhân tố, các quy luật thị trường. Đồng thời các thành phần kinh tế tác động với nhau cả tích cực và tiêu cực. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần dẫn đến sự tồn tại của các giai cấp hoặc các tầng lớp khác nhau. Tổng hợp toàn bộ các giai cấp hoặc tầng lớp xã hội đó tạo thành cơ cấu xẫ hội- giai cấp. 2. Sự mâu thuẫn Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu. Cạnh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước với một bên là kinh tế tự phát tư sản và tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể là không thể điều hoà. Tóm lại, trong nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng là khách quan. Sự thống nhất và mâu thuẫn làm cho các thành phần kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá, đều đóng 12 góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và cần có sự quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, đem lại thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế cần được thừa nhận và tạo điều kiện để chúng tồn tại, phát triển. Đồng thời, các thành phần kinh tế cần được bình dẳng trên mọi phương diện. IV. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa người với người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ thị trường. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng.Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong điều kiện lịch sử nhất định. Kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật như sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kì. Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển toàn diện, toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả. Tuy nhiên, không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những nơi kinh tế thị trường làm cho con người ta tha hoá, biến con người thành nô lệ của đồng tiền, kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên phẩm chất, văn hoá, đạo đức, luân lý… 13 Ví dụ như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo, tệ nạn ma tuý, cờ bạc, mại dâm, hối lộ, tham nhũng… Kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt của mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh kinh tế thị trường vừa tạo ra điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố nguy hại cho con người. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của đảng, bằng sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. V. Giải pháp khắc phục khó khăn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường Nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay có 3 loại hình sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các loại hình sở hữu này đã hình thành nên các thành phần kinh tế. Để các loại hình kinh tế này hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì đảng và nhà nước ta đã đưa ra một số giải pháp sau đối với các thành phần kinh tế. 1. Thành phần kinh tế nhà nước: + Phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế + Các doanh nghiệp nhà nước giữ vững những vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng tién bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động. + Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là phương thức đầu tư vốn của nhà nước cho các doanh nghiệp. Phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. 14 + Đổi mới cơ chế chính sách đối với các doanh nghiệp nhà nước và theo hướng xoá bao cấp, cạnh tranh bình đẳng, tự chịu trách nhiệm, nộp đủ thuế và có lãi. 2. Thành phần kinh tế tập thể: + Khuyến khích phát triển với nhiều hình thức hợp tácđa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt + Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa nghành hoặc chuyên nghành + Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ. + Khuyến khích tích luỹ phát triển vốn của hợp tác xã 3. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ: + Có vị trí quan trọng, lâu dài cả ở nông thôn và thành thị + Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ và phát triển + Khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện 4. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: + Khuyến khích phát triển rộng rãi trong các nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. + Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để phát triển trên những hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài + Chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doang liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước 5. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước: + Phát triển đa dạng dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. + Tôn trọng lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh 6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: + Thành phần này bao gồm phần vốn đầu tư của nước ngoài vào các cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước ta. 15 + Tạo điều kiện phát triển thuận lợi, tập chung hướng vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. + Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài + Phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế, người trong nước và nước ngoài + Phát triển hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dựng rộng rãi vốn đầu tư xã hội + Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn cụ thể Với những biện pháp cải tiến như trên thì đảng và nhà nước ta đã đưa ra một số chỉ tiêu kinh tế từ nay đến năm 2005 là: - Tổng GDP năm 2005 tăng gấp 2 lần năm 1995, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,5%; trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng4,3%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%; dịch vụ tăng 7,5% - Giá trị sản xuất tăng hàng năm: nông, lâm, ngư nghiệp là 4,8%; công nghiệp 13%; dịch vụ 7,5% - Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16% năm. + Đến 2005 cơ cấu các nghành trong GDP là: nông, lâm, ngư nghiệp 20-21%, công nghiệp và xây dựng 38-39%, dịch vụ 41-42%, cơ cấu lao động tương ứng là: 56-57%; 20-21%; 23-24% B. THƯƠNG NGHIỆP QUỐC DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. I. Sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp thương mại nhà nước. Như chúng ta đã biết, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm xuất hiện phân công lao dộng xã hội, đưa đến một tất yếu có sự trao đổi hàng hoá (H-H). Phân công lao động xã hội phát triển và chế độ tư hữu ra đời đã thúc đẩy trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng, dẫn đến hình thành tiền tệ cùng với nó là lưu thông hàng hoá (H-T-H). 16 Chuyên môn hoá trong sản xuất phát triển, khối lượng sản phẩm đem ra trao đổi ngày càng tăng, sinh ra nhu cầu chuyên môn hoá việc lưu thông hàng hoá. Một số người hoặc tổ chức tách ra khỏi việc sản xuất, chuyển sang hoạt động chuyên ứng tiền ra mua hàng hoá để bán lại nhằm mục đích thu lợi nhuận từ việc mua bán này tức là làm nghề kinh doanh hàng hoá hay hoạt động thương mại. Nghành thương mại ra đời là nấc thang phát triển kế tiếp, cao hơn của lưu thông hàng hoá, là kết quả trực tiếp của sự phát triển lưu thông hàng hoá. Đó chính là một nghành kinh tế quốc dân thuộc khu vực sản xuất vật chất nhưng không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mà có chức năng phục vụ lưu thông hàng hoá thông qua việc trao đổi sản phẩm dưới hình thức mua bán. Đối với nước ta, một nước đang phát triển vào loại nghèo của thế giới lại trải qua một chặng đường lịch sử rất phức tạp, đặc biệt là hiện nay, khi chùng ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường thì lĩnh vực thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình chuyển dịch và đổi mới kinh tế theo hướng phát triển sản xuất với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường. Hoạt động thương mại góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, phục vụ và kích thích nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư, tham gia mở rộng thị trường, bình ổn giá cả. Các hoạt động thương mại được phản ánh trung thực trên thị trường và có ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế khác. ở Việt Nam đã hình thành một thị trường thống nhất, hàng hoá tự do lưu thông trong phạm vi cả nước, mức chênh lệch giá giữa các vùng trở nên không đáng kể. Trên thị trường có nhiều chủ thể buôn bán khác nhau, tạo ra sự cạnh tranh giữa những người cung ứng hàng hoá ngày càng phong phú, thị trường được đa dạng hoá. Các nhu cầu của người tiêu dùng được thảo mãn ngày càng nhiều hơn và thái độ phục vụ rất tận tình. Việc tiêu thụ hàng hoá là nguồn sống của nhà thương nghiệp, nên thương nghiệp tư nhân cạnh tranh với thương nghiệp nhà nước và thương nghiệp tập thể. Do có sự cạnh tranh giữa những người bán hàng nên khách hàng lên ngôi và thực sự trở thành “thượng đế”. 17 Tuy nhiên, bên cạnh sự đa dạng, phong phú và phục vụ tận tình của người bán hàng, thì ta còn thấy những mặt tiêu cực như hiện tượng tranh mua, tranh bán, làm hàng giả, tiêu thụ hàng lậu, hàng trốn thuế. Thực chất mấy năm qua thị trường Việt Nam đã bị hàng lậu, hàng giả, hàng trốn thuế o ép từ nhiều phía. Người tiêu dùng thì được lựa chọn nhiều chủng loại hàng hoá chất lượng tốt nhưng người sản xuất thì bị hàng ngoại chen lấn rất mạnh và nhiều doanh nghiệp bị phá sản vì sự cạnh tranh của hàng ngoại. Lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng có nhiều khó khăn do kỷ luật xuất khẩu không được nghiêm minh. Trong khi thị trường Việt Nam tràn ngập nhiều loại hàng xa xỉ, cao cấp, nhiều loại hàng độc hại như thuốc lá, rượu…thì một số hàng thiết yếu như thuốc men, quần áo, sách vở, hàng cho đồng bào miền núi, hàng phục vụ cho những nhu cầu tối thiểu của nhân dân lại rất thiếu. Sở dĩ có tình hình đó là vì các doanh nghiệp thương mại hiện nay chủ yếu chạy theo mục tiêu lợi nhuận nên họ tập trung phục vụ ở nơi đông dân cư và những người giàu có, có sức mua và nhu cầu cao, còn những nơi ít dân, thưa dân, dân nghèo, không có tiền như nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa thì ngay cả những nhu cầu thiết yếu cũng không được đáp ứng do giá vận tải đẩy lên quá cao. Chính vì những nguyên nhân trên nên việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước là một yếu tố cần thiết. Việc ra đời các doanh nghiệp nhà nước sẽ cung cấp cho người tiêu dùng những vật phẩm thiết yếu, nhất là nhóm dân cư nghèo, ít tiền ở vùng xa, vùng sâu, vùng núi cao như muối, muối iốt, sách vở cho học sinh, quần áo thuốc mem…Ngoài ra nhà nước còn có thể sử dụng các doanh nghiệp thương mại này để thực hiện chức năng điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chi phối các hoạt động trên thương trường. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải có nhiều tập đoàn kinh tế đủ mạnh để nối ra thị trường bên ngoài. Các công ty xuất nhập khẩu rất khó thực hiện các hoạt động xuất khẩu. Vì vậy việc hình thành các tập đoàn thương mại quốc tế gia để vươn ra thị trường nước ngoài là một yêu cầu rất cơ bản ở nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp tư nhân không thể đảm đương được vai trò chủ đạo trong ngoại thương. Việt Nam đang từng bước 18 hội nhập xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu mà bước khởi đầu quan trọng là việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) để chuẩn bị gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC). Để có một chỗ đứng trong thị trường quốc tế, nhà nước cần đứng ra tổ chức các tập đoàn thương mại quốc gia làm cầu nối cho các doanh nghiệp hội nhập vào thị trường thế giới. II. Thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 1. Cơ cấu tổ chức: Bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng còn quá cồng kềnh, chi phí hành chính và tiếp khách quá lớn. Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, trước hết là giám đốc chậm được đổi mới. 19 VD: Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp nhà nước Bộ máy hành chính gián tiếp Chi phí hành chính gián tiếp 5 người 3,8% 38 người 24% Số liệu điều tra trên đây ở tỉnh Vĩnh Phúc đối với một doanh nghiệp nhà nước có vốn 2 tỷ đồng và một doanh nghiệp tư nhân có vốn tương tự và hoạt động kinh doanh nghành nghề giống nhau. Đa phần các giám đốc của các doang nghiệp thương mại nhà nước vẫn là hãnh tiến , nguyên vị tư cơ chế bao cấp chuyển sang, chưa có sự sàng lọc tuyển chọn khách quan theo tiêu chuẩn của người giám đốc trong cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, việc lên chức, lên lương của các nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Việc lên chức thì theo kiểu “tre già măng mọc”, người đương chức có nghỉ hưu hoặc vì một lý do nào đó không còn công tác nữa thì người sau mới được lên. Việc lên chức lại diễn ra theo hình thức bổ nhiệm, do đó đã dẫn đến việc trì trệ trong phấn đấu, dẫn đến tiêu cực trong quản lý. Người đương chức không cần phấn đấu, chỉ cần giữ vững được mối quan hệ với lãnh đạo cấp trên là giữ được vị trí của mình. Chính vì lý do đó mà đội ngũ cán bộ thì trì trệ, không chịu đổi mới, công nhân viên thì không cố gắng phấn đấu trong công việc. Trong công việc thì không có sự ganh đua để thể hiện khả năng của mình. Đây là lý do dẫn đến đội ngũ cán bộ nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng sa sút và yếu kém. Điều này làm cho các doanh nghiệp nhà nước không thực hiện được vai trò và nhiệm vụ của mình trong điều kiện nền kinh tế thị trường. 2. Cơ chế hoạt động. Sự hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thương mại nhà nước còn bị bó chặt trong một cơ chế tài chính xơ cứng. Cơ chế khoán, đặc biệt là 20 “khoán trắng”và khoán “mặc kệ”đã làm lu mờ vai trò và uy tín của thương nghiệp quốc doanh. Các donh nghiệp, muốn sản xuất kinh doanh chủ động và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì trong cơ cấu vốn bao giờ cũng phải chiếm tỷ lệ thích ứng. Nhưng do suy nghĩ cũ của thời bao cấp còn đè nặng cho nên họ thường ỷ lại, trông chờ bên trên. Khi đã có vốn lưu động dù là phải vay hay có sự đóng góp của cán bộ nhân viên thì việc sử dụng vốn đó lại không đúng mục đích. Thực chất của khoán kinh doanh là cho cán bộ công nhân viên thuê cơ sở vật chất và biển hiệu quốc doanh với giá thấp hơn cho tư nhân thuê. Nhà nước giao khoán cửa hàng, quầy hàng và cung ứng hàng hoá cho người nhận khoán, lúc đầu là 70/30, 70 là hàng công ty giao khoán; 30 là hàng tự chạy của người nhận khoán. Nhưng dần dần nguồn hàng tập trung của công ty không còn, tỷ lệ bên trên sẽ bị đảo ngược lại; 70/30, thậm chí không có hàng cung ứng, đơn vị nhận khoán phải lo tất cả. Trong tình hình như vậy, đơn vị nhận khoán lợi dựng cửa hàng và biển hiệu quốc doanh để thả sức bóp chẹt người tiêu dùng và có khi còn có cả những loại hàng không đảm bảo chất lượng. Từ đó, uy tín của thương nghiệp quốc doanh cũng sẽ bị lu mờ. 3. Tính độc lập tự chủ của các doanh nghiệp Thực tế cho thấy chừng nào mỗi cơ quan chủ quản là cơ sở còn trực tiếp quản lý một số doanh nghiệp thì sự hoạt động của doanh nghiệp bị chi phối nhiều mặt, mất tính độc lập. Để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường và đảm bảo tính độc lập tự chủ của doanh nghiệp, việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan thi hành pháp luật của nha nước là cần thiết song nên có quy định chức năng cụ thể của từng nghành, tránh chồng chéo làm mất quá nhiều thời gian đón tiếp và giải trình đối với doanh nghiệp. 4. Cổ phần hoá doanh nghiệp 21 Việc triển khai thực hiện cổ phần hoá , chuyển đổi sở hữu đối với doanh nghiệp thương mại nhà nước còn hết sức chậm chạp, không dấy lên thành được phong trào sôi động trong quần chúng. Doanh nghiệp thương mại nhà nước là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lưu thông hàng hoá bằng vốn của nhà nước. Cái quan trọng của doanh nghiệp thương mại nhà nước là ở chỗ hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp phải là những mặt hàng thiết yếu , nếu thị trường hẫng hụt sẽ ảnh hưởng nhanh chóng đến toàn bọ hoạt động kinh tế xã hội , chính trị quốc phòng và an ninh . Tuy nhiên những mặt hàng đó nhà nước cũng không độc quyền mà vẫn khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau tham gia , như vậy về cơ bản các doanh nghiệp thương mại nhà nước có thể thực hiện đa sở hữu , cho nên trong điều kiện kinh tế thị trường việc thực hiện cổ phần hoá đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp thương mại nhà nước là điều tất yếu . Tuy nhiên trong những năm vừa qua việc thực hiện cổ phần hoá đa dạng hoá kinh doanh còn chậm chạp và trì trệ vì một số nguyên nhân : - Vẫn có sự ngập ngừng chậm trễ trong việc sửa đổi chính sách chế độ , còn kỳ thị phân biệt đối xử với kinh tế ngoài quốc doanh . Những chính sách luật lệ mới ban hành còn mang dấu ấn của cơ chế cũ thiếu nhất quán . - Các giám đốc lo rằng khi chuyển sang doanh nghiệp ngoài quốc doanh , họ sẽ mất các ưu đãi . III . Một số giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay 1- Nhận thức nhất quán, toàn diện hơn nội dung sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp thương mại và phương thức hoạt động của chúng + Về hệ thống doanh nghiệp chuyển từ hai loại hình doanh nghiệp là quốc doanh và hợp tác xã mua bán sang nhiều loại hình doanh nghiệp thương mại : các liên doanh ,các doanh nghiệp nhà nước hợp tác xã , doanh nghiệp tư nhân … Đến nay hầu hết các doanh nghiệp nông – công nghiệp quy mô lớn đều trực tiếp tham gia hoạt động thương mại kể cả xuất nhập khẩu trực tiếp và có hàng trăm 22 đại lý bán hàng trên cả nước . Điều này vừa tạo điều kiện cho các nhà sản xuất tiếp cận thị trường , điều chỉnh hoạt động trên cơ sở nhu cầu thị trường vừa tạo ra sự cạnh tranh gay gắt , bắt buộc các doanh nghiệp thương mại chuyên nghiệp phải vươn lên để chiếm lĩnh thị trường . Trong hệ thống doanh nghiệp cũng có sự khác biệt nổi bật . Sự kết hợp hoạt động đan xen giữa các loại hình doanh nghiệp thương mại trên thị trường gắn với từng nghành hàng . Việc hoà nhập mở cửa biên giới đã xuất hiện các hình thức giao lưu, liên kết có tính quốc tế trong việc cung ứng, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ cho nền kinh tế quốc dân. + Về phương thức hoạt động: cũng có những thay đổi cơ bản theo cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, trừ một số mặt hàng như điện, nước… 2. Sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp thương mại nhà nước + Nhận thức rõ vai trò chủ đạo của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong nghành thương mại. Nắm giữ một số khâu, một số nghành hàng quan trọng. Đối với những nghành hàng còn lại cần huy động sức mạnh tổng hợp của các loại doanh nghiệp trên cơ sở cạnh tranh. Từng bước xoá bỏ độc quyền của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong một số nghành hàng không cần thiết. + Nhanh chóng thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp thương mại nhà nước. Không để cho các giám đốc tự nguyện thực hiện cổ phần hoá mà nhà nước lựa chọn, khi thấy cần ra quyết định bắt buộc Tiếp tục nghiên cứu cách xác định nhanh giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Đây là khâu lâu nay phức tạp, khó khăn, mất nhiều thời gian nhất. Đơn giản hoá quy trình cổ phần hoá phải trải qua bốn bước, mỗi bước phải làm chục công việc với thời gian kéo dài làm cản trở tiến bộ cổ phần hoá. Thực hiện phân cấp quyết định cổ phần hoá cho từng địa phương và nghành trên cơ sở chính sách của nhà nước. 23 3. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hệ thống doanh nghiệp thương mại Sửa đổi quy định đăng ký thành lập loại hình doanh nghiệp thương mại ngoài quốc doanh. Bổ sung quy chế cho thuế đất, mặt bằng kinh doanh Tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên cơ sở kết hợp nguồn kinh phí của doanh nghiệp có người học và hỗ trợ của nhà nước. Tập trung chống buôn lậu và gian lận thương mại. Đối với một số nghành hàng quy mô lớn, liên quan trực tiếp đến xuất nhập khẩu, cần tập trung chỉ đạo để đủ sức mạnh cạnh tranh. Đồng thời nhà nước tăng cường đầu tư mở rộng hệ thống kết cấu hạ tầng, chế biến sản phẩm, hệ thống kho tàng, tạo thuận lợi cho giao lưu hàng hoá. Thay đổi cơ bản cách thanh tra, kiểm soát của nhà nước. Với những biện pháp đã nêu ở trên, chúng ta có thể hy vọng rằng trong thời gian tới các doanh nghiệp thương mại nhà nước có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Tình trạng tiêu cực trong thương mại sẽ giảm, kinh tế Việt Nam sẽ ngày càng phát triển. PHẦN III. KẾT LUẬN Đại hội lần thứ VI của đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt bởi đường lối đó xuất phát từ trình độvà tính chất của lực lượng sản xuất không đồng đều nên không thể nóng vội và nhất là xây dựng quan hệ sản xuất. Mở ra nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế nước ta thực sự được đổi mới đạt được những 24 thành tựu to lớn: Từ một nước đói kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở thành một nước không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa, xuất khẩu ra nước ngoài. VD: Trong nông nghiệp như lúa gạo, cà phê… Trong may mặc: Quần áo, lụa tơ tằm… Trong ngư nghiệp: cá tra và cá ba sa. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta không thể lơ là, mất cảnh giác trong quan hệ quốc tế, làm ăn với nước ngoài. Trong tình hình hiện nay, các thế lực bên ngoài đang thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình đối với chúng ta. Thông qua diễn biến hoà bình chúng sẽ tiêu diệt và phs hoại nền kinh tế nước ta. Trước tình hình đó thì vai trò của các nhà kinh tế, sự lãnh đạo của đảng và nhà nước là hết sức quan trọng. Đặc biệt đối với em là một nhà kinh tế quốc tế tương lai thì em càng cảm thấy mình cần phải cố gắng hơn trong học tập và nhận thức về chính trị để có đủ kiến thức cho sau này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác- Lênin Đồng chủ biên: GS. TS. Nguyễn Hữu Vui GS.TS. Nguyễn Ngọc Long 2. Giáo trình kinh tế chính trị Đồng chủ biên: GS. TS. Chu Văn Cấp 25 PGS. TS. Trần Bình Trọng NXB: Chính trị quốc gia Hà Nội- 2002 3. Giáo trình lịch sử kinh tế quốc dân Chủ biên: GS. TS. Nguyễn Trí Dĩnh NXB: Giáo dục- 2001 4. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay Đồng chủ biên: PGS. TS. Trần Văn Chử TS. Lê Ngọc Tòng NXB: Lao động- 2000 5. Một số nhận thức mới về con đường XHCN của Việt Nam Đồng chủ biên: PTS. Cao Thái PTS. Đào Duy Quát NXB: Tư tưởng- Văn hoá 1992 6. Văn kiện đại hội đảng VIII, IX 26 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN TIỂU LUẬN TRIẾT Đề tài: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn. Sự đổi mới tất yếu của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Tác giả: Phạm Duy Long Khoa: KT- KDQT Lớp: KTQT- K44 Người hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông Hà Nội ngày 20/5/2003

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề Tài- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó.pdf
Luận văn liên quan